LỜI MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn phát triển như hiện nay của nền kinh tế thế giới, dưới sự tác động của cách mạng khoa học công nghệ, sự cạnh tranh diễn ra dưới nhiều hình thức và trong mọi lĩnh vực khác nhau. Để có thể tồn tại và phát triển lâu dài các doanh nghiệp cần phải đổi mới phương pháp quản lý, đổi mới phương pháp phương pháp sản xuất kinh doanh, quy trình công nghệ, phải áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất kinh doanh. Một vấn đề quan trọng cần đề cập tới chính
54 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1338 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Lí luận chung về cổ phần hoá doanh nghiệp thương mại Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là cổ phần hoá. Nhất là đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay - nền kinh tế trẻ đang phát triển với tốc độ nhanh, vừa gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO - cổ phần hoá là giải pháp tốt nhất giúp các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn, năng động hơn, có thể giúp họ giành lợi thế trong quá trình cạnh tranh với các đối thủ. Trong cổ phần hoá chúng ta cần phải quan tâm đến vấn đề sau cổ phần hoá : tìm hiểu những nguyên nhân, đưa ra cách khắc phục những hạn chế đang tồn tại sau khi cổ phần hoá để có thể áp dụng cổ phần hoá rộng rãi và hiệu quả nhất
Đề tài nghiên cứu này gồm 3 phần:
+ Chương I: Lý luận chung về cổ phần hoá doanh nghiệp thương mại nhà nước ( TMNN )
+Chương II: Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp TMNN và những vấn đề tồn tại sau cổ phần hoá
+ Chương III: Giải pháp khắc phục những tồn tại sau cổ phần hoá các doanh nghiệp TMNN
Chương I - Lí luận chung về cổ phần hoá doanh nghiệp thương mại Nhà nước
1.1 - Những vấn đề chung về doanh nghiệp Nhà nước (DNNN)
1.1.1 - Đặc điểm DNNN
DNNN được định nghĩa theo nhiều các cách khác nhau ở các nước khác nhau do cách tiếp cận khác nhau về khoa học.
Khái niệm DNNN trong hệ thống pháp luật Việt Nam thay đổi qua nhiều thời kỳ, tương ứng với sự thay đổi đối với sở hữu Nhà nước, thay đổi trong cơ chế quản lý. Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung (1960 – 1986), các tổ chức kinh tế tồn tại dưới dạng các xí nghiệp quốc doanh (chủ yếu là lĩnh vực sản xuất công nghiệp) các nông trường quốc doanh (trong lĩnh vực nông nghiệp) và các công ty (chủ yếu trong lĩnh vực thương mại), khái niệm DNNN chưa xuất hiện mà chỉ có khái niệm về xí nghiệp công nghiệp quốc doanh hay xí nghiệp thương mại quốc doanh. Khái niệm đó chỉ chủ yếu nhấn rõ vào vai trò lãnh đạo, vị trí then chốt của các tổ chức kinh tế Nhà nước.
Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì cách tiếp cận thành phần kinh tế Nhà nước, sự nhìn nhận về thành phần kinh tế quốc dân cũng có nhiều thay đổi . Mặt khác, để doanh nghiệp Nhà nước có thể hoạt động hiệu quả, cần phải có một cơ sở pháp lý vững chắc hơn cho loại hình doanh nghiệp có vài trò chủ đạo trong nền kinh tế nước ta hiện nay.
Theo luật DNNN năm 1995, DNNN được định nghĩa như sau: “ DNNN là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước giao ”. DNNN có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý.
DNNN do Nhà nước đầu tư, thành lập và quản lý điều hành. Điều này có nghĩa là pháp luật Việt Nam hiện hành xuất phát từ tiêu chí sở hữu tuyệt đối và DNNN được coi là hoàn toàn thuộc sở hữu Nhà nước.
Dưới tác động của cạnh tranh và dưới tác động của nhu cầu phúc lợi xã hội, an ninh quốc phòng thì DNNN được phân chia thành DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động công ích. Sự phân loại này có tác dụng trong việc hình thành sự bình đẳng giữa DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động công ích.
1.1.2 - Vai trò của DNNN
DNNN có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế ở nước ta. Trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung thì đây là thành phần không thể thiếu; nó chi phối toàn bộ, tác động tới các hoạt động hay quá trình, sự phát triển của các thành phần kinh tế khác. Nhưng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung có nhiều những sai sót và tồn tại, vì thế sự thay thế của nền kinh tế thị trường là một tất yếu nhưng không vì thế mà ta bác bỏ vai trò thành phần kinh tế Nhà nước, mà ngược lại ta phải thay đổi thành phần kinh tế này cho phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường. Vai trò của thành phần kinh tế Nhà nước được khẳng định, được chứng minh hơn 10 năm qua.Nền kinh tế Nhà nước đã hình thành và phát triển đồng bộ hơn, các cơ chế chính sách quản lý tài chính đối với DNNN ngày càng được đổi mới, dần dần hoàn thiện hơn về mọi khía cạnh góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội.
Thông qua DNNN, Nhà nước có thể điều tiết được nền kinh tế theo định hướng XHCN, hướng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển không bị chệch hướng. Vì vậy, nếu không giữ một lực lượng kinh tế Nhà nước hùng mạnh giữ vai trò phân phối một bộ phận tài nguyên quốc gia và ổn định nền kinh tế thì hệ thống kinh tế đất nước khó có thể vận động hài hoà được và khó điều chỉnh kinh tế xã hội theo định hướng .
Bên cạnh đó, DNNN còn có vai trò quan trọng đối với đời sống xã hội, người lao động. Việc phân phối thu nhập của DNNN đã thể hiện sự nhìn nhận và đánh giá đúng mức hơn quyền tự chủ của doanh nghiệp trong phân phối lợi nhuận sau thuế; chính sách tiền lương cũng có sự biến đổi, khi đó thu nhập của người lao động được tăng lên qua đó cải thiện đời sống của mình.
Như vậy, DNNN có vai trò, ý nghĩa đối với nền kinh tế đất nước chúng ta đặc biệt là trong giai đoạn phát triển như hiện nay.
1.1.3 - Doanh nghiệp thương mại Nhà nước (Doanh nghiệp TMNN)
Doanh nghiệp Thương mại Nhà nước - theo điều luật DNNN năm 2003 có hiệu lực từ 1/7/2004 - “là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối được tổ chức dưới hình thức công ty Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn”.
Doanh nghiệp TMNN có thể chia ra các hình thức tổ chức như sau:
Công ty Nhà nước (doanh nghiệp TMNN)
Doanh nghiệp thương mại tập thể
Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần
Công ty tư nhân
Công ty liên doanh với Nhà nước
Trong đó, doanh nghiệp TMNN giữ vị trí quan trọng, có vai trò chi phối thị trường trên các lĩnh vực: bán buôn, trung tâm dự trữ cho các mặt hàng thuộc nhu cầu cơ bản và thiết yếu nhất… Các doanh nghiệp thương mại thuộc các thành phần khác cùng tồn tại trên thị trường, tạo ra thế cạnh tranh sống động và là động lực quan trọng cho sự phát triển của thị trường, phát triển kinh tế xã hội. Sự cạnh tranh này vừa hướng tới sự liên kết giữa nhà kinh doanh, vừa tạo ra cơ sở cho sự hoàn thiện các hoạt động nhằm nâng cao chất lượng phục vụ nhu cầu tiêu dùng và lành mạnh hoá các quan hệ thị trường. Đây là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta đã được thực tế 15 năm thực hiện đổi mới khẳng định.
Trong quá trình chuyển đổi, thực tế đã cho thấy các doanh nghiệp TMNN đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc giữ vững sự ổn định của thị trường trong nước, tạo ra động lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp thương mại thuộc thành phần kinh tế khác. Nhờ sự tồn tại và đổi mới phương thức kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước mà đời sống của nhân dân được bảo đảm, các cân đối lớn của nền kinh tế được giữ vững, thị trường trong nước thông suốt.
Vai trò của doanh nghiệp TMNN được khái quát lại như sau:
Một là, góp phần điều hoà cung cầu, bình ổn giá cả thị trường
Hai là, mở đường vào các thị trường mới trong và ngoài nước giúp các doanh nghiệp, các hộ sản xuất gia đình và cá thể tiêu thụ sản phẩm
Ba là, đi đầu làm gương, chấp hành luật pháp, thúc đẩy các thành phần kinh tế thực hiện văn minh thương nghiệp, phục vụ người tiêu dùng.
1.2- Cổ phần hoá các Doanh nghiệp TMNN
1.2.1- Khái niệm cổ phần hoá
So với các hình thức sở hữu khác trong khuôn khổ của kinh tế thị trường, hình thái CPH ra đời muộn hơn cả. Điều đó tự nó hàm nghĩa rằng, sự ra đời của hình thái CPH phải dựa trên những tiền đề vật chất và thiết chế kinh tế nhất định. Đó là sự phát triển ở mức độ cao của sức sản xuất xã hội cũng như mức độ hoàn thiện cơ chế của các quan hệ hàng hoá - tiền tệ tương ứng với nó. Các bước phát triển của các hình thái sở hữu cho đến nay: từ hình thái kinh doanh một chủ phát triển lên hình thái kinh doanh vốn (hình thái kinh doanh hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ và hình thái của công ty chung vốn của các nhà tư bản) và cuối cùng là hình thái công ty cổ phần. Các bước phát triển trên cũng diễn ra một cách tương tự về phương diện lịch sử tuy rằng giữa các bước chuyển tiếp của các giai đoạn không hề có một ranh giới rạch ròi nào cả (do sự phát triển không đồng đều giữa các nền kinh tế cũng như giữa các lĩnh vực khác nhau của mỗi nền kinh tế ),song điều đặc biệt là càng ở những nền kinh tế có trình độ phát triển cao thì vai trò CPH càng lớn, ở những nền kinh tế này, tuy số lượng những công ty cổ phần nhỏ hơn rất nhiều so với các loại hình công ty khác nhưng nó lại chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn.
Từ đó ta có các khái niệm CPH là:
Cổ phần hoá DNNN là việc chuyển một phần sở hữu DNNN sang sở hữu hỗn hợp (sở hữu của các cổ đông thuộc các thành phần kinh tế) nhằm mục đích huy động mọi nguồn vốn của tất cả các thành phần kinh tế, phát huy tính tự chủ của người lao động để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp. Thực ra thì CPH là một quá trình thực hiện xã hội hoá sở hữu DNNN, tức là chuyển doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu Nhà nước sang doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu với mục tiêu đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển cả doanh nghiệp theo sự phát triển của nền kinh tế - xã hội nói chung. Vì thế, nói đến CPH doanh nghiệp TMNN thì cũng chính là một bộ phận của DNNN khi thực hiện CPH.
Khi chuyển đổi quyền sở hữu thì nó không phải chỉ là tên gọi mà được chuyển đổi về các mặt sau:
Thứ nhất, đó là chuyển quyền sở hữu từ một chủ sở hữu sang nhiều chủ sở hữu kéo theo thay đổi về quyền quản lý và sử dụng doanh nghiệp và vì thế mới tạo nên được mối liên kết tài sản và vốn của doanh nghiệp, là điều kiện cơ bản đảm bảo quyền làm chủ của người tham gia góp vốn nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, là sự thay đổi về các mối quan hệ trong tổ chức: hội đồng quản trị, bộ máy điều hành, ban kiểm soát và đại hội cổ đông
Thứ ba, mối quan hệ quản lý của Nhà nước với doanh nghiệp cũng thay đổi doanh nghiệp từ chỗ bị chi phối toàn bộ bởi Nhà nước chuyển sang được mở rộng quyền tự chủ và đề cao trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh hơn.
1.2.2 - Sự cần thiết của cổ phần hoá Doanh nghiệp TMNN
Với điều kiện của đất nước ta như hiện nay, khi chuyển đổi từ mô hình kinh tế có tỷ lệ doanh nghiệp Nhà nước rất cao nhưng hiệu quả kinh tế xã hội rất thấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN,CPH một bộ phận DNNN là một bước tất yếu, đặc biệt các DNTM hiện nay hoạt động rất phát triển, DNTM có vai trò quan trọng góp phần vào sự phát triển của đất nước. Vì thế, cổ phần hoá DNTM NN là việc cần làm thiết yếu, không chỉ vì mục tiêu thoát khỏi tình trạng năng suất thấp mà còn có vì sự phát triển của kinh tế - xã hội trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Sự đóng góp này của CPH được thể hiện ở chỗ nó làm tăng vốn, tăng lợi nhuận, giảm nợ xấu, chia sẻ rủi ro cho các chủ sở hữu riêng lẻ, tạo động lực cho người lao động, tạo sức mạnh kinh tế giúp giải quyết vấn đề xã hội và môi trường. Sự cần thiết phải CPH doanh nghiệp TMNN được biểu hiện ở những khía cạnh sau:
Cổ phần hoá là giải pháp nhằm huy động các nguồn lực trong và ngoài nước vào sự phát triển kinh tế.
Những năm gần đây nhất, vấn đề vốn rất cần thiết đối với các doanh nghiệp, đặc biệt sau 1 năm gia nhập tổ chức thương mại Thế giới (WTO) thì nguồn vốn mà doanh nghiệp huy động càng tăng lên, mà sự thật thì nguồn vốn trong dân cư chưa được đáp ứng nhu cầu phát triển của thị trường.
Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay huy động vốn chủ yếu là vốn tín dụng nhưng hầu hết vốn tín dụng là ngắn hạn, vốn tín dụng trung hạn và vốn tín dụng dài hạn là rất nhỏ bé, hạn hẹp nên không đáp ứng ngay cho các doanh nghiệp. Ngược lại các doanh nghiệp gặp phải nhiều khó khăn, có khi còn không vay được từ các Ngân hàng làm cho doanh nghiệp không phát triển hết khả năng của mình. Chính vì vậy, việc chuyển đổi các doanh nghiệp TMNN thành công ty cổ phần là điều kiện thiết yếu, là ưu điểm trong việc huy động vốn. Ở đây, các công ty cổ phần không phân biệt nguồn vốn nhỏ hay lớn mà thu hút tất cả các nguồn vốn có thể huy động được. Mặt khác, vai trò của công ty cổ phần trong việc huy động vốn sẽ được nâng cao khi phát triển thị trường chứng khoán. Khi đó công ty có khả năng phát huy năng lực được tốt hơn, hoạt động hiệu quả hơn, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Cổ phần hoá làm thay đổi trong quản lý
Khi CPH thì sự chuyển đổi doanh nghiệp TMNN sang công ty cổ phần thì không chỉ thay đổi về mặt sở hữu mà nó còn kéo theo sự thay đổi cách quản lý, phương pháp quản lý của cán bộ. Đối với doanh nghiệp thì cổ đông được thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua việc lựa chọn hay quyền quyết định những vấn đề liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh. Vì vậy, CPH đòi hỏi đội ngũ cán bộ quản lý công ty phải nâng cao năng lực, trình độ và bản lĩnh kinh doanh. Bộ máy quản lý tổ chức được tinh giản, gọn nhẹ và có hiệu quả hơn.
Nhà nước không thể tác động trực tiếp đến doanh nghiệp với tư cách là người chủ sở hữu của doanh nghiệp khi CPH. Do đó, Nhà nước sẽ phải quan tâm hơn tới việc xây dựng khuôn khổ pháp lý và tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng cho sự phát triển của mọi loại hình kinh tế.
Cổ phần hoá là điều kiện cho cổ đông thực hiện quyền làm chủ đối với doanh nghiệp
Trước khi CPH doanh nghiệp TMNN, toàn bộ tài sản và vốn mặc dù thuộc sở hữu tập thể, người lao động là người làm chủ nhưng thực tế thì không được như vậy. Ngược lại khi CPH, thì vốn và tài sản thuộc cổ đông, người lao động trước đây bây giờ có trách nhiệm hơn và sở hữu một phần ở công ty. Điều này đã kích thích người lao động tham gia tích cực, nỗ lực cho công ty.
1.2.3 - Mục tiêu của cổ phần hoá:
Thứ nhất, góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp để sử dụng có hiệu quả hơn, tài sản của Nhà nước mới và của doanh nghiệp.
Thứ hai, huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm của các cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ phát triển doanh nghiệp.
Thứ ba, phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của các cổ đông, tăng cường sự giám sát của nhà đầu tư với doanh nghệp, bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động .
1.2.4 - Ý nghĩa của cổ phần hoá các doanh nghiệp TMNN
Cổ phần hoá có vai trò to lớn đối với sự phát triển của các DNNN nói chung, doanh nghiệp TMNN nói riêng, người lao động, sự ổn định và phát triển của nền kinh tế của các nước mới chuyển đổi
- Đối với Nhà nước và nền kinh tế: xuất phát từ mục tiêu xoá bỏ bao cấp hay là cắt giảm gánh nặng tài chính gây áp lực bội chi ngân sách Nhà nước, CPH doanh nghiệp TMNN góp phần củng cố tiềm lực tài chính Nhà nước và trên cơ sở đó, nâng cao khả năng thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước đối với nền kinh tế
Khi chuyển đổi nền kinh tế và thực hiện CPH, nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất – kinh doanh và đầu tư phát triển của các doanh nghiệp TMNN sẽ được đáp ứng bởi thị trường tài chính. Phần vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước cho các doanh nghiệp trước đây sẽ được tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm của Nhà nước là do ổn định và tăng trưởng nền kinh tế. Thực hiện tốt về tiến độ và chất lượng CPH, vốn, tài sản Nhà nước không chỉ được bảo toàn mà còn tăng lên đáng kể do thu hút được lượng vốn đầu tư trong xã hội. Hơn nữa, sau khi chuyển sang công ty cổ phần các doanh nghiệp sau cổ phần hoá sẽ hoạt động ngày càng hiệu quả hơn, làm tăng giá trị phần vốn sở hữu và doanh thu thuế cho Nhà nước. Như vậy cổ phần hoá còn góp phần vào việc củng cố tiềm lực tài chính Nhà nước; trên cơ sở đố góp phần nâng cao hiệu quả của việc thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước đối với nền kinh tế.
Cổ phần hoá doanh nghiệp TMNN thúc đẩy sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán. Có thể thấy rõ là CPH và sự phát triển thị trường chứng khoán có mối quan hệ với nhau.CPH tạo ra hàng hoá và cầu về vốn, ngược lại sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán làm tăng tính thanh khoản của chứng khoán – các công cụ huy động và tăng vốn cho các doanh nghiệp sau CPH. Nhờ đó tiến trình CPH doanh nghiệp TMNN được thúc đẩy cả về chất lượng và số lượng.
Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp TMNN xét về mặt thực chất là một mặt của quá trình thị trường hoá nền kinh tế và nâng cao mức cạnh tranh của nền kinh tế. Không còn sự bao cấp của nhà nước và các yếu tố đầu vào cũng như đầu ra của sản phẩm. Doanh nghiệp sẽ tiến hành sản xuất “ cái gì , cho ai và như thế nào” hoàn toàn do thị trường hướng dẫn và quyết định.Trong bối cảnh như vậy, áp lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng tăng và trở nên thực sự có ý nghĩa như là một kết quả tất yếu, quá trình dịch chuyển cơ cấu một cách tích cực sẽ diễn ra một cách thường xuyên và mức cạnh tranh của nền kinh tế sẽ không ngừng được củng cố.
- Đối với doanh nghiệp và người lao động sau CPH: các doanh nghiệp sau cổ phần hoá sẽ tạo điều kiện để người lao động thực sự làm chủ quá trình sản xuất kinh doanh, phát huy tính chủ động, tích cực và độc lập sáng tạo trong quản lý cũng như trong sản xuất kinh doanh. Kết hợp với đầu tư đổi mới công nghệ tiết kiệm chi phí sản xuất, năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm, lợi nhuận tăng lên, thu nhập và đời sống của người lao động trong doanh nghiệp tăng lên. CPH doanh nghiệp TMNN góp phần rất quan trọng vào việc thúc đẩy và củng cố hạch toán kinh tế, tạo ra động lực và sự quan tâm đến kết quả kinh doanh. Theo số liệu thống kê cho thấy, lợi ích của người lao động cũng là một ưu thế của CPH. Bởi vì ở đây, mối quan hệ chặt chẽ giữa người quản lý và người lao động ở doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện để tận dụng tốt hơn cơ sở vật chất và nguồn lực của doanh nghiệp, nâng cao tính tự chủ, phát huy tinh thần độc lập sáng tạo của người lao động trong kinh doanh. Từ đó, doanh nghiệp sau CPH sẽ khắc phục được những hiện tượng tiêu cực, vô trách nhiệm, lãng phí vốn là căn bệnh hết sức nghiêm trọng của các doanh nghiệp TMNN trước CPH.
1.3 - Các nhân tố ảnh hưởng đến cổ phần hoá doanh nghiệp TMNN
Sự hoạt động của mỗi doanh nghiệp sẽ không thể tránh khỏi sự tác động của các yếu tố bên ngoài hay bên trong doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp CPH cũng không loại trừ những yếu tố đó là môi trường tự nhiên, văn hoá, xã hội, chính trị, pháp luật… Ta xét những yếu tố ảnh hưởng sau:
1.3.1. Cơ chế chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp CPH
Trước hết, theo nghị định 64/2002/NĐ-CP, các doanh nghiệp CPH được Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để hoạt động kinh doanh như: được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp; được miễn lệ phí trước bạ đối với việc chuyển đổi sở hữu tài sản, được tiếp tục kinh doanh những ngành nghề đã đăng ký và miễn lệ phí cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; được duy trì các hợp đồng thuê; nhà cửa , vật kiến trúc hoặc ưu tiên mua bán lại theo giá thị trường tại thời điểm CPH để ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh; được hưởng các quyền sử dụng đất trong trường hợp giá trị doanh nghiệp CPH đã bao gồm cả giá trị quyền sử dụng đất; được tiếp tục vay vốn tại ngân hàng Thương mại, công ty tài chính, các tổ chức tín dụng khác của Nhà nước theo cơ chế và lãi suất đối với các DNNN…
Ngoài ra, theo nghị đinh số 41/2002/ NĐ – CP, Nhà nước sẽ thành lập Quỹ hỗ trợ lao động dôi dư để hỗ trợ người lao động khi bị mất việc làm hoặc nghỉ hưu sớm do thực hiện cơ cấu lại DNNN, quỹ này sẽ chịu trách nhiệm cấp kinh phí cho các doanh nghiệp, cơ quan BHXH, cơ sở dạy nghề cho lao động dôi dư và tổ chức được thành lập để giải quyết lao động dôi dư.
Với những ưu đãi từ phía Nhà nước dành cho doanh nghiệp trong những năm đầu sau khi CPH, các doanh nghiệp cổ phần hoá có điều kiện để đào tạo lại người lao động,… những ưu đãi này cũng là cơ hội để các doanh nghiệp CPH nâng cao vị thế trên thị trường
1.3.2. Chính sách ưu đãi đối với người lao động
Mọi hoạt động đều dẫn đến thành công không phải chỉ quyết định bởi các cán bộ quản lý điều hành mà còn phụ thuộc vào người lao động. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về cổ phần hoá doanh nghiệp TMNN là tạo điều kiện cho người lao động được tham gia mua cổ phần, khẳng định quyền làm chủ của mỗi thành viên góp vốn ở doanh nghiệp. Chỉ khi hoạt động trong công ty cổ phần, doanh nghiệp mới thực sự làm chủ được hưởng quyền lợi, lợi ích và cùng chia sẻ những khó khăn rủi ro trong phạm vi góp vốn của mình với công ty cổ phần đó, đây vừa là động lực vừa là áp lực khiến họ phải cố gắng hết mình với doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp, do trình độ nhận thức của người lao động còn nhiều hạn chế nên vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp là cần phải giúp người lao động nhận thức rõ về tầm quan trọng của CPH trong doanh nghiệp. Theo NĐ 64/2002/NĐ – CP, người lao động trong các doanh nghiệp CPH được mua cổ phần ưu đãi theo số năm làm việc của mình; người lao động nghèo được mua chịu CPH theo giá ưu đãi, được hoàn trả trong 8 năm đầu và trả dần tối đa trong 7 năm tiếp theo không phải chịu lãi suất; được tiếp tục tham gia và hưởng quyền lợi về BHXH theo quy định hiện hành, được giải quyết quyền lợi theo chế độ hiện hành khi đủ điều kiện hưu trí; được thanh toán trợ cấp mất việc thôi việc theo quy định của pháp luật.
1.3.3.Trình độ quản lý và điều hành của doanh nghiệp cổ phần hoá
Bên cạnh các cơ chế chính sách ưu đãi trên thì trình độ quản lý, bộ máy quản lý điều hành cũng có vai trò quan trọng không kém tất cả các hoạt động của doanh nghiệp như nhân sự, ra quyền kinh doanh, xây dựng chiến lược… đều phải thông qua ý kiến của nhà quản lý điều hành, chỉ cần một sai lệch rất nhỏ cũng có thể có ảnh hưởng lớn tới hoạt động của doanh nghiệp, thậm chí có thể phá sản.
Trong các công ty cổ phần như hiện nay thì bộ máy quản lý, điều hành gồm có: đại hội cổ đông, hội đồng quản trị, ban kiểm soát và bộ máy điều hành.
Đại hội cổ đông có quyền lực cao nhất và thường làm công việc là xây dựng chiến lược, phê duyệt kế hoạch phát triển doanh nghiệp. Ban kiểm soát thì kiểm soát các thành viên trong hội đồng, và kiểm soát các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với bộ máy điều hành có tổng giám đốc và quản trị viên cấp dưới được thiết lập rất gọn nhẹ sao cho có hiệu quả nhất.
Không phải tất cả đều đi vào hoạt động một cách trôi chảy mà nó còn có những hạn chế nhất định, ví dụ như không thống nhất giữa các ý kiến, giữa các chủ sở hữu, nhất là đại diện chủ sở hữu nhà nước.
Chương II. Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp thương mại nhà nước và những vấn đề tồn tại sau cổ phần hoá
2.1 - Khái quát chung về cổ phần hoá doanh nghiệp TMNN
2.1.1 - Tình hình cổ phần hoá DNNN
Vấn đề lớn được đặt ra trong thời kỳ đổi mới là phải phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất. Từ đó, tất yếu phải phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nhiều thành phần, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường và xây dựng thể chế kinh tế thị trường, đa dạng hoá các hình thức sở hữu, trong đó kinh tế Nhà nước chiếm vai trò chủ đạo. Và Đảng ta lựa chọn cổ phần hoá như một phương thức hiệu quả để đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước như các Nghị quyết 3 và Nghị quyết 9 của ban chấp hành trung ương khoá IX đã chỉ rõ. Cổ phần hoá DNNN là một trong những hướng quan trọng của quá trình cải cách DNNN, là một bộ phận không thể thiếu trong thành phần kinh tế Nhà nước.
Tiến trình cổ phần hoá DNNN đã thu được những thành tựu đáng kể biểu hiện qua những năm 2001 – 2005 như sau:
Số DNNN đã CPH đã trở thành công ty cổ phần có vốn Nhà nước khá nhanh cả về số lượng công ty, năng lực vốn, lao động, tài sản và kết quả hoạt động. Như số liệu điều tra của tổng cục thống kê từ năm 2000 cho thấy, từ số lượng công ty có vốn Nhà nước chỉ có 305 doanh nghiệp năm 2000 đã lên 470 doanh nghiệp năm 2001, tăng 54,1 %, lên 557 doanh nghiệp năm 2002, tăng 18,7%; lên 669 doanh nghiệp trong năm 2003, tăng 19,9%; lên 815 doanh nghiệp năm 2004, tăng 21,8% và lên 1096 doanh nghiệp năm 2005, tăng 34,5%. Sau 5 năm đã tăng thêm 791 doanh nghiệp cổ phần có vốn Nhà nước, tăng gấp gần 3,6 lần, bình quân mỗi năm tăng 158 doanh nghiệp tương ứng với tốc độ bình quân là 29,8%. Và theo báo cáo “qua hơn 15 năm triển khai chủ trương cổ phần hoá DNNN đã đạt được những kết quả về kinh tế, chính trị, xã hội nhất định, tạo sự rõ ràng về quyền lợi và nghĩa vụ, trách nhiệm của từng thành phần sở hữu, từng cổ đông; xoá bỏ cơ chế phân phối bình quân; hình thành phương thức phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ góp vốn, giảm được sự can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của các cấp chính quyền, các cơ quan quản lý Nhà nước, tạo cơ chế quản lý, tự chịu trách nhiệm nhằm thúc đẩy doanh nghiệp năng động hơn; tạo cơ sở pháp lý và vật chất để người lao động xác lập và nâng cao vai trò làm chủ, gắn bó máu thit với doanh nghiệp”. Kết quả nổi bật của cổ phần hóa là năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Nhà nước được nâng lên rõ. Họ phải tìm kiếm cơ hội, đối tác kinh doanh,chủ động đổi mới công nghệ, tiết kiệm tối đa các chi phí để tăng doanh thu. Cổ phần hoá cũng đã huy động thêm vốn của xã hội đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh, tạo cơ hội việc làm cho người lao động. Dưới góc độ phân công lao động, trong xã hội cổ phần hoá đã thực sự giải phóng sức lao động từ chỗ đông mà không mạnh, ỷ lại, dựa dẫm, thụ động chuyển sang chủ động, tích cực hơn trong nền kinh tế nhiều thành phần với thái độ đầy đủ hơn, trách nhiệm hơn, góp phần tăng thu nhập cho xã hội, cho Nhà nước và cho người lao động.
2.1.2 - Cổ phần hoá doanh nghiệp TMNN
Có thể nói vị trí, vai trò của DNNN nói chung và doanh nghiệp TMNN nói riêng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được khẳng định về mặt lý luận và thực tiễn. Nó còn có ý nghĩa thúc đẩy phát triển nền kinh tế nước nhà. Trong thời gian qua có rất nhiều biến động trên thị trường, doanh nghiệp TMNN tuy có giảm về số lượng, nhưng nó thực sự đã tăng cường về chất, tạo được uy tín vững chắc trong xã hội, là chỗ dựa vững chắc, chủ yếu, quan trọng để Nhà nước thực hiện các chính sách trong lĩnh vực lưu thông phân phối. Qui mô số lượng doanh nghiệp Thương mại, dịch vụ Nhà nước năm vừa qua có sự giảm sút đó là do sự điều chỉnh hợp lý, phù hợp với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Nhà nước đã chủ trương đầu tư tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật, nhân lực nhằm để thúc đẩy các DNNN kinh doanh những mặt hàng thiết yếu nhằm đảm bảo cho DNNN giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động thương mại, đây là một trong những công cụ mà Nhà nước dùng để điều tiết cung cầu, ổn định giá cả, tạo ra thị trường được ổn định.
Doanh nghiệp TMNN chỉ nắm giữ những mặt hàng, và lĩnh vực quan trọng có vị trí chiến lược đối với đất nước và dân cư vì thế DNNN trung ương thời gian qua với tiềm lực kém, yếu hơn nên sự giảm sút khá mạnh: từ 1310 doanh nghiệp năm 1996 giảm còn 808 doanh nghiệp năm 2002. Điều này phản ánh một thực tế là các doanh nghiệp TW với tiềm lực về vốn, nhân sự lớn hơn và công nghệ kinh doanh tiến bộ hơn đã trụ vững và phát triển.
Cổ phần hoá doanh nghiệp TMNN vẫn luôn đảm bảo và cung cấp những mặt hàng thiết yếu mang tính chất chiến lược như xăng dầu, vật liệu xây dựng, lương thực thực phẩm thiếu yếu hoạt động xuất khẩu cũng như việc tìm kiếm thị trường hay ổn định giá cả. Như trong năm 2002 về hoạt động và điều tiết giá cả của lúa gạo ở đồng bằng sông Cửu Long, cà phê Tây Nguyên, cao su ở Đông Nam Bộ, xăng dầu, phân bón… đã chứng minh vai trò chủ đạo của doanh nghiệp TMNN. Tỷ trọng số DNNN trong lĩnh vực này chỉ còn 4,7% (TW 1,6%, địa phương 3,1% ) nhưng tỷ trọng mức lẻ hàng hoá và dịch vụ vẫn chiếm 18% của cả nước.
Đặc biệt ta thấy trong 2 năm gần đây thị trường luôn biến động giá cả tăng lên trông thấy qua từng ngày, từng giờ chứ không phải lên 1 năm hay 2 năm; vì thế mà vai trò của các doanh nghiệp TMNN ngày càng có ý nghĩa quan trọng hơn và quyết định đến sự phát triển của các doanh nghiệp khác, phát triển của nền kinh tế đất nước. Để phát huy hết khả năng tiềm lực mà bản thân DNNN có trong lĩnh vực này thì CPH là một trong những giải pháp để nâng cao vị trí vai trò đó.
2.2 - Những tác động tích cực của cổ phần hoá
2.2.1 - Cổ phần hoá với tăng trưởng kinh tế
Khu vực kinh tế Nhà nước góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự tăng trưởng kinh tế.CPH doanh nghiệp TMNN nói riêng và DNNN nói chung có tác dụng rất lớn đến việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng này.
Theo như báo cáo của ban chỉ đạo đổi mới và phát triển thì trên Thế giới nếu các nước có thành phần kinh tế công lớn thì tốc độ tăng trưởng không cao. Các nhà kinh tế phân tích cho thấy là ở Trung Quốc thì tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ cổ phần hoá tỷ lệ với nhau. Sở dĩ như vậy là khi CPH đã sàng lọc và đào thải những doanh nghiệp kém hiệu quả, tạo môi trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và động lực phát triển. Nguyên nhân của kinh doanh không hiệu quả là do quản lý yếu kém, bộ máy điều hành thiếu năng lực sáng tạo hoặc thiếu vốn.
Ở nước ta các doanh nghiệp sau CPH có tốc độ tăng trưởng khá tốt biểu hiện như: doanh nghiệp hoạt động tốt hơn, hiệu quả hơn, doanh thu thuần sản xuất kinh doanh của các công ty cổ phần có vốn Nhà nước được tăng lên trong giai đoạn 2001 – 2005 là từ 10.275 tỷ đồng vào năm 2000 lên 103.887 tỷ trong năm 2005. Sau 5 năm đã tăng thêm 93.572 tỷ đồng, bình quân mỗi năm tăng 18.718 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng chung trong 5 năm là 10,1 lần và bình quân mỗi năm tăng lên 61,1%. Chứng tỏ rằng các doanh nghiệp Nhà nước sau CPH năng lực sản xuất kinh doanh và kết quả sản xuất kinh doanh đã được tăng lên đáng kể. Nói chung sau khi CPH, hầu hết các doanh nghiệp đều sản xuất kinh doanh tốt hơn rất nhiều, doanh nghiệp được mở rộng sản xuất kinh doanh…
Khi nghiên cứu các doanh nghiệp hơn 1 năm sau CPH, có 850 doanh nghiệp thì cũng cho thấy là vốn điều lệ tăng bình quân là 44%, doanh thu bình quân tăng 23,6%, lợi nhuận thực hiện bình quân tăng 135,76%. Đặc biệt có tới trên 90% số doanh nghiệp sau CPH hoạt động kinh doanh có lãi, nộp ngân sách bình quân tăng 24,9%, thu nhập bình quân của người lao động tăng 12%, số lao động bình quân tăng 6,6%, cổ phần bình quân đạt 17,11%.
Do số doanh nghiệp cổ phần ngày càng tăng cao và số doanh nghiệp thương mại Nhà nước chưa CPH càng lớn từ 5,3% vào thời điểm cuối năm 2000 đã lên chiếm 26,8% đến thời điểm cuối năm 200._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TH2711.doc