Lập danh mục đầu tư các cổ phiếu ngành bất động sản trên Thị trường Việt Nam

Tài liệu Lập danh mục đầu tư các cổ phiếu ngành bất động sản trên Thị trường Việt Nam: ... Ebook Lập danh mục đầu tư các cổ phiếu ngành bất động sản trên Thị trường Việt Nam

doc83 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1416 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Lập danh mục đầu tư các cổ phiếu ngành bất động sản trên Thị trường Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Thị trường chứng khoán Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ và thu hút rất nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Các nhà đầu tư có thể là các cá nhân hay các tổ chức, và họ tham gia vào thị trường theo những cách tiếp cận khác nhau. Nhiều nhà đầu tư ưa thích rủi ro, nhiều nhà đầu tư e ngại rủi ro, có nhà đầu tư thụ động và chủ động. Tuy nhiên tất cả các nhà đầu tư cá nhân hay tổ chức đều với một mục tiêu là thu được lợi nhuận cao và với mức rủi ro thấp nhất. Trong thời gian hiện nay, với sự biến động của thị trường thì việc đầu tư cổ phiếu khá nhiều rủi ro. Vì vậy việc thiết lập một danh mục chứng khoán đầu tư là rất quan trọng. Mục đích củc việc đầu tư theo danh mục là giảm thiểu rủi ro bằng việc đa dạng hóa danh mục đầu tư. Dựa trên cơ sở các tài sản đầu tư, nhà đầu tư lập một danh mục đầu tư bao gồm các tài sản khác nhau. Trên nguyên tắc là “không bỏ trứng vào một giỏ”, các nhà đầu tư tạo ra một danh mục có rủi ro thấp nhất, đó là rủi ro của thị trường (rủi ro hệ thống). Khi đó, nhà đầu tư vẫn đạt được ở tại mức lợi nhuận kỳ vọng. Vì vậy, nhà đầu tư luôn cố gắng tạo ra một danh mục tối ưu. Với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế hiện nay đã mang đế cho thị trường bất động sản một vị thế mới, một diện mạo mới. Chính vì vậy mà trên thị trường chứng khoán hiện nay thì các cổ phiếu của ngành bất động sản đang khá được quan tâm và đầu tư với những tên tuổi có thương hiệu của các công ty bất động sản mạnh. Tuy nhiên với sự biến động chung của thì trường thì cổ phiếu bất động sản là loại cổ phiếu ”nhạy cảm” đầu tư vào các loại chứng khoán các công ty ngành bất động sản cũng mang lại nhiều rủi ro cho các nhà đầu tư. Tầm quan trọng đối với lập và quản lý danh mục đầu tư đối với nhà đầu tư chính là bí quyết để thành công. Vì vậy mà qua thời gian thực tập tại Công ty Chứng khoán APEC, và những thông tin tìm hiểu thêm cùng sự hướng dẫn của thầy Nguyễn Quang Dong em đã chọn đề tài “ Lập danh mục đầu tư các cổ phiếu ngành bất động sản trên thị trường Việt Nam” Chuyên đề gồm ba chương: Chương 1: Tổng quan về đầu tư chứng khoán và danh mục đầu tư chứng khoán và lý thuyết xây dựng danh mục đầu tư. Chương này bao gồm các kiến thức tổng quan về chứng khoán, thị trường chứng khoán, các kiến thức về đầu tư chứng khoán và lý thuyết xây dựng danh mục đầu tư Chương 2: Phân tích các chỉ số tài chính của các công ty trong danh mục đầu tư. Chương này bao gồm tóm tắt các chỉ số tài chính của các công ty, bảng số liệu các chỉ số tài chính đã được tính toán cho các công ty trong năm 2007. Chương 3: Xây dựng danh mục đầu tư của ngành bất động sản. Trong chương này em thực hiện xây dựng danh mục đầu tư cho cổ phiếu ngành Bất động sản. Để hoàn thành được đề tài này, em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Toán Kinh tế đã giúp đỡ em trong thời gian học tập và thực tập vừa qua. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Quang Dong đã hướng dẫn, chỉ bảo tận tình, giúp đỡ. Và trong thời gian thực tập qua, nhờ sự giúp đỡ của các anh chị cô chú trong Công ty chứng khoán APEC, em đã tìm hiểu được nhiều kiến thức và kinh nghiệm đầu tư thực tế của Công ty. Từ đó, em có cơ sở thực tiễn để thực hiện đề tài này. Vì vậy, em xin chân thành cảm ơn các anh chị, cô chú trong Công ty đã giúp đỡ em. CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN I. Tổng quan về thị trường chứng khoán 1. Khái niệm thì trường chứng khoán Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng trong thị trường Tài chính, là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các chứng khoán và các giấy tờ ghi nợ chung hoặc dài hạn thường từ một năm trở lên. Thị trường chứng khoán cũng chính là thị trường vốn mà mối quan hệ về giao lưu vốn dài hành trên TTCK được thể hiện tập trung bằng các hoạt động kinh doanh các loại chứng khoán đã được phát hành và đang lưu hành trên thị trường. Việc mua bán các loại chứng khoán này được diễn ra trên thị trường sơ cấp khi trao đổi các loại chứng khoán lần đầu được phát hành và ở thị trường trao đổi thứ cấp khi có sự mua bán lại các loại chứng khoán đã được phát hành trên thị trường thứ cấp. Như vậy xét về mặt hình thức thì thị trường chứng khoán chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán các loại chứng khoán, qua đó thay đổi các chủ thể nắm giữ chứng khoán. Nhưng xét về mặt bản chất thì: TTCK là nơi tập trung và phân phối các nguồn tiết kiệm. Tập trung các nguồn tiết kiệm để phân phối lại cho những người sử dụng sẵn sàng trả và theo phán doán của thì trường về khả năng sinh lời từ các dự án của người sử dụng. Chuyển tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. TTCK là định chế tài chính trực tiếp cả chủ thể cung và cầu đều tham gia vào thị trường một cách trực tiếp. TTCK thực chất là quá trình vận động của tư bản tiền tệ, là nơi mua bán các quyền sở hữu tư bản, là hình thức phát triển cao của nền sản xuất hàng hóa. Trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại và phát triển của TTCK là tất yếu khách quan. Hoạt động trên TTCK có tác động, hiệu ứng trực tiếp tới hiệu quả đầu tư của các cá nhân, của các doanh nghiệp và hành vi của người tiêu dùng, và tới động thái chung của toàn bộ nền kinh tế. Như vậy việc hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán là bước phát triển tất yếu của nền kinh tế thị trường. Việt Nam với nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường cùng với các bước phát triển để hội nhập cũng đòi hỏi phải hình thành và phát triển TTCK. Sự ra đời của TTCK Việt Nam đuợc đánh dấu bằng sự thành lập của Trung tâm Giao dịch chứng khoán tại thành phố Hồ Chính Minh (HoSTC) ngày 20/07/2000. Đến ngày 08/03/2005 sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội ra đời (HaSTC) đánh dấu sự phát triển nhanh chóng của TTCK Việt Nam. Đến nay, sau hơn 8 năm hoạt động tính đến 31/12/2007, trung tâm giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh đã có 141 loại cổ phiếu được niêm yết, hai quỹ đầu tư VFMVF1 và PRUBF1 và hơn 400 loại trái phiếu, với tổng giá trị hơn 80.000 tỷ đồng. Ngoài ra còn hơn 2000 công ty có cổ phiếu được trao đổi trên thị trường OTC. Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội cũng tham gia với 112 cổ phiếu. Theo thống kê về khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch trên thị trường thì năm 2007 là một năm khá thành công. Năm 2007 cũng là năm đánh dấu sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài. Tính cả trên thị trường không chính thức thì giá trị danh mục đầu tư của NĐTNN đạt gần 20 tỷ USD, tăng gấp 3 lần quy mô năm 2006. Ta có thống kê giao dịch trên 2 sàn chứng khoán như sau: 2006 2007 Tăng trưởng Vn-index 752 927.02 23.3% Tổng KLDG 643,281,249 2,008,535,798 2 lần Tổng GTGD 38,175,024,441 205,732,389,629 2.8 lần Hastc-index 242.89 323.55 33.2% Tổng KLGD 95,606,426 3,917,384,521 6 lần Tổng GTGD 3,917,384,521 63,422,391,065 15.8 lần 2. Chức năng của thị trường chứng khoán và phân loại thị trường 2.1. Chức năng cơ bản của thị trường chứng khoán Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán Đánh giá các hoạt động của doanh nghiệp Tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô 2.2. Phân loại thị trường 2.2.1. Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn Căn cứ vào sự luân chuyển các luồng vốn, TTCK được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp là thị trường mia bán các loại chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này, vốn từ các nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc các nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành. Vai trò của thị trường sơ cấp: + Chứng khoán hóa nguồn vốn cần huy động vốn của công ty được huy động qua việc phát hành chứng khoán. + Thực hiện quá trình chu chuyển tài chính, trực tiếp đưa các khoản tiền nhàn rỗi sang dạng vốn dài hạn. Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các loại chứng khoán đã phát hành trên thị trường sơ cấp. Thì trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành. 2.2.2. Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường, TTCK được phân thành thị trường tập trung (sở giao dịch chứng khoán ) và phi tập trung ( thị trường OTC) Sở giao dịch chứng khoán: Tại sở giao dịch chứng khoán các giao dịch tập trung tại một địa điểm, các lệnh được truyền tới sàn giao dịch và tham gia giao dịch và tham gia vào quá trịnh ghép lệnh để hình thành nên giá giao dịch. Thì trường OTC (Over the Counter market) : các giao dịch và sơ cấp và thứ cấp đều được diễn ra trên mạng lưới các công ty chứng khoán phân tán trên khắp quốc gia và được nối với nhau bằng mạng điện tử. Giá cả của thị trường này được hình thành theo phương thức thỏa thuận. Đối với thị trường thứ cấp, cấu trúc thị trường cơ bản đều được hình thành dựa trên cơ sở đấu giá và đấu lệnh. Trên thị trường đấu giá thì các nhà tạo dựng thị trường đưa ra gí đặt mua và giá chào bán các loại chứng khoán được ấn định của họ. Trên thị trường đấu lệnh, lệnh của các nhà đầu tư được ghép với nhau không có sự tham gia của các nhà tạo lập thị trường. 2.2.3. Căn cứ vào hàng hóa trên thị trường Căn cứ vào hàng hóa trên thị trường thì TTCK có thể phân thành: Thị trường cổ phiếu, Thị trường trái phiếu, Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh. Thị trường cổ phiếu là thì trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường, cô phiếu ưu đãi. Thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch và mua bán các laoij trái phiếu đã được phát hành bao gồm trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị, trái phiếu chính phủ. Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng khoán phái sinh đã được phát hành như việc mua bán các giấy tờ tài chính khác như: chứng quyền, quyền mua, hợp đồng quyền chọn. Đây là loại thị trương cao cấp chuyên giao dịch các loại chứng khoán cao cấp. 3. Hàng hóa của thị trường chứng khoán 3.1. Cổ phiếu Cổ phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu cổ phiếu đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần. Khi mua cổ phiếu những người đàu tư (các cổ đông) sẽ trở thành nhữn chủ sở hữu đối với các công ty. Mức độ sở hữu đó tùy thuộc vào tỷ lệ cổ phần mà cổ đông đó nắm giữ. Là chủ sở hữu, các cổ đông cùng nhau chia sẻ lợi nhuận cũng như tổn thất trong quá trình hoạt động của công ty, và chỉ nhận lại những gì còn lại sau khi thực hiện các khoản nghĩa vụ trong trường hợp công ty phá sản. Cổ phiếu là công cụ không có thời hạn. Theo tính chất của các quyền mà cổ phiếu mang lại cho cổ đông thì có 2 loại cổ phiếu cơ bản: Cổ phiếu phổ thông: là loại cổ phiếu mang lại cho người chủ sở hữu quyền hưởng cổ tức, quyền mua cổ phiếu mới và quyền bỏ phiếu. Cổ phiếu ưu đãi: là loại cổ phiếu dành cho cổ đông những ưu đãi so với cổ phiếu cổ đông phổ thông. Cổ phiếu là tài sản có tác dụng giảm biến động lợi tức của danh mục cao nhất do độ giao động của tài sản này không trùng khớp với chu kỳ hay thời gian với các loại tài sản khác. Vì thế cổ phiếu là loại tài sản được đầu tư phổ biến trên thị trường nhưng thu nhập có độ biến động cao nên đây là loại tài sản này cũng có rủi ro cao. Lợi ích của đầu tư cổ phiếu thông thường bao gồm: tính thanh khoản cao của cổ phiếu, nguồn tăng trưởng dài hạn, lợi ích về thuế. Rủi ro của nhà đầu tư trong đầu tư cổ phiếu bao gồm: cổ tức không ổn định, rủi ro phá sản công ty phát hành , các rủi ro về ngoại hối … 3.2. Trái phiếu Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền nhất định, thường là trong khoản thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn. Trái phiểu là một công cụ nợ đòi hỏi người phát hành hoàn trả cho người cho vay (người đầu tư) khối lượng vốn đã vay cộng với tiền lãi trong một khoản thời gian nhất định. Trái phiếu cũng là tài sản quan trọng thứ hai sau cổ phiếu trong việc xác định danh mục đầu tư. Đầu tư trong trái phiếu là loại đầu tư có tỷ lệ rủi ro thấp. Rủi ro trong đầu tư trái phiếu bao gồm rủi ro về lãi suất, kỳ hạn của trái phiếu, rủi ro ngoại hối, rủi ro tín dụng… Trái phiếu bao gồm: trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty, trái phiếu đảm bảo và trái phiếu không đảm bảo. 3.3. Chứng chỉ quỹ đầu tư Chứng chỉ quỹ đầu tư là quỹ hình thành từ vốn góp của nhà đầu tư để đầu tư vào chứng khoán. Việc huy động vốn vào quỹ đầu tư chứng khoán được thực hiện theo 2 cách là phát hành cổ phần ra công chúng hoặc phát hành dưới dạng chứng chỉ quỹ. 3.4. Chứng khoán có thể chuyển đổi Chứng khoán có thể chuyển đổi là các loại chứng khoán cho phép người nắm giữ nó, tùy theo lựa chọn và trong những điều kiện nhất định, có thể đổi nó lấy một chứng khoán khác. 3.5. Các loại chứng khoán phái sinh Có nhiều loại chứng khoán phái sinh như: Quyền mua cổ phần Chứng quyền Hợp đồng kỳ hạn Hợp đồng tương lai Quyền lựa chọn Chứng khoán là hàng hóa của thị trường chứng khoán và là tài sản chính vì nó mang lại thu nhập chính cho nhà đầu tư và khi cần thị có thể bán để thu tiền về. Theo sự phát triển của thị trường thì hàng hóa ngày càng đa dạng và phong phú. Trên thị trường chứng khoán hiện nay, phát triển mạnh nhất vẫn là thị trường cổ phiếu và trái phiếu. 4. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán Các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứng khoán có thể được chia thành các nhóm sau: nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan đến chứng khoán. 4.1.  Nhà phát hành Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán - hàng hoá của thị trường chứng khoán. - Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu Chính phủ và trái phiếu địa phương. - Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty. - Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu, chứng chỉ thụ hưởng... phục vụ cho hoạt động của họ. 4.2.  Nhà đầu tư Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức. - Các nhà đầu tư cá nhân. - Các nhà đầu tư có tổ chức. 4.3.  Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán - Công ty chứng khoán. - Quỹ đầu tư chứng khoán. -  Các trung gian tài chính. 4.4. Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán - Cơ quan quản lý Nhà nước. - Sở giao dịch chứng khoán. - Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán. - Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán. - Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán. - Các tổ chức tài trợ chứng khoán. - Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm... 5. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản 5.1. Nguyên tắc công khai Thị trường chứng khoán được xây dựng trên cơ sở hệ thống công bố thông tin tốt. Việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán phải thảo mãn các yêu cầu: Chính xác, kịp thời và dễ tiếp cận. Nguyên tắc công khai nhằm bảo vệ người đầu tư, song đồng thời cũng hàm chứa rằng, khi người đầu tư đã được cung cấp thông tin đầy đủ và kịp thơi và chính xác thì nhà đầu tư phải chịu trách nhiệm về các quyết định của mình. 5.2. Nguyên tắc trung gian Theo nguyên tắc này, trên thị trường chứng khoán, các giao dịch được thực hiện thông qua tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. 5.3. Nguyên tắc đấu giá Nguyên tắc đấu giá dựa trên mối quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định. Có các loại đấu giá: Đấu giá trực tiếp Đấu giá gián tiếp Đấu giá tự động Đấu giá định kỳ Đấu giá liên tục Khi thực hiện nguyên tắc đấu giá bao giờ cũng tuân theo các thứ tự ưu tiên về giá, về thời gian, về khác hàng và về quy mô. II. Phân tích chứng khoán Phân tích chứng khoán được nhà đầu tư tiến hành nhằm trả lời câu hỏi trước khi đưa ra quyết định đầu tư 1. Phân tích vĩ mô và thị trường chứng khoán 1.1. Môi trường chính trị - xã hội và pháp luật Đối với bất kỳ một quốc gia nào, môi trường xã hội và chính trị luôn có những tác động đến thị trường chứng khoán nước đó. Tình hình chính trị ảnh hưởng rất lớn đến thị trường chứng khoán. Các yếu tố chính trị bao gồm những thay đổi về chính phủ và các hệ thống chính trị. Thay đổi chính trị làm cho nhiều quy định và sự kiểm soát của chính phủ đối với một số ngành được thắt chặt và một số quy định trong các ngành khác được nới lõng. Chúng đều có tác động lớn tới kết quả kinh doanh của mỗi ngành, mỗi công ty. Môi trường pháp luật cũng là yếu tố cơ bản gây ra tavs động tới thị trường chứng khoán, các cơ quan Chính phủ tác động đến thị trường chứng khoán bằng luật. Như các quy định bằng giá cả, dịch vụ sẽ gây tác động trực tiếp đến các ngành dịch vụ công cộng. Luật chống độc quyền thường làm giảm giá chứng khoán của các công ty bị điều chỉnh bởi chính nó. Chính sách tiền tệ tín dụng của Ngân hàng trung ương có thể gây tác động to lớn tới thị trường. 1.2. Ảnh hưởng kinh tế vĩ mô Các điều kiện kinh tế vĩ mô sẽ quyết didnhj rủi ro chung của thị trường mà trong lý thuyết gọi là rủi ro hệ thống. Rủi ro này tác động đến toàn bộ thị trường, đến tất cả mọi chứng khoán mà bản thân doanh nghiệp hay từng ngành không thể tránh được. Đối với từng người đầu tư hay từng tổ chức phát hành thì đây được coi là rủi ro khách quan. Do các điều kiện kinh tế vĩ mô quyết định rủi ro hệ thống nên chúng sẽ quyết định xu thế đại thể của thu nhập trong đầu tư chứng khoán. Biến động của thị trường chứng khoán có mối liên quan chặt chẽ tới nền kinh tế vĩ mô. Như giá của hầu hết trái phiếu được quyết định bởi khung lãi suất của thị trường và khung lãi suất này lại bị tác động của các hoạt đọng kinh tế nói chung và chính sách lãi suất của ngân hàng trung ương. Nói cách khác chính sách tài chính – ngân hàng và chính sách tiền tệ cảu Chính phủ có ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế của một nước. Các điều kiện về kinh tế do các chính sách này tác động sẽ ảnh hưởng đến tất cả các ngành và các công ty trong nền kinh tế. Chính sách tài chính – ngân hàng như miễn giảm thuế có thể khuyến khích tiêu dùng, ngược lại các khoản thuế bổ sung đánh vào thu nhập, xăng dầu, thuốc lá và rượu thì có thể hạn chết tiêu dùng. TĂng hay giảm chi tiêu của Chính phủ cho quốc phòng , bảo hiểm thất nghiệp hoặc các chương trình đào tạo lại hay cho các xa lộ cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế nói chung. Hơn thế nữa, chi tiêu chính phủ có ảnh hưởng cấp số nhân rất mạnh. Chính sách tiền tệ cũng tạo ra những thay đổi tương tự. Một chính sách tiền tệ thắt chặt với tốc độ cung tiền giảm sẽ giảm việc cung cấp vốn lưu động và sẽ hạn chế việc mở rộng sản xuất kinh doanh đối với tát cả doanh nghiệp. Bên cạnh đó chính sách tiền tệ thắt chặt với lãi suất định trước có thể làm tăng lãi suất thị trường và do vậy chi phí của cấc công ty sẽ tăng. Phân tích một nền kinh tế nhất thiếp phải xem xét đến lãi suất và lạm phát. Lạm phát sẽ dẫn đến sự khác nhau giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực, thay đổi hành vì tiêu dùng và tiết kiệm cyar dân cư và doanh nghiệp. Như vậy, có nhiều yếu tố vĩ mô cơ bản tác động trực tiếp đến các hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), Việc làm Tỷ giá hối đoái Thâm hụt ngân sách Thái độ Cung ứng tiền tệ và tổng chi người tiêu dùng Lạm phát và lãi suất Chu trình kinh doanh 1.3. Dự đoán tình hình kinh tế và xu hướng thị trường Môi trường kinh tế vĩ mô quyết định xư hướng chung của thị trường chứng khoán. Thông thường nền kinh tế phát triển tốt, thị trường chứng khoán đi lên và ngược lại khi nền kinh tế vĩ mô sa sút, rõ nét nhất là trong khủng hoảng kinh tế, thì thị trường xuống. Như vậy nếu ta có thể dự đoán được xu thế phát triển của nền kinh tế thì sẽ dự đoán được xu thế phát triển chung cảu thì trường chứng khoán. Tuy nhiên thì vì nhiều lý di kahcs nhau thi không phải lúc nào quan hệ giữa tình hình kinh tế và diễn biến chung của thị trường chứng khoán là diễn ra cùng chiều. Biến động giá cổ phiếu đoi khi xảy ra trước biến động nền kinh tế. Vì vậy mà các nhà đầu tư luôn luôn cố gắn dự đoán tình hình kinh tế để tìm ra những đỉnh điểm của chu kỳ kinh tế để tim ra những đinihr điểm của chu kỳ kinh tế và chọn thời co tham gia hoặc rút khỏi thị trường chứng khoán. 2. Phân tích ngành. Các ngành có khả năng phản ứng khác nhau với những thay đổi kinh tế trong chu kỳ kinh doanh. Triển vọng của một ngành trong môi trường kinh tế quyết định kết quả mà mỗi công ty có thể đạt được vì vậy mà việc phân tích ngành diễn ra trước việc phân tích công ty. Quy trình phân tích: Xác định hệ số rủi ro β của ngành từ đó tính toán lợi suất yêu cầu theo công thức CAPM ( sẽ trình bày trong phần Lý thuyết danh mục. E(R) = Rf + β ( Rm – Rf ) Phân tích chỉ số P/E của toàn ngành. Ước tính thu nhập trên cổ phiếu EPS hay E (thu nhập) được thực hiện theo một phương pháp tính như phân tích chu kỳ kinh doanh, phân tích đầu vào - đầu ra, phân tích mối quan hệ giữa ngành và nền kinh tế tổng thể. Tính giá trị cuối kỳ cuả chỉ số ngành So sánh lợi suất đạt được r với lợi suất yêu cầu E(r) 3. Phân tích công ty 3.1. Phân tích báo cáo tài chính công ty 3.1.1. Báo cáo tài chính Do các báo cáo là cơ sở cho việc thực hiện hoạt động phân tích tài chính nên trước tiên chúng ta phải hiểu mọi nội dung mà báo cáo tài chính đưa ra. Các báo cáo tài chính bao gồm: Bảng cân đối kế toán ( Balance Sheet) Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh ( Income Statement ) Báo cáo lưu chuyển tiền tệ ( Cash Flow Statement ) Thuyết minh báo cáo tài chính ( Notes to Financial Statements) 3.1.2. Hệ số tài chính Dựa vào các số liệu của báo cáo tài chính ta có thể tính các hệ số quan trọng của công ty trong các năm. Các hệ số tài chính có thể cho chúng ta thấy tiềm năng phát triển cũng như điểm yếu của một công ty. Tuy nhiên thì những hệ số tài chính này cũng sẽ không đưa ra những câu trả lời xác định, nó cũng không đưa ra các dự đoán. Vì thế chúng ta cần thận trọng và chỉ sử dụng chúng vào những thời điểm thích hợp. Tức là cần phải sử dụng các hệ số này trong mối tương quan với các yếu tố và các phân tích khác. Các hệ số tài chính: Các hệ số về khả năng thanh toán Các hệ số về hiệu quả hoạt động Các hệ số về cơ cấu vốn Các hệ số về khả năng sinh lời 3.2. Phân tích rủi ro Phân tích rủi ro là chúng ta tiến hành xem xét sự bất ổn của tổng thể các dòng thu nhập của công ty. Mức độ biến động của các dòng thu nhập càng cao thì rủi ro đối diện với các nhà đầu tư càng lớn. Rủi ro của công ty thường bao gồm 2 loại rủi ro: Rủi ro kinh doanh và Rủi ro tài chính. 3.2.1 Rủi ro kinh doanh Rủi ro kinh doanh là sự bất ổn về thu nhập mà nguyên nhân cơ bản của nó là xuất phát từ lĩnh vực ngành mà công ty đó trực thuộc. Sự bất ổn là kết quả sự thay đổi doanh số bán hàng của công ty. Và thu nhập của một công ty sẽ phụ thuộc doanh số bán hàng và chi phí sản xuất. Rủi ro kinh doanh thường được tính bằng mức độ biến động của thu nhập phát sinh từ hoạt động sản xuất của công ty. Rủi ro kinh doanh được định lượng một cách tổng quát là một hàm số của hệ số tương quan của biến động thu nhậphoatj động. Rủi ro kinh doanh = f (Hệ số tương quan biến động của thu nhập hoạt động) Độ lệch chuẩn của thu nhập hoạt động (OE) = ------------------------------------------------ Thu nhập hoạt động bình quân 3.2.2 Rủi ro tài chính Rủi ro tài chính là rủi ro lợi nhuận của các cổ đông khi công ty vay nợ. Khi một công ty huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu thì các khoản thanh toán lãi suất phải được thực hiện trước khi tính thu nhập của cổ phiếu thường, và các khoản lãi suất được coi là nợ cố dịnh. Giống như đòn bẩy nợ thì trong thời gian công ty hoạt động tốt thì cổ tức của cố phiếu thường sẽ tăng theo một tỷ lệ phần trăm lớn hơn thu nhập hoạt động, nhưng khi công ty thua lỗ thì thu nhập cổ đông sẽ giảm theo tỷ lệ lớn hơn thu nhập hoạt động do các khoản chi phi tài chính cố định này. Công ty tăng nợ thì do các nghĩa vụ theo hợp đồng cố định, vì lẽ đó nên họ đã làm tăng rủi ro tài chính và nguy cơ mất khả năng thanh toán cũng cao hơn. Để xác định được rủi ro tài chính của một công ty, người ta thường sử dụng hai loại hệ số: Hệ số thanh toán nợ dài hạn Cấu trúc vốn 3.3. Phân tích hoạt động và khả năng tăng trưởng của công ty 3.3.1. Tầm quan trọng của việc phân tích hoạt động và khả năng tăng trưởng Đối tượng của việc phân tích khả năng tăng trưởng lâu dài là các hệ số. Các hệ số này sẽ cho chúng ta biết một doanh nghiệp sẽ tăng trươgnr với tốc đọ nhanh như thế nào. Việc phân tích tiềm năng tăng trươgnr của một doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với cả người cho vay lẫn chủ sở hữu của doanh nghiệp đó. Chủ doanh nghiệp hiểu rằng giá trị của doanh nghiệp phụ thuộc vào sự tăng trưởng các khoản thu nhập và cổ tức trong tương lai. Các nhà tín dụng rất quan tâm đến khả năng tăng trưởng của một dianh nghiệp vì nó có ý nghĩa quan trọng đối với thành công trong tương lai của doanh nghiệp đó và là nhân tố chủ yếu để quyết định khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp đó. Cơ sở lý luận cho việc tính toán là giả định trong trường hợp bị mất khả năng thanh toán, doanh nghiệp có thể bán các tài sản và dùng số tiền thu được để trả nợ. 3.3.2. Các nhân tố quyết định tăng trưởng Sự tăng trưởng của một doanh nghiệp phụ thuộc vào: Giá trị những nguồn lực được giữ lại tái đầu tư vào doanh nghiệp Tỷ lệ lợi nhuận thu được từ các nguồn lực được giữ lại Doanh nghiệp tái đầu tư càng nhiều thì tiềm năng tăng trưởng càng lớn. Mặt khác với một mức tái đầu tư nhất định, doanh nghiệp tăng trưởng nhanh hơn nếu mức sinh lời từ dự án tái đầu tư cao hơn. Mức tăng trưởng được tính theo công thức g = b * ROE g: tốc độ tăng trưởng b: Tỷ lệ thu nhập giữ lại ROE: Lợi nhuận trên vốn cổ phần của doanh nghiệp Ngoài cách phân tích các hệ số chỉ số thì chúng ta cần đề cập đến sự phát triển của kinh tế và của ngành cũng như các doanh nghiệp cạnh tranh khác. Tóm lại: Việc phân tích báo cáo tài chính của bất kỳ một công ty nào là một quá trình gồm nhiều công đoạn có quan hệ qua lại chặt chẽ với nhau. Khả năng thanh toán nợ ngăn hạn sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh lời; khả năng sinh lời lại bắt đầu từ doanh số bán hàng, và doanh số bán hàng lại lêi quan đến tính thanh khoản của tài sản. Hiệu quả của ciệc quản lý tài sản sẽ ảnh hưởng tới chi phí và mức độ sẵn có của tín dụng, và những điều này sẽ ảnh hưởng tới cấu trúc vốn. Tất cả các yếu tố tài chính sẽ tác động đến giá của cổ phiếu. Bước cuối cùng của việc phân tích đó là tập hợp tất cả các số liệu phân tích đó để đưa ra các kết luận về công ty. Các kết luận sẽ được đưa ra dựa trên các mục tiêu ban đầu đặt ra trước khi phân tích. Khi đã nghiên cứu tài chính các công ty, để đầu tư tốt, hạn chế rủi ro, chúng ta có thể đầu tư theo danh mục đầu tư các chứng khoán của các công ty theo tỷ trọng nhất định. III. Lý thuyết về lập và quản lý danh mục đầu tư 1. Lý thuyết về danh mục đầu tư 1.1. Khái niệm Danh mục đầu tư chứng khoán là các khoản đầu tư của một cá nhân hoặc tổ chức vào việc nắm giữ một hoặc nhiều loại cổ phiếu, trái phiếu, hàng hóa, đầu tư bất động sản, tài sản tương đương tiền hoặc các tài sản khác. Mục đích củc việc đầu tư theo danh mục là giảm thiểu rủi ro bằng việc đa dạng hóa danh mục đầu tư. Dựa trên cơ sở các tài sản đầu tư, nhà đầu tư lập một danh mục đầu tư bao gồm các tài sản khác nhau. Trên nguyên tắc là “không bỏ trứng vào một giỏ”, các nhà đầu tư tạo ra một danh mục có rủi ro thấp nhất, đó là rủi ro của thị trường (rủi ro hệ thống). Khi đó, nhà đầu tư vẫn đạt được ở tại mức lợi nhuận kỳ vọng. Vì vậy, nhà đầu tư luôn cố gắng tạo ra một danh mục tối ưu. 1.2. Đặc điểm của danh mục đầu tư chứng khoán Danh mục đầu tư thực chất là tổ hợp các loại tài sản khác nhau của nhà đầu tư. Trong danh mục các tài sản được phân bổ theo các tỷ trong khác nhau. Và việc phân bổ các tài sản là việc lựa chọn các tài sản đầu tư nhằm đạt được mức lợi nhuận dài hạn và mức rủi ro thấp tại mức chấp nhận được. Trong quá trình đầu tư thì nhà đầu tư có thể thay đổi các tài sản trong danh mục hay thay đổi tỷ trọng các loại trài sản trong danh mục khi có những thông tin ảnh hưởng đến thị trường hay tài sản mà nhà đầu tư đang nắm giữ. Việc đó được gọi là cơ cấu lại danh mục đầu tư. Khi nhà đầu tư cảm thấy triển vọng về một tài sản nào đó tốt, nhà đầu tư có thể điều chỉnh danh mục đầu tư của mình bằng cách giảm tỷ trọng vào các tài sản không có triển vọng và tăng đầu tư vào các tài sản có triển vọng tốt hơn. Danh mục đầu tư phụ thuộc vào các yếu tố như trình độ của các nhà đầu tư, tâm lý của từng nhà đầu tư, mức thuế suất của từng đối tượng nhà đầu tư, tính chất của từng nhà đầu tư, lứa tuổi của nhà đầu tư… Thực tế thì danh mục đầu tư có trình độ khác nhau, mức độ chấp nhận rủi ro thua lỗ là không giống nhau, thái độ cũng khác nhau. Vì vậy mà danh mục đầu tư của các nhà đầu tư là khác nhau. Do các nhà đầu tư khác nhau thì mức độ chấp nhận rủi ro là khác nhau. Vì vậy, rủi ro của các danh mục đầu tư phụ thuộc vào các nhà đầu tư. Tương ứng với mức chấp nhận rủi ro khác nhau là lợi suất kỳ vọng danh mục của từng nhà đầu tư cũng khác nhau. Các nhà đầu tư ưa thích rủi ro thì chấp nhận một mức rủi ro cao nhưng lợi nhuận kỳ vọng cao. Ngược lại, các nhà đầu tư là e ngại rủi ro thì mức chấp rủi ro là thấp tương ứng với lợi nhuận kỳ vọng thấp hơn. Từ đó, các tài sản trong từng danh mục là khác nhau. Các nhà đầu tư ưa thích rủi ro thì đầu tư vào các tài sản có rủi ro cao như cổ phiếu. các nhà đầu tư e ngại rủi ro thì danh mục sẽ có tỷ trọng các tài sản ít rủi ro như trái phiếu cao hơn. Các nhà đầu tư khác nhau thì mức thuế cũng khác nhau. Các nhà đầu tư có mức thuế cao thường không mong muốn trong danh mục của mình co những chứng khoán giống với các nhà đầu tư có mức thuế thấp. Tính chất của các nhà đầu tư khác nhau thì danh mục đầu tư khác nhau. Đó là danh mục đầu tư cá nhân hay nhà đầu tư có tổ chức. Ví dụ, các nhà đầu trên thị trường thường tính đến đầu tư với lợi nhuận là hưởng chênh chênh lệch giá, ít để ý tới mức cổ tức nhận được từ tổ chức phát hành. Với tư cách là một nhà đầu tư chiến lược, các nhà đầu tư có tổ chức rất quan tâm tới mức cổ tức được trả, chiến lược phát triển của các tổ chức phát hành trong dài hạn, từ việc sở hữu cổ phần của tổ chức phát hành bên cạnh các yếu tố khác. Mặt khác, các nhà đầu tư ở các lứa tuổi khác nhau, danh mục đầu tư cũng khác nhau. Các nhà đầu tư trẻ tuổi thường hay đầu tư vào các tài sản có thời gian đáo hạn dài. Các nhà đầu tư nhiều tuổi thường hay đầu tư vào các tài sản có thời hạn ngắn. 2. Đầu tư chứng khoán bằng danh mục đầu tư 2.1. Xác định tài sản đầu tư Để nhà đầu tư có thể tìm ra được các loại chứng khoán một các có hiệu quả nhất (tức là mang lại lợi nhuận và sự an toàn về vốn cho nhà đầu tư), các nhà đầu tư tiến hành đầu tư nhằm trả l._.ời các câu hỏi trước khi đưa ra quyết định đầu tư như: khi nào là thời điểm thuận lợi để đầu tư, khi nào cần phải rút ra khỏi thị trường, đầu tư vào loại chứng khoán nào để phù hợp với mục tiêu đề ra... Tuy nhiên trong lĩnh vực đầu tư hấp dẫn này, dường như không có chỗ cho những quyết định cảm tính. Muốn thành công, nhà đầu tư phải có kỹ năng phán đoán, xem xét và phân tích về chứng khoán. Tuỳ thuộc vào quan điểm của nhà đầu tư, việc lựa chọn chứng khoán và phân tích chứng khoán cũng có khác nhau. Thông qua tình hình chung của toàn bộ thị trường, nhà đầu tư chuyên nghiệp có thể tìm ra được những cổ phiếu “tốt” trên thị trường. Tuy nhiên việc lựa chọn được cổ phiếu tốt không phải nhà đầu tư nào cũng làm được. Do đó, một nhà đầu tư chuyên nghiệp phải thực hiện quá trình phân tích các chứng khoán để có thể thực hiện đầu tư một cách tốt nhất. Điều quan trọng đầu tiên, nhà đầu tư phải xác định được lượng tiền mà mình có thể đầu tư vào chứng khoán. Câu trả lời phụ thuộc vào khả năng tài chính của nhà đầu tư, họ cần xác định được lượng vốn có thể đầu tư vào tài sản ngắn hạn, lượng vốn để đầu tư vào tài sản dài hạn. Đối với tổ chức đầu tư, việc xác định được khả năng tài chính lại càng quan trọng. Cùng với đó, nhà đầu tư cần xác định mục đích đầu tư và mức độ rủi ro của đầu tư có thể chấp nhận. Cũng như trong các lĩnh vực đầu tư khác, đầu tư chứng khoán luôn tồn tại mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa lợi nhuận và rủi ro. Thu nhập càng cao, mức thu nhập tiềm ẩn càng cao. Các nhà đầu tư thường kì vọng vào hai loại thu nhập là thu nhập từ cổ tức và thu nhập từ mức tăng của giá cổ phiếu (lãi vốn). Thu nhập từ cổ tức phụ thuộc vào tình hình kinh doanh của doanh nghiệp của công ty và quyết định của hội đồng quản trị. Khi nhà đầu tư kỳ vọng về tình hình phát triển của công ty, nhà đầu tư sẽ mua cổ phiếu với hy vọng giá của cổ phiếu sẽ tăng trong tương lai. Khác với nhà đầu tư cá nhân trên thị trường, nhà đầu tư có tổ chức đầu tư với tư cách là một nhà đầu tư chiến lược. Do đó họ quan tâm tới tình hình kinh doanh của doanh nghiệp trong quá khứ và tương lai thông qua các dự án dự định thực hiện trong tương lai của công ty. Từ đó, phần thu nhập từ cổ tức sẽ cao. Khi này các nhà đầu tư có tổ chức quan tâm tới các công ty kinh doanh trong các lĩnh vực công cộng như điện lực, viễn thông, dầu khí… hoặc các cổ phiếu thượng hạng. Để lựa chọn được cổ phiếu thích hợp, nhà đầu tư cần quan tâm tới tất cả các thông tin liên quan tới công ty họ muốn đầu tư. Các thông tin này bao gồm các thông tin quá khứ và đặc điểm của công ty, tình hình tài chính, các chi tiết của đợt phát hành và tổ chức bảo lãnh phát hành. Nhà đầu tư có thể tìm được các thông tin này trong bản cáo bạch, thông cáo phát hành, trong dịch vụ tư vấn đầu tư. Các quyết định về lựa chọn đầu tư khi các nhà đầu tư có đủ cơ sở thông tin về khoản đầu tư của mình. 2.2. Quyết định quy mô đầu tư Trước hết nhà đầu tư cần xác định phương thức đầu tư của mình, là đầu tư ngắng hạn hay dài hạn, đầu tư thụ động hay chủ động. Từ đó quyêt định sẽ đầu tư tổng là bao nhiêu vốn và sẽ đầu tư với tỷ trọng bao nhiêu vào cổ phiếu, bao nhiêu phần trăm vào trái phiếu và các tài sản tài chính khác. Tỷ trọng của danh mcuj đầu tư cũng ảnh hưởng bởi tình hình thị trường. Nếu thị trường chứng khoán tốt, có cơ hội tìm kiếm lợi nhuận hơn các thị trường khác thì nhà đầu tư sẽ quyết định để tỷ trọng các chứng khoán trong danh mục của mình nhiều hơn các tài sản khác. Trong đầu tư, nhà đầu tư nên đầu tư vào nhiều loại chứng khoán khác nhau, sự thua lỗ về một loại chứng khoán chỉ có tác động nhỏ tới toàn bộ danh mục đầu tư. Đó là nguyên tắc đa dạng hoá trong đầu tư. Đa dạng hoá danh mục đầu tư bao gồm đa dạng hoá tổ chức phát hành và đa dạng hóa lĩnh vực kinh doanh. Đa dạng hoá tổ chức phát hành tức là nhà đầu tư quyết định đầu tư bao nhiêu vào trái phiếu chính phủ, bao nhiêu vào trái phiếu công ty, bao nhiêu vào cổ phiếu. Điều này phụ thuộc vào quan điểm của từng nhà đầu tư. Chẳng hạn, nếu nhà đầu tư đầu tư vào danh mục cổ phiếu của 20 nhà phát hành khác nhau và khi một nhà phát hành chẳng may bị phá sản thì danh mục đầu tư chỉ bị suy giảm 5%. Mỗi nhà đầu tư sẽ tự đưa ra quyết định của mình dựa vào suy nghĩ bản thân, tiềm lực tài chính cũng như mức độ rủi ro và họ có thể chịu đựng. Bên cạnh việc đa dạng hoá tổ chức phát hành, nhà đầu tư cũng nên đa dạng hoá các lĩnh vực kinh doanh, đa dạng hoá nguồn thu hoặc đa dạng hoá theo vị trí địa lý. Nhà đầu tư cần chú ý rằng, càng đa dạng hoá danh mục đầu tư thì càng hạn chế được rủi ro. Tuy nhiên việc đa dạng hoá quá nhiều sẽ làm mất nhiều chi phí giám sát và phải bỏ ra nhiều công sức để quản lý danh mục đó. Đồng thời, đa dạng hoá cũng quá nhiều cũng có hạn chế là nhà đầu tư không thể thu được những khoản lợi nhuận lớn. Tuy nhiên, bằng lòng với những khoản thu nhập vừa phải để tránh những thua lỗ quá mức là hoàn toàn hợp lý. 2.3. Quản lý danh mục đầu tư Quản lý danh mục đầu tư là một nghiệp vụ quan trọng trong kinh doanh chứng khoán, là công cụ hữu hiệu để hạn chế rủi ro và tối đa hoá lợi nhuận. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để quản lý danh mục đầu tư một cách tối ưu nhất. Một danh mục đầu tư có thể bao gồm các chứng khoán được giao dịch trên thị trường như: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, quyền chọn…. Quản lý danh mục đầu tư là nhu cầu cần thiết của người đầu tư, có trường hợp giá cả của mọi chứng khoán được định giá đúng nhưng mỗi chứng khoán vẫn chứa đựng những rủi ro và những rủi ro này có thể san sẻ thông qua việc đa dạng hoá danh mục đầu tư. Đồng thời, việc lựa chọn danh mục đầu tư phải tính đến ảnh hưởng của thuế. Nhà đầu tư phải chịu mức thuế cao thường không muốn trong danh mục của mình có những chứng khoán giống như danh mục của những người chịu thuế thấp. Các nhà đầu tư ở các lứa tuổi khác nhau thì nhu cầu đầu tư và mức chấp nhận rủi ro cũng khác nhau. Thông thường, nhà đầu tư lớn tuổi có nhu cầu đầu tư vào các loại chứng khoán có độ an toàn cao. Ngược lại, các nhà đầu tư trẻ tuổi lại có nhu cầu đầu tư vào các loại chứng khoán có độ rủi ro cao nhưng mức lợi nhuận kỳ vọng cũng cao. Do đó, sau khi tiến hành lựa chọn được một danh mục đầu tư theo nhu cầu của mình, nhà đầu tư cần tiến hành quản lý danh mục đầu tư. Nhà đầu tư cần theo dõi những biến động giá của các chứng khoán trên thị trường và mức lợi nhuận mong đợi. Từ đó, trong quá trình theo dõi các biến động của danh mục, nhà đầu tư tiến hành điều chỉnh danh mục cho phù hợp với diễn biến của thị trường và mục tiêu đã đề ra. 2.4. Sự cần thiết của đầu tư chứng khoán theo danh mục 2.4.1. Đối với nhà đầu tư cá nhân Đối với nhà đầu tư trên thị trường, đầu tư chứng khoán là một hoạt động đầu tư mang lại lợi nhuận cao. Tuy nhiên, đầu tư chứng khoán lại hàm chứa rủi ro cao. Khi nhà đầu tư thực hiện đầu tư đơn lẻ vào một loại cổ phiếu, rủi ro rất lớn. Vì vậy, nhà đầu tư cần thiết phải xác định một danh mục đầu tư cho phù hợp với mức chấp nhận rủi ro của mình do các nhu cầu sau. Thứ nhất, đầu tư chứng khoán theo danh mục vẫn đảm bảo được các yêu cầu của nhà đầu tư về lợi suất đầu tư. Khi nhà đầu tư tiến hành đầu tư theo danh mục, nhà đầu tư có thể điều chỉnh danh mục sao cho phù hợp với lợi suất yêu cầu. Thứ hai, đầu tư bằng danh mục đầu tư giúp nhà đầu tư có thể đa dạng hóa rủi ro. Khi đầu tư theo hình thức đơn lẻ, cổ phiêu đó biến động tốt sẽ mang lại lợi nhuận cao cho nhà đầu tư. Tuy nhiên, khi cổ phiếu đó mất giá hoặc doanh nghiệp phát hành bị phá sản, nhà đầu tư sẽ bị mất lớn, thậm chí bị mất hết. Vì vậy, rủi ro là rất cao. Khi nhà đầu tư thực hiện đầu tư theo danh mục, các rủi ro riêng của danh mục đã được đa dạng hóa. Vì vậy, nhà đầu tư xác định được danh mục đầu tư hiệu quả, phù hợp với nhu cầu lợi nhuận của nhà đầu tư. Thứ ba, hình thức đầu tư thông qua các tổ chức chuyên nghiệp sẽ làm giảm chi phí giám sát cho nhà đầu tư. Nhà đầu tư với hình thức uỷ thác cho công ty tài chính, quỹ đầu tư sẽ không phải bỏ ra quá nhiều chi phí giám sát đối với các chứng khoán. Đó là chi phí về tiền bạc và chi phí về thời gian, công sức bỏ ra để giám sát chứng khoán. Vì vậy, khi chỉ mất một khoản phí uỷ thác nhỏ cho công ty tài chính, nhà đầu tư sẽ không phải chịu những chi phí trên. Khi này, các công ty được ủy thác sẽ quản lý danh mục đầu tư cho nhà đầu tư. 2.4.2. Đối với nhà đầu tư là các tổ chức kinh doanh chứng khoán Các tổ chức kinh doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán nhằm mục đích thu được nguồn lợi nhuận từ hoạt động đầu tư chứng khoán. Đó là phần doanh thu từ hoạt động tài chính của công ty. Vì vậy, trong khi thị trường chứng khoán ngày càng phát triển và hoàn thiện, đầu tư chứng khoán là một lĩnh vực mà các tổ chức kinh doanh tăng nguồn lợi nhuận. Công ty tài chính là một tổ chức kinh doanh phi ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực tài chính. Vì vậy, hoạt động đầu tư chứng khoán là một trong những hoạt động chính của công ty tài chính. Công ty tài chính là một tổ chức có tư cách pháp nhân hoạt động độc lập do tổng công ty hoặc công ty mẹ lập ra. Với chức năng là thực hiện các chức năng đầu tư, cho vay cho các công ty thuộc tổng công ty ( hoặc công ty mẹ). Do đó trong lĩnh vực hoạt động của mình, công ty tài chính luôn phải bảo đảm an toàn hoạt động đối với nguồn vốn của mình. Trong lĩnh các lĩnh vực hoạt động, công ty tài chính phải được sự chấp thuận phê duyệt, giám sát của tổng công ty sao cho bảo đảm an toàn vốn. Đầu tư tài chính là một hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cho các đối tượng tham gia thị trường chứng khoán. Đối với công ty tài chính, đầu tư chứng khoán mở rộng phạm vi hoạt động của công ty. Đầu tư chứng khoán giúp công ty thu được một khoản lợi nhuận lớn, phát huy được nguồn vốn dùng để đầu tư trong công ty ngoài đầu tư dự án và cho vay… Đầu tư vào thị trường tài chính tạo cho công ty một khoản lợi nhuận cao, phù hợp với yêu cầu về khả năng an toàn vốn nhờ vào việc đa dạng hoá danh mục đầu tư. Khi đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán, với khả năng quan hệ của công ty trên thị trường, công ty tài chính có thể đầu tư bằng cách góp vốn vào công ty cổ phần với tư cách là cổ đông sáng lập của công ty, hoặc cũng có thể giao dịch trực tiếp trên thị trường chứng khoán. Từ đó, công ty tài chính có thể thu được lợi nhuận từ khoản đầu tư này. Đầu tư bằng danh mục đầu tư giúp cho Công ty thu được cá khoản lợi nhuận dự tính mà vẫn đảm bảo khả năng an toàn hoạt động. Ngoài ra, công ty tài chính cũng có thể tăng doanh thu từ việc thu phí tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư. Vì vậy, đầu tư chứng khoán bằng danh mục đầu tư là thật sự cần thiết cho các nhà đầu tư có tổ chức. 3. Các lý thuyết về xác định danh mục đầu tư 3.1. Các lý thuyết cơ bản áp dụng trong việc xác định danh mục đầu tư 3.1.1. Lý thuyết thị trường hiệu quả - EMH (Efficient Market Hypothesis) Trong nghiên cứu, các nhà kinh tế nhận thấy rằng: việc quan sát các biến số kinh tế có thể lý giải và dự đoán được sự phát triển của nền kinh tế. Thị trường chứng khoán cũng vậy, các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng giá chứng khoán thay đổi một cách ngẫu nhiên. Giả thiết rằng giá chứng khoán phản ánh triển vọng của tổ chức phát hành, sự biến đổi ngẫu nhiên của giá chứng khoán theo tình hình của công ty chính là một bằng chứng của một thị trường hoạt động tôt, hiệu quả của thị trường. Tuy nhiên, giá chứng khoán biến động dựa vào các thông tin mới của thị trường, không dự đoán được. Do đó ta có thể lập luận rằng giá của chứng khoán là một chuỗi ngẫu nhiên. Khi giá của chứng khoán không thể dự đoán được thì đó là bằng chứng của thị trường không hiệu quả. Vậy, thị trường hiệu quả là gì? Thị trường hiệu quả là thị trường mà ở đó giá của các chứng khoán phản ánh toàn bộ thông tin của thị trường. Giả thuyết về thị trường hiệu quả bao gồm ba cấp độ: EMH cấp thấp. Khi giá chứng khoán phản ánh toàn bộ các thông tin trong quá khư. Thị trường chứng khoán là thị trường phải đảm bảo nguyên tắc công khai và minh bạch, công bằng. Do đó, các nhà đầu tư tham gia vào thị trường đều biết mọi thông tin trong quá khứ. Khi đó, các thông tin trên thị trường đều được mọi nhà đầu tư sử dụng. EMH cấp trung. Khi giá chứng khoan không những phản ánh toàn bộ thông tin trong quá khứ mà còn phản ánh các thông tin ở hiện tại như: tình hình sản xuất của công ty, cơ cấu tài sản của công ty…Nhà đâu tư có thể nhận thấy giá chứng khoán phản ánh các thông tin công khai của công ty. EMH cấp cao. Giá chứng khoán phản ánh mọi thông tin của công ty không những ở tron quá khứ mà cả thông tin nội bộ không được công bố. Thông thường, những nhà đầu tư có được các thông tin này là các thanh viên trong nội bộ của công ty hoặc các thành viên có quan hệ nhất định đối với các thành viên trong nôi bộ của công ty. Khi này, các thông tin nội bộ có thể được mua trên thị trường nhằm tận dụng cơ lợi về chênh lệch thông tin trên thị trường. Do đó, mặc dù thị trường hiệu quả như thế nào nữa thì việc đầu tư vào cổ phiếu vẫn chứa đựng những rủi ro. Vì vậy, chỉ còn cách là nhà đầu tư phải giảm thiểu rủi ro. Đó chính là đa dạng hóa, rủi ro đầu tư chỉ bằng rủi ro của toàn thị trường – là rủi ro mà nhà đầu tư kỳ vọng. 3.1.2. Rủi ro của nhà đầu tư, rủi ro của danh mục đầu tư và phân tán rủi ro trong đa dạng hóa danh mục đầu tư Trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán, các nhà đầu tư luôn mong muốn đạt được mức lợi suất mà mình kỳ vọng trong giới hạn rủi ro mà nhà đầu tư chấp nhận được. Do đó, mỗi nhà đầu tư khác nhau sẽ có một mức e ngại rủi ro khác nhau, tương ứng với các mức lợi nhuận kỳ vọng. a. Mức e ngại rủi ro và hàm hữu dụng của nhà đầu tư Trên thực tế, mỗi nhà đầu tư đều có mức độ e ngại rủi ro khác nhau. Các nhà kinh tế học hiện đại đã chứng minh được các mức độ e ngại của từng nhà đầu tư có thể lượng hóa được. Đó là hàm hữu dụng của từng nhà đầu tư. Để xác định được các dạng hàm hữu dụng này, các nhà phân tích phải tiến hành khảo sát, nghiên cứu đối với từng nhà đầu tư. Với các số liệu thống kê được, các nhà phân tích ước lượng được các hàm hữu dụng của từng nhà đầu tư. Các nhà phân tích tài chính đưa ra công thức thể hiện mối tương quan giữa mức độ rủi ro, lợi suất kỳ vọng và hàm hữu dụng của nhà đầu tư. Giá trị của hàm hữu dụng tăng lên khi lợi suất kỳ vọng của nhà đầu tư tăng lên, đồng thời mức độ rủi ro tăng làm cho giá trị của hàm hữu dụng giảm. Khi nhà đầu tư tiến hành lựa chọn đầu tư, sẽ lựa chọn phương án đầu tư nào có cặp lợi nhuận và rủi ro đem lại giá trị của hàm hữu dùng lớn nhất. Để ý rằng, trong phương trình hàm hữu dụng trên, đối với các danh mục đầu tư không có rủi ro thì khi đó, giá trị của hàm hữu dụng chính là giá trị của lợi suất kỳ vọng (hay ước tính) của nhà đầu tư: U = E ( r ) Trong phân tích để tiến hành đầu tư, giá trị của hàm hữu dụng của danh mục đầu tư còn gọi là tỷ lệ tương đương chắc chắn (kí hiệu là CE) của danh mục đầu tư. Tỷ lệ tương đương chắc chắn của danh mục đầu tư là mức tỷ suất lợi nhuận đạt được chắc chắn của một danh mục đầu tư không rủi ro được nhà đầu tư chấp nhận và được xem xét là có mức độ hấp dẫn tương đương với danh mục đầu tư có rủi ro. Trên thực tế, đối với các nhà đầu tư thờ ơ với rủi ro thì họ lựa chọn quyết định đầu tư dựa trên cơ sở là mức độ lợi nhuận, lợi nhuận càng cao càng tốt bất cứ mức độ rủi ro như thế nào. Nhưng đa số các nhà đầu tư trên thị trường là e ngại rủi ro. Do đó, việc xác định danh mục đầu tư đối với các nhà phân tích là dựa theo quy luật số đông, tức là lập danh mục đầu tư đối với các nhà đầu tư e ngại rủi ro. b. Lợi suất và rủi ro của danh mục đầu tư Lợi suất kỳ vọng của một danh mục đầu tư là bình quân gia quyền (theo tỷ trọng của từng loại tài sản) của lợi suất thu được từ mỗi chứng khoán trong danh mục đầu tư. Hay nói cách khác, lợi suất kỳ vọng của một danh mục đầu tư là bình quân có trọng số của các tài sản có trong danh mục đó. E(rp) = W1 E(r1) + W2 E(r2) +…….+ Wn E(rn) với danh mục có n tài sản. Rủi ro của danh mục đầu tư là khả năng biến động trong tương lai của lợi nhuận thu được từ danh mục đầu tư. 3.1.3. Nguyên lý đa dạng hóa danh mục đầu tư Quá trình phân tán và tối thiểu hóa rủi ro là một hình thức đa dạng hóa. Theo đó, các nhà đầu tư nên đầu tư vào nhiều loại chứng khoán khác nhau để tạo thành một danh mục đầu tư sao cho tổng mức rủi ro trên toàn bộ danh mục sẽ được giới hạn ở mức nhỏ nhất. Nghĩa là “không nên bỏ trứng vào một giỏ”. Khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa doanh lợi và rủi ro, chúng ta đã chỉ ra rằng mỗi một loại chứng khoán đều tiểm ẩn hai loại rủi ro là rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống. Rủi ro hệ thống là rủi ro do thị trường gây ra và ảnh hưởng đến tất cả các chứng khoán trên thị trường. Do vậy, rủi ro hệ thống là rủi ro không thể tránh được bằng hình thức đa dạng hóa. Ngược lại, rủi ro phi hệ thống là loại rủi ro bắt nguồn từ chính tổ chức phát hành. Do đó, có thể hạn chế được bằng cách đa dạng hóa đầu tư. Điều này là do nguyên lý khi hai hay nhiều chứng khoán tham gia tạo thành một danh mục đầu tư, các chứng khoán này sẽ tương tác với nhau tạo thành một kết quả chung cho cả danh mục. độ rủi ro là cao hay thấp là phụ thuộc vào mối tương tác của các chứng khoán với các chứng khoán khác trong danh mục. Như vậy, rủi ro có hệ thống là một trong những yếu tố quyết định mức doanh lợi dự kiến của một tài sản, vì thế chúng ta cần biết cách thức đo mức độ rủi ro có hệ thống cho các khoản đầu tư khác nhau. Thước đo mà chúng ta sẽ sử dụng là hệ số Bêta (β). Đây là lý do vì sao khi phân tích rủi ro của từng cổ phiếu riêng lẻ để đưa vào danh mục đầu tư, nhà đầu tư cần phải quan tâm nhiều tới rủi ro hệ thống. Hệ số β cho ta biết mức độ rủi ro có hệ thống của một loại tài sản là bao nhiêu. Theo định nghĩa này, một tài sản nào đó có β = 0,5 nghĩa là: mức độ rủi ro có hệ thống của tài sản này bằng một nửa so với mức rủi ro trung bình của một tài sản. Cách xác định rủi ro hệ thống được xác định dựa vào mô hình CAPM. Số lượng chứng khoán Rủi ro phi hệ thống Rủi ro hệ thống Rủi ro tổng thể Đồ thị trên thể hiện mối quan hệ giữa số lượng chứng khoán trong danh mục và rủi ro của danh mục. tổng rủi ro của danh mục bằng tổng của rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống. Mối quan hệ này là ngược chiều nhau. Khi số lượng chứng khoán càng nhiều thì rủi ro phi hệ thống của danh mục càng nhỏ, kéo theo rủi ro của danh mục càng nhỏ. Rủi ro này sẽ có rủi ro bằng với rủi ro của thị trường. Vì vậy, đa dạng hóa giúp giảm thiểu rủi ro, tuy nhiên các danh mục vẫn phải chịu một mức rủi ro tiềm ẩn đó là rủi ro hệ thống. 3.2. Các mô hình xác định danh mục đầu tư 3.2.1. Lý thuyết cơ bản xác định danh mục đầu tư theo mô hình Markowitz Thực tế, các nhà đầu tư luôn quan tâm là nên đầu tư như thế nào để danh mục đầu tư được đa dạng hóa. Để làm được những điều đó, các nhà đầu tư cấn phải xác định đuợc mối quan hệ giữa giá và lợi suất của tài sản có trong danh muc đầu tư cũng như bản chất của từng tài sản. Trên nguyên tắc cân bằng cung cầu trên thị trường để phân tích và định giá tài sản, Harry Markowitz mới đưa ra một mô hình chính thức trong việc lựa chọn danh mục đầu tư, trong đó phản ánh nguyên tắc về đa dạng hóa rủi ro, từ đó mở đường để ông nhận giải Nobel về kinh tế vào năm 1990. Mô hình của ông chính là bước đi đầu tiên của quản lý danh mục đầu tư: xác định một hệ thống các danh mục đầu tư hiệu quả, tập hợp các danh mục này sẽ có một đường cong biên hiệu quả các danh mục chứng khoán rủi ro, thường được gọi là đường cong biên hiệu quả. Danh mục P có N tài sản với tỷ trọng : Véc tơ lợi suất các tài sản: Lợi suất danh mục : Với V là ma trận covarian của danh mục P (quy ước : R,V,W,…là vectơ cột; R’,V’,W’,…là vectơ hàng ) Phương sai của danh mục: Bản chất của việc xác các danh mục đầu tư hiệu quả là: tại mỗi mức rủi ro nhất định, chỉ quan tâm đến các danh mục có lợi tức lớn nhất. Hoặc ngược lại, danh mục nhà đầu tư quan tâm là danh mục có mức rủi ro thấp nhất đối với mỗi mức lợi tức dự tính. Trên thực tế hai phương pháp xác định này đều cho kết quả như nhau. Để định lượng mức độ biến thiên của chứng khoán trong danh mục đầu tư được đa dạng hóa, ta dùng công thức tính hệ số tương quan ( correlation coefficient, ký hiệu là ): Công thức cho hai cặp chứng khoán: : mối tương quan âm tuyệt đối : mối tương quan dương tuyệt đối Công thức cho cả danh mục đầu tư : Hệ số tương quan của cả danh mục P dương thể hiện lợi nhuận của các chứng khoán có trong danh mục có quan hệ cùng chiều nhau, và hệ số tương quan dương càng lớn thì các chứng khoán đó càng có dao động giống nhau. nghĩa là các chứng khoán trong danh mục hoàn toàn có dao động giống nhau. Hệ số tương quan âm chỉ sự dao động ngược chiều của các chứng khoán trong danh mục. càng lớn nghĩa là các chứng khoán trong danh mục có dao động ngược chiều nhau càng nhiều. Khi nó đạt giá trị -1, các chứng khoán trong danh mục quan hệ hoàn toàn ngược chiều nhau. Khi thì các chứng khoán trong danh mục P là không có tương quan với nhau. Để giảm rủi ro của danh mục, các nhà đầu tư điều chỉnh danh mục bằng cách tăng đầu tư vào các tài sản có hiệp phương sai thấp và giảm đầu tư vào tài sản có hiệp phương sai cao. Nếu hệ số tương quan của các chứng khoán trong danh mục đầu tư ( hay tương quan của danh mục đầu tư) nhỏ hơn 1 thì danh mục đầu tư sẽ đạt hiệu quả đa dạng hóa. Sự phân biệt giữa đường thẳng và đường cong trên đồ thị chính là hiệu quả của đa dạng hóa đầu tư trong danh mục. Khi hai tài sản có dao động hoàn toàn giống nhau, các danh mục gồm hai tài sản này không có hiệu quả đa dạng hóa mà chỉ đơn thuần là sự phân bổ vốn giữa các tài sản có rủi ro giống nhau. Người đầu tư càng có mức ngại rủi ro cao thì sẽ càng có xu hướng chọn các danh mục có rủi ro thấp. tức là lựa chọn danh mục nằm gần MVP- danh mục có phương sai hay độ lệch chuẩn nhỏ nhất. 3.2.1.1. Xác định biên hiệu quả Khi nhà đầu tư mong muốn đạt được mức lợi nhuận mong đợi ở mức rủi ro thấp nhất. Khi đó nhà đầu tư quyết định đầu tư tại danh mục MVP. MVP P B/A 1/A σp2 E(rp) S Trong đó: A = [1]’.V-1. [1] B = [1]’.V-1. [E(R)] Với [E(R)] là ma trận lợi suất trung bình của các tài sản trong danh mục. Tìm danh mục MVP : giải hệ phương trình tuyến tính: V.x = [1] Ta được nghiệm của hệ là: Đặt : () => danh mục cần tìm là : Đoạn cong từ S đến MVP chỉ ra rằng nếu ta càng thêm tỷ trọng của tài sản rủi ro vào danh mục thì lợi suất ước tính của danh mục sẽ tăng thêm trong khi độ lệch chuẩn giảm đi. Điều này được giải thích bởi hiệu quả của đa dạng hóa đầu tư. Lợi nhuận của hai tài sản có mối quan hệ ngược chiều nhau nên khi thêm một tỷ lệ nhỏ tài sản rủi ro vào danh mục là tạo ra rào chắn rủi ro cho danh mục. 3.2.1.2. Biên hiệu quả Có thể thấy rằng không người đầu tư nào muốn đầu tư vào danh mục nằm trong đoạn S đến MVP vì rõ ràng các danh mục từ MVP trở lên chiếm ưu thế hơn. Ta gọi đoạn cong từ MVP trở lên là đường cong hiệu quả (efficient set) hay còn gọi là biên hiệu quả hay biên hiệu dụng của danh mục đầu tư gồm tài sản rủi ro. Hiệu quả của đa dạng hóa danh mục thể hiện qua độ cong của đường hiệu quả. Độ cong càng tăng khi hệ số tương quan càng giảm. Đường hiệu quả cong nhất khi hệ số tương quan bằng -1. Trên thực tế, hầu hết các cặp chứng khoán có hệ số tương quan dương, nghĩa là chúng dao động cùng chiều với nhau. Các danh mục đầu tư được chọn do chủ quan của từng người đầu tư, mỗi người có cách suy nghĩ khác nhau, cách lựa chọn khác nhau và có độ e ngại rủi ro khác nhau. Chú ý rằng tất cả các chứng khoán đơn lẻ đều nằm ở phía bên phải đường cong biên. Điều này có nghĩa là các danh mục đầu tư chỉ có một chứng khoán riêng lẻ đều không hiệu quả. Việc đa dạng hóa đầu tư sẽ tạo đựơc các danh mục có lợi tức cao hơn và rủi ro thấp hơn. Tất cả các danh mục nằm ở phần trên của đường cong biên ( kể từ đỉnh của đường cong) là các danh mục được kết hợp rủi ro – lợi tức tốt nhất, là các danh mục đầu tư tối ưu. Phần đường cong biên này được gọi là đường cong biên hiệu quả. Với bất kỳ danh mục nằm trên phần dưới của đường cong biên, sẽ có danh mục khác có cùng mức rủi ro mà lại có lợi tức lớn hơn nhiều. Do vậy phần dưới của đường cong biên không có hiệu quả, sẽ bị loại bỏ qua khi nghiên cứu. Lựa chọn giữa các danh mục đầu tư khả thi thì các danh mục đầu tư tốt nhất luôn nằm trên đường cong biên hiệu quả. Phương pháp lựa chọn trên do Markowitz khởi xướng, do vậy được gọi là mô hình lựa chọn Markowitz. Các danh mục nằm trên đường cong biên hiệu quả này còn được gọi là danh mục tối ưu Markowitz. Ý nghĩa của đường biên này là: với bất cứ mức độ rủi ro nào, chúng ta luôn chọn những danh mục đầu tư trên đường biên mang đến lợi nhuận ước tính ( hay lợi nhuận kỳ vọng ) cao nhất tương ứng. Nói cách khác, đường biên hiệu quả chứa các danh mục có các phương sai thấp nhất với bất kỳ mức lợi nhuận ước tính nào. Như vậy, một nhà đầu tư muốn lựa chọn một danh mục cổ phiếu để đầu tư thì tùy vào khả năng chấp nhận rủi ro (hay mức ngại rủi ro) của người đó để xác định danh mục cổ phiếu tối ưu nhất cho người đầu tư đó. Mỗi người đầu tư đều có một mức ngại rủi ro riêng và thể hiện trong mối tương quan với lợi suất ước tính đạt được, diễn tả bằng đường bàng quan. Điểm tiếp xúc giữa đường bàng quan với đường biên hiệu quả chính là điểm xác định của danh mục tối ưu của người đầu tư đó. Hạn chế việc bán khống ảnh hưởng nhiều đến đường cong biên hiệu quả, làm đường cong này dịch chuyển vào phía trong và trở nên “ lồi hơn” đường cong biên ban đầu, có nghĩa là với mức rủi ro như trước thì nay chúng ta lại chỉ có được mức lợi tức thấp hơn. Các cơ quan quản lý chứng khoán, đơn vị thực hiện nghiệp vụ tự doanh, quản lý danh mục đầu tư và các nhà đầu tư cần được biết rõ ảnh hưởng của những hạn chế này, trên cơ sở đó cân nhắc để đưa ra quyết định. Một lưu ý quan trọng về mặt toán học khi nhà đầu tư lựa chọn danh mục đầu tư sử dụng phương pháp Markowitz, đó là giả thiết lợi suất của tài sản phân phối chuẩn. Tuy nhiên, có thể thấy giả thiết này trên thực tế là giả thiết chặt. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy phần lớn các tài sản có lợi suất không phân phối chuẩn. Ngoài ra, ta có thể mở rộng bằng cách kết hợp hai hay nhiều danh mục đầu tư chứng khóan vào một danh mục lớn thay vì chỉ kết hợp những chứng khoán riêng lẻ với nhau. Ví dụ, kết hợp danh mục đầu tư các chứng khoán trong nước với danh mục đầu tư các chứng khoán nước ngoài. Các quy luật của mô hình quản lý danh mục đầu tư đơn vẫn được áp dụng trong trường hợp danh mục đầu tư kép. 3.2.2. Mô hình định giá tài sản vốn ( CAPM) Mô hình định giá tài sản vốn ( CAPM) là cốt lõi của lý thuyết kinh tế tài chính hiện đại. Harry Markowitz là người đầu tiên đặt nền móng cho lý thuyết đầu tư hiện đại vào năm 1952. Mười năm sau, Wiliam Sharpe, John Lintner và Jan Mossin đã phát triển mô hình CAPM. Mô hình CAPM cho phép dự đoán mối quan hệ giữa rủi ro và lợi suất kỳ vọng. Mô hình CAPM cung cấp một lãi suất chuẩn dùng để đánh giá và lựa chọn các phương án đầu tư, giúp phán đoán lợi suất kỳ vọng đối với những tài sản chưa được giao dịch trên thị trường. Trong phần này, sẽ đề cập đến dạng đơn giản nhất của mô hình định giá tài sản vốn. 3.2.2.1. Những giả thuyết kinh tế cho thị trường vốn Trong mô hình CAPM, các giả thuyết được chia thành 2 loại: các giả thuyết về tâm lý của nhà đầu tư và các giả thuyết của thị trường vốn. Những giả thuyết về tâm lý của các nhà đầu tư Các nhà đầu tư khi đưa ra quyết định của mình đều lựa dựa trên việc phân tích hai yếu tố: lợi suất ước tính và rủi ro của chứng khoán. Giả thuyết này cho biết những nhân tố dẫn tới quyết định đầu tư. Một nguyên tắc trong việc lựa chọn các phương án đầu tư là mức độ rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng phải lớn để bù đắp cho các rủi ro phải gánh chịu. Nhà đầu tư sẽ tìm cách giảm thiểu rủi ro bằng cách kết hợp nhiều chứng khoán khác nhau trong tập hợp danh mục đầu tư của mình. Các quyết định đầu tư được đưa ra và kết thúc trong khoảng thời gian nhất định. Các nhà đầu tư có chung các kỳ vọng về các thông số đầu vào sử dụng để tạo lập danh mục đầu tư hữu hiệu Markowitz. Đó là các thông số như : mức lợi suất, độ rủi ro hay các quan hệ tương hỗ. Những giả thuyết về thị trường vốn: Thị trường vốn là thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Điều này có nghĩa là trên thị trường có rất nhiều người bán và người mua. Năng lực của một nhà đầu tư riêng lẻ thì rất nhỏ so với cả thị trường và vì vậy hoạt động của họ không làm ảnh hưởng đến thị trường. Giá cả trên thị trường chỉ chịu sự quyết định bởi mối quan hệ cung cầu. Không tồn tại các loại phí giao dịch trên thị trường hay bất kỳ một sự cản trở nào trong cung và cầu của một loại chứng khoán. Trên thị trường có loại chứng khoán không rủi ro. Đồng thời nhà đầu tư có thể vay với lãi suất đúng bằng lãi suất không rủi ro đó. Nói một cách khác, lãi suất vay mà lãi suất cho vay bằng nhau và bằng lãi suất không rủi ro. Về cơ sở toán học Giả thiết quan trọng là lợi suất của tài sản có phân phối chuẩn. ) Trước khi đi vào nghiên cứu mô hình CAPM, điều trước tiên cần phải đề cập đến khái niệm danh mục đầu tư thị trường. 3.2.2.2. Danh mục thị trường ( Market Porfolio) Một danh mục đầu tư có thể bao gồm tất cả các chứng khoán đang được giao dịch trên thị trường, bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hay bất động sản… Danh mục thị trường là một danh mục đầu tư bao gồm tất cả những tài sản có nguy cơ chiếm rủi ro trên thị trường và mỗi tài sản trong danh mục này chiếm một tỷ lệ đúng bằng giá trị thị trường của tài sản đó trong tổng giá trị của toàn bộ thị trường. Ký hiệu: () là giá trị thị trường (hay thị giá) của tổng số tài sản i Ta có : là tổng giá trị thị trường của tất cả các tài sản rủi ro có trên thị trường. () => () => Ta được danh mục hiệu quả gọi là danh mục thị trường. Xác định danh mục dựa trên trạng thái cân bằng của thị trường: Giả sử thị trường có K nhà đầu tư và nhà đầu tư k chọn danh mục tối ưu P: là điểm thuộc biên hiệu quả và là tiếp điểm giữa đường mức và đường thờ ơ (đường bàng quan). Gọi là giá trị thị trường của tất cả tài sản của nhà đầu tư k. là giá trị thị trường của tài sản i do nhà đầu tư k nắm giữ. Nếu danh mục có tài sản phi rủi ro thì: Ta có : 3.2.2.3. Mô hình CAPM a. Đường thị trường vốn ( The Capital Market Line- CML) Nếu thị trường tồn tại loại chứng khoán phi rủi ro (với lãi suất ) và giả t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8218.doc
Tài liệu liên quan