Lời nói đầu
Phụ nữ là một lực lượng lao động quan trọng trong lực lượng lao động xã hội, là một nguồn lực tiềm tàng trong sự phát triển. Họ đã và đang tham gia tích cực vào các hoạt động sản xuất và đóng một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế ở nông thôn.
Nghiên cứu về người phụ nữ nói chung và lao động nữ nông thôn nói riêng là một vấn đề đang được đặt ra và có ý nghĩa to lớn thúc đẩy sự phát triển của nông nghiệp và nông thôn nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Do vậy, trong luận vă
123 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2466 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Lao động nữ ở nông thôn Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n này tác giả tập trung nghiên cứu “Lao động nữ nông thôn Việt nam - Thực trạng và giải pháp”.
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ, động viên nhiệt tình của các thầy cô giáo, đồng nghiệp, bè bạn.
Tác giả xin chân thành cám ơn:
- Khoa Kinh tế, Đại học quốc gia Hà Nội đã tạo mọi thuận lợi cho tác giả hoàn thành chương trình Cao học và bảo vệ luận văn. Tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa, đặc biệt xin bày tỏ lòng biết ơn đến thầy giáo TS. Phạm Văn Dũng - người hướng dẫn khoa học, đã hướng dẫn và giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn này.
- Trung tâm nghiên cứu Giới, Gia đình và Môi trường trong Phát triển (CGFED) và GS. Lê Thị Nhâm Tuyết đã tạo điều kiện cho tác giả tham gia các dự án nghiên cứu để có tư liệu viết nên luận văn.
- Các đồng nghiệp, bè bạn, người thân đã chia sẻ công việc, giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn.
Tác giả
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một nước nông nghiệp với 76,5% dân số sống ở nông thôn. Vì vậy, trong quá trình phát triển đất nước thì phát triển nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ rất quan trọng. Để có thể thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đó, bên cạnh các chủ trương, chính sách xã hội phù hợp, cần có những nguồn lực hỗ trợ cho quá trình thực hiện công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn như tài chính, kỹ thuật - công nghệ... Đặc biệt phải kể đến một nguồn lực quan trọng, đó là nguồn nhân lực, chủ thể của quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn. Nói đến chủ thể của quá trình này, không thể không nhấn mạnh đến nguồn nhân lực nữ ở nông thôn.
Phụ nữ là một lực lượng lao động quan trọng trong lực lượng lao động xã hội ở nước ta hiện nay (chiếm 50,84% so với tổng số dân; trong lĩnh vực nông nghiệp và lâm nghiệp, lực lượng lao động nữ chiếm 52,8%). Họ đã và đang tham gia tích cực vào các hoạt động sản xuất và đóng một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế ở nông thôn. Tuy nhiên, họ cũng gặp nhiều khó khăn, hạn chế trong quá trình lao động sản xuất, từ chính bản thân họ (trình độ chuyên môn kỹ thuật, sức khoẻ,...) hay những khó khăn hạn chế khách quan (như việc tiếp cận với các nguồn vốn, việc làm, các dịch vụ xã hội...). Vấn đề đặt ra là cần đánh giá đúng thực trạng của lực lượng lao động nữ ở nông thôn hiện nay, đồng thời tìm hiểu những khó khăn và hạn chế của họ, từ đó đề xuất một số giải pháp có tính khả thi nhằm phát huy hơn nữa vai trò của lực lượng lao động này và qua đó thúc đẩy sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng chuyên môn hoá, công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Xuất phát từ tính cấp thiết nêu trên, chúng tôi chọn đề tài cho luận văn thạc sĩ: "Lao động nữ ở nông thôn Việt Nam - Thực trạng và giải pháp".
2. Tình hình nghiên cứu
Khi nói đến lao động nữ, người ta thường nhắc đến cuốn sách “Vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế” của Ester Boserup (1970). Theo nhà khoa học nữ này thì cho đến những năm 1970, những nghiên cứu chỉ ra rằng mặc dù phụ nữ thường là những người có đóng góp chính vào năng suất chủ yếu của cộng đồng, nhất là trong nông nghiệp, nhưng những đóng góp của họ không được tính đến trong thống kê quốc dân cũng như trong kế hoạch hoá và thực hiện các dự án phát triển. Cuốn sách của E. Boserup đã được coi là lần đầu tiên đặt lại vấn đề trong cách đánh giá về vai trò của phụ nữ, qua cuốn sách của mình, bà đã chứng minh vai trò kinh tế của phụ nữ thông qua nghiên cứu phụ nữ nông dân vùng Tây Sahara, châu Phi. Điều này trước những năm đầu của thập kỷ 70, các nhà tạo lập chính sách và trong giới nghiên cứu kể cả những nhà khoa học nữ đã không thấy hết và do vậy không công nhận một cách đúng đắn vai trò kinh tế rất quan trọng của phụ nữ.
Ở Việt Nam công trình nghiên cứu về phụ nữ đầu tiên xuất bản được phát hành rộng rãi và dịch ra nhiều thứ tiếng là cuốn “Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại” của Lê Thị Nhâm Tuyết (1973, 1975). Nhìn từ góc độ nhân học xã hội, tác giả đã phân tích trong cuốn sách những nét cơ bản về các truyền thống của phụ nữ Việt Nam trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Đặc biệt về vai trò truyền thống của phụ nữ Việt Nam trong sản xuất nông nghiệp. Cuốn sách đã trình bày nhiều tư liệu dân tộc học - lịch sử có giá trị khoa học, gây tiếng vang trong giới nghiên cứu. Một phần tư thế kỷ sau, tác giả cuốn sách “Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại” lại cho xuất bản cuốn “Hình ảnh Phụ nữ Việt Nam trước thềm thế kỷ XXI” [66]. Như lời giới thiệu cuốn sách của GS. Vũ Khiêu: Cuốn sách này đã thu thập những ý kiến khác nhau xung quanh những vấn đề lớn của người phụ nữ Việt Nam và đặc biệt là giới thiệu các kết quả thu được qua các cuộc điều tra khoa học. Cuốn sách tập trung vào những đặc trưng của người phụ nữ Việt Nam trong lịch sử, trong lao động nghề nghiệp, trong gia đình, trong quản lý xã hội.
Khoảng mươi năm trở lại đây - nhất là từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII - có nhiều cuốn sách xuất bản với nội dung đề cập đến vấn đề phụ nữ với phát triển kinh tế hoặc bàn về phụ nữ với phát triển nông nghiệp, nông thôn. Để tiện theo dõi, chúng tôi chia theo một số chủ đề như sau:
* Phụ nữ và phân công lao động theo giới:
Phân công lao động theo giới trong gia đình nông dân (Lê Ngọc Văn, 1999); Phân công lao động trong kinh tế hộ gia đình nông thôn - vấn đề giới trong cơ chế thị trường (Vũ Tuấn Huy, 1997); Phân công lao động nội trợ trong gia đình (Vũ Tuấn Huy và Deborah Carr, 2000); Phân công lao động theo giới trong gia đình ngư dân đánh bắt hải sản (Lê Ngọc Văn, 1999); Vấn đề giới trong kinh tế hộ: tìm hiểu phân công lao động nam nữ trong gia đình ngư dân ven biển miền Trung (Lê Tiêu La và Lê Ngọc Hùng, 1998);
* Phụ nữ với phát triển ngành, nghề:
Tìm hiểu cơ cấu kinh tế và khả năng phát triển ngành nghề của phụ nữ nông thôn (Lê Ngọc Lân, 1997); Vấn đề ngành, nghề của phụ nữ nông thôn với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn (Lê Thi, 1999); Người buôn bán nhỏ ở vùng trung du Bắc bộ (Bùi Quang Dũng, 2000); Những vấn đề chính sách xã hội đối với phụ nữ nông thôn hiện nay (Đỗ Thị Bình, 1997); Phụ nữ nghèo nông thôn trong cơ chế thị trường (Đỗ Thị Bình và Lê Ngọc Lân, 1996); Vấn đề tạo việc làm, tăng thu nhập, nâng cao địa vị người phụ nữ hiện nay (Lê Thi, 1991); Lao động nữ di cư từ nông thôn ra thành phố (Hà Thị Phương Tiến - Hà Ngọc Quang, 2000)
Những công trình trên đây nghiên cứu khá sâu sắc từng khía cạnh của vấn đề phụ nữ với phát triển kinh tế nhưng chưa có công trình nào thực sự tập trung vào nghiên cứu vấn đề lao động nữ ở nông thôn hiện nay. Nghiên cứu đề tài, Tác giả hy vọng đem lại sự đóng góp nhỏ bé vào việc nghiên cứu một nguồn lực và là một chủ thể quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn.
3. Mục đích nghiên cứu
Xem xét thực trạng lực lượng lao động nữ ở nông thôn nước ta hiện nay để thấy được những tiềm năng và trở ngại, hạn chế của họ, từ đó đề ra các giải pháp để phát huy hơn nữa vai trò của lực lượng lao động này trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Dưới góc độ kinh tế chính trị, luận văn nghiên cứu vấn đề lao động nữ ở nông thôn Việt Nam, không chỉ với tư cách là một nguồn lực quan trọng, mà còn là chủ thể quyết định sự phát triển kinh tế-xã hội ở nông thôn.
Luận văn nghiên cứu vấn đề lao động nữ ở nông thôn với bối cảnh kinh tế - xã hội của nông thôn Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được sử dụng trong luận văn, trong đó các phương pháp cụ thể sau đây được sử dụng phổ biến: logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, thống kê...
Luận văn cũng khai thác và sử dụng những tài liệu, số liệu đã được công bố, đồng thời cũng sử dụng các kết quả nghiên cứu trong các đề tài khoa học mà tác giả đã trực tiếp tham gia từ năm 1996 đến nay.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
Hệ thống hoá trên phương diện lý thuyết những vấn đề cơ bản về lao động nữ nông thôn ở các nước đang phát triển, những đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng.
Làm rõ thực trạng của lực lượng lao động nữ ở nông thôn nước ta hiện nay, những thuận lợi và khó khăn của họ.
Đưa ra được các giải pháp nhằm khai thác, sử dụng và phát huy có hiệu quả nguồn lực này trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Vài nét về lao động nữ nông thôn ở một số nước đang phát triển
Chương 2: Thực trạng lao động nữ ở nông thôn Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
Chương 3: Quan điểm và giải pháp phát huy vai trò lao động nữ ở nông thôn trong những năm tới
CHƯƠNG 1 VÀI NÉT VỀ LAO ĐỘNG NỮ NÔNG THÔN
Ở MỘT SỐ NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Đặc điểm của lao động nữ nông thôn ở các nước đang phát triển
1.1.1 Lao động nữ nông thôn chiếm tỷ trọng lớn trong lực lượng lao động
Lao động nữ nông thôn luôn chiếm một tỷ lệ khá cao trong lực lượng lao động và điều này đúng trong hầu hết các nhóm tuổi. Những nghiên cứu từ các quốc gia trong khu vực châu Á cho thấy: tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế của phụ nữ theo các nhóm tuổi khác nhau thường rất cao. Một vài số liệu thống kê sau đây sẽ chứng minh cho nhận định đó:
Bangladesh: Có 67,3% phụ nữ nông thôn tham gia lực lượng lao động so với 82,5% nam giới. Tỷ lệ này của phụ nữ nông thôn cao gấp hơn 2 lần phụ nữ thành thị (67,3% và 28,9%). Theo nhóm tuổi, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động nhiều nhất ở độ tuổi 30-49, tiếp đó là ở các nhóm tuổi 25-29, 50-54. Đáng chú ý rằng, gần 61% phụ nữ nông thôn ở độ tuổi 60-64 vẫn tham gia lực lượng lao động, cao gấp gần 2 lần phụ nữ thành thị cùng nhóm tuổi. Đặc biệt phụ nữ nông thôn trên 65 tuổi vẫn có 36% tham gia lực lượng lao động.
Bảng 1.1: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động theo nhóm tuổi, giới tính và nơi cư trú, 1989 (%)
Nhóm tuổi
Bangladesh
Thành thị
Nông thôn
Nam
Nữ
Nam
Nữ
Nam
Nữ
Tổng số
80.9
61.5
72.7
28.9
82.5
67.3
10-14
40.9
31.3
21.8
13.9
44.3
34.5
15-19
70.7
55.2
52.4
25.3
74.3
61.5
20-24
82.4
64.9
68.1
29.4
85.6
71.4
25-29
96.5
68.9
92.8
27.8
97.1
76.9
30-34
98.7
74.9
97.9
37.5
98.9
82.2
35-39
98.4
78.0
98.5
40.6
98.4
84.3
40-44
98.3
76.9
98.3
38.1
98.3
82.8
45-49
98.3
75.6
97.8
36.1
98.9
81.4
50-54
96.8
73.5
94.4
43.8
97.1
77.5
55-59
95.7
67.8
92.8
36.3
96.1
72.7
60-64
89.4
57.9
79.2
31.8
90.9
60.6
65+
65.2
33.5
55.9
14.7
66.3
35.8
Nguồn: United Nation (1995), Women of Bangladesh - A Country profile
Khác với Bangladesh, ở Trung Quốc, nhóm phụ nữ nông thôn tham gia lực lượng lao động cao nhất ở độ tuổi 20-29, tiếp đó là nhóm tuổi 30-39 và giảm dần theo các nhóm tuổi cao hơn. Điểm tương đồng với Bangladesh là ở nông thôn Trung Quốc phụ nữ độ tuổi 60-64 vẫn còn 32,53% tham gia lực lượng lao động, con số này cao gấp 2,5 lần phụ nữ thành thị cùng nhóm tuổi.
Bảng 1.2: Tỷ lệ lao động theo tuổi và giới tính: Điều tra dân số
năm 1982 và 1990 (%)
Nhóm tuổi
Điều tra 1982
Điều tra 1990
Trung Quốc
Thành thị
Nông thôn
Nam
Nữ
Nam
Nữ
Nam
Nữ
Nam
Nữ
15-19
70.55
77.82
61.38
68.22
39.97
42.13
68.21
76.43
20-24
96.13
90.34
92.38
89.62
81.41
79.90
96.55
93.02
25-29
98.59
88.77
97.87
90.79
95.51
87.78
98.96
92.10
30-34
98.83
88.77
98.58
90.93
97.36
89.76
99.17
91.49
35-39
98.86
88.46
98.83
91.02
98.06
89.52
99.16
91.76
40-44
98.63
83.34
98.66
88.12
98.18
85.22
98.86
89.31
45-49
97.47
70.57
97.68
81.01
96.91
73.37
97.99
84.09
50-54
91.42
50.90
93.32
61.96
89.93
41.70
94.76
70.69
55-59
82.96
32.87
83.60
44.94
72.98
21.40
88.05
54.16
60-64
63.66
16.37
63.18
27.21
38.52
12.00
72.53
32.53
65+
31.11
4.73
32.59
7.95
18.96
3.58
37.02
9.33
Nguồn: United Nation (1997), Women in China - A Country profile
Một đặc điểm là phụ nữ thường làm trong nhiều lĩnh vực khác nhau hơn là nam giới. Ở các nước phát triển, hầu hết các phụ nữ không tham gia sản xuất nông nghiệp thì tham gia vào các công việc dịch vụ, nhưng ở các nước đang phát triển, lực lượng nữ tham gia sản xuất trong các nhà máy đang tăng lên ngang bằng với số phụ nữ làm việc trong các lĩnh vực dịch vụ. Phụ nữ tham gia sản xuất trong các lĩnh vực công nghiệp thường tập trung ở một số ngành: 2/3 lực lượng lao động trong ngành may mặc trên thế giới là phụ nữ, số lượng phụ nữ tham gia lĩnh vực may mặc chiếm 1/5 số lượng phụ nữ đang lao động trong lĩnh vực công nghiệp. Trong khi đó nam giới lại chiếm tỷ phần lực lượng lao động cao hơn ở các ngành như: mỏ, cơ khí, xây dựng, giao thông...
Mặt khác, do cầu về lao động tăng bền vững trong thời kỳ tăng trưởng nhanh cũng đã thu hút một lượng lớn phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động. Các ngành kinh tế xuất khẩu quan trọng như may mặc và điện tử cũng dựa vào nguồn lao động nữ kỹ năng thấp, tuy nhiên phần lớn số lao động này đều biết đọc, biết viết. Năm 1970, phụ nữ chiếm 26-31% lực lượng lao động tại Singapore, Indonesia và Malaysia (bảng sau). Cho tới năm 1995, tỷ lệ lao động nữ tại các nước này đã tăng lên, từ 37-40%. Tại Hàn Quốc, tỷ lệ phụ nữ đi làm ăn lương tăng từ 65% năm 1965 tới 81% năm 1992 và trong ngành khai khoáng và chế tác, tỷ lệ lao động nữ so với lao động nam tăng từ 0,37 lên tới 0,68
Bảng 1.3: Tỷ lệ phụ nữ trong lực lượng lao động ở Đông Á (% trong tổng số)
Nền kinh tế
1970
1980
1995
Hồng Kông, Trung Quốc
35
34
37
Indonesia
30
35
40
Hàn Quốc
32
39
40
Malaysia
31
34
37
Philippines
33
35
37
Singapore
26
35
39
Thái Lan
48
47
46
Nguồn: Ngân hàng thế giới (2001) Đưa vấn đề giới vào phát triển
Việc mở rộng sự tham gia của lao động nữ phần lớn được bắt nguồn từ quá trình tái cơ cấu sản xuất và việc làm tại các khu vực truyền thống. Tại Indonesia, Hàn Quốc, Malaysia và Thái Lan, tỷ lệ phụ nữ làm nghề nông đã giảm đi, còn tỷ lệ phụ nữ làm việc trong các ngành công nghiệp và dịch vụ lại tăng lên (xem bảng). Tại Hồng Kông nơi mà nông nghiệp không giữ vị trí quan trọng, sự chuyển dịch lại xuất hiện từ công nghiệp sang khu vực dịch vụ. Ở Đài Loan, Trung Quốc, các ngành công nghiệp trong nước đòi hỏi kỹ năng cao hơn, bởi vì các công ty đòi hỏi nhiều lao động giản đơn đã chuyển ra nước ngoài, chủ yếu là vào Trung Quốc đại lục và sang Đông Nam Á
Bảng 1.4: Sự phân bố theo ngành của lực lượng lao động nữ ở Đông Á* Tổng các dòng nếu không bằng 100% là làm tròn hoặc bỏ qua ngành khai khoáng
(%)
Nền kinh tế
Năm
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ
Hồng Kông,
1970
4.7
61.2
34.2
TQ
1980
1.2
56.1
42.8
1990
0.7
33.0
66.3
1997
0.2
16.4
83.4
Indonesia
1970
65.3
10.0
24.8
1980
55.8
12.4
31.8
1990
56.4
12.5
31.1
1997
39.6
15.4
39.4
Hàn Quốc
1980
37.5
23.1
35.9
1990
20.0
29.5
48.7
Malaysia
1970
66.4
9.9
23.7
1980
49.3
17.7
33.0
1990
25.6
22.7
51.8
1997
14.2
29.8
56.0
Thái Lan
1990
62.8
11.9
22.0
1997
50.8
16.6
31.2
Nguồn: Ngân hàng thế giới (2001) Đưa vấn đề giới vào phát triển
Nghiên cứu ở Trung Quốc cho thấy, từ năm 1978, các xí nghiệp huyện - xã (TVES) đã thu hút một lượng lớn các công nhân nông thôn, trong đó có nhiều phụ nữ (tức những người rời đất nhưng không rời quê hương). Giả sử rằng 30% của số 28,3 triệu công nhân làm việc ở các TVES vào năm 1978 là phụ nữ, khi đó có khoảng 8,5 triệu phụ nữ làm việc cho các TVES vào năm 1978 và số phụ nữ trong các TVES tăng tới 15,9 triệu năm 1988 và 19,6 triệu năm 1993. Tuy nhiên tỷ trọng của phụ nữ trong tổng số công nhân ở các TVES thì chỉ tăng chút ít từ 32,4% năm 1988 lên 33,9% năm 1993. Tỷ lệ tham gia của phụ nữ vào các TVES rất khác nhau trong sản xuất công nghiệp, 15-16% trong xây dựng và 10% ở các hoạt động khác. Trong năm 1993 tỷ trọng của phụ nữ trong tổng số công nhân của TVES là 38% trong sản xuất nông nghiệp, 10% trong ngành xây dựng và 41% ở các hoạt động khác. Trong sản xuất công nghiệp, phụ nữ chiếm tỷ lệ lớn trong các lĩnh vực như lắp ráp, là những lĩnh vực cần nhiều lao động và sản xuất những mặt hàng đã được chuẩn hoá và sử dụng công nghệ đơn giản (chẳng hạn phụ nữ chiếm 60-70% trong những xí nghiệp sản xuất đồ nhựa, dệt và quần áo).
Bảng 1.5: Tổng số lao động và lao động nữ từ các hộ nông nghiệp ở các khu vực thành thị và nông thôn theo từng ngành ở Trung quốc, 1990
Công nhâna Những người từ 15 tuổi trở lên có làm việc thường xuyên hoặc tạm thời nhưng đã làm việc được 16 ngày trong giai đoạn 6 tháng trước khi điều tra dân số
từ các hộ nông nghiệpb Các cá nhân ở Trung quốc đăng ký tên gọi hoặc “hộ nông nghiệp” “hộ phi nông nghiệp”. Sự khác biệt cơ bản là các hộ nông nghiệp tự cung tự cấp lúa gạo trong khi các hộ phi nông nghiệp phải mua lương thực từ kho Nhà nước với giá chính thức thành viên của các công xã (tức là nông dân) đều đăng ký như là các hộ nông nghiệp
Tổng số
Thành thịc Thành thị được định nghĩa như là tập hợp cả các quận huyện thành thị thuộc những thành phố có tổ chức cơ cấu quận huyện; các huyện dân cư ở những thành phố không tổ chức cơ cấu quận huyện thành thị; các vùng dưới sự quản lý của hội đồng khu vực thuộc những thị trấn thị xã chịu sự điều hành của các thành phố không tổ chức cơ cấu huyện thị và các thành phố nhỏ (thị trấn thị xã) dưới sự quản lý của các tỉnh. Nông thôn là tất cả những vùng còn lại
Nông thôn
Ngoài nông nghiệp (000)
59622
22393
37229
Phần trăm của công nghiệpd
52.8
31.6
53.5
Xây dựng
9.4
11.2
8.4
Vận tải và viễn thông
7.0
6.2
7.5
Thương nghiệpe
12.7
13.7
12.1
Hoạt động khác
18.1
17.4
18.6
Phụ nữ ngoài nông nghiệp (000)
21295
8810
12485
Phần trăm của
- Công nghiệpd Kể cả ngành mỏ, phát điện, cấp nước và công nghiệp chế tạo
64.6
60.9
67.2
- Xây dựng
1.5
2.3
1.0
Vận tải và viễn thông
1.4
1.5
1.3
Thương nghiệpe
16.9
21.6
16.9
Hoạt động khác
15.6
13.7
16.9
Tỷ lệ phụ nữ
Tổng số
46.1
45.5
46.2
Nông nghiệp
47.5
49.2
47.3
Công nghiệpd
43.7
46.5
42.1
Xây dựng
5.5
7.9
3.6
Vẫn tải và viễn thông
7.0
9.2
5.8
Thương nghiệpe Bao gồm thương nghiệp bán lẻ, cung ứng lương thực thực phẩm, dự trữ hàng hoá
47.7
62.2
37.9
Hoạt động khác
30.8
31.1
30.6
Nguồn: Uỷ ban các vấn đề xã hội của quốc hội Việt Nam và cơ quan phát triển quốc tế Canada (1995), Kỷ yếu hội thảo: Vai trò giới tính và nguồn nhân lực trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
Một điều tra khác ở 4 khu vực ở Lusaka, Guayaquil ở Ecuador, Metro Manila và Budapest [78, tr.18] đã cho thấy rằng các hoạt động kinh doanh nhỏ đặc biệt quan trọng đối với phụ nữ trong thời kỳ cải cách kinh tế. Mặc dầu số lượng phụ nữ và nam giới tham gia lực lượng lao động tăng lên trong thời gian gần đây, phụ nữ vẫn phụ thuộc vào lao động sản xuất nhỏ hơn là so với nam giới. Tính cạnh tranh của phụ nữ trong lĩnh vực kinh doanh này thường bị hạn chế do khả năng đi lại của phụ nữ cũng như khả năng tiếp cận các dịch vụ công cộng như hỗ trợ vốn hay phương tiện đi lại bị hạn chế. Phụ nữ thường có khuynh hướng chuyên môn hoá những loại mặt hàng sản xuất không nhằm mục đích kinh doanh và những dịch vụ công cộng mà có mức thu nhập thấp.
Ở khu vực nông thôn, nơi mà kinh tế quốc doanh thường kém phát triển thì những hoạt động kinh tế ngoài quốc doanh đóng một vai trò quan trọng chính yếu. Ở châu Á, tỷ lệ phụ nữ nông thôn tham gia thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên đáng kể trong thập kỷ 60-70. Ở Ấn Độ tỷ lệ phụ nữ nông thôn tham gia sản xuất ngoài quốc doanh cao hơn tỷ lệ nữ tham gia sản xuất trong nền sản xuất quốc doanh bởi vì số hộ gia đình không có đất sản xuất và nghèo đói ở nông thôn đang tăng lên. Nguồn nhân lực tham gia sản xuất trong các thành phần kinh tế ở nông thôn có sự phân chia không đồng đều, phụ nữ nông thôn chiếm đa phần trong các lao động có tính chất không căn bản, chủ yếu là do phân công lao động trong gia đình, đặc biệt là do không làm chủ được tình trạng nghèo đói đã hạn chế khả năng lao động của phụ nữ vì tính cạnh tranh trong công việc, phụ nữ sẽ không thể có năng suất lao động cao như nam giới nếu họ vừa phải đảm nhận mọi công việc nuôi con và nội trợ. Do địa vị của mình trên thị trường lao động thấp kém hơn so với nam giới đã ảnh hưởng đến chỉ số về giáo dục, y tế và dinh dưỡng của phụ nữ.
1.1.2 Trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp
Nhìn chung trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nữ nông thôn ở các nước đang phát triển còn rất thấp. Ở các nước đang phát triển cho đến nay, 31,6% lao động nữ không được học hành, 5,2% mới chỉ học xong phổ thông và 0,4% mới tốt nghiệp cấp hai. Theo điều tra ở Burkina Faso, 40% trong số phụ nữ nông thôn có kiến thức về các công nghệ trồng trọt và chăn nuôi theo phương thức tiên tiến. Tuy nhiên, những người phụ nữ này cũng không được học các kỹ thuật một cách có bài bản mà chủ yếu những kiến thức mà họ có được là do học hỏi từ họ hàng và bạn bè. Khoảng 1/3 trong số này là học được từ các phương tiện truyền thông trong khi đó chỉ có 1/5 trong số những người này nói là học kinh nghiệm từ chồng mình. Đàn ông thường không thích nói lại những kiến thức về chăn nuôi và trồng trọt cho vợ mình nghe. Ở Malawi, phụ nữ kêu ca rằng chồng mình rất ít khi chịu nói về những kinh nghiệm mà họ biết cho vợ nghe, nếu chồng họ có nói về những kinh nghiệm thường không nói đúng những điều mà họ muốn hỏi. Ở Ấn độ, những người phụ nữ học hỏi kinh nghiệm từ họ hàng bạn bè, hàng xóm và đôi khi từ chồng của họ. Một hạn chế lớn là những loại kinh nghiệm được truyền đạt kiểu này thường ít khi làm thay đổi được mô hình cách thức sản xuất của họ.
1.1.3 Bất bình đẳng giới mang tính phổ biến
Bất bình đẳng giới tồn tại ở hầu hết các nước đang phát triển. Điều đó trước hết bắt nguồn từ tình trạng phụ nữ có học vấn quá thấp, tức là rất ít phụ nữ có kỹ năng hoặc có điều kiện để cạnh tranh một cách bình đẳng trong những công vệc được trả lương cao. Một nguyên nhân khác không kém phần quan trọng là những định kiến xã hội coi thường phụ nữ đã được hình thành ở hầu hết các nước đang phát triển. Do vậy, ngay cả khi phụ nữ có bằng cấp cao và kỹ năng tốt, công việc mà họ làm vẫn không được ghi nhận một cách xứng đáng.
Gần như ở khắp nơi, mức thu nhập của phụ nữ nông thôn chưa bằng một nửa của nam giới nông thôn. Có khi, cùng làm một việc như nhau, nam giới được trả công nhiều hơn phụ nữ. Phổ biến hơn nữa, người ta chia công việc theo giới. Trong nghề làm gạch ở Kêrala, phụ nữ bị khoanh vào công việc nặng nhọc - chở gạch bằng xe kéo - và không bao giờ kiếm nổi quá 5 rupi một ngày, trong khi đàn ông có thể dự kiến kiếm tới 10 rupi hoặc hơn nữa. Lại nữa, trong ngành công nghiệp xơ dừa, nữ công nhân tước vỏ dừa không kiếm nổi 4 rupi một ngày trong khi đàn ông làm việc chuyên chở vỏ dừa kiếm được 12 đến 16 rupi [13, tr. 214]. Thế mặc cả yếu của phụ nữ là do thân phận xã hội thấp kém, thực tế bị nam giới áp đảo về thể chất, chức phận làm mẹ thôi thúc phải làm việc. Phụ nữ phải nuôi con và không có lương ăn thì không thể mặc cả, trừ phi cố sống cố chết đòi được một mức tối thiểu nào đó. Và họ ít khi có khả năng thương lượng vì họ cần việc làm bằng bất kỳ giá nào trong những thời điểm khó khăn trong năm, đặc biệt trong mùa mưa và khi giáp hạt. Cho nên, ở Kenia, khi phỏng vấn những nhóm phụ nữ làm việc ngoài đồng dưới trời mưa như trút, thì họ nói rằng họ chẳng có khái niệm về việc được trả bao nhiêu tiền cho một ngày làm việc, nhưng họ chẳng còn cách lựa chọn nào khác ngoài việc phải lao vào làm. Như một phụ nữ đã kể: "Chúng tôi có thể làm gì? Liệu chúng tôi có ngồi nổi ở nhà nghe con cái kêu gào vì đói hay không? Chúng tôi có thể chịu đựng một hai đêm, nhưng sau đó thì chúng tôi phải đến với bất cứ ai cho chúng tôi ít việc làm. Đây là thời buổi khó khăn và con trẻ phải khổ sở vô cùng. Mà ngay cả cái đói của chính chúng tôi cũng khó lòng mà chịu đựng nổi" [13, tr. 215]
Theo số liệu thống kê năm 1989 thì 60% nam giới tham gia thành phần lao động này được trả mức lương của người lao động có chuyên môn trong khi đó thì chỉ có 18% phụ nữ chỉ được trả ở mức như vậy. Trong khi 80% số phụ nữ tham gia lực lượng lao động chính thức ngoài xã hội cũng là thành viên làm các loại công việc nhà không được trả lương. Số nam giới như vậy chỉ có 37% mà thôi [43, tr. 42]. Một loại hình lao động phổ biến nhất trong thành phần lao động không chính thức là buôn bán, tiếp theo là các công việc sửa chữa, chuẩn bị thức ăn, mua bán và tham gia mô hình sản xuất nhỏ.
Sự tham gia của phụ nữ trong nông nghiệp nhìn chung bị lãng quên. Rất nhiều lao động của họ trong những hình thức không được trả công và vì thế không được xem là hoạt động kinh tế. Sự phát triển của công nghệ và hiện đại hoá không giúp gì cho phụ nữ nông thôn. Các chương trình phát triển nông thôn và cơ khí hoá nông nghiệp sau này đã giảm bớt đói nghèo nhưng đồng thời nó cũng đem lại sự giảm đi đáng kể về sử dụng lao động đối với cả nam và nữ.
Ngay cả điều này cũng có những ảnh hưởng bất lợi đối với phụ nữ. Lao động của họ phần lớn được thực hiện bằng công nghệ hiện đại và một vài trường hợp được thay thế bởi nam giới. Những nghề trước đây do phụ nữ và nam giới đảm nhận như thu hoạch mùa màng thì do nam giới đảm trách trong khi phụ nữ lui về lĩnh vực gia đình của họ, trở thành những người nội trợ hoàn toàn. Đây là quá trình “nội trợ hoá” phụ nữ nông thôn, một kết quả gián tiếp của những chính sách phát triển nông nghiệp trước đó. Điều này tạo nên sự phân biệt giữa vai trò khác nhau trong sản xuất, trong kinh tế gia đình giữa phụ nữ và nam giới, trong đó nam giới là người đóng vai trò chính còn phụ nữ chỉ là người đóng vai trò phụ.
Các thành viên của tổ chức nông nghiệp mà ở đó giáo dục và đào tạo về công nghệ mới chủ yếu là nam giới. Sự phân biệt về hệ tư tưởng này giữa nam giới người đóng vai trò chính và phụ nữ người nội trợ có cái giá phải trả là phụ nữ nông thôn mất một cơ sở kinh tế của họ. Cho dù họ tiếp tục có vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp.
Mặc dầu trong những năm 1980, số lượng đông hơn bao giờ hết các phụ nữ nông dân đảm đương công việc đồng áng, tạo ra thu nhập từ các hoạt động sản xuất trong gia đình và nhận tiền lương cũng như các công nhân tạm thời ở các nhà máy, công việc của họ vẫn thuộc diện được trả công thấp nhất. Như Tamara Jacka lập luận rằng: “Bất chấp những thay đổi cơ bản trong phương thức làm việc, các cuộc cải cách nông thôn, không dẫn tới xoá bỏ sự phân công lao động theo giới, cũng như việc đánh giá lại vị trí của người phụ nữ và nam giới trong quá trình phân công lao động. Ngược lại, điều đang diễn ra là những gì bao hàm trong công việc lý tưởng của phụ nữ và nam giới đang bị thay đổi, thế nhưng sự phân công lao động trên vẫn được duy trì, cũng giống như vị trí ít được quan tâm đến của phụ nữ trong sự phân công đó" [70, tr. 111].
Ở các nước kém phát triển, phụ nữ nhận được mức thu nhập bằng nửa của nam giới, một phần là do sự gạt ra, một khuynh hướng phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (và những người thiểu số) trong các nghề nghiệp được trả lương tốt, buộc họ phải đi vào làm các công việc thấp kém hoặc có lương thấp.
Trong khối các nước đang phát triển, phụ nữ nông thôn chiếm ít nhất 50% sản xuất lương thực thực phẩm. Công việc này thường không được đưa vào báo cáo, không được tính toán. Thật vậy, ở những nước đang phát triển có thu nhập thấp, phần lớn phụ nữ làm việc ngoài nền kinh tế thị trường. Ví dụ ở Cộng hoà Đôminica đầu những năm 1980, 21% phụ nữ nông thôn đã tham gia vào lực lượng lao động được trả công, nhưng một điều tra về những hoạt động của khu vực không chính thức và chính thức cho thấy 84% phụ nữ nông thôn đang làm việc [24, tr. 308].
Các ước tính bằng số có sự khác nhau đáng kể, nhưng các nghiên cứu cho thấy phụ nữ làm công việc gia đình nhiều hơn nam giới. Một số nghiên cứu cho biết ở những nước phát triển ngày nay, phụ nữ chỉ làm hơn một nửa công việc gia đình; một số nghiên cứu khác lại cho biết phụ nữ làm 70% hoặc nhiều hơn công việc nội trợ. Trong gia đình có cả bố và mẹ, nam giới lao động kiếm tiền và phụ nữ không được tham gia vào lao động được trả công, vì thế dễ hiểu tại sao phụ nữ lại làm hầu hết công việc nội trợ. Mặc dù vậy, sự sắp xếp hộ theo kiểu cổ điển này dẫn đến sự không bình đẳng về quyền lực: phụ nữ làm việc nhà không được trả công, phụ thuộc vào sự quyết định của chồng trong việc sử dụng thu nhập bằng tiền.
Trên thế giới, ngày càng có ít người sống trong gia đình có bố mẹ mà chỉ một người (nam giới) kiếm tiền. Tuy nhiên, ngay cả khi phụ nữ làm công việc được trả công, gánh nặng về công việc gia đình vẫn nhiều hơn đối với họ. Càng làm nhiều công việc kiếm tiền hơn, người phụ nữ càng có ít thời gian cho công việc gia đình, nhưng tổng số giờ làm công việc gia đình vẫn nhiều hơn nam giới. Tính trung bình, phụ nữ đã có gia đình làm việc cả ngày để kiếm tiền vẫn sử dụng khoảng 30 giờ mỗi tuần cho công việc gia đình. Những đồ gia dụng hiện đại tiết kiệm lao động cũng không thực sự có hiệu quả trong việc tiết kiệm thời gian. Một số ước tính cho rằng trung bình đồ gia đụng hiện đại làm giảm công việc lặt vặt trong gia đình không nhiều hơn 2 giờ một tuần [24, tr. 309].
Trong khi cho phép nữ giới tăng thu nhập, một nhu cầu cấp thiết, việc tham gia ngày càng tăng của nữ giới vào lực lượng lao động nữ trong một số trường hợp đã tạo ra những mối quan tâm mới đối với lao động nữ. Những vấn đề như điều kiện làm việc tồi tàn, sự tiếp xúc với những nguy cơ sức khoẻ, tỉ lệ mắc các bệnh nghề nghiệp cao hơn, sức khoẻ và an toàn của người lao động, và những hình thức bóc lột mới như lạm dụng tình dục ở nơi làm việc đang được quan tâm. Tỷ lệ nữ tham gia vào lực lượng lao động tăng, đặc biệt ở Đông Nam Á và một phần của Nam Á và khu vực Thái Bình Dương chủ yếu là do sự huy động và tham gia của những phụ nữ trẻ vào những việc làm công ăn lương chính thức ở các ngành công nghiệp chế tạo có tỉ trọng lao động cao và định hướng xuất khẩu, đặc biệt là những ngành điện tử, may mặc và giày dép. Phải thừa nhận rằng những ngành công nghiệp này đã tạo ra rất nhiều cơ hội việc làm kèm theo các lợi ích cho nữ giới. Đồng thời, rất nhiều trong số những công việc này có khuynh hướng không đáng tin cậy, ngắn hạn, thuộc về loại không có kỹ năng hoặc bán kỹ năng với rất ít cơ hội thu được kỹ năng với điều kiện lao động chung phi tiêu chuẩn và lương._. thấp. Trong những trường hợp này, những lợi ích tích cực đối với nữ giới bị trung hoà bởi những ảnh hưởng bất lợi của điều kiện làm việc không tốt, đặc biệt là về những phương diện sức khoẻ và an toàn của người lao động.
1.2 Vai trò của lao động nữ ở các nước đang phát triển
Tổ chức Lao động quốc tế ước tính rằng, phụ nữ chiếm tới 443 triệu hoặc 32% của lực lượng lao động gồm 1354 triệu ở các nước đang phát triển và chiếm tới 676 triệu hoặc 35% của lực lượng lao động toàn cầu gồm 1955 triệu vào năm 1995. Nhìn vào một số nước trong các khu vực của châu Á chúng ta có thể thấy được vai trò của phụ nữ trong lực lượng lao động ở các quốc gia trong các khu vực này.
Bảng 1.6: Tỷ lệ nữ giới trong toàn bộ lực lượng lao động
ở một số nền kinh tế châu Á, 1970-1995 (%)
Khu vực và nền kinh tế
1970
1980
1990
1995
Đông Á
33.6
38.4
39.9
39.9
Trung Quốc
41.7
44.0
45.7
46.0
Hồng Kông
34.7
34.2
6.7
36.4
Đông Nam Á
39.1
40.6
42.0
42.7
Indonesia
30.2
35.8
39.5
40.6
Malaysia
31.0
33.7
35.7
36.8
Myanma
44.4
43.7
44.1
44.7
Philippin
32.9
35.0
36.2
36.6
Thái Lan
48.2
47.4
46.7
47.0
Việt Nam
47.7
48.1
50.1
50.2
Nam Á
21.6
33.3
34.6
35.8
Bangladesh
5.4
43.0
40.7
42.2
Ấn độ
29.4
33.8
31.2
32.1
Nê pan
39.3
39.4
40.3
40.5
Pakistan
9.0
23.4
26.1
28.5
Srilanka
25.0
27.0
34.6
35.7
Nguồn: ADB (1999), Chính sách về giới và phát triển
Bảng trên cho thấy, phụ nữ tham gia lực lượng lao động tăng dần trong gần 3 thập kỷ qua và tuỳ theo khu vực mà nữ giới chiếm khoảng hơn 1/3 đến 1/2 trong toàn bộ lực lượng lao động ở một số nền kinh tế châu Á
Bảng trên cũng cho thấy sự khác biệt lao động nữ ở một số nền kinh tế châu Á. Phụ nữ tham gia lực lượng lao động cao nhất ở Đông Nam Á, sau đó là Đông Á và Nam Á. Theo thời gian, tỷ lệ phụ nữ tham gia lực lượng lao động tăng dần, tăng nhanh nhất là ở Nam Á (từ 21,6% lên 35,8%), gấp 1,5 lần trong thời kỳ 1970-1995. Tiếp đó là Đông Á 6,3% (từ 33,6% lên 39,9%); Đông Nam Á tăng 3,6% (từ 39,1% lên 42,7%). Có sự khác biệt này, đặc biệt là ở Nam Á, theo chúng tôi do những yếu tố tác động đến phụ nữ như văn hoá, chính trị, tôn giáo. Nam Á xuất phát điểm với tỷ lệ thấp (21,6%) sau 1/4 thế kỷ đã tăng lên 1,5 lần, trong khi đó tốc độ tăng lao động nữ ở 2 khu vực còn lại chậm hơn. Xu hướng biến đổi này của các nước châu Á cũng phản ánh một xu thế chung của các quốc gia khác trên thế giới, đặc biệt là ở những nước đang phát triển
Nghiên cứu cho thấy rằng đàn ông thường tham gia lực lượng lao động ngoài xã hội khi ở độ tuổi 20-60 và tỷ lệ tham gia là hơn 90% ở tất cả các nước. Tỷ lệ nữ tham gia lực lượng sản xuất rất khác nhau trên mỗi nước cũng như trong từng vùng của mỗi nước. Năm 1990, ở Trung Đông và Bắc Phi cứ 10 đàn ông thì có 2 phụ nữ tham gia lực lượng lao động ngoài xã hội trong khi đó tỷ lệ này là 3/10 ở Nam Á, 6/10 ở hạ Sahara và 7/10 ở Đông Nam Á. Trên phạm vi toàn thế giới tỷ lệ nữ tham gia lực lượng lao động xã hội là 41% nhưng ở các nước đang phát triển con số tương ứng là 31% [76, tr. 17]. Nhưng chỉ sau đó 3 năm, một nghiên cứu đặc biệt lại nói rằng 84% phụ nữ nông thôn tham gia lực lượng sản xuất. Bản điều tra trước đó đã bỏ không tính đến những hoạt động như là làm vườn, chăn nuôi gia súc trong nhà. Ở Ấn Độ lại có những định nghĩa khác nhau về “việc làm” dẫn đến đã có kết quả trong đánh giá tỷ lệ phụ nữ tham gia thấp là 13% và cao là 88% [78, tr. 17]
Phụ nữ thường là trụ cột của nền kinh tế nông thôn, nhưng trong nền kinh tế hiện đại hoá dần dần họ có ít lợi thế. Trong khi nam giới đi tìm công ăn việc làm hưởng lương ở các thành phố, phụ nữ đóng vai trò chủ yếu trong các nông trại quy mô nhỏ thường là những mảnh đất nhỏ và có thu nhập thấp hơn so với các hộ gia đình có đàn ông đứng đầu. Khối lượng công việc của phụ nữ là nặng nhọc do phải nuôi nấng trẻ con (5 đứa trẻ trong một gia đình cỡ trung bình ở nông thôn các nước kém phát triển) phải lấy nước, kiếm củi, làm cỏ nhiều hơn với những giống mới và những công việc nông trại khác do áp lực dân số nông thôn tăng lên. Ngoài ra, khi những sáng chế công nghệ làm tăng năng suất của các loại cây trồng mang tính thương mại, những người đàn ông thường chuyển hướng diện tích gieo trồng, không trồng các loại cây lương thực của phụ nữ.
Bảng 1.7: So sánh phụ nữ với nam giới:
Tỷ lệ việc làm/dân số, tỷ lệ làm việc và thất nghiệp (%)
1990
1998
1999
Tỷ lệ việc làm/dân số
Nam giới
78.2
76.0
76.6
Phụ nữ
52.5
54.4
55.4
Tỷ lệ lực lượng lao động/dân số
Nam giới
82.7
81.2
81.5
Phụ nữ
56.4
58.8
59.5
Tỷ lệ thất nghiệp
Nam giới
5.4
6.4
6.0
Phụ nữ
6.9
7.6
6.9
Nguồn: ILO (2001), World Employment Report
Số liệu tỷ lệ việc làm/dân số cho thấy trong khi phụ nữ tham gia lao động ngày càng tăng từ 52,5% lên 55,4% thì nam giới lại giảm từ 78,2% xuống 76,6%. Điều này tương ứng với tỷ lệ lực lượng lao động/dân số, tỷ lệ phụ nữ tăng từ 56,4% lên 59,5%, trong khi nam giới giảm từ 82,7% xuống 81,5%. Đáng lưu ý rằng tỷ lệ thất nghiệp của nam giới tăng 0,6% trong khi tỷ lệ này ở phụ nữ không tăng.
Dưới đây là vai trò lao động nữ nông thôn ở một số quốc gia đang phát triển trong khu vực châu Á:
Vai trò của lao động nữ ở nông thôn Trung Quốc
Trung Quốc là một trong những quốc gia có tỷ lệ dân số hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp lớn nhất thế giới, ở quốc gia này lao động nông thôn có một vai trò quan trọng. Phụ nữ Trung Quốc cũng đã tham gia nhiều vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước. Từ sau khi đất nước tiến hành cải cách và mở cửa đến nay, phụ nữ Trung Quốc đã có nhiều tiến bộ vượt bậc. Hiện nay phụ nữ chiếm 44% tổng số lực lượng lao động trong xã hội, ở khu vực nông thôn, phụ nữ chiếm khoảng 50% lực lượng lao động, ở khu vực viên chức nhà nước, phụ nữ chiếm khoảng 38% (với khoảng 56 triệu phụ nữ). Họ tham gia vào hầu hết các lĩnh vực như công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, kiến trúc, giao thông vận tải, y tế, giáo dục, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội... Nông thôn Trung Quốc hiện nay có hơn 120 triệu người làm việc trong các xí nghiệp hương trấn, trong đó 40% lực lượng lao động là phụ nữ [61, tr. 66]
Khi sản xuất nông nghiệp được tập thể hoá các quyết định phân phối được chuyển từ hộ gia đình sang các hợp tác xã thì chính sách tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào sản xuất nông nghiệp được thực hiện rất nhanh chóng. Tỷ trọng của phụ nữ nông dân trong độ tuổi làm việc tham gia vào sản xuất nông nghiệp đã tăng từ dưới 40% vào cuối những năm 40 lên 50-70% vào giữa những năm 50 và 60-80% vào những năm 60 và 70 và số ngày trung bình mà phụ nữ làm việc trong sản xuất nông nghiệp cũng tăng lên rất đáng kể. Sự gia tăng tham gia của phụ nữ vào sản xuất nông nghiệp dường như là sự thay đổi quan trọng duy nhất mà phụ nữ nông dân Trung Quốc đạt được trước năm 1978.
Ngoài việc tham gia vào sản xuất nông nghiệp, một số phụ nữ nông dân còn được lựa chọn trong số người rời bỏ nông nghiệp. Trong những năm 60 và 70, phụ nữ chiếm tới 25% những người được lựa chọn để làm việc trong các xí nghiệp quốc doanh, 20% thanh thiếu niên được chọn đi học tiếp ở các thành phố, 32% số bác sĩ, 40% số giáo viên ở nông thôn, và khoảng 30% được cử vào các xí nghiệp công xã. Tuy nhiên, phần lớn phụ nữ nông thôn làm việc trong sản xuất nông nghiệp. Cuộc điều tra dân số năm 1982 cho thấy trong số phụ nữ làm việc ở nông thôn Trung quốc, 92% làm việc trong nông nghiệp, so với con số 85% của nam giới [70, tr. 105].
Quá trình rời bỏ đất đai của nông dân cũng làm thay đổi sự phân bố công việc sản xuất nông nghiệp ngay trong các hộ gia đình. Do số nam giới rời bỏ đất đai nhiều hơn phụ nữ cho nên quá trình phát triển phi nông nghiệp nhanh chóng ở nông thôn đã dần tới hiện tượng “phụ nữ hoá” sản xuất nông nghiệp ở một số khu vực Trung quốc (đặc biệt là ở miền nam Jiangsu và châu thổ sông Ngọc ở Quảng Đông). Nhiều báo cáo chỉ ra rằng, trong những năm 80, do nam giới trong các hộ gia đình hoặc tham gia vào các công việc phi nông nghiệp hoặc vắng mặt ở làng xã trong thời gian dài cho nên phụ nữ đảm đương phần chủ yếu trong công việc đồng áng (thường với sự giúp đỡ của thiếu niên và những người đứng tuổi)
Những thay đổi này sâu rộng như thế nào? Tổng số lao động tăng lên ở Trung Quốc từ 1982 đến 1990 là 125,7 triệu người, trong số đó 42,3 triệu (hay 33,6%) tìm được công việc ngoài lĩnh vực nông nghiệp [68, tr. 107]. Tỷ trọng của những công nhân xuất thân từ các hộ nông dân là bao nhiêu? Và trong số đó thì phụ nữ chiếm bao nhiêu? Dù rằng không thể đưa ra được các câu trả lời chính xác, nhưng có những lý do để tin rằng một phần quan trọng các công nhân phi nông nghiệp mới xuất thân từ các hộ nông dân trong số họ có nhiều phụ nữ.
Bảng 1.8: Tổng số lao động và lao động nữ từ các hộ nông nghiệp
ở các khu vực thành thị và nông thôn theo từng ngành ở Trung quốc, 1990
Công nhâna Những người từ 15 tuổi trở lên có làm việc thường xuyên hoặc tạm thời nhưng đã làm việc được 16 ngày trong giai đoạn 6 tháng trước khi điều tra dân số
từ các hộ nông nghiệpb Các cá nhân ở Trung quốc đăng ký tên gọi hoặc “hộ nông nghiệp” “hộ phi nông nghiệp”. Sự khác biệt cơ bản là các hộ nông nghiệp tự cung tự cấp lúa gạo trong khi các hộ phi nông nghiệp phải mua lương thực từ kho Nhà nước với giá chính thức thành viên của các công xã (tức là nông dân) đều đăng ký như là các hộ nông nghiệp
Tổng số
Thành thịc Thành thị được định nghĩa như là tập hợp cả các quận huyện thành thị thuộc những thành phố có tổ chức cơ cấu quận huyện; các huyện dân cư ở những thành phố không tổ chức cơ cấu quận huyện thành thị; các vùng dưới sự quản lý của hội đồng khu vực thuộc những thị trấn thị xã chịu sự điều hành của các thành phố không tổ chức cơ cấu huyện thị và các thành phố nhỏ (thị trấn thị xã) dưới sự quản lý của các tỉnh. Nông thôn là tất cả những vùng còn lại.
Nông thôn
Tổng số (000) 100%
522784
59627
463156
Tỷ lệ %
- Ở trong nông nghiệp
88.6
62.4
92.0
- Ngoài nông nghiệp
11.4
37.6
8.0
Phụ nữ (000)
241201
27113
21088
Phần trăm của
- Nông nghiệp
91.2
67.5
94.2
- Ngoài nông nghiệp
8.8
32.5
5.8
(Nguồn: Uỷ ban các vấn đề xã hội của quốc hội Việt Nam và cơ quan phát triển quốc tế Canada (1995), Kỷ yếu hội thảo: Vai trò giới tính và nguồn nhân lực trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội)
Vai trò của lao động nữ ở nông thôn Malaysia
Việc thực hiện các chương trình phát triển trong những năm 1970 cho thấy sự phát triển nhanh chóng các hoạt động về lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ mà trong đó sự thu hút phụ nữ trong lực lượng lao động ở mức độ nhanh hơn và tỷ lệ cao hơn. Điều này dẫn đến một sự giảm sút tỷ lệ lao động nữ trong nông nghiệp. Năm 1957, số liệu điều tra dân số cho thấy, 77% phụ nữ làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, năm 1986, tỷ lệ này còn 27,5%. Như thế trong vòng 30 năm tỷ lệ lao động nữ nông nghiệp giảm gần 50%, bình quân 1,6%/năm. Tốc độ giảm nhanh vào giai đoạn 75-86, từ 50,3% còn 27,5%, giảm bình quân 2,1%/năm. Sự giảm lao động nữ trong nông nghiệp là hệ quả của việc chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, cơ cấu kinh tế. Như chúng ta thấy là động nữ tăng nhanh ở các lĩnh vực công nghiệp (17-22,5%) và dịch vụ (30,6-47,5%). Như đã chỉ ra ở bảng sau sự phân chia tỷ lệ lao động nữ trong lĩnh vực nông nghiệp đã giảm nhanh:
Bảng 1.9: Sự phân chia tỷ lệ lao động nữ trong các lĩnh vực tại Penisular, Malaysia từ 1975-1986
1
2
3
4
5
6
7
1975
50.3
0.4
17.0
0.9
0.1
0.7
30.6
1979
43.8
0.4
19.9
0.9
0.3
1.0
33.6
1980
40.2
0.4
20.7
1.0
0.2
1.0
36.4
1981
37.6
0.3
21.8
1.3
0.3
1.3
37.4
1982
33.4
0.4
22.1
1.3
0.1
1.0
41.7
1983
30.9
0.5
23.4
1.5
0.0
1.0
42.7
1984
29.9
0.3
22.4
1.3
0.1
1.2
44.8
1985
28.9
0.3
21.9
1.3
0.0
1.4
46.2
1986
27.5
0.3
22.5
1.0
0.0
1.2
47.5
Nông nghiệp
Mỏ đá và khai thác quặng đá
Công nghiệp
Xây dựng
Điện, gas, nước và dịch vụ vệ sinh
Giao thông, trông kho và liên lạc
Các dịch vụ
(Nguồn: Jamilah Ariffin (1992), Women and Development in Malaysia)
Vai trò của lao động nữ nông thôn Hàn Quốc
Trước đây ở nông thôn, nông nghiệp chủ yếu dựa vào lao động chân tay. Vì vậy, mỗi khi vào vụ, bất kỳ già trẻ, gái trai đều phải tham gia vào công việc. Sau khi tầng lớp thanh niên, trung niên di chuyển đến đô thị trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá những năm qua, sức lao động chủ yếu chỉ là người già và phụ nữ, đồng thời hiện tượng nữ hoá và lão hoá ngày càng trầm trọng. Năm 1990, số phụ nữ tham dự vào công việc đã lên tới 45%.
Bảng 1.10: Biến đổi tỷ lệ cơ cấu thời gian lao động của nhà nông
theo giới tính (%)
Năm
Lao động gia đình
Đổi công
Tổng số
Nam
Nữ
Nam
Nữ
Nam
Nữ
1967
69.3
30.3
73.4
26.6
71.9
28.1
1971
65.8
34.2
62.9
37.1
66.7
33.3
1975
64.6
35.4
69.3
30.7
66.7
33.3
1980
58.3
41.7
49.5
50.5
57.4
42.6
1985
59.3
40.7
46.9
53.1
57.2
42.8
1990
55.4
44.6
36.5
63.5
52.7
47.3
Nguồn: Jeong Nam Song (1996), Một số đặc điểm của nông thôn Hàn Quốc
Bảng trên cho thấy thời gian lao động của phụ nữ so với nam giới năm 1967 là 30,3%, năm 1990 là 44,6%. Đặc biệt về mặt đổi công của phụ nữ trong cùng thời gian đó tăng lên từ 26,6% (năm 1967) đến 63,5% (năm 1990) gấp đôi so với đổi công của đàn ông
Thực tế, những năm 60 lực lượng lao động ở nông thôn rất phong phú nên chỉ có 1/3 số người làm nghề nông là tham gia vào công việc, lao động già và lao động nữ trở thành thứ yếu. Song hiện nay đại bộ phận mọi người đều đã tích cực tham gia lao động. Cùng với họ tầng lớp cư dân phi kinh tế dưới 14 tuổi cũng đã được huy động vào làm việc.
Mặc dù nông nghiệp nông thôn Hàn Quốc đã có trình độ cơ khí hoá cao nhưng số người trong mỗi hộ không nhiều, lại còn phải sử dụng lao động vào việc bảo dưỡng máy móc,... nên tỷ lệ lao động trong các hộ gia đình năm 1967 chiếm tới 78% và năm 1990 là 80,7%. Thời gian làm việc bình quân của một nông dân năm 1967 là 568,99 giờ, năm 1990 là 923,95 giờ (tính bình quân thời gian làm việc của một hộ nông nghiệp là 1,592,69 giờ) [43, tr. 353]
1.3 Chính sách của Nhà nước tác động đến lao động nữ ở các nước đang phát triển
Ở các nước đang phát triển, các chính sách của Nhà nước tác động đáng kể đến sự phát triển nguồn nhân lực. Tuy nhiên, đối với lao động nữ, sự tác động của các chính sách lại rất có chừng mực.
1.3.1 Chính sách giáo dục
Mặc dù rất nhiều nước đã ban hành luật giáo dục bắt buộc, coi giáo dục cơ sở là một quyền của con người, không có sự phân biệt về giới nhưng trong nhiều thiết chế, cách tổ chức thực hiện giáo dục đã ngăn cản các bé gái đến trường nhiều hơn các bé trai. Thí dụ, vấn đề không có các cô giáo trong các trường học ở Pakistan, không có các nhà vệ sinh riêng biệt trong các trường học ở Bangladesh là những rào cản văn hoá ngăn cản các em gái không đến trường [40, tr. 186]. Như vậy, việc không tính đến ảnh hưởng của sự phân biệt và bất bình đẳng giới đối với việc thực hành các quyền cơ bản của con người đã làm suy yếu hiệu lực của các quy định của pháp luật.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Khi phụ nữ không có cơ hội học hành thì họ sẽ không có quyền quyết định trong gia đình và do đó gặp phải các trở ngại nghiêm trọng trong việc nuôi dạy những đứa con khoẻ mạnh và giỏi giang. Họ cũng có xu hướng sinh nhiều con hơn số họ muốn, làm tăng thêm các áp lực lên gia đình và chính bản thân họ. Do vậy, việc giáo dục con gái rất quan trọng để cải thiện dinh dưỡng trong gia đình và làm giảm tỷ lệ sinh đẻ cũng như tỷ lệ trẻ tử vong. Tuy nhiên, ở hầu hết các nước đang phát triển đặc biệt là ở Nam Á, Trung Đông và châu Phi, khuynh hướng giáo dục thiên về tuyển chọn học sinh nam đang được chú trọng. Các bậc cha mẹ coi việc giáo dục cho con gái là ít hữu hiệu hơn đối với việc giáo dục cho các con trai. Họ luôn luôn sợ việc giáo dục như vậy sẽ cản trở triển vọng hôn nhân hay cuộc sống gia đình của con gái họ. Giáo dục cho một cô gái có thể đem đến ít lợi ích kinh tế hơn, đặc biệt là nếu cô ta gặp phải sự phân biệt đối xử trong công việc nếu lấy chồng sớm, hoặc không làm việc nữa và chuyển về sống ở làng quê của chồng.
Bên cạnh việc học hành, lao động nữ thường phải đối đầu với một trở ngại về các chính sách hỗ trợ sản xuất, khuyến nông. Các nghiên cứu cho thấy rằng các đại diện khuyến nông tập trung vào nam nông dân, mặc dù nhiều khi phụ nữ là những người cấy trồng chính vì chồng của họ làm việc ở xa nông trại [39, tr. 147]
1.3.2 Chính sách về việc làm
Từ trước đến nay, nam giới có tỷ lệ tham gia lực lượng lao động cao hơn phụ nữ và hình thái này vẫn đang tiếp diễn. Nhưng mức độ tham gia lực lượng lao động của phụ nữ khác nhau rất nhiều giữa các vùng đang phát triển, trong đó tỷ lệ này chiếm 25% ở Trung Đông và Bắc Phi năm 1995 đến khoảng 45% ở châu Âu, Trung Á, Đông Á và vùng Thái Bình Dương [40, tr. 55]. Trong lực lượng lao động, phụ nữ và nam giới thường làm việc trong các ngành nghề khác nhau, trong đó phụ nữ hiện diện ít trong những công việc thù lao cao của khu vực chính thức và có mặt rất nhiều trong những ngành nghề không được trả lương của khu vực phi chính thức. Hơn nữa, nhìn chung, việc làm của phụ nữ thường ít được đảm bảo hơn việc làm của nam giới, trong đó phụ nữ thường tham gia nhiều trong các hoạt động phụ, tạm thời hoặc một công việc thất thường và những việc làm trong gia đình.
Các nước đang phát triển sử dụng nhiều công cụ luật pháp và các quy định tích cực để giải quyết các vấn đề giới đa dạng trong thị trường lao động. Một số nước can thiệp rất tích cực, điều tiết trực tiếp những quy định thuê mướn và sa thải công nhân của các công ty, tiền lương của công nhân và nhìn chung là điều chỉnh các mối quan hệ lao động. Một số nước hỗ trợ cho các hoạt động chăm sóc gia đình và một số khác lại giải quyết những tác động của giới trong hệ thống lương bổng của mình.
Nhiều chính phủ đưa ra luật lao động, trong đó đảm bảo thời gian của phụ nữ mới sinh con và hạn chế việc phụ nữ phải tiếp xúc với các hoạt động nặng nhọc và mạo hiểm. Tuy nhiên, ở một số nước điều này đôi khi đã dẫn đến giảm việc làm hay tiền lương của phụ nữ bởi vì nó làm tăng chi phí thuê mướn phụ nữ của người sử dụng lao động.
Bên cạnh đó ở nhiều nước đang phát triển, cùng tồn tại song song với hệ thống luật - luật pháp, còn có các luật tục, tôn giáo. Nhiều luật tục đã ngăn cản việc tham gia của phụ nữ trong thị trường lao động. Như tại Goatêmala, đàn ông có thể giới hạn các công việc mà vợ của họ có thể đảm nhận bên ngoài gia đình [39, tr. 147]. Điều này cũng là một nguyên nhân khiến cho phụ nữ có tỷ lệ tham gia lực lượng lao động thấp hơn nam giới.
1.3.3 Các chính sách về nông nghiệp và nông thôn
* Chính sách giá đầu ra
Các chính sách giá ở các nước đang phát triển ít khi chú ý đến phụ nữ mặc dù nó có thể ảnh hưởng tới đời sống của phụ nữ. Phụ nữ đã bị bỏ qua hoặc không được tham gia vào việc hình thành các chính sách đó. Một vài dẫn chứng về tầm quan trọng của chính sách giá tác động đến phụ nữ:
Giá trang trại thấp sẽ dẫn tới hộ nông dân sử dụng lao động làm thuê ít hơn, tăng cường sử dụng lao động gia đình (trong đó có phụ nữ), và như vậy sẽ làm giảm việc làm cho lao động từ các hộ ít đất. Ngược lại là giá trang trại cao.
Việc thay đổi giá theo mùa vụ có thể làm thay đổi sự cân đối các đầu vào lao động hoặc sử dụng đất hoặc thu nhập giữa nam và nữ.
Chính sách giá được sử dụng để thúc đẩy mở rộng quy mô cây trồng, ví dụ các cây xuất khẩu, mà với chúng đàn ông có sự kiểm soát các nguồn lực và thu nhập nhiều hơn phụ nữ. Bởi vậy sẽ làm giảm sự độc lập kinh tế và sự lựa chọn của phụ nữ.
Sự tồn tại của các ảnh hưởng có liên quan tới giới trong lĩnh vực chính sách giá không có nghĩa là chúng nhất thiết phải được tính đến trong chính sách giá. Một mặt các chính sách giá thường áp dụng rộng rãi và nhiều ảnh hưởng giới khác nhau - thậm chí có thể ngược nhau - có thể xuất hiện với cùng một chính sách giống nhau trong các cộng đồng nông dân khác nhau trong phạm vi một nước. Mặt khác, có thể có các tiêu chuẩn kinh tế bị gạt ra một bên trong tiếp cận với giá trang trại. Điều đó là do vấn đề giới không tính tới trong chính sách giá.
* Chính sách giá các yếu tố đầu vào
Các chính sách giá đầu vào cũng ít khi chú ý tới phụ nữ. Điều này có thể thấy được khi nói về giá đầu vào với nhiều lý lẽ giống như các lý lẽ đã gặp trong chính sách giá đầu ra. Tuy nhiên, kiểu cách, phân phối, tư vấn và các khía cạnh cây trồng đặc biệt của các đầu vào có các khía cạnh giới rõ rệt. Một số vấn đề tác động của chính sách giá đầu vào được chỉ ra như sau:
Khi áp dụng đầu vào cao thì sẽ yêu cầu nhiều thời gian lao động hơn, điều đó có thể hoặc không thể thực thi trong sự ràng buộc về cách thức phân công lao động và phân bố thời gian lao động giữa nam và nữ trong hộ gia đình.
Một đầu vào cụ thể như thuốc diệt cỏ sẽ tiết kiệm thời gian làm cỏ, điều đó có thể tiết kiệm thời gian cho phụ nữ khi họ là người làm cỏ.
Thông tin và các phòng hộ an toàn liên quan tới sử dụng các đầu vào hoá chất thường được chuyển cho đàn ông trong khi tại nhiều quốc gia phụ nữ là người sử dụng chúng. Điều này rõ ràng ảnh hưởng đến sức khoẻ và an toàn của phụ nữ.
Nói chung, phụ nữ không được dạy cách sử dụng phân bón và các đầu vào hoá chất khác cho hợp lý đã dẫn tới sự lãng phí, sử dụng sai, sử dụng cho các cây trồng không đúng,...
Như chúng ta đã thấy, chính sách đầu vào bao gồm một tập hợp các vấn đề chính sách về giá, sự tiếp cận và các thông tin về các đầu vào biến đổi phải mua, bởi vậy sẽ khó khăn để tổng quát hoá các ảnh hưởng về giới. Một yêu cầu rõ ràng là các cán bộ khuyến nông phải tư vấn cho phụ nữ hơn là cho nam giới khi phụ nữ tiến hành các công việc mà công nghệ mới gắn với họ.
* Chính sách tín dụng
Các dự án tín dụng chính thức đã không đặc biệt lưu ý đến vấn đề giới. Trong thực tiễn nam giới là chủ hộ thường được tiếp cận và đăng ký cho việc cung cấp tín dụng. Tuy nhiên người ta ngày càng thừa nhận rằng phụ nữ có thể sử dụng rất hiệu quả nguồn tín dụng theo quyền riêng của họ cho các hoạt động nhằm cải thiện đời sống và đảm bảo thu nhập cho gia đình họ. Sau đây là một số mặt tiêu cực của chính sách tín dụng khi đề cập đến vấn đề cung cấp tín dụng cho nam giới:
Nó tăng cường xu hướng phụ nữ bị loại trừ khỏi các hoạt động và nắm quyền điều hành kinh tế. Quyền này đang bị chuyển sang nam giới (chế biến thực phẩm và tiêu thụ sản phẩm là những ví dụ điển hình).
Tín dụng cho mua sắm máy móc, trang thiết bị để giảm bớt sức lao động có thể đẩy phụ nữ ra khỏi các hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp hơn là nam giới.
Tín dụng cho sản xuất cây công nghiệp trong đó có nam giới tham gia có thể gia tăng các mẫu thuẫn trong sử dụng đất đai và sức lao động giữa nam giới và nữ giới.
Trong một số trường hợp khi các dự án tín dụng thường hướng từ nam giới có thể thay thế các hệ thống tín dụng không chính thức do phụ nữ điều hành.
Chẳng có một lý do bào chữa cho các chính sách tín dụng thiên hướng về nam giới. Phụ nữ có tiềm năng to lớn đối với việc sử dụng tín dụng như đã được thử nghiệm tại ngân hàng Grammen ở Bangladesh và từ nhiều chương trình tín dụng phi chính phủ khác. Có thể nói rằng phụ nữ có độ tin cậy cao hơn nam giới trong việc sử dụng tín dụng cho nhiều mục đích và trong việc hoàn trả lại vốn vay.
* Chính sách cơ giới hoá
Trong lịch sử nông nghiệp, phụ nữ thường bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi các kỹ thuật cơ giới hoá sau thu hoạch trong đập lúa và xay xát lúa hơn là cơ giới hoá đồng ruộng. Cơ giới hoá đập lúa và xay xát lúa gây ra sự giảm nghiêm trọng cơ hội việc làm của phụ nữ trong các cộng đồng dư thừa lao động ở vùng Nam và Đông Nam Á.
Những hậu quả giới khác của cơ giới hoá đa dạng và hỗn tạp hơn. Đôi khi người ta bàn cãi rằng, đối với vùng châu Phi-Xahara, lao động theo thời vụ làm hạn chế đến việc tăng sản lượng và cơ giới hoá chọn lọc có thể giúp loại bỏ hạn chế này. Vì nữ nông dân chiếm một tỷ lệ lao động nông thôn cao nên thường thì sự phân bố thời gian của phụ nữ là một ràng buộc có tác dụng trong tranh luận này. Khó khăn là máy cày và các loại công cụ tương tự thích hợp với các trang trại quy mô nhỏ lại thường không phù hợp với đất đai và các điều kiện khí hậu điển hình cho phần lớn vùng châu Phi - Xahara.
Cơ giới hoá là một vấn đề chính sách mà rõ ràng là cho phép xem xét các ảnh hưởng khác nhau đến phụ nữ và nam giới của các trang trại hoặc các kỹ thuật sau thu hoạch. Cơ giới hoá đôi khi được tán thành vì việc giảm bớt công việc nặng nhọc trong khung cảnh các hoạt động hiện thời giữa các nông hộ khác nhau, và các chọn lựa việc làm khác nhau cho phụ nữ - những người có rất ít sự lựa chọn cho sự sống còn của gia đình.
* Chính sách cải cách ruộng đất
Các quyền độc lập của phụ nữ đối với đất đai ít được quan tâm trong cải cách ruộng đất. Cải cách ruộng đất thường có xu hướng không nhạy bén với giới hoặc thiên về phía đàn ông, nhất là đối với việc đăng ký quyền sở hữu đất đai theo sau cải cách. Tại phần lớn các nước đang phát triển quyền làm chủ đất đai nằm trong tay nam giới.
Nếu định nghĩa cải cách ruộng đất là sự mở rộng nhất thời bao gồm tất cả các chính sách chi phối sự đăng ký lại đất đai, tư nhân hoá các loại đất chung và đất của cộng đồng và phân phối các loại đất công cộng thì phụ nữ thường bị tước đi các quyền đã được hình thành từ rất lâu về sở hữu đất trong quá trình cải cách. Điều đó có thể làm cho phụ nữ bị tách ra khỏi các quyết định phân phối nguồn lực, quản lý các sản phẩm tạo ra từ đất đai và khả năng mặc cả với đàn ông về thời gian lao động của phụ nữ. Tóm lại, các quyết định đăng ký đất đai thiên vị đàn ông có thể làm xấu đi một cách nhanh chóng vị trí phụ thuộc xã hội của phụ nữ vào đàn ông. Sau đây là một vài ví dụ:
Cải cách ruộng đất có tính chất phân phối lại sẽ đăng ký đất mới với tên của đàn ông, ngay cả trong trường hợp nếu phụ nữ trước đây là người chủ độc lập của một mảnh ruộng trên đất đai của địa chủ.
Cải cách ruộng đất, thuê mướn ruộng đất và trong các hợp đồng, tên của những người thuê là đàn ông, khi mà trước đây phụ nữ cũng như đàn ông đều có quyền và nghĩa vụ về lĩnh canh.
Quyền lợi truyền thống về thừa kế đất đai của phụ nữ đã bị phớt lờ khi xây dựng luật về phân chia quyền sở hữu đất công và đất làng cho sở hữu tư nhân và đất đai trở thành tài sản riêng của người đàn ông đứng đầu hộ gia đình, do vậy đôi khi chuyển quyền thừa kế từ phụ nữ cho đàn ông.
Luật đăng ký lại đất đai được xây dựng để xoá bỏ sự bất bình thường và mơ hồ từ các hồ sơ quyền sở hữu hiện có đã bỏ qua quyền sở hữu ruộng đất theo truyền thống của phụ nữ và chuyển đất đai từ chỗ thuộc sở hữu của phụ nữ sang cho chủ hộ là đàn ông
Các dự án liên quan đến đất đai bao gồm các dự án về thuỷ lợi, các dự án phát triển nông nghiệp và các dự án định cư đều phân bố quyền sở hữu các khu đất được cải tạo cho đàn ông, mặc dù trước đây các khu đất này là quyền sử dụng truyền thống của phụ nữ.
So sánh đối chiếu 13 cuộc cải cách ruộng đất ở Mỹ La tinh có thể kết luận rằng, chúng đều có xu hướng làm lợi cho đàn ông ngay cả khi sử dụng đất công hoặc đất của tập thể sau cải cách đã được thể chế hoá. Nguyên nhân chính của hiện tượng này là những người chủ hộ đàn ông luôn được xem như là người hưởng lợi của cải cách và vì vậy tất cả các biện pháp giúp đỡ (đầu vào, tín dụng, thông tin, khuyến nông...) đều hướng vào chủ hộ đàn ông. Thậm chí trong các hợp tác xã sau cải cách, phụ nữ bị loại trừ ra khỏi tổ chức và các quyết định về đất đai.
Xu hướng đăng ký đất đai theo tên của đàn ông phản ánh sự chi phối sâu sắc của đàn ông trong tất cả các xã hội. Bởi vì hệ thống luật pháp và bộ máy quan liêu có xu hướng do đàn ông cai trị, những sự bào chữa cho phụ nữ bị các cơ quan ra quyết định cho là quan điểm thiếu số hoặc bị bỏ qua. Vẫn theo cách nhìn bên ngoài mà xét, chính sách cải cách ruộng đất có thể được đề cập nhiều hơn so với các chính sách khác, có tính đến quyền của phụ nữ trong việc thực hiện chính sách.
* Chính sách thuỷ lợi
Những dự án thuỷ lợi có xu hướng xem nhẹ vấn đề giới. Vấn đề này có lẽ ít nghiêm trọng hơn ở châu Á, mặc dù thiên vị nghiêng về nam giới trong quyền sở hữu ruộng đất, trong việc phân công lao động, mua bán đầu vào, dịch vụ khuyến nông... cũng nổi lên ở đây như ở các nơi khác. Tuy nhiên, phần lớn các trường hợp nghiên cứu nhấn mạnh về giới trong các công trình thuỷ nông liên quan đến kinh nghiệm của châu Phi. Một số ví dụ điển hình được tóm tắt ở đây:
Trong một số dự án về tưới lúa ở châu Phi, những khoảng ruộng được tưới giao cho nam giới, thậm chí trong mọi trường hợp phụ nữ trước đây chịu trách nhiệm về việc trồng lúa.
Trong một số dự án, phụ nữ vẫn tiếp tục làm việc ở những đồng lúa ngập úng, do vậy làm vô hiệu hoá dự án thuỷ lợi làm giảm đáng kể tiềm năng của việc sử dụng đất.
Một cách tổng quát hơn, các công trình thuỷ nông ở châu Phi đã dẫn đến những mâu thuẫn giữa nam và nữ về phân bố thời gian của phụ nữ và kiểm soát thu nhập bằng tiền.
Ở một số trường hợp, các mâu thuẫn này trở nên quyết liệt dẫn đến hậu quả xấu của công trình. Ở các trường hợp khác chúng được giải quyết một phần bằng cách đàn ông trả tiền cho thời gian lao động của phụ nữ.
Trong một dự án, các nhà tài trợ nước ngoài cố gắng đảm bảo rằng diện tích được tưới tiêu được phân bổ cho phụ nữ nhưng chúng lại được ban điều hành dự án ở địa phương lật ngược lại để cho những khoảnh ruộng đó lọt vào tay nam giới.
Điểm cuối cùng này làm nổi bật lên một số vấn đề thú vị. Chính sách kêu gọi ủng hộ phụ nữ từ xa có thể bị xem như hoặc bị phá vỡ bởi các nhà chức trách địa phương, thậm chí có khi một số lượng tiền lớn được cấp từ bên ngoài. Tình hình nghịch lý nổi lên là những người ngoài trở thành những người tiên phong bảo vệ quyền truyền thống của phụ nữ, trong khi các tổ chức quyền lực quốc gia lại làm xói mòn hoặc thủ tiêu những quyền lợi đó.
Nói tóm lại, các chính sách của nhà nước ở các nước đang phát triển dù là thiên vị nam giới hoặc trung lập về giới thì đều có thể có một kết cục khác biệt giới. Lao động nữ không phải chỉ đối mặt với sự bất lợi trong giáo dục, việc làm, trong sở hữu ruộng đất mà còn cả trong việc tiếp cận với các nguồn lực và các dịch vụ thông tin có thể làm tăng sản lượng.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG NỮ Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.1 Bối cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam ảnh hưởng đến lao động nữ ở nông thôn
2.1.1 Đổi mới nề._. ưu tiên đào tạo phụ nữ, vì họ là lực lượng quan trọng trong quản lý kinh tế hộ, quản lý các cơ sở sản xuất quy mô vừa và nhỏ.
Để xây dựng giai cấp nông dân, trong đó phụ nữ chiếm số đông, ngang tầm công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là chủ thể của nền nông nghiệp mới, bên cạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, cần triển khai phát triển mạnh mẽ hơn việc dạy nghề sao cho phù hợp với yêu cầu phát triển các làng nghề truyền thống và thương mại - dịch vụ, ưu tiên các nghề liên quan đến công nghiệp chế biến nông sản. Để làm được điều này, nhà nước cần có những chính sách riêng về đào tạo nghề cho nông dân nói chung và phụ nữ nông thôn nói riêng. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện và nâng cao chất lượng hệ thống dạy nghề để lao động nông nghiệp được đào tạo nghề và trở thành lực lượng hùng hậu có tri thức khoa học, kỹ năng sản xuất tiên tiến trong nông nghiệp, nông thôn thời kỳ đổi mới. Làm được những điều đó, chính là tạo nên đội ngũ lao động có trình độ kỹ thuật, chuyên môn và tay nghề cao ở các vùng nông thôn; vì vậy sẽ tạo nên những sản phẩm kinh tế có gía trị cao do sự khác biệt giữa lao động phức tạp và lao động giản đơn, như C.Mác đã từng chỉ ra: “lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn”. Cùng sản xuất một loại sản phẩm như lao động phức tạp có hàm lượng chất xám cao sẽ tạo ra sản phẩm có giá trị kinh tế hơn rất nhiều so với sản phẩm của lao động giản đơn.
3.3 Các giải pháp chủ yếu phát huy vai trò của lao động nữ nông thôn trong thời gian tới
3.3.1 Nhóm giải pháp nâng cao năng lực cho lao động nữ
* Về học vấn và chuyên môn kỹ thuật
Khu vực nông thôn thiếu nguồn nhân lực có chất lượng cao, có trình độ, hiểu biết, kỹ năng và kinh nghiệm thực tiễn cần thiết phục vụ sản xuất kinh doanh. Những quy định, chính sách của nhà nước chưa được phổ biến và giải thích đủ rõ và đủ sâu cho dân cư nông thôn để họ có thể quyết định các vấn đề liên quan tới tổ chức kinh doanh và sản xuất kinh doanh. Nhiều luật pháp và pháp lệnh quan trọng có ảnh hưởng lớn tới tổ chức và vận hành các hoạt động kinh doanh như Luật Lao động, Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty, Pháp lệnh về kế toán,... vẫn chưa được nhiều người biết tới và hiểu rõ. Các thủ tục liên quan tới việc tổ chức kinh doanh cũng trong tình trạng tương tự. Tình trạng người có tay nghề, có khả năng kinh doanh bỏ nông thôn ra thành thị vẫn tiếp tục diễn ra. Một số địa phương đã tìm cách khắc phục tình trạng này bằng cách tạo các điều kiện thuận lợi về thủ tục kinh doanh, về địa điểm để thu hút các nhà kinh doanh ở các đô thị chuyển về nông thôn và đã thu được một số kết quả bước đầu. Tuy nhiên nếu xét về mặt kinh tế thì trên mặt bằng chung hiện nay, những ưu tiên dành cho các doanh nghiệp khi họ chuyển về nông thôn là chưa đủ sức hấp dẫn.
Một ước tính không chính thức đưa ra tỷ lệ cán bộ làm công tác khuyến nông trên hộ nông dân là 1:50.000 hộ. Từ trước tới nay các cán bộ khuyến nông mà 25% trong số họ là phụ nữ đã được khuyến khích để vận động nông dân thực hiện những mục tiêu sản xuất do Trung ương định ra. Thực tế, nếu cán bộ khuyến nông mong muốn xuống xã gặp nông dân thì họ gặp khó khăn do không có trợ cấp, thiếu phương tiện đi lại. Dịch vụ khuyến nông đặc biệt yếu trong việc đáp ứng những nhu cầu thông tin của phụ nữ, các nhóm bị thiệt thòi, đặc biệt ở những nơi xa xôi hẻo lánh và các dân tộc thiểu số.
Để cải thiện việc tiếp cận và liên quan tới dịch vụ khuyến nông đối với phụ nữ, theo chúng tôi cần chú ý:
Đào tạo vấn đề giới cho cán bộ trong các cơ quan nhà nước và tổ chức nhân dân. Cần phát triển các công cụ và hướng dẫn trong công tác kế hoạch hoá có tính nhạy cảm về vấn đề giới.
Xây dựng khả năng của các nhóm cộng đồng và những nhà lãnh đạo là phụ nữ trong việc tham gia vào các hoạt động xây dựng kế hoạch, trong việc quản lý các chương trình cộng đồng và trong việc tiếp thị các sản phẩm nông nghiệp.
Cũng cần khuyến khích thiết lập những mạng lưới để sao cho những người nông dân, nhóm nông dân tổ chức của nhân dân và các hợp tác xã có thể đối thoại và học hỏi lẫn nhau. Đặc biệt cần phải quan tâm đào tạo về quản lý các nguồn lực cho nữ giới cũng như các nhóm cộng đồng và làng xã.
Tăng cường sự tham gia của nữ nông dân vào đào tạo khuyến nông, đặc biệt là trong chăn nuôi, định ra chỉ tiêu về sự tham gia của phụ nữ trong các chương trình đào tạo thường kỳ, xây dựng các chương trình đào tạo thêm đặc biệt là cho nữ nông dân. Cung cấp dịch vụ chăm sóc trẻ cho các học viên để hạn chế những cản trở đối với sự tham gia của phụ nữ
Tăng cường sự tham gia của các em gái và phụ nữ vào đào tạo hướng nghiệp nông nghiệp.
Tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ với cơ hội việc làm phi nông nghiệp thông qua việc coi họ là đối tượng để phổ biến thông tin về luật doanh nghiệp mới, đào tạo kỹ năng phát triển kinh doanh và đào tạo nghề, tiếp cận với vốn vay chính thức với mức vốn cao hơn.
Tăng cường việc đa dạng hoá các hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp của phụ nữ nhằm đưa ra các hàng hoá có giá trị cao hơn như cây ăn quả, nấm, cá, gia cầm và các mặt hàng được được chế biến. Cung cấp những hỗ trợ cần thiết về tín dụng, phân tích thị trường và đào tạo cho các hoạt động đó.
Tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ với các công nghệ nông nghiệp phù hợp với cấp hộ gia đình gồm công nghệ sau thu hoạch và chế biến lương thực
Tăng cường công luận về vai trò của phụ nữ trong nông nghiệp thông qua các trường học, chính quyền địa phương và các tổ chức quần chúng.
* Về sức khoẻ
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sức khoẻ phụ nữ hiện nay đáng lo ngại, nhất là ở khu vực nông thôn, dịch vụ y tế còn nhiều khó khăn về cơ sở vật chất và đội ngũ nhân lực: “Đến năm 1999, cả nước có 3545 xã có bác sĩ (trong tổng số 10469 xã) đạt khoảng 33,9% nhưng các tỉnh miền núi mới chỉ đạt 22,2%. Những xã có bác sĩ làm việc cần bổ sung trang thiết bị và dụng cụ y tế, tăng cường thuốc thiết yếu để đáp ứng kỹ thuật cao hơn về phòng bệnh và chữa bệnh” [60]
Sức khoẻ rất quan trọng đối với người phụ nữ không chỉ vì nó cần cho các hoạt động sản xuất, mà nó còn quan trọng, cần thiết cho việc thực hiện các vai trò khác của giới như: vai trò sinh sản và nuôi dưỡng, vai trò cộng đồng... Sức khoẻ yếu kém sẽ không đảm bảo cho việc hoàn thành nhiệm vụ sản xuất mà công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi, đó là chưa kể việc sẽ khó khăn trong việc xây dựng một cuộc sống bền vững và một gia đình hạnh phúc nếu người phụ nữ luôn đau ốm.
Chú ý đến nâng cao sức khoẻ cho phụ nữ nói chung và phụ nữ ở các vùng nông thôn nói riêng, cần tập trung vào sức khoẻ sinh sản của phụ nữ. Thực hiện chức năng sinh sản, người phụ nữ hiện đang đương đầu với những gánh nặng về dân số - kế hoạch hoá gia đình do quan niệm của nam giới và thiếu sự chia sẻ của họ trong vấn đề này. Bên cạnh đó, điều kiện và chất lượng dịch vụ về dân số - kế hoạch hoá gia đình chưa đáp ứng tốt, dẫn đến những lo ngại về sức khoẻ của phụ nữ khi tỷ lệ nạo, hút thai cao, số lần mang thai và sinh nở nhiều. Số liệu cho thấy 5 tai biến sản khoa (băng huyết, nhiễm trùng hậu sản, sản giật, uốn ván và vỡ tử cung) là những nguyên nhân chính dẫn đến tử vong mẹ. Và phần lớn những nguyên nhân tử vong này sẽ tránh được nếu phụ nữ đi khám thai đầy đủ và sinh đẻ tại các cơ sở y tế. Vì thế, quan tâm đến chất lượng dân số trong phát triển không thể coi nhẹ vấn đề sức khoẻ sinh sản và quyền sinh sản của phụ nữ ở nông thôn. Cần nâng cao chất lượng dịch vụ sức khoẻ cộng đồng, nâng cao trách nhiệm của nam giới và sự chia sẻ của họ trọng lĩnh vực sức khoẻ sinh sản nói riêng và chăm sóc sức khoẻ nói chung. Bên cạnh đó, cần chú ý cải thiện môi trường lao động và sinh hoạt. Người phụ nữ ở nông thôn với gánh nặng của công việc sản xuất và gia đình, cùng với điều kiện sống chưa đầy đủ lại phải đương diện với vấn đề ô nhiễm môi trường, càng làm tăng thêm nguy cơ về sức khoẻ. Theo chúng tôi, bên cạnh những chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn nhằm nâng cao mức sống người dân, cần chú trọng đến công tác giữ gìn, bảo vệ môi trường nông nghiệp, nông thôn trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chú ý đến sự phát triển con người trong quá trình phát triển bền vững, đồng thời tăng cường tuyên truyền, giáo dục người dân nâng cao ý thức giữ gìn, bảo vệ môi trường sản xuất và sinh hoạt, trong lĩnh vực này, phụ nữ lại là lực lượng chủ đạo.
Chúng tôi tán đồng với ý tưởng của các nhà khoa học y tế về việc thành lập Vụ sức khoẻ nông thôn để chăm lo sức khoẻ cho người dân. Với tên gọi này, Vụ sẽ có nhiều khả năng phối hợp với các ngành khác trong việc giải quyết các vấn đề sức khoẻ cho người dân ở nông thôn. Bởi vì gần 80% người dân Việt Nam sinh sống ở nông thôn và khoảng 90% người nghèo sống ở nông thôn, việc thành lập Vụ sức khoẻ nông thôn sẽ thúc đẩy quá trình nâng cao và phát triển sức khoẻ cho cư dân ở khu vực nông thôn và đem lại cân bằng trong chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo trong đó đa số là phụ nữ.
3.3.2 Nhóm giải pháp phát huy năng lực của lao động nữ
Để phát huy tốt năng lực của lao động nữ nông thôn cần có những chính sách kinh tế - xã hội nông thôn phù hợp, tạo điều kiện khơi dậy được những tiềm năng, phẩm chất quý giá của phụ nữ.
Chính sách xã hội nông thôn không phải là một chính sách xã hội thuần nhất mà là một tập hợp các chính sách nhằm giải quyết các vấn đề rất phức tạp ở nông thôn. Nó chỉ được giải quyết một cách triệt để khi nó kết hợp thực hiện đồng bộ một cách hệ thống các chính sách kinh tế - xã hội nhằm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nông thôn theo mục tiêu xây dựng một nông thôn mới, thực sự dân chủ, công bằng, làm cho mọi người ở nông thôn có công ăn việc làm, có thu nhập ổn định, bảo đảm đời sống bền vững và thực hiện một xã hội nông thôn văn minh hiện đại. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, các chính sách xã hội ở vùng nông thôn càng có ý nghĩa quan trọng để góp phần xoá bỏ sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn, sự chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư ở nông thôn và tạo điều kiện cho phụ nữ nông thôn phát triển.
Những chính sách xã hội nông thôn như: chính sách xoá đói giảm nghèo, chính sách lao động-việc làm, chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình, chính sách ruộng đất, chính sách tín dụng, chính sách đào tạo và chuyển giao công nghệ, nhất là công nghệ vi sinh vào nông thôn... có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của phụ nữ. Trong phần này chúng tôi chỉ đề cập đến 2 trong nhiều chính sách kinh tế - xã hội nói trên.
Chính sách về quyền sử dụng đất của phụ nữ nông thôn
Điều 18 Hiến pháp 1992 quy định: Nhà nước giao đất cho các tổ chức, cá nhân sử dụng cố định lâu dài và người dân được quyền chuyển sử dụng đất theo quy định của pháp luật. theo quy định của Luật đất đai năm 1993 và Nghị định 64/CP năm 1993 của Chính phủ ban hành bản quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp, các hộ gia đình và các cá nhân, không phân biệt nam nữ, được nhận đất ổn định lâu dài để sản xuất khi có một trong các điều kiện là nhân khẩu thường trú, người đang đi học - đi nghĩa vụ quân sự hoặc người sống bằng nghề nông. Về đất ở có quy định bổ sung cho các số chị em phụ nữ tuổi trên 30 nhỡ thì quá lứa muốn ra ở riêng cũng được cấp đất riêng. Theo thống kê chưa đầy đủ, đến cuối năm 1997 có trên 7 triệu hộ gia đình ở nông thôn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và trên 4 triệu hộ được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở. Phần lớn các giấy này do cả vợ và chồng đứng tên hoặc do người chồng đứng tên với sự thoả thuận trước đó của người vợ với tư cách người chủ sử dụng đất hoặc sở hữu nhà ở. Có 12,7% phụ nữ đứng tên các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc sở hữu nhà với tư cách là các chủ hộ gia đình, thường là độc thân hoặc goá chồng. Trong quá trình giao đất ở nông thôn Việt Nam vừa qua, người phụ nữ cũng được xem xét bình đẳng như nam giới: được giao đất sử sụng lâu dài để làm nhà ở và sản xuất, được thực hiện đầy đủ cả 5 quyền trên diện tích đất được giao là quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp và thừa kế. Tuy nhiên, thực tiễn còn một số vấn đề nảy sinh cần được các nhà làm chính sách nghiên cứu đưa ra hướng giải quyết. Thí dụ, nhiều phụ nữ khi đi lấy chồng không còn được gia đình bố mẹ đẻ cho sử dụng đất cũ và cũng không được nhà chồng giao đất mới. Phụ nữ thường ít được hưởng đất thổ cư của cha mẹ để lại do tư tưởng trọng nam khinh nữ và phong tục tập quán lâu đời của các gia đình, họ tộc Việt Nam.
Chính sách tín dụng.
Điều 376 Bộ luật dân sự năm 1995 quy định: “Tổ chức chính trị - xã hội tại cơ sở có thể bảo lãnh bằng tín chấp cho cá nhân và hộ gia đình vay một khoản tiền nhỏ tại ngân hàng hay tổ chức tín dụng để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ theo quy định của Chính phủ”. Theo tinh thần này thì Hội phụ nữ có quyền bảo lãnh bằng tín chấp cho phụ nữ vay một khoản tiền nhỏ tại ngân hàng để sản xuất kinh doanh. Phụ nữ nông thôn được hưởng chính sách tín dụng chung của nhà nước quy định cho nông dân vay không cần thế chấp với số tiền 1 triệu đồng với cơ chế cho vay thông qua các tổ phụ nữ tiết kiệm, tổ tương trợ của nhân dân theo tinh thần Nghị định 14-CP ngày 2/3/1993 của Chính phủ. Hiện có khoảng 50% phụ nữ nông thôn đã được vay tín dụng với mức lãi suất thấp. Các hộ nghèo và hộ do phụ nữ làm chủ hộ được Nhà nước ưu tiên cho vay từ ngân hàng phục vụ người nghèo và quỹ hỗ trợ nông dân đồng thời được hướng dẫn kỹ thuật và cách thức sản xuất. Với phong trào “Ngày tiết kiệm vì phụ nữ nghèo”, Hội phụ nữ đã quyên góp được 70 tỷ VNĐ cho 26 vạn phụ nữ nghèo vay làm vốn sản xuất. Trong 5 năm từ 1992 đến 1997, Hội phụ nữ được Nhà nước phân bổ 23 tỷ VNĐ từ Quỹ quốc gia giải quyết việc làm, đã tạo thêm 14 vạn chỗ làm cho phụ nữ. Tuy nhiên, phụ nữ nông thôn vẫn có nhu cầu được đáp ứng nhiều hơn nữa về tín dụng, và đặc biệt là hỗ trợ về công nghệ và thị trường để sử dụng vốn vay có hiệu quả.
Ảnh hưởng của một số chính sách kinh tế - xã hội khác đối với phụ nữ
Đổi mới là chủ trương lớn của Đảng và nhà nước và đang được tiếp tục thực hiện. Trong lĩnh vực kinh tế, đổi mới được thể hiện ở các chính sách kinh tế: chính sách đầu tư, chính sách khoa học-công nghệ, chính sách giáo dục-đào tạo, chính sách giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho hộ nông dân, các chính sách về lao động và việc làm, chính sách xoá đói giảm nghèo... Những năm qua, các chính sách kinh tế - xã hội đó đã góp phần nâng cao địa vị của người phụ nữ trong gia đình, đặc biệt là việc tổ chức các hoạt động sản xuất kinh doanh trong gia đình và địa vị của người phụ nữ trong xã hội.
Một trong những đặc điểm của các chính sách kinh tế là không phải lúc nào cũng nêu trực tiếp đối tượng cụ thể của chính sách. Vấn đề giới, phụ nữ cũng không được đặt ra với quan niệm cho rằng chính sách kinh tế là của chung cho mọi đối tượng, nam cũng như nữ. Ngoài ra, không ít các nhà hoạch định chính sách cho rằng phụ nữ và giới là vấn đề xã hội, nằm ngoài phạm vi quan tâm của các chính sách kinh tế. Các số liệu và sự kiện đã nêu chứng tỏ chính sách kinh tế có tác động to lớn đối với phụ nữ như thế nào, đặc biệt trên những lĩnh vực như việc làm, vốn, thu nhập... Con người mà chính sách hướng tới chưa ở đâu và bao giờ lại là con người “chung chung” mà ngược lại, luôn luôn có những đặc điểm cụ thể về giới, dân tộc, học vấn, địa vị xã hội... Một chính sách có khả năng đi vào cuộc sống nhanh nhất là một chính sách đáp ứng tốt nhất những nhu cầu cụ thể và thiết thực của các nhóm đối tượng đặt ra. Điều đó giải thích vì sao các chính sách kinh tế cần quan tâm đến vấn đề xã hội, trong đó có khía cạnh giới mà mỗi chính sách kinh tế khi ban hành cần cân nhắc đầy đủ đến những tác động khác nhau có thể tạo ra cho phụ nữ và nam giới.
Trong những năm qua, quá trình chia ruộng đất diễn ra ở nhiều địa phương nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp trong việc phân hạng điền, đo đạc, bắt thăm... cho thấy một số biểu hiện phân biệt đối xử đối với phụ nữ nghèo, phụ nữ đơn thân. Số ruộng họ được nhận thường rơi vào những vùng không đủ nước, bạc màu, xa làng... Đặc biệt hiện nay, ở một nơi tại miền Bắc, có một bộ phân nông dân chỉ được cấp một phần ruộng theo quy định do còn nợ cũ với hợp tác xã. Tỷ lệ ruộng bị rút trong tổng số diện tích ruộng đất được giao cho hộ lên tới 44% ở Nam Hà, 40% ở Hoà Bình, 35% ở Hà Bắc. Đáng chú ý là trong số những hộ bị rút ruộng có nhiều nữ chủ hộ. Phần lớn họ là phụ nữ nghèo, đơn thân, cao tuổi, sức khoẻ yếu.
Điều này cho thấy việc thực hiện chính sách trên thực tế không hoàn toàn như trên văn bản. Sự bình đẳng giới có thể bị vi phạm bởi tác động của nhiều yếu tố. Việc hoạch định các chính sách kinh tế do vậy cần được tiến hành với nhận thức cao hơn về quyền lợi của phụ nữ để hạn chế tối đa các kẽ hở cho các hiện tượng lợi dụng chính sách, vi phạm nguyên tắc công bằng giới.
Đại hội Đảng lần thứ IX - lần đầu tiên trong lịch sử các đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam - đã đưa vào Văn kiện đại hội thuật ngữ giới. Khi đề cập đến vấn đề phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân: “Đối với phụ nữ, thực hiện tốt luật pháp và chính sách bình đẳng giới, bồi dưỡng, đào tạo nghề nghiệp, nâng cao học vấn; có cơ chế chính sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp, các ngành; chăm sóc và bảo vệc bà mẹ và trẻ em; tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt thiên chức người Mẹ, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc [22, tr. 126]
Tư tưởng về bình đẳng giới, một lần nữa lại được Đảng ta khẳng định trong quan điểm phát triển “Thiết thực chăm lo sự bình đẳng giới, sự tiến bộ của phụ nữ” [22, tr. 163].
KẾT LUẬN
Từ những nghiên cứu đã được trình bày trên đây, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
Thứ nhất, đa số các nước đang phát triển là các nước nông nghiệp. Ở các nước này, phụ nữ nông thôn có vai trò rất to lớn trong các hoạt động kinh tế-xã hội, trong việc sinh sản, nuôi dưỡng và giáo dục các thế hệ tương lai... Tuy nhiên, do những định kiến xã hội, do sức khoẻ thể lực kém, học vấn tay nghề thấp... nhiều tiềm năng của phụ nữ nông thôn chưa được khai thác, phát huy. Đây là một trong những nguyên nhân làm chậm, thậm chí kìm hãm sự phát triển kinh tế-xã hội của các nước đang phát triển. Bởi vậy, khai thác và phát huy tiềm năng của phụ nữ nông thôn là vấn đề cấp thiết đối với các nước này.
Thứ hai, phụ nữ nông thôn Việt Nam có những đặc trưng của phụ nữ nông thôn các nước đang phát triển, đồng thời còn có những đặc điểm riêng do những điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội quy định. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến lao động nữ nông thôn Việt Nam. Qúa trình đổi mới đã tác động mạnh mẽ, tạo điều kiện phát triển phụ nữ và lao động nữ nông thôn. Tuy nhiên, trên thực tế, sự phát triển lao động nữ ở nông thôn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển nông nghiệp, nông thôn; còn nhiều tiềm năng của lao động nữ nông thôn chưa được khai thác, phát huy. Nguyên nhân có nhiều, trong đó các chính sách kinh tế-xã hội có vị trí đặc biệt quan trọng.
Thứ ba, phát triển lao động nữ ở nông thôn là một nội dung phát triển con người, là điều kiện thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế-xã hội ở nông thôn. Phát triển lao động nữ ở nông thôn không chỉ là công việc của riêng phụ nữ, mà là công việc của toàn xã hội. Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp này. Các chính sách kinh tế-xã hội của nhà nước đều trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến sự nghiệp phát triển phụ nữ nói chung, lao động nữ ở nông thôn nói riêng. Do đó, mỗi chính sách cần phải cân nhắc những tác động về giới.
Thứ tư, phát triển lao động nữ ở nông thôn chính là phải nâng cao năng lực cho phụ nữ bằng việc nâng cao học vấn và chuyên môn kỹ thuật, nâng cao sức khoẻ (bao gồm cả sức khoẻ sinh sản), thể lực cho phụ nữ nông thôn. Phát triển lao động nữ ở nông thôn còn là phải phát huy năng lực của phụ nữ nông thôn.
*
* *
Sự nghiệp của Đảng cộng sản Việt Nam là sự nghiệp giải phóng và phát triển con người. Những thành tựu của qúa trình đổi mới đã tạo ra những tiền đề cực kỳ quan trọng thực hiện sứ mệnh đó. Chính vì vậy, có thể nói rằng chưa bao giờ phụ nữ Việt Nam nói chung, phụ nữ nông thôn nói riêng lại có điều kiện thuận lợi để phát triển như ngày nay. Vấn đề còn lại chính là bản thân phụ nữ phải khai thác tận dụng được những cơ hội đó để phát triển. Với những truyền thống rất tốt đẹp, với những khả năng và điều kiện hiện tại, chúng ta có đủ cơ sở để tin tưởng rằng phụ nữ nông thôn đủ sức vượt qua những thách thức, phát triển chính mình, thực hiện được trách nhiệm đối với đất nước và dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
Action Aid Việt Nam (1999), Hà tĩnh - Báo cáo đánh giá về nghèo khó với sự tham gia của cộng đồng, Hà nội
Trần Thị Vân Anh - Lê Ngọc Hùng (1996), Phụ nữ, Giới và Phát triển, NXB Phụ nữ, Hà Nội
Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương (2000), Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 1999, Kết quả điều tra mẫu, NXB Thế giới, Hà nội
Báo Nhân dân (7/3/95), Vấn đề đặt ra từ những hộ nông dân ít và không có ruộng đất sản xuất ở Đồng bằng sông Cửu Long
Báo Nhân Dân (8/12/2001), Thông tin về công nghệ và tiến bộ kỹ thuật phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn
Báo Nhân dân (27/10/2002), Chị Bình chăn nuôi giỏi
Báo Phụ nữ Tp Hồ Chí Minh, số 70 ngày 12-9-1998
Melanie Beresford (1994), Ảnh hưởng của cải cách kinh tế vĩ mô đối với phụ nữ ở Việt Nam, Hà nội
Đỗ Thị Bình (chủ biên) (1997), Những vấn đề chính sách xã hội với phụ nữ nông thôn trong giai đoạn hiện nay, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
Bộ lao động - thương binh và xã hội (2002), Niên giám thống kê Lao động - thương binh và xã hội 2001, NXB Lao động xã hội, Hà nội
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (1998), Các ngành nghề nông thôn Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nội
Nguyễn Văn Bích-Chu Tiến Quang (chủ biên) (1999), Phát triển nông nghiệp nông thôn trong giai đoạn công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà nội
Robert Chambers (1991), Phát triển nông thôn: Hãy bắt đầu từ những người cùng khổ, NXB Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà nội
Chương trình phát triển của Liên hợp quốc - Tổng cục thống kê (2001), Mức sống trong thời kỳ kinh tế bùng nổ - Việt Nam, NXB Thống kê, Hà nội
Chương trình phát triển của Liên hợp quốc, MPI/DSI (2001), Việt Nam hướng tới 2010, tập 2, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (2000), Báo cáo phát triển con người 1999, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (2001), Báo cáo phát triển con người 2001, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội.
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Báo cáo quốc gia lần thứ hai về tình hình thực hiện công ước Liên hiệp quốc xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), NXB Phụ nữ, Hà nội
Cục chế biến nông-lâm sản và ngành nghề nông thôn (1997), “Một số kết quả ban đầu về điều tra ngành nghề nông thôn Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 228 (5), tr. 50-59
Lê Đức Dục - Thanh Hà (1998), “Những ngôi làng vắng bóng đàn ông”, báo Tuổi trẻ thứ năm 23/7/1998
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (lần 1) Ban chấp hành Trung ương khoá VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
Frank Ellis (1995), Chính sách nông nghiệp trong các nước đang phát triển, NXB Nông nghiệp, Hà nội
Neva Goodwin - Phạm Vũ Luận (chủ biên) (2002), Kinh tế vi mô trong nền kinh tế chuyển đổi, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội
Domunique Haughton, Jonathan Haughton và những người khác (1999), Hộ gia đình Việt Nam nhìn quan phân tích định lượng, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội
Hội Khoa học kinh tế Việt Nam (1998), Tài liệu tập huấn: Phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội
Hội Đồng dân số (1997), Sản xuất, sinh sản và phúc lợi gia đình - Phân tích mối quan hệ giới trong hộ gia đình Việt Nam, Hà nội
Phạm Thị Thu Hằng (2002), Tạo việc làm tốt bằng các chính sách phát triển doanh nghiệp nhỏ, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội
Nolwen Henaff - Jean-Yves Martin (2001), Lao động, việc làm và nguồn nhân lực ở Việt Nam 15 năm sau đổi mới, NXB Thế giới, Hà nội
Thu Hà (2001), “Giới và công việc được trả lương ở Căm pu chia”, Tạp chí Phụ nữ và Tiến bộ, số 3(28)
Tương Lai (1991), “Thử gợi lên một số vấn đề về gia đình, dân số và sự phát triển nông thôn”, Tạp chí Xã hội học, số 4 (1991)
Borje Ljunggren (chủ biên) (1994), Những thách thức trên con đường cải cách Đông Dương, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
Vũ Mạnh Lợi (1991), “Khác biệt nam nữ trong gia đình nông thôn đồng bằng Bắc Bộ”, Những nghiên cứu Xã hội học về gia đình Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội
C.Mác-Ph. Ăng-ghen (1984), Tuyển tập, tập 6, NXB Sự thật, Hà nội
E. Wayne Nafziger (1998), Kinh tế học của các nước đang phát triển, NXB Thống kê, Hà Nội
Ngân hàng thế giới (1998), Thúc đẩy phát triển nông thôn Việt Nam: Từ viễn cảnh tới hành động. Báo cáo cho Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam, 7-8/12/1998, Hà Nội
Ngân hàng phát triển châu Á (1999), Chính sách về giới và Phát triển, Hà nội
Ngân hàng thế giới (1999), Việt Nam tấn công đói nghèo, Hà nội
Ngân hàng thế giới (2000), Báo cáo về tình hình phát triển thế giới 2000/2001 - Tấn công đói nghèo, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
Ngân hàng thế giới (2001), Đưa vấn đề Giới vào phát triển, NXB Văn hoá - Thông tin, Hà Nội
Nguyễn Văn Phúc (1997), “Công nghiệp nông thôn trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Tạp chí Cộng sản số 1
Paul Read, Harry Minas và Steven Klimidis (1999), “Việt Nam một thăm dò sơ bộ về tuổi thọ, của cải và phát triển kinh tế”, Báo cáo tại hội thảo quốc tế về chăm sóc sức khoẻ, Hạ Long 7-10/4/1999.
Jeong Nam Song (1996), “ Một số đặc điểm của nông thôn Hàn Quốc”, Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay, tập II, Chương trình Khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX-07, Hà nội
Phạm Đức Thành và Mai Quốc Chánh (Chủ biên) (1998), Giáo trình kinh tế lao động, NXB Giáo dục, Hà Nội
Bùi Ngọc Thanh, Nguyễn Hữu Dũng, Phạm Đỗ Nhật Tân (chủ biên) (1996), Nghiên cứu chính sách xã hội nông thôn Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
Lê Đình Thắng (chủ biên) (2000), Chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn sau Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
Hoàng Bá Thịnh (2002), Vai trò của người phụ nữ nông thôn trong công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
Hữu Thọ (1998), “Tiếp tục bàn về nông nghiệp và nông thôn”, Báo Nhân Dân, ngày 13-9-1998
Trần Văn Thọ (chủ biên) (2000), Kinh tế Việt Nam 1955-2000, NXB Thống kê, Hà Nội
Nguyễn Kim Thuý (2000), "Phụ nữ nông thôn Việt Nam", Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trước thềm thế kỷ XXI, NXB Thế giới, Hà Nội
Nguyễn Kim Thuý (2000), "Phụ nữ Việt Nam trong khu vực kinh tế phi chính thức", Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trước thềm thế kỷ XXI, NXB Thế giới, Hà Nội
Tổ chức lương thực thế giới - Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (2002), Khác biệt giới trong nền kinh tế chuyển đổi ở Việt Nam, Hà nội
Tổng cục Thống kê (1994), Điều tra mức sống dân cư Việt Nam 1992-1993, NXB Thống kê, Hà nội
Tổng cục Thống kê (2000), Điều tra mức sống dân cư Việt Nam 1997-1998, NXB Thống kê, Hà nội
Tổng cục thống kê (1999), Kết quả điều tra toàn bộ công nghiệp năm 1998, NXB Thống kê, Hà nội
Tổng cục Thống kê (1994), Niên giám thống kê 1993, NXB Thống kê, Hà nội
Tổng cục thống kê (2000), Nữ giới và nam giới ở Việt Nam thập kỷ 90, NXB Thống kê, Hà Nội
Tổng cục Thống kê (2000) Số liệu về phát triển xã hội ở Việt Nam thập kỷ 90, NXB Thống kê, Hà Nội
Tổng cục thống kê (2002), Số liệu thống kê dân số và kinh tế xã hội Việt Nam 1975-2001, NXB Thống kê, Hà Nội
Lê Ngọc Trọng (2000), “Chăm sóc sức khoẻ người nghèo”, Tạp chí Cộng sản (18), trang 41-44.
Trung tâm nghiên cứu khoa học lao động nữ (1997), Phụ nữ tham gia lãnh đạo quản lý, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội
Trung tâm nghiên cứu Giới, Gia đình và Môi trường trong Phát triển (1996), Kết quả dự án Phụ nữ nông thôn đồng bằng sông Hồng: Giới, công tác quản lý nguồn nước và vấn đề chuyển đổi kinh tế, Hà Nội.
Trung tâm nghiên cứu Giới, Gia đình và Môi trường trong Phát triển (1997), Kết quả nghiên cứu dự án Sản xuất, sinh sản và hạnh phúc gia đình, Hà Nội
Trung tâm nghiên cứu Giới, Gia đình và Môi trường trong Phát triển (2001), Phụ nữ - Sức khoẻ và Môi trường, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
Nguyễn Văn Trung (chủ biên) (1998), Phát triển nguồn nhân lực trẻ ở nông thôn để công nghiệp hoá hiện đại hóa nông thôn, nông nghiệp nước ta, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội
Đào Thế Tuấn (1993), “Kinh tế hộ gia đình của nông dân”, Tạp chí Xã hội học, số 4
Lê Thị Nhâm Tuyết (1975), Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội
Lê Thị Nhâm Tuyết (chủ biên) (2000), Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trước thềm thế kỷ XXI, NXB Thế Giới, Hà Nội
Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, Phân tích tình hình và đề xuất chính sách tiến bộ của phụ nữ và bình đẳng giới ở Việt Nam
Uỷ ban các vấn đề xã hội của quốc hội Việt Nam và cơ quan phát triển quốc tế Canada (1995), Kỷ yếu hội thảo: Vai trò giới tính và nguồn nhân lực trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Hà nội
Uỷ ban quốc gia Dân số - Kế hoạch hoá gia đình - GTZ (1996), Điều tra Sức khoẻ Sinh sản 1995, Hà Nội
Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2000), Báo cáo điều tra về ý chí kinh doanh, Hà nội
Lê Thành Ý (1999), “Phụ nữ Bắc Trung bộ và những vấn đề đặt ra trong phát triển kinh tế - xã hội”, Tạp chí hoạt động khoa học số 3
Tiếng Anh
Jamilah Ariffin (1992), Women and Development in Malaysia, Pelanduk Publication, Malaysia.
Ester Boserup (1970), Woman’s role in Economic Development, Earthscan Publications Limited, Lodon
ILO (2001), World Employment Report 2001
International Rice Research Institute (1985), Women in Rice Farming, Gower Publishing Company Ltd., England
Toward Gender Equality (1995), The Role Public Policy, World Bank Publication
United Nation (1995), Women of Bangladesh - A Country profile, New York.
United Nation (1997), Women in China - A Country profile, New York.
World Bank (1998), World Development Report, Oxford University Press, New York
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37164.doc