1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
---------------------------------
NGUYỄN THỊ PHƯỢNG
LỊCH SỬ ĐỒN ĐIỀN CAO SU Ở MIỀN ĐƠNG NAM BỘ
THỜI KỲ PHÁP THUỘC GIAI ĐỌAN (1898-1939)
Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam
Mã số : 60 22 54
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ HUỲNH HOA
Thành phố Hồ Chí Minh – 2007
Lời cảm ơn
Tơi xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu trường Đại học sư phạm thành phố
Hồ Chí Minh, phịng Khoa học Cơng nghệ -
113 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3810 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Lịch sử đồn điền cao su ở Miền Đông Nam Bộ thời kỳ Pháp Thuộc giai đoạn (1898 - 1939), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sau Đại học, quý thầy cơ khoa sử đã
giúp đỡ tơi trong suốt quá trình học tập và hồn thành luận văn.
Tơi xin đặc biệt tỏ lịng kính trọng, biết ơn TS. Lê Huỳnh Hoa, cơ đã tận tình
chỉ bảo và hướng dẫn cho tơi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện
luận văn.
Tơi cũng xin cảm ơn Ban Giám Hiệu trường THPT Phước Vĩnh và các đồng
nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi giúp tơi hồn thành việc học tập và nghiên cứu.
Tơi xin tỏ lịng biết ơn đối với gia đình, bạn bè đã giúp đỡ và động viên tơi
trong suốt quá trình học tập và hồn thành luận văn này.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hầu hết các nhà nghiên cứu về chế độ thuộc địa trên thế giới nĩi chung và Việt
Nam nĩi riêng đều thừa nhận rằng, chế độ thống trị thuộc địa của chủ nghĩa thực dân
phương Tây là một chế độ áp bức bĩc lột tàn bạo đáng bị lên án. Nhưng khách quan,
nĩ cũng thúc đẩy nền kinh tế thuộc địa chuyển sang hình thái kinh tế mới với sự hiện
diện của nhân tố mới - nhân tố kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Trong nền kinh tế thuộc địa Việt Nam thời Pháp thuộc, Miền Đơng Nam Kỳ là
một trong những địa phương phản ánh tập trung những yếu tố kinh tế mới. Đặc biệt
nhất là hoạt động của “đồn điền cao su” – ngành đại diện cho hoạt động nơng nghiệp
thực dân hiện đại.
Từ nhiều thế kỷ trước, khi Nam Kỳ cịn đặt dưới sự kiểm sốt của Chân Lạp,
Miền Đơng Nam Kỳ là một vùng hoang vu nhiều rừng rậm. Dưới thời các chúa
Nguyễn, cư dân người Việt, người Hoa… vào khai phá, biến nơi đây thành vùng
trồng trọt lớn của vùng đất Nam Bộ.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược và tiến hành khai thác thuộc địa ở nước ta,
Miền Đơng Nam Kỳ đã cĩ những biến đổi sâu sắc về kinh tế. Xuất phát từ mục tiêu
lợi nhuận, tư bản Pháp đặc biệt quan tâm tới nơng nghiệp, tận dụng tối đa điều kiện
thiên nhiên thuận lợi về đất đai để đầu tư trồng trọt, trong đĩ cây cao su – một loại
nguyên liệu phục vụ cho ngành cơng nghiệp, cĩ giá trị kinh tế cao và là sản phẩm
đang được thị trường thế giới bấy giờ ưa chuộng – đứng ở vị trí số một, trở thành cây
trồng chính trên đồng đất Miền Đơng Nam Kỳ.
Với vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi, Miền Đơng Nam Kỳ đã nhanh
chĩng trở thành nơi cĩ diện tích đồn điền cao su lớn nhất cả nước. Cây cao su từ đĩ
sớm khẳng định vị trí và vai trị trong nền kinh tế Miền Đơng Nam Kỳ nĩi riêng và cả
nước nĩi chung, trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của cả nước,
đem lại nguồn lợi rất lớn cho tư bản thực dân Pháp.
Với sự xuất hiện của vùng nguyên liệu cây cao su cơng nghiệp, Nam Kỳ đã
hình thành được hai vùng sản xuất nguyên liệu chính phục vụ cho xuất khẩu của thực
dân Pháp, đĩ là lúa gạo ở Miền Tây và cao su ở Miền Đơng. Trong đĩ Miền Đơng
Nam Kỳ với thế mạnh đặc trưng của mình đã tác động khá lớn đến tổng thể kinh tế
Nam Kỳ.
Để hiểu rõ vị trí và vai trị của cây cao su trong nền kinh tế Miền Đơng Nam
Kỳ nĩi riêng và Việt Nam nĩi chung thời Pháp thuộc, tơi đã chọn đề tài « Lịch sử
đồn điền cao su ở Miền Đơng Nam Kỳ thời Pháp thuộc giai đoạn (1898-1939) »
làm đề tài tốt nghiệp luận văn thạc sỹ của mình. Mong rằng những hiểu biết lịch sử
sau khi nghiên cứu cĩ thể làm cơ sở khoa học và thực tiễn để hiểu, để xác định hướng
đi kinh tế của Miền Đơng Nam Kỳ trong hiện tại và tương lai.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Để thực hiện đề tài, tơi đã tìm đọc và nhận thấy cĩ nhiều cơng trình nghiên cứu
đề cập đến những nội dung cĩ liên quan đến đề tài. Các nội dung này phần lớn được
thể hiện hịa lẫn trong các cơng trình nghiên cứu về nhiều mặt của Nam Kỳ và Miền
Đơng Nam Kỳ. Cĩ thể giới thiệu sơ bộ sau đây.
Trước tiên phải kể đến các tác phẩm của người Pháp. Họ rất quan tâm nghiên
cứu về vấn đề trồng trọt ở Miền Đơng Nam Kỳ, đã bỏ khơng ít thời gian vào việc
nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của Miền Đơng Nam Kỳ:
- Terres rouges et terres noires basaltiques d’Indochine, nhà xuất bản Hà Nội,
năm 1931 và Economic agricole del l Indochine, nhà xuất bản Hà Nội, năm 1932
của Yves Henry.
- Le problem économique Indochinois của P. Bernard, xuất bản năm 1934.
- Note sur la main d’auvre caoutchouc des plantations de la Cochinchine et du
Cambodge của G. Wormeser, nhà xuất bản Sài Gịn, năm 1938.
Ngồi ra cịn cĩ một số bài viết đề cập đến đồn điền cao su ở những gĩc độ và
mức độ khác nhau được đăng trên các tạp chí: Économique Indochinoi, Extrême
Asie, Asie francaise, Presse Indochinoise, Chấn hưng kinh tế...Nhìn chung các cơng
trình nghiên cứu trên đã cung cấp cho người đọc nhiều tư liệu quý cĩ giá trị tham
khảo cao, rất cĩ ít đối với người nghiên cứu.
Sau cách mạng tháng tám, nhất là từ sau năm 1954, nhiều tác giả người Việt đã
quan tâm khảo cứu về kinh tế, xã hội Việt Nam, trong đĩ cĩ những cơng trình đề cập
tới nhiều khía cạnh khác nhau của Miền Đơng Nam Kỳ nhưng ít nhiều cĩ liên quan
đến vấn đề cao su:
- Kinh tế Miền Nam của Phạm Thành Vinh, nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội,
1957. Tác giả đã dành phần 2 của chương một để nêu đặc điểm kinh tế ở miền đồi núi
thuộc Miền Nam – vấn đề khai thác các vùng đất đỏ và việc trồng cây cơng nghiệp.
- Những thủ đoạn bĩc lột của tư bản Pháp ở Việt Nam của Nguyễn Khắc Đạm,
nhà xuất bản Văn- sử- địa, Hà Nội, 1957. Ngồi nội dung quá trình bỏ vốn và chính
sách cướp đoạt ruộng đất của tư bản Pháp ở Việt Nam, trong chương 3 tác giả đã
giành 10 trang để trình bày sơ lược về phương thức kinh doanh đồn điền cao su của
tư bản Pháp, đồng thời cịn đưa ra những số liệu cao su xuất cảng.
- Trong cuốn Tìm hiểu giai cấp tư sản Việt Nam thời Pháp thuộc của Nguyễn
Cơng Bình, nhà xuất bản Văn- sử- địa, Hà Nội, 1959. Tác giả cũng đề cập sơ lược
đến điền chủ cao su người Việt.
- Tư bản Pháp và vấn đề cao su ở Miền Nam Việt Nam của Nguyễn Phong, nhà
xuất bản Khoa Học, năm 1963. Đây là một chuyên khảo về vấn đề cao su. Tác phẩm
của Nguyễn Phong đã giúp những người khơng tiếp cận được với các sách tiếng Pháp
cĩ những hiểu biết nhất định về lịch sử đồn điền cao su. Bên cạnh đĩ, những ý kiến
nhận xét của ơng cũng đáng để người đọc tham khảo. Tuy nhiên, đây chưa phải là
một cơng trình nghiên cứu đầy đủ về đồn điền cao su. Tác giả chưa trình bày vấn đề
một cách cĩ hệ thống, ơng chủ yếu trình bày sơ lược việc kinh doanh cao su của tư
bản Pháp về: chính sách cướp đất đai của thực dân Pháp, tình cảnh lao động và đời
sống của cơng nhân cao su, phong trào đấu tranh của cơng nhân cao su. Các vấn đề
về sự ra đời và phát triển của các cơng ty và đồn điền cao su, quy mơ của đồn điền, sự
phân bố các đồn điền cao su cũng như sở hữu của các điền chủ chưa được tác giả làm
rõ.
- Tình hình kinh tế Đơng Dương(1900-1939) và kế hoạch tái thiết, trang bị
canh tân Đơng Dương, nguyên tác của ủy ban kế hoạch Pháp do Lê Khoa dịch và
bình, xuất bản năm 1969.
- Việt Nam dưới thời Pháp đơ hộ của Nguyễn Thế Anh, nhà xuất bản Lửa
Thiêng, năm 1970 và Việt Nam Pháp thuộc sử của Phan Khoang, phủ quốc vụ khanh
đặc trách văn hĩa xuất bản, năm 1971. Trong chương 2 trình bày về sinh hoạt kinh tế
của Việt Nam, hai tác giả cũng đã nêu sơ lược về diện tích, sản lượng cao su.
- Vấn đề cao su Việt Nam của Đỗ Văn Minh, luận văn cao học Quốc gia hành
chính Sài Gịn, năm 1971. Đây cũng là một chuyên khảo về cao su, tuy nhiên tác
phẩm của ơng chủ yếu nghiên cứu ở giai đoạn từ 1945 trở về sau.
- Nền kinh tế Việt Nam dưới thời Pháp thuộc (1920-1930) của Trịnh Như Kim,
luận văn cao học sử, Đại họcVạn Hạnh, năm 1972.
- Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ của Huỳnh Lứa (chủ biên), nhà xuất bản
Tp. Hồ Chí Minh, năm 1987. Trong chương 4 khi trình bày về cơng cuộc khai phá
dưới thời Pháp thuộc, các tác giả đã dành 7 trang để nêu sơ lược về: diện tích trồng
cao su, sự phân bố, năng suất và tác động của đồn điền cao su đối với kinh tế, xã hội
Miền Đơng Nam Kỳ.
- Sự hiện diện tài chính và kinh tế của Pháp ở Đơng Dương (1859-
1939) của Jean- Pierre Aumiphine (bản dịch), xuất bản ở Hà Nội, năm 1994. Tác giả
cũng trình bày một cách khái quát về hoạt động đồn điền cao su.
- Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Miền Nam Việt Nam (1954-
1975) của Võ Văn Sen, nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1996. Trong
chương 1, tác giả đã giành một vài trang để sơ lược về hoạt động kinh doanh của tư
bản Pháp trong nơng nghiệp ở Nam Kỳ trong đĩ cĩ cây cao su.
- Cây cao su đặc sản của vùng Đơng Nam Bộ của Lê Huỳnh Hoa đăng trên tạp
chí xưa và nay, số 45b, 11/1997. Bài viết của tác giả Lê Huỳnh Hoa đã trình bày
những nội dung chủ yếu nhất của đồn điền cao su (sự du nhập cây cao su vào Việt
Nam, chính sách cướp đất và tuyển mộ lao động, việc khai thác mủ và xuất khẩu cao
su). Song, do vấn đề chỉ được đề cập trong một số trang ít ỏi, tác giả chưa thể làm
sáng tỏ tất cả mọi mặt
- Gĩp thêm tư liệu Sài Gịn- Gia Định từ 1859-1945 của Nguyễn Phan Quang,
nhà xuất bản Trẻ Tp. Hồ Chí Minh, năm 1998. Tác giả cũng nêu sơ lược về diện tích
cao su và sản lượng cao su xuất khẩu.
- Cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam thời thuộc địa( 1858-1945) của Nguyễn văn
Khánh, nhà xuất bản Đại học quốc gia, Hà Nội, năm 1999. Tác giả cũng đề cập đến
hoạt động của đồn điền cao su ở Nam Kỳ về: diện tích cao su, số lượng đồn điền, sản
lượng cao su xuất khẩu.
- Một trăm năm cao su Việt Nam của Đặng văn Vinh, nhà xuất bản Nơng
nghiệp, Tp. HCM, năm 2000. Tác phẩm của ơng đã trình bày khá rõ về sự ra đời và
phát triển của đồn điền cao su ở nước ta, sự cải tiến kỹ thuật trồng trọt cũng như
phong trào đấu tranh của cơng nhân cao su. Tuy vậy, một số vấn đề như: chính sách
và biện pháp cướp đoạt đất đai của thực dân Pháp, hiệu quả kinh tế của đồn điền cao
su, tác động của đồn điền cao su đối với kinh tế - xã hội Miền Đơng Nam Kỳ …
chưa được tác giả làm rõ, cần được tìm hiểu thêm.
- Cảng Sài Gịn và những biến đổi kinh tế Nam Kỳ thời Pháp thuộc(1860-1939)
của Lê Huỳnh Hoa, luận án tiến sĩ khoa học Lịch sử, Đại học sư phạm Tp.HCM, năm
2002. Tác giả cũng đã trình bày về hoạt động đồn điền cao su.
Đặc biệt cịn cĩ một số cơng trình chuyên nghiên cứu về giai cấp cơng nhân
Việt Nam và bộ phận cơng nhân cao su như là:
- Địa ngục cao su của Nguyễn Hải Trừng, nhà xuất bản Sự Thật, năm 1955.
- Giai cấp cơng nhân Việt Nam của Trần văn Giàu , nhà xuất bản Sự thật, Hà
Nội, 1961.
- Phú Riềng đỏ của Trần Tử Bình, nhà xuất bản Lao Động, Hà Nội, 1971.
- Một số vấn đề về lịch sử giai cấp cơng nhân Việt Nam của Nguyễn Cơng
Bình, nhà xuất bản Lao động, năm 1974.
- Giai cấp cơng nhân Việt Nam trước khi thành lập Đảng của Ngơ văn Hịa-
Dương Kinh Quốc, nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 1978.
- Giai cấp cơng nhân Việt Nam thời kỳ 1936-1939 của Cao văn Biền, nhà xuất
bản KHXH, 1979.
- Phong trào đấu tranh cách mạng của cơng nhân cao su Miền Đơng Nam Bộ
của Thành Nam, nhà xuất bản Lao động, năm 1982.
- Lịch sử phong trào cơng nhân cao su Việt Nam (1906-1990) của Huỳnh Lứa
(chủ biên), Nhà xuất bản Trẻ, năm 1993.
- Phú Riềng đỏ trong phong trào cơng nhân Miền Đơng Nam Kỳ của Hà Minh
Hồng, nghiên cứu lịch sử số 5, năm 1999.
Những tác phẩm trên giúp chúng tơi nhận biết chân xác hơn về : sự ra đời và
phát triển cũng như tình cảnh lao động và đời sống của giai cấp cơng nhân Việt Nam,
đặc biệt là bộ phận cơng nhân làm việc tại các đồn điền cao su. Đồng thời, thấy rõ
bản chất bĩc lột của tư bản thực dân Pháp.
Bên cạnh đĩ, một số tác giả cĩ những cơng trình nghiên cứu liên quan đến vấn
đề cao su ở một số địa phương của Miền Đơng Nam Kỳ. Nhìn chung các tài liệu này
cũng giúp người nghiên cứu bổ sung thêm một ít tư liệu về đồn điền cao su ở các địa
phương.
- Lịch sử các đồn điền cao su thuộc miền đất đỏ Bình Long của Lê Linh, Tuần
san Phịng thương mãi Sài Gịn, số 186-187, 1961.
- Thực tế khai thác cao su của người Pháp tại Bình Long, của Ngơ Viết Đức,
luận văn cao học Quốc gia hành chính Sài Gịn, năm 1972.
- Những chặng đường đấu tranh cách mạng của cơng nhân cao su Đồng Nai
của Nguyễn Viết Trân, Cơng ty cao su Đồng Nai xuất bản, năm 1985.
- Lịch sử đấu tranh cách mạng Sơng Bé (1920-1945) của Lưu Huỳnh Thống,
trong “Địa chí Sơng Bé”, nhà xuất bản Tổng hợp Sơng Bé, 1991.
- Sự hình thành và phát triển của đội ngũ cơng nhân cao su Đồng Nai qua các
thời kì lịch sử (1906-1991) của Trần Toản, luận án tiến sĩ khoa học
lịch sử, Viện khoa học xã hội tại Tp.HCM, năm 1991.
- Tìm hiểu phong trào đấu tranh của cơng nhân cao su Sơng Bé (1933-1975),
luận văn cao học sử, Viện khoa học xã hội tại Tp.HCM, 1991.
- Phong trào đấu tranh của cơng nhân Thủ Dầu Một trong kháng chiến chống
thực dân Pháp của Nguyễn Thị Mộng Tuyền, nhà xuất bản Lao Động, năm 2002.
- Những biến đổi kinh tế- xã hội trên địa bàn tỉnh Bình Phước thời Pháp thuộc
giai đoạn 1897-1939 của Bùi Thị Huệ, luận văn cao học sử, Đại học sư phạm
Tp.HCM, năm 2002.
Nhìn chung, các tác phẩm trên đã đề cập ở nhiều mức độ khác nhau về đồn
điền cao su ở Miền Đơng Nam Kỳ thời Pháp thuộc. Cĩ tài liệu khảo cứu khá chi tiết,
cĩ tài liệu chỉ nĩi đến một cách sơ lược như là một sự kiện bên cạnh nhiều sự kiện
khác. Song, tất cả đều cĩ ích đối với người nghiên cứu. Tuy nhiên, chưa cĩ cơng trình
nào nghiên cứu tập trung và hệ thống về hoạt động của đồn điền cao su ở Miền Đơng
Nam Kỳ. Vì vậy, nghiên cứu “Lịch sử đồn điền cao su ở Miền Đơng Nam Kỳ thời
Pháp thuộc giai đoạn (1898-1939)” sẽ là một đĩng gĩp thiết thực để hiểu rõ hơn về
hoạt động kinh tế mang tính đặc thù đã từng làm nên thế mạnh kinh tế của Miền
Đơng Nam Kỳ thời Pháp thuộc.
3. Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ nhận thức nêu trên, đề tài muốn đặt ra và giải quyết các yêu cầu
khoa học cụ thể sau đây :
- Bước đầu tập hợp, thống kê, hệ thống hĩa tư liệu, dựng lên bức tranh sinh
động về hoạt động trồng trọt chính của Miền Đơng Nam Kỳ thời Pháp thuộc, cụ thể
là cây cao su.
- Từ thực tế hoạt động của đồn điền cao su ở Miền Đơng Nam Kỳ thời Pháp
thuộc, tiến hành xem xét, đánh giá những ảnh hưởng tích cực và hạn chế của đồn điền
cao su đối với kinh tế, xã hội của Miền Đơng Nam Kỳ.
- Trên cơ sở nhận thức về sự khai thác triệt để và những hậu quả mà thực dân
Pháp để lại cho thuộc địa. Bước đầu rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc xây
dựng và phát triển kinh tế Miền Đơng Nam Kỳ trong hiện tại và tương lai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tìm hiểu về hoạt động cụ thể của đồn điền cao su ở Miền Đơng Nam Kỳ
giai đoạn (1898-1939). Vì vậy, hoạt động của đồn điền cao su (1898-1939)– ngành
sản xuất mang tính đặt thù của kinh tế Miền Đơng Nam Kỳ thời Pháp thuộc – là đối
tượng nghiên cứu chủ yếu. Tuy nhiên được giới hạn trong phạm vi nghiên cứu như
sau:
- Khơng gian nghiên cứu của đề tài là khu vực Miền Đơng Nam Kỳ gồm các
tỉnh : Thủ Dầu Một, Biên Hồ, Bà Rịa, Tây Ninh, Gia Định, Chợ Lớn. Ngày nay
thuộc địa phận hành chính các tỉnh : Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai, Bà Rịa-
Vũng Tàu, Tây Ninh và Thành phố Hồ Chí Minh.
- Thời gian nghiên cứu của đề tài được giới hạn bởi hai mốc :
Mốc mở đầu là năm 1898 : Đây là năm bắt đầu trồng và lập đồn điền cao
su ở Miền Đơng Nam Kỳ.
Mốc kết thúc là năm 1939 : Trên thực tế đây là năm kết thúc cơng cuộc
khai thác thuộc địa lần II. Từ năm 1940-1945, phát xít Nhật đã nhảy vào
Đơng Dương. Về danh nghĩa thực dân Pháp vẫn duy trì chủ quyền của
mình, nhưng trên thực tế, các hoạt động của thực dân Pháp đã hồn tồn
bị phát xít Nhật chi phối, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, phương pháp lịch sử và phương pháp logic được xác định
là những phương pháp cơ bản để tiến hành nghiên cứu.
Hỗ trợ cho phương pháp lịch sử và phương pháp logic là phương pháp thống
kê nhằm hệ thống các số liệu, dữ kiện làm cơ sở để kết hợp đồng thời với phương
pháp tổng hợp rút ra những kết quả tổng hợp, đáp ứng yêu cầu của một đề tài lịch sử
kinh tế.
Ngồi ra phương pháp so sánh cũng được vận dụng để giúp làm sáng tỏ những
hoạt động và biến đổi của kinh tế, xã hội Miền Đơng Nam Kỳ so với các thời kỳ
trước và sau đĩ.
6. Đĩng gĩp của Luận văn
- Luận văn đã tiếp cận, lựa chọn, thu thập và tổng hợp một số tài liệu từ nhiều
nguồn khác nhau đặc biệt là nguồn tư liệu hiện đang lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ
quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh cĩ liên quan đến kinh tế, xã hội nĩi chung và đồn điền
cao su nĩi riêng ở Miền Đơng Nam Kỳ thời Pháp thuộc. Việc nghiên cứu đầy đủ và
cĩ hệ thống sự phát triển của đồn điền cao su ở Miền Đơng Nam Kỳ sẽ giúp phục
dựng lại hoạt động của các đồn điền cao su ở đây - một hoạt động mang tính đặt thù
của kinh tế Miền Đơng Nam Kỳ thời Pháp thuộc.
-Trên cơ sở khơi phục lại hoạt động kinh tế tiêu biểu đĩ, luận văn gĩp phần
giúp đọc giả hiểu rõ vị trí và vai trị của cây cao su đối với kinh tế Miền Đơng Nam
Kỳ thời Pháp thuộc.
-Qua nghiên cứu luận văn cịn làm sáng rõ :
1. Nhận thức về thế mạnh, tiềm năng của vùng kinh tế Miền Đơng Nam Kỳ
trong quá khứ, làm cơ sở định hướng cho hoạt động kinh tế của Miền Đơng
Nam Kỳ hiện nay trên bước đường cơng nghiệp hĩa- hiện đại hố đất nước.
2. Nhận thức về chủ nghĩa thực dân.
7. Bố cục luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được chia
thành 4 chương:
Chương 1 : Vùng đất Miền Đơng Nam Kỳ trước và trong thời Pháp thuộc.
Chương 2 : Sự hình thành và phát triển đồn điền cao su ở Miền Đơng Nam Kỳ
thời Pháp thuộc (1898-1939).
Chương 3 : Khai thác đồn điền cao su và hiệu quả kinh tế của đồn điền cao su
ở Miền Đơng Nam Kỳ thời Pháp thuộc (1898-1939).
Chương 4 : Tác động của đồn điền cao su đối với kinh tế - xã hội của Miền
Đơng Nam Kỳ thời Pháp thuộc (1898-1939).
Chương 1 : VÙNG ĐẤT MIỀN ĐƠNG NAM KỲ TRƯỚC VÀ
TRONG THỜI PHÁP THUỘC
1.1. Miền Đơng Nam Kỳ trước thời Pháp thuộc
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Miền Đơng Nam Kỳ là vùng đất mới trong lịch sử phát triển của đất nước Việt
Nam. Trong giai đoạn Pháp thuộc, Miền Đơng Nam Kỳ bao gồm các tỉnh: Gia Định,
Chợ Lớn, Thủ Dầu Một, Biên Hịa, Bà Rịa, Tây Ninh. Ngày nay thuộc địa phận các
tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu và thành phố
Hồ Chí Minh.
Về mặt vị trí địa lí: Phía Tây và Tây Nam, nằm kề đồng bằng châu thổ sơng
Cửu Long. Phía Đơng và Đơng Nam giáp biển. Phía Bắc và Đơng Bắc giáp vùng Tây
Nguyên.
Theo tác giả Huỳnh Lứa trong tác phẩm “Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ”,
Miền Đơng Nam Kỳ cĩ diện tích 27.920 km2, là vùng đồng bằng phù sa cổ, tồn tại
dưới dạng bán bình nguyên, cĩ địa hình đồi gị lượn sĩng, độ cao trung bình từ vài
chục mét đến khoảng 200m trên mực nước biển, độ dốc dưới 150 chiếm 80% diện
tích, gồm những cao nguyên thấp và những ngọn đồi lượn sĩng, rải rác xuất hiện một
vài ngọn núi trẻ như núi Chứa Chan (858m), núi Bà Rá (736m), núi Bà Đen
(986m)… Miền Đơng Nam Kỳ là một vùng đất cao tiếp liền dưới chân phía nam các
cao nguyên Bảo Lộc - Di Linh kéo dài từ Tây Ninh đến Bà Rịa. Rìa phía nam đổ
thoai thoải xuống đồng bằng sơng Cửu Long. Đây là vùng của các núi lửa đã tắt và
của các bậc thềm sơng, khoảng 1/3 diện tích cĩ địa hình hiểm trở, cịn lại đất đỏ và
đất xám là chủ yếu, rất thích hợp cho cây cơng nghiệp.[27, tr.17-18]
Đất đỏ ở Miền Đơng Nam Kỳ trải rộng ở phía bắc chạy dài thành một dải theo
hướng bắc-đơng-bắc; nam-đơng-nam phủ trên nền đá hoa cương cổ. Trước hết người
ta tìm thấy đất đỏ ở gần Kompong-cham (tả ngạn sơng Mê Kơng), nĩ đi qua Lộc
Ninh, Xa Trạch và từ An Bình xuống phía nam về Bà Rịa. Đĩ là loại đất sét ít chất đá
vơi, cĩ nhiều mùn và cĩ một hàm lượng hữu cơ khá lớn. Đất khơng lẫn cuội và sỏi, ở
độ sâu 15-40 mét đất vẫn giữ được đồng chất. Đặc điểm của loại đất này là khơng bị
cứng nên dễ hút nước mưa, khơng để cho nước chảy thành dịng và giữ được độ ẩm
rất tốt thích hợp với việc trồng cây cơng nghiệp. Các nhà khoa học Pháp đã phát hiện
riêng ở Miền Đơng Nam Kỳ, diện tích đất đỏ tối thiểu là 200.000 ha tạo thành một
dải rộng từ 2 đến 20 cây số, dài 200 cây số. [35, tr.12]
Vùng đất xám được phân bố từ phía tây đến phía đơng Nam Kỳ qua các tỉnh
Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Gia Định, Biên Hịa, Bà Rịa. Đây là loại đất chiếm diện tích
lớn nhất ở Miền Đơng Nam Kỳ. Đất xám là loại đất sét cĩ pha nhiều cát nên ít giữ
nước, ít đá vơi, ít mùn, lượng hữu cơ cĩ nhưng chua và ít đạm. Nếu trồng trọt, phải sử
dụng phân bĩn thích hợp. Loại đất này thích hợp cho những loại cây lâu năm, ngồi
ra cịn trồng được các loại hoa màu.
Dãy đất phù sa mới nằm tiếp giáp vùng đồng bằng châu thổ do các con sơng:
sơng Đồng Nai, sơng Sài Gịn và sơng Bé bồi tụ nên chỉ tạo ra những đồng bằng nhỏ
hẹp, ngập nước thích hợp cho việc canh tác lúa.
Do sự phân bố tự nhiên về mặt đất đai như trên, nguồn tài nguyên chính yếu
của Miền Đơng Nam Kỳ là lâm sản. Ở đây, cĩ khoảng 60 loại gỗ tốt, đặc biệt là các
loại gỗ dầu, trắc, cẩm lai, gõ, mun… Rừng tre, rừng tràm, rừng đước, sú, vẹt cũng là
những nguồn tài nguyên đáng kể. Dưới thời Pháp thuộc, các vùng đất đỏ và các thềm
phù sa cổ đã được khai thác thành những đồn điền lớn trồng các loại cây cơng nghiệp
như cao su, cà phê.
Nếu như ở Miền Tây Nam Kỳ cĩ hệ thống sơng Cửu Long thì ở Miền Đơng
Nam Kỳ cĩ hệ thống sơng Đồng Nai. Hệ Đồng Nai bao gồm sơng Đồng Nai, sơng Sài
Gịn và sơng Vàm Cỏ. Sơng Đồng Nai là con sơng quan trọng thứ nhì ở Nam Kỳ dài
580 km, do hai nhánh sơng Đa Dung và Đa Nhim từ cao nguyên Lâm Viên chảy
xuống hợp thành nên cĩ nhiều thác lớn. Sau khi tiếp nhận sơng La Ngà từ bên trái,
sơng Bé từ bên phải, sơng bắt đầu chảy vào đồng bằng qua đợt thác cuối cùng là thác
Trị An. Sơng chảy uốn khúc rồi gặp sơng Sài Gịn từ Hớn Quản qua Tây Ninh, Thủ
Dầu Một, Gia Định về mạn Nhà Bè. Từ đây sơng thơng ra biển bằng nhiều nhánh:
sơng Đồng Tranh, sơng Ngã Bảy, sơng Lịng Tàu, sơng Sồi Rạp (sơng Nhà Bè).
Sơng Đồng Nai chịu ảnh hưởng mạnh của thủy triều. Nhờ thủy triều mà dịng sơng
sâu, thuyền lớn cĩ thể ngược hai sơng Vàm Cỏ đến biên giới Việt- Campuchia, ngược
sơng Đồng Nai đến Biên Hịa, ngược sơng Sài Gịn đến hết tỉnh Thủ Dầu Một.
Các con sơng thuộc hệ Đồng Nai đã tạo thành một mạng lưới giao thơng đường
thủy thuận lợi cho cư dân các tỉnh Miền Đơng, đồng thời nĩ cịn thơng với các tỉnh
Miền Tây và Campuchia qua hai sơng Vàm Cỏ Đơng và Vàm Cỏ Tây.
Miền Đơng Nam Kỳ cĩ đặc điểm khí hậu nhiệt đới cận xích đạo với nền nhiệt
độ cao và hầu như khơng thay đổi đáng kể trong năm, nhiệt độ tối đa 34o-35o và tối
thiểu là 18o. Đặc biệt cĩ sự phân hĩa sâu sắc theo mùa, phù hợp với hoạt động của
giĩ mùa. Ở đây cĩ hai mùa rõ rệt: mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10 dương
lịch trùng hợp với giĩ mùa tây nam, mùa khơ kéo dài từ tháng 11đến tháng 4 là
khoảng thời gian cĩ giĩ mùa đơng bắc. Lượng mưa tương đối dồi dào, lượng mưa
trung bình hàng năm khoảng 1.500-2.000mm. Nhìn chung, đây là vùng cĩ khí hậu
tương đối điều hịa, ít cĩ thiên tai, khơng gặp thời tiết quá lạnh, ảnh hưởng của bão
hạn chế. Khí hậu của vùng rất thuận lợi cho phát triển nơng nghiệp, nhất là cây cơng
nhiệp lâu năm như cao su.
1.1.2. Khái quát lịch sử khai phá vùng đất Miền Đơng Nam Kỳ.
1.1.2.1. Sự hiện diện đầu tiên của con người trên vùng đất Miền Đơng
Nam Kỳ.
Những khám phá của khảo cổ học cho biết một cách chắc chắn con người đã
cĩ mặt trên vùng đất Miền Đơng Nam Kỳ cổ từ khá lâu đời, cách đây khoảng 4.000
năm đến 2.500 năm. Những di cốt đầu tiên được tìm thấy ở nhiều nơi trong vùng. Số
lượng các di tích cư trú, các khu mộ cổ của lớp cư dân đầu tiên cĩ đến hàng trăm địa
điểm. Đặc biệt là khu đất đỏ bazan và vùng hạ lưu sơng Đồng Nai – Sài Gịn, vùng
ven sơng Vàm Cỏ Đơng cĩ mật độ cư trú các di tích khá dày. Từ các di tích Vườn
Dũ, Cù Lao Rùa, Dốc Chùa đến những di tích được chơn trong hầm đá cự thạch
(Xuân Lộc), trong các ngơi mộ chum gốm ở di tích Phú Hịa (cách nay khoảng 3000-
2500 năm) trên vùng đất đỏ bazan, các ngơi mộ chum ở Cần Giờ (cách ngày nay
khoảng 3.000-2.000 năm)… Các di cốt ấy đã ghi nhận một cách cĩ căn cứ về lớp cư
dân đầu tiên khai phá vùng đất Miền Đơng Nam Kỳ nĩi riêng và Nam Kỳ nĩi chung.
Vùng phù sa cổ - Miền Đơng Nam Kỳ - là nơi lớp cư dân đầu tiên cư trú đơng
nhất lúc bấy giờ khơng phải là đồng bằng châu thổ sơng Cửu Long – vùng phù sa
mới. Cho đến nay, khảo cổ học chưa tìm thấy những di tích cư trú đích thực của lớp
người đầu tiên ấy ở vùng châu thổ sơng Cửu Long.
Cư trú ở vùng cao của Nam Kỳ, những cư dân đầu tiên này đã lấy nghề trồng
trọt làm nghề sản xuất chính trong đĩ chủ yếu là trồng lúa rẫy. Đây cĩ thể coi là một
trong những đặc điểm của quá trình phát triển kinh tế buổi đầu của cư dân Miền
Đơng Nam Kỳ.
Trên cơ sở trình độ kỹ thuật kim khí phát triển, vào những thế kỷ đầu cơng
nguyên, lớp người đầu tiên này bắt đầu tiến xuống chinh phục đồng bằng sơng Cửu
Long, xây dựng nên vùng đơ thị Ĩc Eo – Ba Thê, một hải cảng khá nổi tiếng của
vương quốc Phù Nam. Tuy nhiên thế kỷ VI, Phù Nam bị Chân Lạp thơn tính. Do đĩ
từ thế kỷ VI-XVI, người Khơme là cư dân chủ yếu ở Miền Tây và một phần của
Miền Đơng Nam Kỳ lan tới lưu vực sơng Bến Nghé. Họ sống rải rác trên các giồng
đất cao. Trên lưu vực sơng Đồng Nai cịn cĩ một số dân tộc ít người (Stiêng, Châu
Mạ, Châu Ro, Mơ nơng, Tàmun…) sinh sống trên vùng đồi núi. Lớp cư dân thứ hai
này tiếp tục khai phá vùng đất này. Nhưng do dân số ít, kỹ thuật sản xuất thấp kém
cho nên ngoại trừ một vài vùng đất cao ở bìa rừng và một số gị đồi thì đại bộ phận
đất đai cịn lại đều là rừng rậm chưa hề được khai phá.
Vì vậy cho đến cuối thế kỷ XIII, vùng đất này về cơ bản vẫn là một vùng
hoang vu, chưa được khai phá bao nhiêu mặc dù thế kỷ XIII là đỉnh cao của thời đại
Ăngkor. Điều này được thể hiện khá rõ qua sự mơ tả quang cảnh vùng duyên hải và
đồng bằng Nam Kỳ của Châu Đạt Quan, một sứ thần của triều đình nhà Nguyên được
cử sang kinh đơ Ăngkor(1296) để giao thiệp với vua Chân Lạp: “ Bắt đầu vào Châu
Bồ (vùng biển Vũng Tàu ngày nay), gần hết cả vùng đều là bụi rậm của rừng thấp,
những cửa rộng của con sơng lớn chảy dài hàng trăm dặm, bĩng mát um tùm của
những gốc cổ thụ và cây mây dài tạo thành nhiều chỗ trú xum xuê, khắp nơi vang
tiếng chim hĩt và tiếng thú kêu. Vào nửa đường trong sơng, thấy những cánh đồng
hoang khơng cĩ một gốc cây. Xa nữa, tằm mắt chỉ tồn thấy cỏ cây đầy rẩy. Hàng
trăm hàng nghìn trâu rừng tụ hợp từng bầy. Tiếp đĩ nhiều con đường dốc đầy tre
chạy dài hàng trăm dặm”.[27, tr.37].
1.1.2.2. Sự xuất hiện của lưu dân người Việt với qúa trình khai phá vùng
đất Miền Đơng Nam Kỳ trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp.
Như đã nêu ở trên, vùng đất Miền Đơng Nam Kỳ mặc dù từ lâu đã là nơi sinh
sống của những lớp cư dân thuộc nhiều thành phần chủng tộc và dân tộc khác nhau.
Nhưng cho đến thế kỷ XVI, về cơ bản đây vẫn là vùng đất hoang vu chưa được mở
mang khai phá gì nhiều.
Từ đầu thế kỷ XVII, Miền Đơng Nam Kỳ cũng như tồn bộ vùng đất Nam Kỳ
trở nên rầm rộ và sơi động, do cĩ sự xuất hiện của cư dân mới, chủ yếu là người Việt
từ miền Thuận Quảng di cư vào. Nguyên nhân của hiện tượng xã hội này chính là do
những cuộc chiến tranh tương tàn của hai tập đồn phong kiến Trịnh – Nguyễn. Dân
chúng khơng sống nổi trong tình cảnh binh đao, nơ dịch, thiên tai, đĩi nghèo. Họ
quyết định rời bỏ làng mạc, xiêu tán vào phương Nam, hội nhập cùng với cư dân bản
địa khai hoang, lập ấp, mưu cầu cuộc sống an bình, no ấm.
Theo chân người Việt, vào những thập kỷ cuối thế kỷ XVII, một số người Hoa
“phản Thanh phục Minh” cũng được chúa Nguyễn cho lánh nạn vào đây sinh sống.
Đến giữa thể kỷ XVIII, lại cĩ thêm người Chăm gia nhập vào lớp cư dân mới. Họ
cùng cộng cư với người dân bản địa và cư dân người Việt sinh sống lâu dài.
Số lưu dân người Việt khi vào tới đất Đồng Nai – Gia Định thì địa điểm dừng
chân đầu tiên của họ, theo sử cũ “Gia Định thành thơng chí” là vùng Mơ Xồi-Bà
Rịa. Vì đây là vùng đất địa đầu nằm trên trục giao thơng đường bộ từ Bình Thuận vào
Nam, lại tiếp giáp biển.
Từ Mơ Xồi – Bà Rịa, di dân người Việt tiến dần về phía nam vào vùng Đồng
Nai – Biên Hịa, nơi cĩ trục đường giao thơng thủy bộ gặp nhau, định cư và khai
khẩn. Tuy nhiên, phần lớn đất đai ở đây là rừng rậm và những đồi cỏ tranh nên việc
khai phá gặp nhiều khĩ khăn, lưu dân người Việt chỉ tập trung khai phá vùng dọc
sơng, vùng đất cao ráo, vùng phụ cận dinh Trấn Biên như: Bàn Lân, Bến Gỗ, Bến Cá,
cù lao Rùa, Tân Triều, Cù lao Tân Chánh, rạch Lá Buơng...[27, tr.49]. Đến cuối
những năm 70 của thế kỷ XVII, vùng này nhận thêm lưu dân người Hoa. Họ là những
người Trung Hoa khơng thần phục triều đình Mãn Thanh chạy sang nước ta xin lưu
trú được chúa Nguyễn chấp nhận và đưa vào đây.
Ngồi ra cũng cĩ một bộ phận lưu dân vào cửa Cần Giờ ngược sơng Bình Phước
(sơng Lịng Tàu) lên vùng Sài Gịn – Bến Nghé và vùng ngày nay là huyện Thuận
An, Bến Cát của Bình Dương. Theo các nguồn sử liệu phương Tây, thì từ đầu thế kỷ
XVII, người Việt đã đến định cư và khai phá vùng này. Họ cùng với cư dân địa
phương- người Khơ me, khai phá các vùng đất cao như khu vực kéo dài từ Chợ Quán
đến gị Cây Mai, Chùa Gị, khu vực từ Tân Định, Bà Chiểu, Gị Vấp…kéo dài đến
Hĩc Mơn và dọc theo trục lộ đi về phía Tây Ninh.[27, tr.49-50]
Ở phía Bắc của Bến Nghé, ngược lên tiếp giáp với Chân Lạp, mức độ khai phá
cịn ít, chỉ cĩ vùng Bến Tầm Long đã được lưu dân người Việt và cư dân người Khơ
me hợp tác khai khẩn. Theo “Gia Định Thành thơng chí”, vùng bến Tầm Long, nơi cĩ
con đường qua lại giữa Việt Nam –Chân Lạp “cĩ nhiều người Cao Miên… và người
Kinh ở lẫn lộn với nhau, rừng rú rậm rịt, nay đã khai khẩn đều thành ra những cách
đồng trồng dâu, trồng mía. [27, tr.65]
Về phía Nam của Bến Nghé, vùng khẩn hoang cũng được mở rộng theo sơng
rạch, những vùng đất cao tiện lợi như vùng dọc sơng Cát.
Trong nửa đầu thế kỷ XVIII, Bến Nghé bị chiến tranh tàn phá nên tốc độ khẩn
hoang cĩ chậm lại. Từ giữa thế kỷ XVIII, vùng Bến Nghé khơi phục và phát triển trở
lại với các khu định cư của người Việt, người Hoa. Đồn dinh, doanh trại tiếp tục được
mở rộng và xây dựng thêm.._. Cơng cuộc khai hoang được đẩy mạnh, các vùng khai
khẩn của nơng dân, của binh lính được mở rộng trên qui mơ lớn.
Như vậy đến những năm cuối thế kỷ XVII, cùng với người Hoa, người Chăm,
người Khơ me, lưu dân người Việt đã định cư và khai phá cả một vùng đất rộng lớn ở
Miền Đơng Nam Kỳ từ địa đầu Mơ Xồi – Bà Rịa cho đến Sài Gịn – Bến Nghé. Dân
số đã hơn 40.000 hộ (khoảng 200.000 người). Đĩ chính là cơ sở xã hội để năm 1698,
chúa Nguyễn Phúc Chu phái Nguyễn Hữu Cảnh vào thiết lập chính quyền ở vùng này
“lấy đất Nơng Nại đặt làm Gia Định phủ, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long,
dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Gịn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn,
thiết lập xã, thơn, phường, ấp, chia ranh giới, khai khẩn ruộng đất, đánh thuế đinh
điền và lập hộ tịch đinh điền” [27, tr.46].
Huyện Tân Bình lúc đĩ bao gồm các quận 1,3,4,5,6,8,10,11,Tân Bình, Phú
Nhuận, Gị Vấp, Bình Thạnh, Hĩc Mơn, Cần Giờ, Củ Chi, tồn tỉnh Tây Ninh và một
phần tỉnh Long An ngày nay. Huyện Phước Long bao gồm một vùng rộng lớn từ
Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Bà Rịa-Vũng Tàu, một phần tỉnh Bình Thuận,
Thủ Đức, Thủ Thiêm, Nhà Bè, Giồng Ơng Tố [49, tr.16]. Như vậy phủ Gia
Định khi ấy đã bao trùm lên khắp vùng Miền Đơng Nam Kỳ.
Tuy nhiên, những người đi khẩn hoang trong buổi đầu phần lớn là dân nghèo
phiêu bạt, phương tiện thiếu thốn, trình độ kỹ thuật hạn chế, nên những điểm định cư
và khai phá mới chỉ rải rác đây đĩ. Đất hoang, rừng rậm vẫn cịn nhiều.
Sang thế kỷ XVIII, các địa điểm định cư và khai phá ở khu vực Bến Nghé,
chung quanh Sài Gịn tiếp tục được mở rộng. Nhiều thơn ấp được phát triển thành xã
như xã An Lộc (1716), xã An Phước (1746), xã Phú Thọ (1747), xã Tân Sơn Nhất
(1749), xã An Lợi Đơng (1751). [27, tr.51]
Ngồi những cuộc khai phá do dân chúng tự động tiến hành, từ cuối thế kỷ
XVII các chúa Nguyễn cịn sử dụng binh lính khai phá đất đai canh tác ở khu vực trú
quân và mộ dân lập đồn điền khẩn hoang. Việc làm này của chính quyền họ Nguyễn
đã gĩp phần thúc đẩy quá trình khai phá đất đai ở Miền Đơng Nam Kỳ trong thế kỷ
XVIII.
Như vậy, trong hai thế kỷ khai phá vùng đất mới, lưu dân người Việt, người Hoa
cùng cư dân tại chỗ người Khơme đã từng bước khai phá được một vùng đất rộng lớn
ở Miền Đơng Nam Kỳ. Cho đến cuối thế kỷ XVIII, những người đi khai phá đã tạo ra
được những diện tích canh tác đáng kể, đặt cơ sở vững chắc cho việc mở rộng cơng
cuộc khai phá sau này. Theo con số thống kê của Lê Quý Đơn trong “Phủ biên tạp
lục”, thì vào những năm 70 của thế kỷ XVIII, huyện Tân Bình cĩ ruộng thực trưng
hơn 1.451 mẫu, huyện Phước Long cĩ ruộng thực trưng hơn 787 mẫu, đĩ là chưa kể
các khoản ruộng núi, đất dâu, đất mía, đất vườn trầu, ruộng các họ, ruộng quan đồn
điền. Huyện Phước Long cịn cĩ trường Gian Thảo cĩ ruộng đất ngồi 6.000 sở. [27,
tr.72]
Những số liệu thống kê nĩi trên của Lê Quý Đơn tuy chưa đầy đủ và rõ ràng
lắm nhưng cũng cung cấp một hình ảnh khá đậm nét về tình hình khai phá đất đai ở
Miền Đơng Nam Kỳ trong các thế kỷ XVII, XVIII.
Phần lớn diện tích khai khẩn được đưa vào sản xuất nơng nghiệp trồng lúa.
Người dân lưu tán cùng với cư dân địa phương đã đưa ngành nơng nghiệp trồng lúa
vùng này phát triển lên một bước mạnh cả về qui mơ lẫn năng suất, sản lượng. Địa
bàn trồng lúa ngày càng mở rộng, khơng chỉ giới hạn ở những giịng đất cao mà cịn
tỏa ra các vùng đất trũng, đất ven sơng.
Ở vùng Bắc và Đơng Bắc Bến Nghé bao gồm Hĩc Mơn, Gị Vấp, Phú Thọ,
Hạnh Thơng, Giồng Ơng Tố, dọc sơng Vàm Cỏ Đơng, Trảng Bàng, Khê Lăng, nền
nơng nghiệp trồng lúa chiếm vị trí hàng đầu.[27, tr.73-74]
Nhờ đất đai màu mỡ thích hợp với việc trồng lúa, lại nhờ biết áp dụng các biện
pháp kỹ thuật cày cấy và sử dụng giống lúa thích hợp với từng loại ruộng, đồng thời
chọn đúng thời vụ kết hợp với làm thuỷ lợi nhỏ, người nơng dân Miền Đơng Nam Kỳ
đã sớm đưa năng suất lên khá cao. Vào cuối thế kỷ XVIII cấy một hộc thĩc giống gặt
được 100 hộc [27, tr.79]. Với năng suất khá cao như thế, lại được thực hiện trên một
diện tích canh tác rộng lớn. Miền Đơng Nam Kỳ trong nửa cuối thế kỷ XVIII đã sớm
trở thành một vựa lúa lớn, nguồn cung cấp thĩc gạo quan trọng cho các phủ phía
ngồi của xứ Đàng trong nhất là xứ Thuận Hố.
Piere Poivre trong đoạn nhật kí 27-10-1749 của mình cũng nhận xét rằng: “Hiện
nay Đồng Nai là một vựa lúa lớn của cả xứ Đàng trong. Vùng này đã cung cấp cho
tồn xứ một khối lượng lớn về thĩc” [27, tr.80].
Những nhận xét như thế cho thấy hoạt động nơng nghiệp trồng lúa ở vùng đất
phù sa cổ Miền Đơng Nam Kỳ đã phát triển nhanh trong nửa đầu thế kỷ XVIII.
Nhìn chung, cơng cuộc khai phá vùng đất Miền Đơng Nam Kỳ trong thế kỷ
XVIII cĩ nhiều khởi sắc, tuy nhiên tình trạng đất hoang rừng rậm ở đây vẫn cịn khá
nhiều. Trong Phủ biên tạp lục, Lê Quí Đơn đã ghi lại rằng: “ ở phủ Gia Định, đất
Đồng Nai, từ các cửa biển Cần Giờ, Lơi Lạp, Cửa Đại, Cửa Tiểu trở vào, tồn là rừng
rậm hàng ngàn dặm” [27, tr.37].
Năm 1802, sau khi thắng Tây Sơn và lên ngơi hồng đế, trên cơ sở những
thành quả đạt được từ thời các chúa Nguyễn, vua Gia Long tiếp tục đẩy mạnh cơng
cuộc khẩn hoang ở cả Miền Đơng lẫn Miền Tây của Nam Kỳ.
Bằng những biện pháp cụ thể, nhà nước Nguyễn đã chú trọng khuyến khích
dân chúng đi khai hoang với nhiều thủ tục dễ dãi như: người đi khai hoang tự do lựa
chọn nơi khai phá; miễn thuế cho người đi khai phá đất hoang trong vịng 3 năm hoặc
lâu hơn; cấp khơng hoặc cho mượn nơng cụ, thĩc giống, trâu bị; quy định đất đai
khai phá được thuộc sở hữu của người khai phá. Thúc đẩy dân chúng khẩn hoang là
cơng việc thường xuyên của quan lại địa phương và là tiêu chuẩn để nhà vua thực
hiện thưởng phạt. Năm 1836 và 1839, vua Minh Mạng đã ban hành lệ thưởng phạt
đối với việc đơn đốc khai hoang ở Nam Kỳ.[27, tr.98]
Bên cạnh đĩ, triều đình nhà Nguyễn cịn đứng ra tổ chức dân chúng, binh
lính…tiến hành khai hoang qua hình thức đồn điền và khai hoang lập ấp.
Với những biện pháp tích cực nêu trên, cơng cuộc khai hoang ở Nam Kỳ nĩi
chung và Miền Đơng Nam Kỳ nĩi riêng đã được đẩy mạnh. Diện tích đất nơng
nghiệp tăng lên đáng kể so với 2 thế kỷ trước. Theo kết quả đo đạt vào năm 1836
được ghi trong Quốc triều chính biên tốt yếu thì tổng diện tích đất đai khai phá được
của tồn Nam Kỳ tính đến năm này là “ nguyên trưng điền thổ 20.197 sở 13 giây, 8
đám và linh tinh 3.464 mẫu, nay đo đạc thành điền thổ khoảng hơn 630.075 mẫu, lại
nguyên trước là ngạch ruộng hơn 65 sở, nay khám thành ao nuơi cá cả thảy 1.017
miếng”.
Ở Miền Đơng Nam Kỳ, dưới triều Tự Đức, sách Đại Nam nhất thống chí cho
biết diện tích khai phá của tỉnh Biên Hịa là 14.932 mẫu; Gia Định là 175.063 mẫu.
Theo số liệu do thực dân Pháp thu lượm được và cơng bố trên Niên giám Nam kỳ
năm 1868 về diện tích khai phá vào năm 1868 ở các khu vực thuộc Miền Đơng Nam
Kỳ như sau:
- Sài gịn: 7.277 ha
- Chợ Lớn: 10.008 -
- Tây Ninh 103 -
- Trảng bàng 809 -
- Biên Hịa 1.964 -
- Bà Rịa 1.624 -
- Thủ Dầu Một 1.058 -
- Long Thành 1.709 -
- Thủ Đức 4.087 -
Nguồn: [27, tr.132-133]
Nhìn chung, cho đến nửa đầu thế kỷ XIX, hoạt động khẩn hoang diễn ra mạnh
mẽ ở vùng ven sơng Phước Long ( Đồng Nai), sơng Tân Bình ( sơng Sài Gịn). Ở
đây, dưới sự tổ chức của chính quyền, cư dân người Việt cùng với người Hoa, người
Khơ me… vừa mở rộng các vùng đất đã được khai phá trước đây, vừa tiến sâu vào
những vùng đất cịn hoang vu. Nhờ đĩ đã nối liền được các trung tâm định cư hình
thành trong các thế kỷ trước thành một vùng ruộng vườn chạy dài từ Bà Rịa, Biên
Hịa đến Gia Định. Tuy nhiên ở phía bắc của Miền Đơng Nam Kỳ, mức độ khai phá
vẫn cịn chậm. Vì vậy trong thời kỳ Pháp thuộc, thực dân tư bản Pháp đã đẩy mạnh
khẩn hoang nơi này lập ra những đồn điền rộng lớn.
1.2. Miền Đơng Nam Kỳ thời Pháp thuộc
Tháng 2/1859, sau khi gặp thất bại trong cuộc tấn cơng vào Đà Nẵng (8/1858),
thực dân Pháp đưa quân vào đánh chiếm Sài Gịn, cửa ngõ của Nam Kỳ. Sau đĩ, từng
phần đất của Nam Kỳ lần lượt rơi vào tay thực dân Pháp. Năm 1862, thực dân Pháp
chiếm ba tỉnh Miền Đơng. Vào cuối năm 1867, tồn bộ lục tỉnh Nam Kỳ nằm gọn
trong tay Pháp. Nam Kỳ đã bị cắt khỏi phần đất của Việt Nam trở thành thuộc địa của
Pháp.
Từ đây, cơng cuộc khai phá Nam Kỳ nĩi chung và Miền Đơng Nam Kỳ nĩi
riêng bước sang một giai đoạn mới trong một hồn cảnh mới.
1.2.1. Cơng cuộc khai phá đất đai ở Miền Đơng Nam Kỳ của thực dân
Pháp.
1.2.1.1. Mục đích của chính sách khai thác đất đai của thực dân Pháp.
Trong lịch sử thuộc địa của thực dân Pháp, dù là ở đâu việc chiếm và khai thác
đất luơn là mục tiêu hàng đầu. Tiếp nối giai đoạn chinh phục bằng quân sự là giai
đoạn khai thác đất đai, bởi đĩ là cơ sở của tồn bộ chính sách khai thác thuộc địa.
Năm 1894, trong Thơng tư gởi tồn quyền các thuộc địa, Bộ trưởng Bộ thuộc địa
Deleasse bày tỏ: “khai thác những vùng lãnh thổ rộng lớn mà chúng ta đã chiếm được
thiết lập ở đĩ các đồn điền, phát triển sức sản xuất của thuộc địa và bằng chính con
đường đĩ phát triển mối quan hệ về thương mại với chính quốc” [43, tr.11].
Tại Việt Nam, thực dân Pháp đã khơng chậm trể chiếm lấy những vùng đất đai
cĩ thể khai thác. Chúng đã đề ra và thực hiện nhiều chính sách khác nhau để khai
thác và cướp đoạt nguồn tài nguyên đất đai giàu tiềm năng của đất nước ta. Nam Kỳ
là nơi thực dân Pháp tiến hành cướp đoạt ruộng đất sớm nhất, vừa mới đặt chân vào
Nam Kỳ, tư bản Pháp đã đặt vấn đề “mở mang kinh tế” bằng cách, thu tĩm những
vùng đất đai tốt nhất. Thực dân Pháp nhận thức rất rõ tầm quan trọng của vấn đề sở
hữu đất đai vì chế độ tư hữu ruộng đất là một trong những phương tiện sản xuất đảm
bảo đủ nguồn hàng phục vụ xuất khẩu. Nam Kỳ là thuộc địa khai thác – chủ yếu là
khai thác nơng nghiệp (lúa, cao su), nếu khơng nắm chắc trong tay đất đai thì tư bản
Pháp sẽ khơng thu được những mĩn lãi khổng lồ. Vì vậy, vấn đề sở hữu và phân phối
ruộng đất đối với chính quyền thực dân là điều rất quan trọng. Trong điều kiện như
vậy, sự cố gắng để làm chủ một diện tích ruộng đất lớn chính là “nhiệm vụ chính trị”
là “trọng tâm hoạt động” của thực dân Pháp trong thời kì khai thác thuộc địa.
Năm 1897, triều đình Huế kí điều ước nhượng cho thực dân quyền khai khẩn
đất hoang. Ngày 1/5/1900, thực dân Pháp ra nghị định phủ nhận quyền sở hữu ruộng
đất trong luật pháp phong kiến để dễ cướp đoạt ruộng đất của nơng dân.
Chính sách chiếm đất của chính quyền thực dân ngày càng được xúc tiến mạnh
mẽ. Đĩ là một chế độ được hợp pháp hĩa bằng việc ban hành những văn bản pháp lý
về quy chế nhượng đất nhằm khẳng định quyền quản lý đối với những đất đai đĩ và
tạo thuận lợi cho việc bao chiếm đất đai.
Thuật ngữ “nhượng” tuy được giải thích khác nhau, nhưng luơn cĩ cùng một
nội dung giống nhau. Nĩ chỉ ra việc nhà nước nhượng cho các nhà thực dân đất cơng,
và đổi lại các nhà thực dân này phải chịu một số nghĩa vụ được quy định theo quy chế
của nhà nước [43, tr.28].
Theo Pierre Delhoumeau: “hợp đồng về nhượng địa ở thuộc địa khơng phân
tích theo luật dân sự cũng như luật hành chính. Đĩ là một hợp đồng tương đối kém
xác định- một hợp đồng cĩ đi cĩ lại trong đĩ chính quyền nhượng, giao một số quyền
cho điền chủ để đổi lấy một số nghĩa vụ của họ” [43, tr.29].
Cịn Emile Couzinet thì cho rằng: “nhượng địa là một sự giao nhượng bởi một
tư cách pháp nhân cơng cộng dưới danh nghĩa cho khơng hay phải trả tiền với điều
kiện là phải khai thác các quyền của những vật phụ thuộc khối tài sản tư và cĩ thể
dẫn đến sở hữu vĩnh viễn” [43, tr.29].
1.2.1.2. Tính pháp lý của việc nhượng đất cơng nơng nghiệp.
Trong buổi đầu, chưa cĩ một quy chế chung cho Đơng Dương về việc nhượng
đất. Ở mỗi kỳ, chính quyền địa phương đề ra những nghị quyết riêng. Ở Nam Kỳ, ban
đầu phương thức chuyển nhượng đất thơng dụng nhất là mua bán bằng tiền. Về sau,
nhiều luật lệ về trưng khẩn ruộng đất ra đời.
Nghị định ngày 30/3/1865 quy định thống đốc Nam Kỳ cĩ quyền đem cho và
bán đấu giá “đất cơng”. Giá bán đất cơng được quy định là 10 francs (fr)/1 ha. Về
sau, Nghị định năm 1874 xác nhận hệ thống sang nhượng đất đai khơng phải trả tiền.
Muốn khẩn thì làm đơn, ghi diện tích, ranh giới, rồi đĩng thuế. Năm 1882, một nghị
định thứ hai đã phân biệt thành hai loại đất chính để sang nhượng:
1. Các đất làng bỏ hoang, thuộc diện nhượng khơng thu tiền cho những
người cĩ đơn xin.
2. Các đất đai cĩ thể chuyển nhượng bằng đấu giá cơng khai.
Về diện tích nhượng, nghị định ngày 9/11/1886 của chính quyền thuộc địa quy
định: mỗi người Pháp khi xin đất làm nghề nơng, chỉ cĩ thể xin một lần khơng quá 10
ha. Nhưng nghị định này đã bị các nhà thực dân phản đối. Do đĩ, khơng bao lâu, các
nghị định ngày 6/10/1889 và ngày 15/10/1890 đã bổ sung cho nghị định trên nhằm
mở rộng quyền chiếm đất cho những tên thực dân, quy định những tên thực dân được
quyền xin và chính quyền địa phương được quyền cấp mỗi lần 500 ha [15, tr.58].
Nghị định ngày 15/10/1890 bắt buộc trong vịng 5 năm, đất nhượng phải khai
khẩn xong và chính quyền thực dân cĩ quyền lấy lại bất cứ lúc nào những thửa đất
cần thiết cho các cơng trình cơng cộng. [33, tr.190].
Từ năm 1913, Tồn quyền thủ tiêu các nghị quyết địa phương và ra nghị định
27/12/1913 chung cho tồn Đơng Dương. Từ đây trở đi, quy chế về đất đai mới thực
sự cĩ những điểm đồng nhất, hạn chế tình trạng quá lạm trong việc nhượng đất, điều
hịa sự phát triển của Đại, Trung và Tiểu điền chủ cũng là để xoa dịu mâu thuẫn xã
hội qua việc nhượng đất.
Nghị định 27/12/1913 đưa ra nguyên tắc: nhượng phải trả tiền là phổ biến với
tất cả những đất nhượng cĩ diện tích trên 300 ha. Nhượng dưới hình thức cho khơng
chỉ là ngoại lệ với những đất nhượng dưới 300 ha. Người được nhượng đất phải tiến
hành khai thác theo thời hạn quy định trong điều lệ đấu thầu đối với trường hợp cấp
phát cĩ trả tiền, và trong 5 năm đối với trường hợp cấp phát khơng trả tiền. Về đối
tượng xin nhượng đất đã mở rộng hơn, gồm các “cơng dân, thần dân và dân bảo hộ
Pháp”. Như vậy với nghị định này, người bản xứ được hưởng chế độ nhượng đất như
cơng dân Pháp. Nhưng trên thực tế, chỉ cĩ những người đã vào làng Tây hay nắm giữ
những trọng trách trong bộ máy thuộc địa, làm tay sai cho người Pháp mới được cấp
nhượng đất, cịn phần lớn người Việt đều khơng đủ thế và lực để cạnh tranh với cơng
dân Pháp trong việc xin nhượng đất. Riêng đối với người nước ngồi, nghị định này
đã loại bỏ hồn tồn họ ra khỏi việc xin đất làm đồn điền ở Đơng Dương. Về thẩm
quyền cấp đất, Thống đốc cĩ quyền hạn tới 1.000 ha, từ trên 1.000 ha do Tồn quyền
cấp nhượng.
Tuy nhiên do chiến tranh, nghị định ngày 27/12/1913 chưa phát huy được mấy
hiệu lực. Vả lại, giá đất mà chính quyền bán cho các điền chủ nhiều khi cịn rẻ hơn
giá ấn định 1 fr/1 ha đối với các đồn điền cho khơng. Vì thế, nghị định này vẫn tạo ra
nhiều cơ hội cho sự phát triển của các đại đồn điền.
Trên thực tế, trong các năm 1924-1925 đã cĩ những đồn điền mà diện tích lên
đến 50.000 ha được cấp nhượng. Theo báo cáo của Hội đồng chính phủ Đơng Dương
20/9/1926 thì năm 1925 cĩ 100.000 ha đất hoang được khai thác và hơn 500.000 ha
được xin làm đồn điền trồng cây cơng nghiệp. [44, tr.51]
Để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cơng cuộc khai thác thuộc địa
và chống lại hiện tượng đầu cơ đất, bảo vệ lợi ích của nhà nước và quyền lợi của
những người xin đất cĩ ý thức, nghị định ngày 19/9/1926 ra đời, trong đĩ giữ lại một
số quy định của nghị định ngày 27/12/1913, như quy định về đối tượng được nhượng
đất là tất cả các “cơng dân, thần dân và dân bảo hộ Pháp” và nguyên tắc nhượng đất
phải trả tiền. Mặt khác, để tránh tình trạng đầu cơ, tích trữ đất trong giới điền chủ,
nghị định 19/9/1926 hạn chế diện tích tối đa được nhượng tạm thời cho mỗi điền chủ
là 15.000 ha và mức tối đa cho một đồn điền liền khoảnh là 6.000 ha và quy định
rằng chỉ những người cĩ khả năng tài chính để mua đất và khai thác đất mới được cấp
nhượng đất. Đối với trung và tiểu điền chủ, nghị định này giữ quy định đối với đồn
điền cho khơng tới 300 ha, đồn điền bán theo giá thỏa thuận tới 1.000 ha và được trả
dần từ 5 đến 10 năm.
Nghị định 19/9/1926 được ban hành, nhưng tình hình khơng mấy được cải
thiện. Theo nghị sĩ Nam Kỳ là Outray, trong cuộc trao đổi tại phịng dân biểu Nam
Kỳ 18/3/1927, thì: “người ta đặc biệt tìm kiếm những biện pháp tốt nhất để ngăn chặn
tình trạng đầu cơ trên những vụ áp phe ở thuộc địa là tình trạng cĩ quy mơ đáng kể,
đe dọa sự dè sẻn của người Pháp”.
Sắc lệnh 4/11/1928 ra đời, nĩ hồn thành gần như về cơ bản chế độ nhượng đất
ở Đơng Dương, quản lý việc nhượng đất cơng nơng nghiệp ở đây cho mãi đến sau
này.
Trên thực tế Sắc lệnh 4/11/1928 phát triển nghị định 19/9/1926. Sắc lệnh quy
định chỉ cĩ người Pháp và người thuộc địa Pháp mới được xin khẩn đất. Sắc lệnh này
buộc các điền chủ lệ thuộc vào sự kiểm sốt chặt chẽ của chính quyền và phải chịu
nhiều thể thức, nghĩa vụ, đặc biệt là những quy định về khả năng tài chính của người
xin. Mặt khác nĩ cịn quy định một cách chi tiết hơn so với các văn bản khác về thẩm
quyền của các cấp chính quyền trong việc quản lý đất cơng. Sắc lệnh 4/11/1928 đảm
bảo cho chính phủ chính quốc một thứ quyền hạn ngày một tập trung hơn trong việc
quản lý và chuyển nhượng đất cơng. Từ đây, chính quyền thuộc địa chỉ được cấp
những nhượng địa từ 4.000 ha trở xuống. Những nhượng địa trên 4.000 ha sẽ thuộc
quyền cấp nhượng của tổng thống Pháp thơng qua một sắc lệnh.
Cĩ thể nĩi, với sắc lệnh 4/11/1928 giai đoạn tự do – tự do cấp nhượng đất –
đến đây đã kết thúc. Từ đây, chính phủ Pháp đã can thiệp vào cơng việc này bên cạnh
chính quyền thuộc địa.
Sự giảm sút về quyền hành của những người cầm đầu cấp Liên bang và cấp xứ
đối với đất cơng song song với quá trình tập trung quyền quản lý việc khai thác thuộc
địa về nơng nghiệp vào tay chính phủ chính quốc là một đặc trưng của chế độ nhượng
đất, khẩn hoang ở Đơng Dương từ năm 1928 trở đi. [44, tr.60]
Như vậy, với sắc lệnh 4/11/1928, việc thành lập các sở hữu lớn trở nên chính
thức. Nĩ loại bỏ mọi hạn chế về diện tích các đất đai cơng cộng cĩ thể được cấp, loại
bỏ cùng một lúc cho các tư bản nước ngồi cĩ khả năng chiếm hữu. Như vậy, “việc
khai thác nhỏ” bị mờ nhạt dần trước sở hữu lớn được khai thác chủ yếu bởi các vốn
của các cơng ty vơ danh.
Sắc lệnh 4/11/1928 được áp dụng vào Đơng Dương bằng nghị định 28/3/1929
của Tồn quyền Pasquyer. Tuy nhiên, trước sự phản kháng mạnh mẽ của nhân dân ta,
một số văn bản được bổ sung cho những quy định trên như: Nghị định 26/3/1929 của
Tồn quyền quy định rằng cĩ một vùng xa xơi, trong nội địa mà tư bản pháp khơng
nên và khơng được xin làm đồn điền, cũng khơng được làm đồn điền ở vùng nào mà
nhân dân đã khai khẩn và trồng tỉa rồi và khơng được đi vào những nơi nào mà Pháp
chưa lập được chính quyền của nĩ; Nghị định ngày 25/6/1930 quy định những vùng
được và khơng được khai khẩn đồn điền. Trong đĩ, phần lớn các tỉnh Tây Ninh, Biên
Hịa, Thủ Dầu Một đều được mở ra cho bọn thực dân tự do chiếm đất lập đồn điền.
[15, tr.143]
Nhìn chung, với các nghị định trên trong hai thời kỳ khai thác thuộc địa, thực
dân Pháp khơng chỉ xác lập về mặt pháp lý quyền hạn về đất đai của mình mà cịn gạt
người ngoại quốc ra khỏi việc xin đất lập đồn điền, tránh cho thực dân Pháp một sự
cạnh tranh với tư bản ngoại quốc ở Nam Kỳ nĩi riêng và Đơng Dương nĩi chung.
Càng về sau, những quy định về đất đai càng cụ thể, chặt chẽ hơn. Chính
quyền thuộc địa đã cố gắng đưa ra một quy chế nhượng đất cơng nơng nghiệp với
mục đích khuyến khích việc cấp nhượng đất và khai thác thuộc địa trên lĩnh vực nơng
nghiệp ở Nam Kỳ. Nhưng nhìn chung các nghị định này đều cĩ đặc điểm là bổ sung
cho nhau, đồng thời các nghị định sau bao giờ cũng nhằm vào mục đích mở rộng
quyền chiếm đoạt đất đai cho bọn tư bản thực dân.
1.2.2. Những biện pháp khác thúc đẩy việc lập và phát triển đồn điền.
Bên cạnh việc sử dụng pháp luật để tư bản Pháp mở rộng việc cướp đoạt ruộng
đất của nhân dân ta lập đồn điền, chính quyền thuộc địa cịn thi hành nhiều biện pháp
khác nhằm thúc đẩy việc lập và phát triển đồn điền như: Chính sách thuế khĩa ưu đãi,
chính sách khen thưởng khá hậu hĩnh đối với các điền chủ, việc lập ra một số cơ sở kĩ
thuật và đầu tư xây dựng hệ thống giao thơng vận tải sẽ được trình bày dưới đây.
1.2.2.1. Chính sách thuế khĩa và khen thưởng.
Chính sách thuế.
Để khuyến khích việc lập đồn điền, chính quyền thuộc địa cĩ chính sách thuế
khĩa rất ưu đãi đối với các điền chủ trồng cao su. Ngày 4/6/1910, Tồn quyền Đơng
Dương ra nghị định miễn thuế 6 năm cho đất trồng các loại cây cơng nghiệp. Trong
sáu năm đầu, đất được cấp nhượng khơng phải nộp thuế. Đến năm thứ bảy chỉ đĩng
thuế trên 1/10 diện tích được cấp với mức thuế 6.48 francs (fr)/1ha. Từ năm thứ 10
trở đi thì người chủ đồn điền cao su hàng năm phải nộp cho nhà nước mức thuế là 3,7
Fr/1ha [50, tr.53].
Ơng Octave Dupuy đã làm một bảng so sánh giữa Nam Kỳ và các nước trồng
cao su khác trên một diện tích 2.000 ha, bảng so sánh này cĩ tính thuyết phục cao:
Ở Malaysia, trong 6 năm đầu, mỗi ha đất trên số 2.000 ha được cấp phải đĩng:
7,50 x 2000 x 6 = 90.000 fr
Từ năm thứ 7 trở đi, mỗi ha nộp 30 fr tiền thuế: 30 x 2.000 = 60.000 fr
Ở Nam Kỳ, trong 6 năm đầu, 2.000 ha đất được cấp khơng phải nộp thuế, đến
năm thứ 7 chỉ đĩng thuế trên 1/10 diện tích được cấp với mức thuế 6,48 fr/1ha.
Với diện tích đất ngang nhau là 2.000ha đến năm thứ 10 sau khi được cấp đất,
thì người chủ đồn điền cao su ở Malaysia đã phải nộp cho nhà nước đến 270.000 Fr
tiền thuế đất, cịn ở Nam Kỳ thì số thuế đất chỉ lên đến 19.440 fr, tức chỉ bằng 7% số
thuế của người đồng nghiệp ở Malaysia.
Từ năm thứ 10 trở đi, thì người chủ đồn điền Malaysia hàng năm phải nộp cho
nhà nước số thuế đất 60.000 fr cịn ở Nam Kỳ thì chỉ nộp cĩ 7.384 fr tức bằng 12%
thuế của chủ đồn điền Malaysia trên diện tích 2.000 ha.
Vào thời điểm này ơng Octave Dupuy ước tính giá thành cao su ở Nam Kỳ cĩ
thể vào khoảng 1,25 fr/1kg trong khi ở Malaysia trong các đồn điền tốt nhất cĩ thể
lên đến 1,86 fr/1kg. [50, tr.53]
Chính sách trợ cấp và khen thưởng.
Trong quá trình hình thành và phát triển, đồn điền cao su cũng chịu ảnh hưởng
rất lớn của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1918-1923. Những năm này các nước
như Nam Dương, Malaysia tung ra thị trường rất nhiều cao su. Do đĩ, giá cao su hạ
hẳn xuống, năm 1913 giá cao su là 64 fr/1kg, sang năm 1920 cịn cĩ 26,5 fr/1kg. Vì
vậy, chính quyền thực dân đã lập một quĩ trợ cấp cho các chủ đồn điền cao su để họ
cĩ thể tiếp tục đứng vững và phát triển thêm đồn điền. Riêng năm 1921, chính quyền
thực dân đã trợ cấp cho họ 1.700.000 đồng Đơng Dương [9, tr.89]. Chính quyền đứng
ra bảo lãnh để nhà băng Đơng Dương cho các đồn điền vay với lãi suất 5%/1 năm.
Tiếp sau, nhà nước cịn đặt ra chế độ cho vay cĩ hoa hồng cho cao su xuất khẩu, lãi
suất 3%/1năm. Chính nhờ sự giúp đỡ của chính quyền, các đồn điền cao su, nhất là
các đồn điền lớn sống được để chờ cao su lên giá. [50, tr.64]
Năm 1922, kế hoạch Stevenson ra đời, giá cao su lại lên. Tư bản Pháp tăng
cường bỏ vốn vào kinh doanh cao su đã tạo cho cao su Việt Nam một thời kỳ “vàng
son”, một giai đoạn khởi sắc thực sự. Trong 4 năm (1925-1929) Đơng Dương cĩ diện
tích cao su trồng mới đạt 43.500 ha. Cĩ thể nĩi đây là thời kỳ trồng mới lớn nhất của
cao su Đơng Dương, trong 4 năm đã trồng bằng 20 năm về trước. Nhưng tới năm
1928, kế hoạch Stevenson bị phá sản, giá cao su ngày càng hạ. Đặc biệt trong thời kỳ
khủng hoảng kinh tế thế giới, giá cao su liên tụt giảm. Năm 1928, 1 kg cao su chỉ cĩ
20 fr, nhưng đến năm 1930 thì lại tụt xuống cịn 5 fr; 1931: 4 fr; 1932: 2.5 fr; 1933: 2
fr. Trong khi các ngành sản xuất khác bị đình trệ và trong khi các nước láng giềng để
mặc cho cuộc khủng hoảng kinh tế gây ra những hậu quả đối với các đồn điền cao su,
thì phủ Tồn quyền Đơng Dương và nhà nước Pháp lại cĩ chính sách giúp đỡ khơng
để cho các đồn điền cao su bị suy sụp. Hai biện pháp sau đây được áp dụng:
- Thứ nhất: cho các nhà trồng cao su vay tiền để duy trì các đồn điền.
- Thứ hai: thành lập một quỹ trợ cấp đặc biệt. [35, tr.28]
Tồn quyền Đơng Dương Pasquier kí nghị định ngày 8/2/1930, lấy ở “ quỹ dự
trữ Đơng Dương” một khoảng tiền cho vay đầu tiên 1 triệu đồng bạc để ứng trước
cho chủ các đồn điền cao su lập ra dưới 7 năm. Về sau, khoản tiền này tăng lên và lấy
hình thức cho vay để duy trì, hợp với những đảm bảo thế chấp.
Đạo luật ngày 31/3/1931 quy định thành lập quỹ cho vay đặt dưới quyền của
Bộ trưởng thuộc địa nhằm duy trì việc sản xuất cao su ở các thuộc địa. Với đạo luật
này, các thuộc địa, các xứ bảo hộ, đất hải ngoại hay ủy quyền được phép thành lập
quỹ dự trữ cho những việc ứng trước cần thiết. Số tiền ứng trước được quy định bởi
đạo luật 31/3/1931 là 40 triệu cho Đơng Dương.
Ngày 8/4/1932 chính phủ Pháp ra đạo luật cho Đơng Dương vay tiền [1,
tr.329]. Đạo luật này được ban hành ở Đơng Dương bằng nghị định ngày 14/6/1932
của Tồn quyền Đơng Dương nhằm khuyến khích và tăng cường sự đầu tư của chính
quốc vào Đơng Dương, đặc biệt trong lĩnh vực nơng nghiệp, số tiền cho vay là 250
triệu fr.
Chính quyền thuộc địa cũng cĩ chính sách khuyến khích việc cải tiến kĩ thuật
trồng trọt. Đối với việc chọn giống tốt bằng lối ghép cây, tháng 4/1931 chính quyền
Pháp quy định mức vay là 120 đồng /ha cho đồn điền cao su đất đỏ trồng cây ghép và
60 đồng/ha cho đồn điền đất xám đang tiến hành việc trồng tỉa theo lối ghép cây. [35,
tr.28-29]
Ngồi ra từ năm 1931, chính quyền cịn thành lập “quỹ trợ cấp đặc biệt” nhằm
khen thưởng cho các chủ đồn điền cĩ cao su xuất cảng “việc xuất cảng sản phẩm của
các thuộc địa được quyền hưởng một số tiền thưởng trích ở quỹ trên. Số tiền thưởng
sẽ theo từng quý, dựa vào sự chênh lệch giữa giá thành do luật trên quy định là 6,5
fr/kg với giá thành bình thường của từng quý nhưng mỗi lần khơng quá 3 fr/1kg” [35,
tr.29]. Số tiền thưởng cho mỗi kg cao su xuất cảng năm 1931: 2 fr; 1932: 3 fr; 1933:
1 fr; 1934: 0,6 fr [9, tr.91].
Ngồi ra, để cĩ thêm tiền thưởng cho các điền chủ cao su ở Việt Nam, năm
1931, chính phủ Pháp đã đặt một loại thuế đặc biệt đánh vào cao su ngoại quốc nhập
cảng vào Pháp.
Với chính sách thưởng cho xuất khẩu cao su, từ giữa năm 1930-1934 số tiền
giúp đỡ cho những người trồng cao su lên đến gần 10 triệu đồng bạc. [3, tr.101]
Theo niên giám thống kê Đơng Dương năm 1935, thì số tiền cho các điền chủ
đồn điền cao su vay lên tới 9.072.000 đồng Đơng Dương, chia ra như sau: năm 1931:
2.487.000 đồng; 1932: 3.040.000 đồng; 1933: 1.393.000 đồng; 1934: 362.000
đồng.[35, tr.29]
Như vậy tổng số tiền chính phủ Pháp giúp đỡ cho các điền chủ cao su lên đến
khoảng 19 triệu đồng tức là 190 triệu fr. Tuy nhiên, trên thực tế thì con số ấy cao hơn
nhiều.
Báo Petit Bleu ở Paris tiết lộ bí mật rằng, trong một năm, 14 cơng ty cao su lớn
ở Đơng Dương lĩnh 102 triệu fr, nghĩa là trên 10 triệu đồng bạc chứ khơng phải một
triệu, cịn cơng ty “Cây trồng nhiệt đới” riêng năm 1934 lĩnh đến 10.495.000 fr tiền
trợ cấp. Như vậy, mỗi năm hàng chục triệu đồng bạc Đơng Dương, 10 lần số tiền mà
chính phủ cơng khai tuyên bố [15, tr. 24-25].
Người ta biết rằng, chỉ một năm 1932, Nam Kỳ xuất cảng 14.580.000 kg mủ
cao su, tức là các chủ vườn cao su được thưởng khoảng 40 triệu fr. [15, tr.25].
Như vậy 40 triệu fr tiền thưởng với 100 triệu tiền cho vay mượn là 140 triệu/1
năm gấp nhiều lần so với số tiền chính phủ thuộc địa cơng bố.
Nĩi về sự giúp đỡ cho các chủ đồn điền cao su, quyền thống đốc Nam Kỳ
Europe trong khĩa họp Hội đồng thuộc địa đã nêu rõ: “việc trồng cao su đã được
chính phủ hết sức giúp đỡ. Nhờ sự giúp đỡ đĩ, nên những thiệt hại về việc khơng bán
được sản phẩm cao su do hậu quả nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng kinh tế gây ra,
đã được hạn chế đến mức tối thiểu. Những nhà trồng tỉa cao su, khơng thất vọng và
khơng tăng thêm diện tích trồng trọt, nĩi chung, đã tổ chức cải tiến phương pháp khai
thác cao su, giảm chi phí sản xuất, hồn thiện hơn nữa kỷ thuật trồng trọt, thí dụ như
thực hiện một cách phổ biến lối trồng cao su theo phương pháp ghép cây… một cơ
quan đặc biệt sẽ được thành lập để giúp đỡ các nhà trồng tỉa cao su, chè, cà phê…
trước hết nhằm duy trì sự hoạt động bình thường của quỹ bồi thường” [35, tr.29-30].
1.2.2.2. Biện pháp khoa học kỹ thuật
Để thúc đẩy việc lập đồn điền và khai thác tối đa nguồn lợi từ cây cao su phục
vụ xuất khẩu, chính quyền thuộc địa cịn áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật
vào phục vụ sản xuất.
Trạm thí nghiệm
Năm 1897, Tồn quyền Paul Doumer cho thành lập hai trung tâm nghiên cứu
thí nghiệm cây cao su. Một ở trạm thực nghiệm Ơng Yêm tại Bến Cát (Thủ Dầu Một)
do E. Raoul, một dược sĩ chuyên nghiên cứu thực vật chí ở vùng nhiệt đới phụ trách
và một ở Suối Dầu thuộc viện Pasteur Nha Trang do bác sĩ Yersin chăm sĩc.
Việc trồng cao su ở các vườn thí nghiệm đã mang lại kết quả khả quan, các nhà
nghiên cứu đã rút ra kết luận: đất trồng cao su là đất dễ thốt nước, khơng phải là
vùng đất thấp, nước ứ động hay là đầm lầy [50, tr.31]. Các kết luận của họ về cao su
đã đặt cơ sở cho các nhà nơng học Pháp đi đến kết luận và khẳng định điều kiện khí
hậu, đất đai ở Nam Kỳ cĩ thể phát triển thuận lợi cho cây cao su. Kết luận này đồng
thời cịn bác bỏ những ý kiến cho rằng cây cao su vốn sinh trưởng ở vùng Amazon là
vùng ở sát sơng, thường hay bị ngập nước, nên khĩ cĩ thể thích ứng với những vùng
đất khơ, tương đối cao của Nam Kỳ [35, tr.8-9].
Các nhà khoa học đã bỏ khơng ít thời gian vào việc nghiên cứu về mặt vật lí,
hĩa học những vùng đất trồng cao su. Và cùng với sự nghiên cứu đĩ, họ cịn tiến
hành nghiên cứu những điều kiện khí hậu, các loại phân bĩn hĩa học phù hợp với cây
cao su và phương pháp lấy mủ cao su, chế biến cao su.._.iền cao su Cam Tiêm tiến hành bãi cơng
đưa yêu sách địi tăng lương và cải thiện đời sống. Đây là cuộc bãi cơng lớn lần thứ
hai tại đồn điền này kể từ năm 1926. Chính quyền thực dân vội vàng cho binh lính
đến đàn áp, làm nhiều người chết và bị thương. Cuộc đấu tranh này làm xơn xao dư
luận ở Pháp. Tổng liên đồn lao động Pháp đã lên tiếng phản đối sự đàn áp của bọn
thực dân đối với cơng nhân ở đồn điền này và bày tỏ sự đồng tình ủng hộ cuộc đấu
tranh của giai cấp cơng nhân Việt Nam nĩi chung và cơng nhân đồn điền Cam Tiêm
nĩi riêng.
Nối tiếp cuộc đấu tranh của cơng nhân đồn điền Cam Tiêm, liên tiếp trong hai
tháng 8 và 10/1929, dưới sự lãnh đạo của chi bộ Việt Nam thanh niên cách mạng
đồng chí hội, cơng nhân đồn điền cao su Phú Riềng đã đứng lên đấu tranh và tổ chức
một cuộc bãi cơng và biểu tình lớn chống bọn chủ tư bản. Chúng đã đưa quân đội đến
đàn áp cuộc đấu tranh. Chúng cịn bắt giam và mang ra tịa xét xử những cơng nhân
hăng hái đấu tranh.
Những cuộc đấu tranh của cơng nhân cao su trong những năm 1927-1929 mà
tiêu biểu là hai cuộc đấu tranh của cơng nhân đồn điền Cam Tiêm và cơng nhân đồn
điền Phú Riềng, chứng tỏ cơng nhân cao su cùng với giai cấp cơng nhân cả nước đã
biểu thị một tinh thần đấu tranh quyết liệt và bền bỉ, một sức mạnh to lớn trong cuộc
đấu tranh chống lại kẻ thù giai cấp và dân tộc. Những cuộc đấu tranh tự phát đã giảm
đi nhiều và nhường chỗ cho những cuộc đấu tranh cĩ ý thức, cĩ tổ chức và cĩ qui mơ
ngày càng lớn. Những cuộc đấu tranh này khơng những nhằm mục đích địi các
quyền lợi kinh tế mà cịn nhằm mục đích chính trị - đánh đổ kẻ thù giai cấp.
Chính sự chuyển biến về chất của phong trào đấu tranh của giai cấp cơng nhân
Việt Nam nĩi chung, cơng nhân đồn điền cao su nĩi riêng, đã đưa thực dân Pháp, vào
năm 1929, đi đến một nhận xét như sau: “…mỗi sự sai sĩt hoặc sai lầm nhỏ mọn nào
của chủ đều lập tức bị bọn tuyên truyền được đào tạo trong trường phá rối trị an lợi
dụng và sẳn sàng chớp lấy cơ hội để khêu gợi căm thù chủng tộc và giai cấp”. [28,
tr.51]
Các hình thức đấu tranh của cơng nhân ngày càng nâng cao, chứng minh rõ
mối quan hệ đối kháng giữa bọn tư bản thực dân, bọn tay sai với giai cấp cơng nhân
Việt Nam nĩi chung và cơng nhân đồn điền cao su nĩi riêng ngày càng khốc liệt, cấp
thiết và phải được giải quyết. Cùng với các xí nghiệp trong cả nước, các đồn điền cao
su ở Miền Đơng Nam Kỳ đã trở thành mảnh đất tốt cho việc ươm mầm những hạt
giống cộng sản.
Tháng 6/1929, Đơng Dương cộng sản Đảng được thành lập. Thực hiện chủ
trương phát triển tổ chức đảng của ban chấp hành trung ương lâm thời Đơng Dương
cộng sản đảng, Ngơ Gia Tự đã chỉ đạo thành lập chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên của
giai cấp cơng nhân cao su tại đồn điền Phú Riềng vào đêm 28/10/1929. Từ đây và sau
ngày Đảng cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930, các cuộc đấu tranh của cơng
nhân cao su đã cĩ sự lãnh đạo của Đảng.
Sau ngày thành lập, chi bộ cộng sản đồn điền Phú Riềng chủ trương đi ngay vào
việc tổ chức cơng nhân đấu tranh địi các quyền lợi thiết thực như tăng lương, cải thiện
tình hình ăn ở, điều kiện sinh hoạt văn hĩa tinh thần, chống cúp phạt, đánh đập. Về mặt
tổ chức, chi bộ chủ trương cải tổ và xây dựng nghiệp đồn cơng nhân thành một nghiệp
đồn bí mật – cơng hội đỏ - đơng đảo và vững mạnh.
Để làm tốt cơng tác vận động và giáo dục cách mạng trong cơng nhân đồn
điền, nghiệp đồn bí mật ra tờ báo hàng tháng lấy tên là Giải thốt . Đây là tờ báo
cách mạng đầu tiên của cơng nhân cao su và cũng là tờ báo đầu tiên của phong trào
cách mạng ở Miền Đơng Nam Kỳ.
Cùng với tổ chức nghiệp đồn bí mật, chi bộ đảng Phú Riềng cịn xây dựng
được một đội “ thanh niên xích vệ” khá mạnh do Trần Tử Bình phụ trách. Đây là lực
lượng bán vũ trang của chi bộ đảng ở đồn điền cao su Phú Riềng, được trang bị vũ
khí tự tạo, luyện tập võ nghệ để bảo vệ làng xĩm.
Để tập họp và nắm được đơng đảo quần chúng, chi bộ đảng Phú Riềng cịn
thơng qua tổ chức nghiệp đồn lập ra các hội như: Hội xuân thu nhị kỳ của cơng nhân
bên lương, Hội ơng thánh Giu-se của cơng nhân bên giáo, các hội chèo, hội đá bĩng,
múa lân… Những họi quần chúng này đã đĩng gĩp vai trị rất lớn trong việc gây
dựng sự gắn bĩ, gần gũi, đồn kết trong cơng nhân.
Sự ra đời của chi bộ đảng cộng sản ở đồn điền Phú Riềng đã tạo ra bước ngoặt
lớn trong phong trào cơng nhân cao su. Từ đây, cĩ sự lãnh đạo của Đảng cộng sản,
phong trào cơng nhân đồn điền cao su sẽ tiến những bước dài trên con đường đấu
tranh giải phĩng giai cấp và giải phĩng dân tộc.
Mở đầu cho cao trào đấu tranh cách mạng của cơng nhân đồn điền cao su ở giai
đoạn này là cuộc đấu tranh của cơng nhân đồn điền Phú Riềng do chi bộ Đơng Dương
cơng sản đảng ở đây lãnh đạo diễn ra từ ngày 30/1 – 6/2/1930, nhằm đưa ra các yêu
sách: bỏ đánh đập, bỏ cúp phạt lương, hồi hương những người mãn hạn hợp đồng,
ngày làm 8 giờ… đã giành được thắng lợi, chủ đồn điền đã chấp nhận và ký vào biên
bản. Nhưng rồi do kinh nghiệm hoạt động bí mật cịn non kém, bọn mật thám đã tìm
ra những cán bộ lãnh đạo phong trào, các đồng chí đĩ đã lần lược bị bắt, tất cả hơn
100 người.
Như vậy, mặc dù cĩ một số tổn thất, cuộc bãi cơng của cơng nhân cao su Phú
Riềng đã giành được thắng lợi, cĩ tiếng vang trong cả nước. Chính cuộc bãi cơng của
cơng nhân đồn điền cao su Phú Riềng (3/2/1930) đã tạo nên một “Phú Riềng đỏ” tác
động mạnh mẽ đến tinh thần đấu tranh của cơng nhân các đồn điền cao su khác ở
Miền Đơng Nam Kỳ và phong trào cơng nhân cả nước.
Tại đồn điền Dầu Tiếng, ngày 10/2/1930, cơng nhân bãi cơng địi: khơng được
đánh đập cơng nhân, khơng được cho cơng nhân ăn gạo lứt, gạo ẩm, cá thối…bước
đầu đã giành được thắng lợi.
Trong những năm 1931-1935, cơng nhân cao su trong các đồn điền Dầu Giây,
An Lộc, Bình Lộc, Ơng Quế, Bến Củi, Bình Ba… thuộc cơng ty SIPH, quản Lợi, Xa
Trạch, Xa Cam, Bình Sơn, Phú Hưng thuộc cơng ty đồn điền Đất Đỏ, Dầu Tiếng
thuộc cơng ty Michelin, Lộc Ninh, Đa Kia thuộc cơng ty CEXO… lần lượt nổi dậy
đấu tranh với chủ đồn điền, buộc chúng phải giải quyết yêu sách: khơng được phát
gạo mục, cá tối cho cơng nhân, bảo đảm tiền lương, ngày làm việc 8 giờ...
Những cuộc đấu tranh này cùng với những cuộc đấu tranh của cơng nhân các
ngành khác đã cho thấy “sức liên tục và mở rộng của phong trào cách mạng” bất chấp
thủ đoạn khủng bố trắng của thực dân Pháp.
Trong thời kỳ 1936-1939, cùng với phong trào đấu tranh địi tự do nghiệp đồn
và lập hội ái hữu cũng như các cuộc mít tinh, biểu tình hưởng ứng phong trào Đơng
Dương đại hội…, cơng nhân đồn điền cao su cịn liên tục tiến hành các cuộc đấu
tranh, bãi cơng địi các quyền lợi dân sinh hàng ngày.
Theo số liệu thống kê, chỉ trong sáu tháng cuối năm 1936 đầu năm 1937, đã cĩ
cả thảy 3.366 cơng nhân đồn điền cao su tham gia 16 cuộc bãi cơng. Khẩu hiệu tập
trung nhất trong đợt bãi cơng này là tăng lương giảm giờ làm. Ngồi ra cịn đề ra
khẩu hiệu chính trị như tự do nghiệp đồn, thả chính trị phạm.
Trong hai năm 1938-1939, số lượng các cuộc đấu tranh của giai cấp cơng nhân
Việt Nam nĩi chung và cơng nhân cao su nĩi riêng cĩ giảm chút ít do phải đương đầu
với những khĩ khăn. Nhưng tinh thần cách mạng trong họ khơng hề sút giảm. “Ở đâu
cĩ áp bức là ở đĩ cĩ đấu tranh”, chân lý ấy đã được thể hiện rất rõ ở đội ngũ cơng
nhân cao su.
Các cuộc đấu tranh oanh liệt phi thường đĩ là bản cáo trạng lên án chế độ đồn
điền cao su, là lời tuyên bố gắn bĩ của cơng nhân cao su với phong trào cơng nhân
cao su nĩi chung lúc đĩ đang lan rộng khắp nước ta. Nghiệp đồn cao su đã trở thành
cái địn bẩy, một tổ chức trực tiếp lãnh đạo cơng nhân cao su chống lại chế độ tư bản
tàn ác ở đồn điền cao su. Và bãi cơng cũng đã trở thành trường học chiến đấu của
cơng nhân cao su. Đặc biệt dưới sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp cơng nhân,
đấu tranh giải phĩng giai cấp kết hợp với đấu tranh giải phĩng dân tộc đã trở thành
mục đích chính trị của cơng nhân cao su, của tồn bộ giai cấp cơng nhân Việt Nam.
Tĩm lại, sự hình thành và phát triển của đồn điền cao su đã cĩ sự tác động khá
sâu sắc đến kinh tế, xã hội Miền Đơng Nam Kỳ nĩi riêng và cả nước nĩi chung. Nĩ
làm thay đổi cơ cấu cây trồng, tạo ra những ngành kinh tế mới, mở rộng hoạt động
ngoại thương…Với sự ra đời và phát triển của đồn điền cao su, nhân tố tư bản chủ
nghĩa đã bước đầu du nhập vào nơng nghiệp ở Miền Đơng nĩi riêng và Nam Kỳ nĩi
chung. Tuy quy mơ, mức độ và phạm vi ảnh hưởng chưa lớn nhưng ít nhiều đã cĩ sự
chuyển biến theo xu hướng mới, hướng nền kinh tế Nam Kỳ vào quỹ đạo sản xuất
hàng hĩa tư bản chủ nghĩa. Đồng thời, sự phát triển của đồn điền cao su cũng đã tạo
thế mạnh cho nền kinh tế nơng nghiệp của Miền Đơng Nam Kỳ. Kinh tế đại điền ở
Miền Đơng Nam Kỳ cĩ vị trí khá quan trọng trong ngành xuất khẩu thương mại thuộc
địa của Pháp tại Đơng Dương nĩi chung và Việt Nam nĩi riêng. Vai rị của đồn điền
cao su rất được chú trọng, khẳng định vị trí kinh tế của Miền Đơng Nam Kỳ trong
nền kinh tế thuộc địa Đơng Dương nĩi chung và tại Việt Nam nĩi riêng. Tuy nhiên,
sự hình thành và phát triển của đồn điền cao su cũng ảnh hưởng khơng nhỏ đến xã
hội Miền Đơng Nam Kỳ, làm xuất hiện những giai tầng mới, đặc biệt là mâu thuẫn
đối kháng ngày càng gay gắt giữa tư bản đồn điền và cơng nhân cao su.
KẾT LUẬN.
Ngay từ ngày đầu bị chinh phục, kinh tế Đơng Dương nĩi chung và Miền Đơng
Nam Kỳ nĩi riêng đã được hướng vào mục đích duy nhất là phục vụ nền kinh tế “mẫu
quốc”. Từ đường lối đĩ, thực dân Pháp đã nhanh chĩng đem cao su vào trồng ở Miền
Đơng Nam Kỳ ngay từ những ngày đầu xâm lược nước ta. Song phải đợi đến năm
1898, mới xuất hiện những đồn điền cao su đầu tiên. Ngồi trạm thí nghiệm Ong
Yem (Thủ Dầu Một) cịn cĩ đồn điền cao su của Belland. Cây cao su chính thức cĩ
măt ở Việt Nam. Từ đây, cao su đã trở thành ngành kinh doanh ra đời sớm và ngày
càng phát triển ở Miền Đơng Nam Kỳ.
Ngay khi ra đời, ngành này đã được sự quan tâm đặc biệt của chính quyền thực
dân và tư bản Pháp. Chính quyền thực dân đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ để
thúc đẩy việc phát triển đồn điền. Tư bản thực dân Pháp cũng tăng cường đầu tư vào
đồn điền cao su, nhất là từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Số vốn mà bọn chúng
đầu tư vào cao su chiếm 2/3 tổng số vốn đầu tư của chúng ở Nam Kỳ [35, tr.6].
Đồn điền cao su vì vậy đã phát triển trên quy mơ lớn, khắp các tỉnh Miền Đơng
Nam Kỳ, với tốc độ nhanh, nhất là từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Năm 1918
mới cĩ 7.000 ha nhưng đến năm 1921 là 29.000 ha [28, tr.14]. Đặc biệt trong thời kỳ
của sự “chạy đua nước rút”, diện tích đồn điền cao su đã tăng nhảy vọt lên 82.850ha
(1929) [18, tr.178], tính trung bình mỗi năm trồng mới khoảng 15.000 ha. Tuy nhiên,
sự phát triển ấy chậm lại trong những năm khủng hoảng kinh tế thế giới và đến cuối
năm 1938 đã cĩ 678 đồn điền với 97.136 ha cao su nằm trong tay 508 điền chủ độc
lập, 34 điền chủ liên doanh và 56 cơng ty. [55]
Đồn điền cao su được phân bố rộng khắp các tỉnh Miền Đơng Nam Kỳ, nhưng
tập trung chủ yếu nhất trên vùng đất thuộc hai tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hịa, với
72.423 ha chiếm 74.6% tổng diện tích cao su. Sở hữu đại điền chiếm ưu thế trong hệ
thống đồn điền cao su (64.97% tổng diện tích đồn điền cao su), phần lớn thuộc sở
hữu của các cơng ty. Do vậy, các cơng ty đã giữ vai trị rất quan trọng trong việc khai
thác đồn điền cao su tại Miền Đơng Nam Kỳ.
Xét về phương diện tài chính, sự đĩng gĩp của các đồn điền cao su vào ngân
quỹ chung của Đơng Dương là khơng đáng kể. Chính quyền thuộc địa do muốn đẩy
nhanh việc chiếm và khai thác đất nên đã giảm nhẹ mức thuế mà các điền chủ phải
nộp. Cịn các điền chủ thì tìm mọi cách để trốn thuế. Những đồn điền cao su thực ra
chỉ làm giàu cho một số nhà thực dân. Thế nhưng, điều khơng thể phủ nhận được là
sự hiện diện của các đồn điền cao su này đã ảnh hưởng nhất định đến kinh tế và xã
hội Miền Đơng Nam Kỳ nĩi riêng và Việt Nam nĩi chung.
1/ Tư bản thực dân Pháp, khi thực hiện mục đích thực dân, đã mở rộng diện
tích đất trồng trọt, khai phá những vùng đất hoang vu “ma thiêng nước độc” như
vùng đất đỏ Miền Đơng Nam Kỳ. Nếu đem so với diện tích trồng lúa của Nam Kỳ thì
nĩ khơng đáng kể (chỉ gần 100.000 ha). Nhưng đây là một loại canh tác hồn tồn
mới đối với sản xuất nơng nghiệp tại vùng đất Miền Đơng Nam Kỳ, do đĩ đã gĩp
phần vào việc tạo nên một bộ mặt mới trong việc khai thác đất đai ở Nam Kỳ nĩi
chung và Miền Đơng Nam Kỳ nĩi riêng dưới thời thuộc Pháp.
2/ Việc sử dụng phương thức kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa đối với đồn
điền cao su đã tạo ra bước phát triển nhanh chĩng của lực lượng sản xuất trong nơng
nghiệp của Miền Đơng Nam Kỳ. Diện tích đất trồng trọt được mở rộng, phát huy
được thế mạnh của đất đai ở đây vào mục đích phát triển cây cơng nghiệp, nhờ đĩ
từng bước phá vỡ thế độc canh cây lúa, gĩp phần mở rộng cơ cấu cây trồng, gia tăng
sản lượng hàng hĩa, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu hàng hĩa nơng sản ngày một tăng
của tư bản Pháp. Đây khơng những là thành cơng lớn của người Pháp ở Đơng Dương
đúng như họ nhận định: “cơng trình thiết lập các đồn điền cao su là một cơng trình
sáng tạo từ số zéro” [22, tr.42] mà nĩ thực sự đã tìm ra một hướng đi mới cho
kinh tế Miền Đơng Nam Kỳ - hoạt động trồng cây cơng nghiệp - trong thời Pháp
thuộc.
3/ Quá trình hình thành và phát triển các đồn điền cao su ở Miền Đơng Nam
Kỳ, đã làm nảy sinh trong nền kinh tế thuộc địa một ngành sản xuất mà sản phẩm chủ
yếu dành cho xuất khẩu, cùng với sự ra đời của một số ngành sản xuất mới từ cao su
và một vùng chuyên canh cây cơng nghiệp lớn nhất Việt Nam nĩi riêng và Đơng
Dương nĩi chung, khác với nền kinh tế tự cấp tự túc dựa chủ yếu vào việc trồng lúa
trước đây.
Sự cĩ mặt của các đồn điền cao su ở Miền Đơng Nam Kỳ đã giúp kinh tế Nam
Kỳ hình thành nên hai vùng sản xuất nguyên liệu chính phục vụ cho xuất khẩu. Đĩ là
lúa gạo ở Miền Tây và cao su ở Miền Đơng. Hai vùng này kết hợp chặt chẽ với Sài
Gịn tạo thành một tam giác kinh tế, mà cho đến ngày nay vẫn được xem là một cơ
cấu kinh tế vùng hồn chỉnh nhất trong cả nước. Đây là nét đặc trưng là biểu hiện độc
đáo của kinh tế Nam Kỳ thời Pháp thuộc.
4/ Đồn điền cao su hình thành và phát triển trên quy mơ lớn cịn cĩ tác dụng
khác là tạo ra việc làm và nguồn thu nhập phụ cho khơng ít nơng dân ở địa phương và
các vùng đơng dân cư ở Miền Bắc.
Ngồi ra, hoạt động đồn điền cao su của tư bản thực dân Pháp cịn cĩ tác dụng
như những trại thực nghiệm cĩ giá trị chứng minh, hướng dẫn đối với người nơng dân
bản xứ trong việc trồng loại cây mới. Học theo cách sản xuất của các điền chủ người
Pháp, người bản xứ đã bắt đầu trồng cao su mặc dù số lượng người tham gia chưa
nhiều và diện tích đồn điền cao su cũng khơng đáng kể, nhưng dù sao cây cao su
cũng bước đầu xâm nhập vào hoạt động trồng trọt của người Việt Nam dưới thời
Pháp thuộc.
Tuy nhiên, về phương diện xã hội việc lập và khai thác đồn điền cao su của tư
bản Pháp với mục đích khai thác tối đa nguồn tài nguyên và nhân lực đã chứa đựng
những hạn chế quan trọng, phản ánh rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân.
Những thành quả kinh tế mà chúng ta thừa hưởng của chủ nghĩa thực dân Pháp
đĩ chỉ là những hệ quả kinh tế ngồi ý muốn của chúng. Thực dân Pháp đẩy mạnh
đầu tư vốn vào Việt Nam nĩi chung và Miền Đơng Nam Kỳ nĩi riêng khơng phải
xuất phát từ mục tiêu phát triển nền kinh tế nơi đây mà nhằm mục đích khai thác tối
đa nguồn tài nguyên của thuộc địa, biến thuộc địa thành nơi cung cấp nguyên liệu cho
nền cơng nghiệp chính quốc. Vì mục tiêu lợi nhuận, chúng đã áp dụng tối đa các biện
pháp để triệt để bĩc lột sức lao động của cơng nhân. Chính sách tuyển mộ và sử dụng
nhân cơng là những minh chứng rõ ràng nhất cho sự bĩc lột tàn bạo vơ nhân đạo của
tư bản thực dân Pháp. Đĩ là sự kết hợp giữa lối lao động cưỡng bức thời trung cổ và
lối bĩc lột tư bản chủ nghĩa, đã làm cho đời sống của người cơng nhân cao su vơ cùng
khốn khổ. Chính vì vậy “sự hiện diện của Pháp đã gĩp phần tạo ra trong ngành cao su
một cực của căng thẳng xã hội, khơng phải do việc nhập cư, mà cĩ thể là do quy chế
lao động được ban hành” [3, tr.151]. Mâu thuẫn về quyền lợi đã dẫn đến sự đối kháng
khơng thể điều hịa được giữa cơng nhân và chủ đồn điền. Muốn thốt khỏi đời nơ lệ,
khơng cĩ con đường nào khác là vùng dậy đấu tranh cách mạng phá vỡ xích xiềng
giành lấy tự do, độc lập. Các cuộc đấu tranh oanh liệt của cơng nhân cao su là bản
cáo trạng lên án chế độ đồn điền cao su. Cơng nhân cao su cùng với giai cấp cơng
nhân cả nước đã biểu thị một tinh thần đấu tranh quyết liệt và bền bỉ, một sức mạnh
to lớn trong cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù giai cấp và dân tộc.
Tĩm lại, từ thực tế của việc trồng và khai thác cao su phải thừa nhận, cao su là
loại cây cơng nghiệp duy nhất trong số các cây cơng nghiệp và cũng là loại canh tác
duy nhất trong số các canh tác được người Pháp du nhập vào vùng đất Nam Kỳ dưới
thời Pháp thuộc phát triển được và cĩ một tầm mức khá quan trọng đối với kinh tế
Nam Kỳ nĩi chung và Đơng Nam Kỳ nĩi riêng.
Những đồn điền cao su của tư bản thực dân Pháp đã gây nên rất nhiều thảm
cảnh cho tầng lớp phu đồn điền và lao động nghèo. Nhưng về mặt kinh tế, sự ra đời
và phát triển của đồn điền cao su đã làm xuất hiện một quan hệ sản xuất mới – quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Tuy quy mơ, mức độ và phạm vi ảnh hưởng chưa lớn
nhưng ít nhiều làm cho nền kinh tế Miền Đơng Nam Kỳ cĩ sự chuyển biến theo xu
hướng mới, hướng nền kinh tế Nam Kỳ nĩi chung và Miền Đơng Nam Kỳ nĩi riêng
vào quỹ đạo sản xuất hàng hĩa tư bản chủ nghĩa. Đồn điền cao su cĩ vị trí khá quan
trọng trong ngành xuất khẩu thương mại thuộc địa của Pháp tại Đơng Dương nĩi
chung và tại Việt Nam nĩi riêng, tạo nên thế mạnh kinh tế của Miền Đơng Nam Kỳ
thời Pháp thuộc. Nĩ cịn là biểu trưng của nền kinh tế nơng nghiệp hiện đại.
Hiệu quả kinh tế do đồn diền cao su mang lại đã tạo thế mạnh cho kinh tế nơng
nghiệp Miền Đơng Nam Kỳ thời Pháp thuộc. Đồng thời, nĩ cĩ giá trị thúc đẩy kinh tế
Miền Đơng phát triển. Đồn điền cao su đã, đang và sẽ là một nguồn tài sản rất lớn,
quyết định sự phát triển kinh tế nơng nghiệp của Miền Đơng Nam Kỳ. Nĩ đã khẳng
định vị trí và vai trị quan trọng của mình trong nền kinh tế Miền Đơng Nam Kỳ nĩi
riêng và Việt Nam nĩi chung thời Pháp thuộc.
Chúng ta ghi nhận cơng lao của người Pháp đã đi đầu trong việc xây dựng
ngành cao su ở Việt Nam. Họ đã cho chúng ta thấy được khả năng xác định và khai
thác tiềm năng kinh tế cũng như sự năng động, nhạy bén của họ trong kinh doanh.
Điều kiện tự nhiên là một trong những yếu tố quan trọng để xác định tiềm năng kinh
tế của mỗi vùng, bên cạnh đĩ sự nhạy bén biết nắm bắt thời cơ và nhu cầu của thế
giới cũng là yếu tố khơng kém phần quan trọng để khai thác những tiềm năng ấy đạt
hiệu quả kinh tế cao nhất. Đây là những bài học kinh nghiệm rất cĩ giá trị thực tiễn
đối với cơng cuộc cơng nghiệp hĩa – hiện đại hĩa đất nước hiện nay.
Ngồi ra, trong khai thác đồn điền cao su chúng ta cũng nên đặc biệt quan tâm
đến vấn đề khai thác bền vững và đầu tư thích đáng, nhất là về yếu tố con người, phải
thường xuyên chăm lo đời sống vật chất – tinh thần cho đội ngũ cơng nhân cao su,
đồng thời khơng ngừng cải tiến kỹ thuật sản xuất. Cĩ như vậy, chúng ta mới cĩ thể
khai thác tối đa tiềm năng kinh tế của cây cao su.
Cao su thực sự là một nguồn lợi nơng nghiệp rất lớn của Miền Đơng Nam Kỳ
trong thời kỳ Pháp thuộc cũng như trong giai đoạn hiện nay. Cao su hiện là một trong
những mặt hàng nơng sản xuất khẩu cĩ giá trị lớn của Việt Nam nĩi chung và Miền
Đơng Nam Kỳ nĩi riêng. Thị trường xuất khẩu cao su đã mở rộng đến 80 quốc gia.
Điều này càng khẳng định chủ trương phát triển mạnh cây cao su ở nước ta nĩi chung
và Miền Đơng Nam Kỳ nĩi riêng là hồn tồn đúng đắn. Đặc biệt, trong bối cảnh
rừng tự nhiên nước ta đang bị suy thối do khai thác tùy tiện, diện tích được che phủ
thấp, thì những cánh rừng cao su bạt ngàn ở Miền Đơng Nam Kỳ sẽ gĩp phần tích
cực vào việc bảo vệ đất đai, nguồn nước và mơi trường sinh thái.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Quốc Anh (1988), Việt Nam những sự kiện lịch sử, Nxb Hà Nội.
2. Nguyễn Thế Anh (1970), Việt Nam dưới thời Pháp đơ hộ, Nxb Lửa Thiêng.
3. Jean – Pierre Aumiphin (1994), Sự hiện diện tài chính và kinh tế Pháp ở Đơng
Dương (1858-1939), Hội khoa học lịch sử Việt Nam xuất bản, Hà Nội.
4. Cao Văn Biền (1981), Giai cấp cơng nhân Việt Nam thời kì (1936-1939), Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
5. Nguyễn Cơng Bình (1959), Tìm hiểu giai cấp tư sản Việt Nam thờiPháp thuộc Nxb
Văn Sử Địa, Hà Nội.
6. Nguyễn Cơng Bình (1974), Một số vấn đề về lịch sử giai cấp cơng nhân Việt Nam,
Nxb Lao động.
7. Trần Tử Bình (1965), Phú Riềng đỏ, Nxb Lao Động, Hà Nội
8. Phạm Cao Dương (1967), Thực trạng giới nơng dân Việt Nam thời Pháp thuộc,
Nxb Khai Trí, Sài Gịn.
9. Nguyễn Khắc Đạm (1957), Những thủ đoạn bĩc lột của tư bản Pháp ở Việt Nam,
Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội.
10. Nguyễn Đình Đầu (1997), Tiểu giáo trình địa lý Nam Kỳ (dịch của Trương Vĩnh
Ký), Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
11. Lê Quí Đơn (1964), Phủ biên tạp lục, Nxb Khoa học, Hà Nội.
12. Trần Ngọc Định (1970), “chế độ sở hữu ruộng đất lớn ở Nam Bộ trong thời đế
quốc Pháp thống trị”, Nghiên cứu lịch sử, (số 132).
13. Trịnh Hồi Đức (1972), Gia Định thành thơng chí, bản dịch Tư Trai Nguyễn Tạo,
Nha văn hĩa phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hĩa xuất bản.
14. Nguyễn Viết Đức (1972), Thực tế khai thác cao su của người Pháp tại Bình
Long, Luận văn cao học Quốc gia hành chính Sài Gịn. Lưu tại phịng đọc
hạn chế thư viện quốc gia.
15. Trần Văn Giàu (1961), Giai cấp cơng nhân Việt Nam, Nxb Sự Thật
16. Lê Huỳnh Hoa (1997), “Cây cao su đặc sản của vùng Đơng Nam Bộ”, Tạp chí
Xưa và Nay, (số 45B), tr.21-22.
17. Lê Huỳnh Hoa (2002), Cảng Sài Gịn và biến đổi kinh tế Nam Kỳ thời Pháp thuộc
(1860-1939), Luận án tiến sĩ khoa học lịch sử Đại học sư phạm Tp.HCM.
18. Ngơ Văn Hịa – Dương Kinh Quốc (1978), Giai cấp cơng nhân Việt Nam trước
khi thành lập Đảng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
19. Hà Minh Hồng (1999), “Phú Riềng đỏ trong phong trào cơng nhân Miền Đơng
Nam Kỳ”, tạp chí Nghiên cứu lịch sử (số 5).
20. Bùi Thị Huệ (2002), Những biến đổi kinh tế- xã hội trên địa bàn tỉnh Bình Phước
thời Pháp thuộc giai đoạn 1897-1939, Luận văn cao học sử, Đại học sư phạm
Tp.HCM.
21. Nguyễn Văn Khánh (1999), Cơ cấu kinh tế-xã hội Việt Nam thời thuộc địa (1858-
1945), Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
22. Lê Khoa (1969), (dịch và bình), Tình hình kinh tế Đơng Dương (1900-1939) và kế
hoạch tái thiết, trang bị canh tân Đơng Dương, Nguyên tác của Ủy ban kế
hoạch Pháp.
23. Phan Khoang (1971), Việt Nam Pháp thuộc sử, Phủ quốc vụ khanh đặc trách văn
hĩa xuất bản, Sài Gịn.
24. Trịnh Như Kim (1972), Nền kinh tế Việt Nam dưới thời Pháp thuộc (1920- 1930),
Luận văn cao học sử Đại học Vạn Hạnh.
25. Lê Linh (1961), “Lịch sử các đồn điền cao su thuộc miền đất đỏ Bình Long”,
Tuần sang phịng thương mãi Sài Gịn,(số 186-187), tr. 28-29.
26. Đinh Xuân Lâm (1998), chủ biên, Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 2), Nxb Giáo
Dục.
27. Huỳnh Lứa (1987) chủ biên, Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, Nxb Tp.HCM.
28. Huỳnh Lứa (1993) chủ biên, Lịch sử phong trào cơng nhân cao su Việt Nam
(1906-1990), Nxb Trẻ Tp.HCM.
29. Huỳnh Minh (1970), Vũng Tàu xưa và nay, Sài Gịn.
30. Huỳnh Minh (1972), Tây Ninh xưa và nay, Sài Gịn.
31. Đỗ Văn Minh (1971), Vấn đề cao su Việt Nam, Luận văn cao học Quốc gia hành
chính Sài Gịn.
32. Đỗ Ngọc Nam (1991), Tìm hiểu phong trào đấu tranh của cơng nhân cao su Sơng
Bé (1930-1975), Tiểu luận cao học sử, Viện khoa học xã hội tại Tp.HCM.
33. Sơn Nam (1994), Lịch sử khẩn hoang Miền Nam, Nxb Văn Nghệ Tp.HCM.
34. Thành Nam (1982), Phong trào đấu tranh cách mạng của cơng nhân cao su Miền
Đơng Nam Bộ, Nxb Lao Động, Hà Nội.
35. Nguyễn Phong (1963), Tư bản Pháp và vấn đề cao su ở Miền Nam Việt Nam,
Nxb Khoa Học, Hà Nội.
36. Nguyễn Phan Quang (1998), Gĩp thêm tư liệu Sài Gịn – Gia Định từ 1859-1945,
Nxb Trẻ, Tp.HCM.
37. Dương Kinh Quốc (1999), Việt Nam những sự kiện lịch sử (1858-1918), Nxb
Giáo Dục.
38. Quốc sử quán triều Nguyễn (1959), Đại Nam nhất thống chí , bản dịch Tu Trai
Nguyễn Tạo, Nha văn hĩa Bộ quốc gia giáo dục xuất bản.
39. Quốc sử quán triều Nguyễn (1962), Đại Nam thực lục, Nxb KHXH, Hà Nội.
40. Võ Văn Sen (1996), Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Miền Nam Việt Nam
(1954-1975), Nxb Tp.HCM.
41. Vũ Thái (1999), Địa Lý kinh tế Việt Nam, Nxb Giáo Dục.
42. Lưu Huỳnh Thống (1991) “Lịch sử đấu tranh cách mạng Sơng Bé (1920 -
1945)”, trong Địa chí Sơng Bé, nhà xuất bản Tổng hợp Sơng Bé, tr 395- 560.
43. Tạ Thị Thúy (1996), đồn điền của người Pháp ở Bắc Kỳ 1884-1918, Nxb Thế
Giới.
44. Tạ Thị Thúy (2001), Việc nhượng đất khẩn hoang ở Bắc Kỳ từ 1919-
1945, Nxb Thế Giới.
45. Trần Toản (1991), Sự hình thành và phát triển của đội ngũ cơng nhân cao su
Đồng Nai qua các thời kì lịch sử (1906-1991), luận án tiến sĩ khoa học lịch
sử, Viện khoa học xã hội tại Tp.HCM.
46. Nguyễn Viết Trân (1985), Những chặng đường đấu tranh cách mạng của cơng
nhân cao su Đồng Nai, Cơng ty cao su Đồng Nai xuất bản.
47. Nguyễn Hải Trừng (1955), Địa ngục cao su, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
48. Nguyễn Thị Mộng Tuyền (2002), Phong trào đấu tranh của cơng nhân Thủ Dầu
Một trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb Lao Động.
49.Nguyễn Đình Tư (1998), “Nguyễn Hữu Cảnh với sự sắp đặt nền hành chính tại
Đồng Nai – Gia Định”, Tạp chí xưa và nay, số 51B, tr.15-16.
50. Đặng Văn Vinh (2000), 100 năm cao su ở Việt Nam, Nxb Nơng Nghiệp.
51. Phạm Thành Vinh (1957), Kinh tế Miền Nam, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
Tài liệu lưu trữ (TTLT Quốc gia II tại Tp.HCM).
52. Comité intenational de règlementation du caoutchouc (1934-1936), ký hiệu hồ
sơ: Goucoch - VIA.8/255(6).
53. Liste des plantations d hévéas existant en cochinchine en 1929-1930 et 1930-
1931, ký hiệu hồ sơ: Goucoch - VIA.8/255 (10-11).
54. Rensignements sur les plantation d hévéas en cochinchine en 1933-1935, ký hiệu
hồ sơ: Goucoch - VIA.8/255(8-9)
55. Renseignement sur les plantations d hévéas – Dossier de principe 1923-
1940, ký hiệu hồ sơ: Goucoch – III 59/N 38 (9)
56. Renseignment statistique sur le caoutchouc 1938, ký hiệu hồ sơ: Goucoch –
III 59/N33 (14)
57. Statistiques du caoutchouc (1931-1935), ký hiệu hồ sơ: Goucoch – VIA.8/255
(22).
PHỤ LỤC
1. Chú thích:
1. Lãn cơng: cùng nhau cố tình làm việc chay lười, đây là một hình thức đấu
tranh địi quyền lợi của cơng nhân.
2. Cây ghép (cao su): gắn một mắt cây từ cao su cao sản vào một cây cao su khác
để mắt đĩ sống trên cây ấy.
3. Kêu nài: xin, nài bằng những lời nĩi đi nĩi lại nhiều lần.
4. Giao kèo: là hợp đồng được hai bên cam kết với nhau.
Phụ lục 1: Danh sách các đồn điền cao su ( tính đến năm 1911)
STT
Tên các cơng ty hay chủ đồn
điền
Diện
tích
đồn
điền
(ha)
Trồng trọt
(1/1/1911)
(ha)
Số cây
trồng đến
ngày
(1/1/1911)
Dự kiến Tính chất đất
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
Acoli
Cơng ty Bà Rịa Fraisard
Cơng ty cao su Đơng Dương
Đồn điền Courtenay
Denis Frèr
Lê Phát Tân
Veillet và Bonnefoy
Cơng ty suzannah
Cơng ty nơng nghiệp Thành Tuy
Hạ
Cơng ty Bình Trước
Charrousset
Crémazy
Dupuy
Cơng ty Pháp nghiên cứu và
kinh doanh
D. Hangouwart
Cơng ty cao su Xuân Lộc
Ippolito
Issaverdeno
1.500
2.457
1.500
4.000
1.296
450
1.000
3.316
3.200
500
600
2.050
1.900
6.000
120
1.850
1.000
671
-
-
-
300
100
140
450
20
20
50
-
150.000
30.000
56.000
192.000
7.000
5.000
17.000
300.000
-
300.000
1.000.000
200.000
400.000
600.000
150.000
200.000
200.000
50.000
100.000
Đất đỏ
-nt-
đất sét lẫn cát
đất đỏ
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
Lachenal
Messner
Paynot
Cơng ty An Lộc
Cơng ty Đồng Nai
Cơng ty Granham
Cơng ty cao su Nam Kỳ
De la Souchère
Audoin
Bếc, Mu-ê và cơng ty
Blot và Lefevre
Bussy
Canavaggio
Chaptal
Ê-ti-văng
Fa-rơ-vơ
Ferriere
Forterre
A. Lecoeur
Matard guyonnet
Maurice
Mercier-Richasson
Muller Vinson
Paris Guery
Belland
Renoux
L.Rousseau
Cơng ty Tây Ninh
Cơng ty Vĩnh Phước
Cơng ty vơ danh Phú Quốc
Jusset Delamance
Đồn điền cao su Đơng Dương
Đồn điền Xã Trạch
60
550
225
2.300
140
450
2.000
820
45
1.100
25
50
30
250
64
20
25
60
120
1.200
32
37
434
675
90
600
66
360
500
2.680
1.350
10.300
1.200
12
75
100
20
130
150
25
280
11
50
15
62
15
25
60
80
200
21
5
675
90
66
220
220
300
350
550
4.200
30.000
45.000
5.000
45.000
50.000
10.000
80.000
2.400
20.000
5.500
25.000
6.000
11.000
22.000
20.000
95.000
12.000
2.000
200.000
30.000
22.000
66.000
70.000
75.000
150.000
200.000
25.000
100.000
50.000
150.000
65.000
50.000
200.000
100.000
200.000
20.000
10.000
15.000
150.000
25.000
10.000
12.000
22.000
40.000
200.000
16.000
13.000
100.000
200.000
30.000
50.000
22.000
120.000
200.000
100.000
300.000
2.000.000
200.000
-nt-
nt
nt
đất sét lẫn cát
nt
nt
nt
nt
nt
nt
nt
nt
nt
nt
nt
nt
nt
nt
nt
nt
nt
nt
nt
nt
nt
đất đỏ và đất
sét lẫn cát
đất sét lẫn cát
nt
nt
nt
nt
đất đỏ
nt
Tổng cộng 61.268 4887 1760100 8.295.000
Nguồn: [35, tr.95]
Phụ lục 2
Báo cáo tình hình đồn điền cao su ở các tỉnh Miền Đơng Nam
Kỳ năm 1938
Phụ lục 3
Một số hình ảnh về hoạt động đồn điền cao su
ở Miền Đơng Nam Kỳ thời Pháp thuộc
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7252.pdf