Làng nghề Hà nội với tiến trình hội nhập kinh tế

I.Lời nói đầu Nước ta là một nước nông nghiệp nên từ xa xưa các làng nghề thủ công đã xuất hiện, có không ít làng nghề nổi tiếng đã tồn tại hàng trăm năm. Đặc biệt khi nói tới các làng nghề truyền thống của đồng bằng sông Hồng, dường như ai cũng biết danh làng nghề Hà nội, thủ đô nghìn năm văn hiến của chúng ta. Hà nội “ Ba sáu phố phường “ nổi tiếng với những phường nghề nhưng những làng nghề hiện nay chủ yếu nằm ở khu vực ngoại thành. Ngoại thành Hà nội với diện tích 836,7 km 2, dân số 1,274

doc25 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1463 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Làng nghề Hà nội với tiến trình hội nhập kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
triệu người đóng trên địa bàn 5 huyện, 118 xã, 8 thị trấn nhưng nông nghiệp chỉ thu hút 25% lao động. Xung quanh Hà nội có hơn 80 làng nghề, các làng nghề phát triển mạnh mẽ lan sang các làng bên cạnh và trở thành xã nghề rộng lớn hơn. Cùng với nghề truyền thống, các nghề, các làng nghề mới xuất hiện ngày một nhiều. Vì vậy ngày nay khi nói đến làng nghề thường bao gồm cả làng nghề truyền thống và làng nghề mới. Từ năm 1993 trở lại đây, sau khi có nghị quyết Trung ương khóa VII về chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, các làng nghề đã bắt đầu khôi phục và khởi sắc do chuyển hướng sản xuất và khai thông thị trường xuất khẩu. Sản phẩm của người thợ ở đây là tác phẩm nghệ thuật vì người sản xuất không chỉ thao tác các quá trình công nghệ mà còn sáng tạo nữa. Nhưng với mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay, việc duy trì, mở rộng thị trường, quảng bá sản phẩm là vấn đề đặt ra đối với các làng nghề. Đây cũng là lý do của việc lựa chọn đề tài nghiên cứu " Làng nghề Hà nội với tiến trình hội nhập kinh tế " với mục đích nêu lên những khó khăn, thuận lợi từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển, mở rộng làng nghề Thủ đô. II. Làng nghề Hà nội 1/ Tìm hiểu chung về làng nghề Hà nội Từ xưa chúng ta đã biết đến câu " Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến ". Hà nội của chúng ta nổi tiếng với những làng nghề, phường nghề truyền thống và cả những làng nghề mới phục vụ cho đời sống ngày một cao. Nhiều làng nghề với các cụ tổ nghề được dân gian thờ cúng với sự biết ơn sâu sắc về mức độ và công lao truyền nghề trong làng xã, vùng quê và cả nước, từ đời nay sang đời khác. Nghề truyền thống xuất hiện trong điều kiện trang thiết bị kỹ thuật thô sơ và lao động chủ yếu bằng tay nên thường gọi là nghề thủ công truyền thống. Ngày nay, với tiến bộ mạnh mẽ của khoa học công nghệ nên tính thủ công giảm dần, nhường chỗ cho sự tinh xảo tinh vi của công nghệ, thiết bị. Tuy vậy, những tinh hoa đặc thù của sản phẩm làng nghề vẫn phải đảm bảo bởi những bàn tay khéo léo, tư duy sáng tạo mang đậm bản sắc dân tộc của người thợ. Chúng ta có thể nhận rõ một số làng nghề tiêu biểu sau: Nghề gốm, sứ, thuỷ tinh: Bát Tràng ( Gia Lâm ) Đúc đồng: Ngũ xã ( Quận Ba Đình ) Mộc mỹ nghệ: Thiết úng ( Đông Anh ) Đan mây tre: Làng Cáo, làng Ve, Yên Sở Thêu, ren: Hà nội Làm giấy: Yên Thái ( Bưởi, Nghĩa Đô ) Kim hoàn: Kiên Kỵ ( Gia Lâm ) Chế biến thực phẩm: Mạch Nha ( làng Nghĩa Đô ) , Bánh kẹo ( Xuân Đỉnh ) ; Cốm ( làng Vòng ) ; Bánh cuốn ( Thanh Trì ) ; Mứt sen ( làng Nành - Ninh Hiệp )... 2/ Vai trò, ý nghĩa của làng nghề a, Về giá trị kinh tế Sản xuất nhiều mặt hàng tiêu dùng, phục vụ nhu cầu tại chỗ và trong nước. Tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động sản xuất phục vụ xuất khẩu. Tận dụng, khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhiên liệu địa phương. Góp phần phân bố sản xuất ở các vùng dân cư, địa bàn khác nhau, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội ở khu vực nông thôn. b, Về giá trị văn hóa xã hội Giữ vai trò hỗ trợ, bổ sung hình thành mối liên kết hợp tác giữa nông thôn và thành thị, giữa sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp, thúc đẩy phát triển nền kinh tế hàng hóa ở nông thôn. Sản phẩm làng nghề thể hiện rõ và bảo tồn được những nét, những sắc thái độc đáo của dân tộc. Những giá trị văn hóa của dân tộc thể hiện tư duy, triết lý á Đông, phong cách sống Việt nam ... đều có thể biểu hiện qua nét vẽ, hình mẫu, cách trang trí, cấu trúc của sản phẩm làng nghề. Đây cũng chính là ưu thế của sản phẩm nghề truyền thống Việt nam khi rộng mở, giao lưu trên thị trường quốc tế và mở rộng quan hệ văn hóa, nghệ thuật với các nước trên thế giới. III. Thực trạng làng nghề Hà nội những năm gần đây A - Sự khôi phục, phát triển Các làng nghề ngày nay phát triển mạnh mẽ bên cạnh làng nghề truyền thống, các làng nghề phục vụ nhu cầu mới xuất hiện. Để nhận dạng làng nghề người ta thường sử dụng hai tiêu chí: Tỷ trạng số hộ làm nghề trong làng; tỷ trạng thu nhập từ nghề trong tổng thu nhập của làng. Từ đó, chúng ta có thể quan niệm làng nghề là một cụm dân cư sinh sống trong một làng cùng với một nghề ( có số hộ làm nghề này chiếm tỷ trọng trên 50% tổng số hộ trong làng ) và các hộ có thể sinh sống bằng nghề đó ( tỷ trọng thu nhập từ nghề chiếm 50% tổng thu nhập của làng ) 1/ Các làng nghề ngày càng mở rộng quy mô Năm 1986, khi nước ta xóa bỏ chế độ tập trung , bao cấp , Nhà nước không bao tiêu sản phẩm, nhiều làng nghề đã gặp khó khăn . Thời kỳ 1986 - 1990 , mất hai thị trường rộng lớn là Liên xô và Đông Âu , thủ công Hà nội mai một các hàng thủ công như thêu ren , dệt đay cói , dệt thảm, làm thủy tinh gần như biến mất ; nhiều cơ sở sản xuất tan rã ( nghề thủ công ở các xã Cổ Loa , Uy Lỗ , Đông Ngạc , Đại Mỗ, Định Công ... ngừng hoạt động ). Nhưng các làng nghề đã nhanh chóng bắt kịp thời đại mở rộng, phát triển đưa sản phẩm ra ngoài lãnh thổ, tới các nước Châu Âu, Mỹ, các nước trong khu vực ... Các làng nghề mở rộng sản xuất, xuất khẩu các mặt hàng truyền thống như gốm, chạm khắc gỗ, sơn mài, cói, thêu ren ... Bên cạnh đó, đời sống phát triển, xuất hiện nhiều nhu cầu mới, từ đó hình thành những làng nghề mới như sứ gốm Kim Lan, Đa Tốn, may mặc Sài Đồng, Cổ Nhuế, đồ gỗ Liên Hà, chạm đá Mai Lâm ... Các hình thức tổ chức sản xuất trong một số làng nghề đang phát triển đa dạng. Từ các hộ tư nhân, một số hộ đã tập hợp để hình thành các hợp tác xã, tổ hợp sản xuất nhằm tăng cường năng lực sản xuất, trang thiết bị máy móc. Một số hộ có vốn, kinh nghiệm, kỹ năng sản xuất đã thành lập các xí nghiệp tư nhân, Công ty TNHH ..., giữa các hình thức tổ chức sản xuất trong các làng nghề đã có mối quan hệ hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. 2/ Tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho người lao động Các làng nghề hằng năm thu hút 34.000 lao động vào làm các nghề phi nông nghiệp ( 15% - 20% lao động chuyên nghiệp ) , chẳng những thu hút lao động của bản thân các hộ nghề, mà còn thu hút thêm lao động tại địa phương và lao động từ các địa phương khác đến . Đáng chú ý là làng gốm Bát Tràng hàng ngày thu hút thêm 3.000 - 5.000 lao động từ các vùng khác đến làm thuê . Làng nghề mộc mỹ nghệ cao cấp Liên Hà, Vân Hà có 1.000 hộ sản xuất với trên 2.000 lao động, còn thuê thêm lao động từ vùng khác đến . Sản phẩm của Vân Hà như xa lông Âu á , tủ khảm trai, giường, sập gụ, tranh khảm, tượng gỗ ... các sản phẩm này đã có mặt tại thị trường : Trung Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan, Xingapo, Pháp, Mỹ ... làng nghề thêu ren Hạ Mỗ có 1.600 lao động, chiếm 69,57% lao động làng nghề thêu ren. Hoạt động ngành nghề mang lại thu nhập lớn gấp hai đến ba lần so với nông nghiệp , đặc biệt là chi phí về lao động và diện tích sử dụng thấp hơn nhiều so với sản xuất nông nghiệp . Bình quân thu nhập của một người trong hộ chuyên nghề phi nông nghiệp là 400 - 450 ngàn đồng / tháng , hộ kiêm nghề từ 190 - 240 ngàn đồng/ tháng trong đó thu nhập từ ngành nghề chiếm khoảng 40 % - 75 % tổng thu nhập của gia đình . ở nhiều hộ thu nhập từ ngành nghề đã là nguồn tích lũy và làm giàu trong bước đi ban đầu từ sản xuất tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hóa . Từ sự phát triển ngành nghề đã hình thành hàng nghìn doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn ( có đăng ký kinh doanh và hoạt động theo pháp luật ) , trong đó doanh nghiệp nông nghiệp ( 14,2% ) , hợp tác xã ( 5,8% ) , doanh nghiệp tư nhân ( 80,0% ) các doanh nghiệp này đã tạo nhiều việc làm cho lao động nông thôn trong các lĩnh vực sau : chế biến thực phẩm ( 17,3 % ) , công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ( 32,5 % ) , dịch vụ thương mại nông thôn ( 50,2% ). Nhờ tạo thêm việc làm nên thu nhập của người lao động tăng thêm. Tiền công hàng tháng của người lao động kỹ thuật nghề gốm sứ, chạm khắc, rèn đúc có thể đạt 800.000 đồng - 1.000.000 đồng, thợ thủ công, dệt đũi, thêu ren: 180 - 200 ngàn đồng; thợ khai thác, chạm đá có thu nhập 20 - 70 ngàn đồng/ ngày tuỳ trình độ tay nghề, bậc thợ . Nhờ tăng thu nhập nên đời sống của người dân những nơi có phát triển trong làng nghề được cải thiện hơn so với những địa phương khác. Ví dụ: ở làng nghề gốm sứ Bát Tràng, 100% hộ có nhà mái bằng, mái ngói ( 40% số hộ có nhà hai tầng trở lên ); 60% số hộ có xe gắn máy, ô tô; 90% số hộ có ti vi ( chủ yếu là ti vi màu ); 10% số hộ có điện thoại. Sự phát triển nghề và làng nghề đã góp phần thúc đẩy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng giảm tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng giá trị sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Điều đáng chú ý là tăng tỷ trọng lao động phi nông nghiệp theo hướng " Ly nông bất ly hương ", giải quyết 60% - 65% tổng lao động tại chỗ, thu hút lao động thời vụ. 3/ Sản phẩm phát triển, đẩy mạnh xuất khẩu Những năm trở lại đây, chúng ta bước vào nền kinh tế thị trường, nước ta đặt quan hệ thương mại với nhiều nước trên thế giới, hàng hóa ( đặc biệt là các sản phẩm làng nghề ) có điều kiện giao thương, xuất khẩu ra thế giới. Làng nghề có sản phẩm đa dạng, giàu tính thẩm mỹ nên được ưa chuộng. Sản phẩm mỹ nghệ như gốm, đồ gỗ ngày càng được chú ý hơn. Các thợ thủ công tạo hình biết kế thừa, phát huy chất liệu, kỹ thuật mà sáng tạo ra những sản phẩm mới phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu như đồ trang trí nội thất trong gia đình, nhà hàng hay khách sạn. Các di sản gốm, đồ gỗ, đồ đá, đồ đồng ... trở nên sống động, độc đáo, các sản phẩm Liên Hà, Vân Hà chủ yếu là các tủ, sập, giường, bình phong ... được chạm trổ, điêu khắc, khảm trai hết sức tinh vi theo các chủ đề truyền thống như Tứ linh, Tứ quý ... đã có mặt ở hầu hết thị trường trong nước và được xuất khẩu tới nhiều nước trên thế giới. Các sản phẩm mỹ nghệ khác như hộp, khay, đĩa, tẩu thuốc ... được xuất khẩu sang một số nước như Pháp, Nhật Bản, các nước châu á. Hầu hết các doanh nghiệp ở Bát Tràng đã " lên mạng " giao dịch kinh doanh bằng điện tử. Theo số liệu điều tra thu nhập của viện kinh tế học ở làng nghề gốm sứ Bát Tràng ( năm 1998 ): 35% số hộ có mức giá trị sản xuất trên 100 triệu đồng/ năm và mức thu nhập 25 - 30 triệu đồng; 36,6% số hộ có mức giá trị sản xuất từ 60 - 100 triệu đồng/ năm và mức thu nhập 20 - 25 triệu đồng ; 28,34% số hộ có mức giá trị sản xuất dưới 60 triệu đồng và thu nhập từ 10 - 20 triệu đồng. Tóm lại, với chính sách hội nhập và phát triển kinh tế về thương mại, dịch vụ của nhà nước, tận dụng nguồn nguyên liệu, lao động, phát huy nghề truyền thống các sản phẩm làng nghề Hà nội ngày một phong phú đa dạng, được bạn hàng thế giới ưa chuộng. B - Những khó khăn, thách thức Trong điều kiện khắc nghiệt của kinh tế thị trường với sự phát triển vượt bậc về công nghệ, kỹ thuật, các làng nghề Hà nội phải liên tục đối mặt với những khó khăn, thách thức. 1/ Đầu ra của sản phẩm chưa ổn định Mặt hàng mà các làng nghề sản xuất , kinh doanh rất phong phú, đa dạng: đồ gốm, đồ gỗ, đồ đồng, chạm khắc, sơn mài, bánh kẹo, dệt may, giấy, tranh cổ ... được các bạn hàng thế giới rất ưa chuộng. Tuy nhiên, sản phẩm thường mang tính đồng loạt, mẫu mã ít thay đổi, sản phẩm lại phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu không ổn định. Khi có những hợp đồng với số lượng lớn, việc đảm bảo thực hiện đúng số lượng khiến nhiều doanh nghiệp lúng túng. Nhiều doanh nghiệp sản xuất đồ mỹ nghệ ( Ví dụ: đồ gỗ ) thường hoạt động theo kiểu mùa vụ, có đơn hàng mới " chạy " nguyên liệu, số lượng lao động lại không cố định, nên lúc cần không huy động kịp, đặc biệt là những công đoạn đòi hỏi người thợ có trình độ chuyên môn, tay nghề nhất định. Chính vì vậy, nhiều khi chúng ta đã bị mất những đối tác kinh doanh nhiều tiềm năng. Bên cạnh đó, đầu ra của sản phẩm phụ thuộc rất nhiều yếu tố: marketing, tìm và mở rộng thị trường, nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa. Trước những vấn đề trọng yếu đấy, nhiều làng nghề Hà nội còn tỏ ra lúng túng. Chúng ta thiếu thông tin chính xác về thị trường tiêu thụ sản phẩm, thị hiếu người tiêu dùng. Có khi những doanh nghiệp lại tiếp nhận thông tin thị trường chủ yếu qua quan hệ cá nhân với tư thương hay cơ quan xuất nhập khẩu ( tức là những cá nhân hay đơn vị mua sản phẩm của họ ). Vì thế những thông tin này thường bị " nhiễu " theo chiều hướng có lợi cho bên mua, thiệt hại cho bên bán. Không những thế, sản phẩm làng nghề còn bị đe dọa bởi sự cạnh tranh khắc nghiệt của các hàng công nghiệp sản xuất theo dây truyền, kỹ thuật tiên tiến, mẫu mã đẹp, lại hợp túi tiền người tiêu dùng. Thị trường trong nước tràn ngập sản phẩm nước ngoài bởi nhiều khi " hàng Việt nam quá đắt ". Những năm gần đây, đời sống người dân lên cao, lại luôn có tâm lý " người Việt nam dùng hàng Việt nam ". Tuy nhiên, điều đó chỉ phù hợp với những mặt hàng tiêu dùng như quần áo, giầy dép, thực phẩm ..., còn các sản phẩm mỹ nghệ có giá thành còn cao không phù hợp với mức thu nhập trung bình của người lao động. 2/ Thiếu vốn sản xuất, kinh doanh Thiếu vốn sản xuất, kinh doanh là hiện tượng khá phổ biến ở các làng nghề của tỉnh Bắc Ninh. Những năm qua, ngành Ngân hàng ( Ngân hàng nông nghiệp và Phát tiển nông thôn, Ngân hàng phục vụ người nghèo, các tổ chức tín dụng... ) thông qua các chương trình, dự án đã tạo điều kiện khá thuận lợi cho các làng nghề được vay vốn. Nhưng chính sách vay vốn vẫn chưa thật phù hợp với đối tượng sản xuất kinh doanh. Ngân hàng thường chỉ cho vay ngắn hạn ( dưới 6 tháng ) với số lượng ít và thu lãi ngay từng tháng trong khi đó các chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh đều có nhu cầu vay vốn với số lượng lớn theo cơ chế vay trung hạn hoặc vay dài hạn vì khả năng tiêu thụ sản phẩm thường chậm. Thủ tục cho vay vốn rườm rà, phức tạp làm cho lãi suất vay của Ngân hàng cũng chẳng có gì ưu đãi hơn so với lãi suất ở thị trường tự do. Mặt khác, các hộ sản xuất kinh doanh ( kể cả các doanh nghiệp ) do thiếu tài sản thế chấp, thiếu giấy tờ hợp lệ nên Ngân hàng ngại cho vay vốn vì sợ tỷ lệ rủi ro cao. Sản phẩm chưa được quảng bá, chưa kêu gọi được nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tiềm lực tài chính còn yếu kém, các doanh nghiệp làng nghề gặp không ít khó khăn khi phải cạnh tranh với những doanh nghiệp nước ngoài có tài chính lớn hơn. 3/ Kỹ thuật, công nghệ còn lạc hậu Phần lớn kỹ thuật công nghệ áp dụng ở các làng nghề Hà nội là công nghệ cổ truyền, còn khá thô sơ, lạc hậu. Công nghệ đó chỉ sử dụng ở quy mô nhỏ, năng suất thấp, ít khả năng phổ biến rộng rãi lại gây ô nhiễm môi trường. Hàng mỹ nghệ ít mẫu mã mới, thường rơi vào tình trạng lai căng, lai tạp ( hình dáng Đức, họa tiết Trung Quốc, Nhật... ). Hình dáng, họa tiết bị trung lập và thiếu tính hiện đại. Đội ngũ thể hiện các bản vẽ ít, thiếu kinh nghiệm, họa sĩ sáng tác mẫu mới không sản xuất được do không có cơ sở khoa học kỹ thuật. Hầu hết công nghệ kỹ thuật hiện đang sản xuất đã có sẵn từ xưa, ít có sự đầu tư, nghiên cứu để cải tiến hoặc đưa những tiến bộ mới vào thay thế, tính bảo thủ nghề còn rất nặng nề, cơ khí mới sử dụng 37%, còn 63% là thủ công. Đó chính là những nguyên nhân làm cho sản phẩm làng nghề đạt chất lượng thấp, giá thành cao, sức cạnh tranh kém. 4/ Vấn đề truyền nghề Những khó khăn về đầu ra sản phẩm, cùng với nếp sống ngày nay khiến không ít người con làng nghề nản lòng, tìm kiếm một công việc khác. Chủ yếu lao động hiện nay trong làng nghề có trình độ phổ thông thấp , ít lao động bậc cao, tay nghề giỏi . Những người thợ cả, nghệ nhân bậc thầy ( những người giữ vị trí quan trọng ) ngày càng giảm. Mà khả năng cạnh tranh, sức sống của sản phẩm làng nghề như gốm, sứ, mỹ nghệ, khảm trai, sơn mài, gỗ ... chủ yếu phụ thuộc tài hoa, kinh nghiệm, tay nghề người lao động. Nguyên nhân quan trọng là do chính tư tưởng quan niệm của người dân làng nghề. Họ mong muốn con chăm học hành trở thành kỹ sư, bác sĩ, nhà kinh tế ... không muốn con vất vả học nghề , rồi những người tâm huyết gắn bó với nghề cũng ít dần. Điều này làm cho việc cải tiến mẫu mã nâng cao chất lượng rất khó khăn vì thiếu lực lượng trẻ, khỏe, năng động, thực sự tâm huyết với làng nghề. Hơn nữa, từ nhiều đời nay, chủ yếu nghề truyền thống được dạy theo phương thức cha truyền con nối, bí quyết gia đình, dòng họ không truyền cho người ngoài ( theo thống kê, phương thức truyền nghề này chiếm tới 60,15% ở các làng nghề, số thợ ở làng nghề được đào tạo chính quy chỉ chiếm 0,78% ). Vì vậy những bí quyết nhà nghề có nguy cơ bị mai một dần. 5/ Vấn đề môi trường ở các làng nghề Các làng sắt, đúc đồng, làm giấy tạo ra hàng nghìn m3 nước thải, sút, axit, kim loại nặng ... không hề được xử lý mà được đổ thẳng ra môi trường. Nhiều cơ sở sản xuất hộ gia đình không quan tâm đến vệ sinh môi trường, bảo hộ lao động cho người lao động. Đa phần các hộ gia đình sử dụng nhà ở làm nơi sản xuất và kho trữ, trong đó chỉ có 20,7% số hộ sản xuất có nhà kiên cố, còn lại là nhà tạm và bán kiên cố, thiếu ánh sáng, thiếu diện tích. 6/ Công tác quản lý của Nhà nước đối với làng nghề thiếu đồng bộ về cơ chế, chính sách Những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước đã chú ý khôi phục, phát triển lại hệ thống làng nghề nhưng chỉ là bước đầu, còn thiếu vững chắc . Một trong những lý do dẫn đến tình trạng đó là các cơ quan quản lý Nhà nước vẫn chưa vạch được phương hướng bước đi, cũng như quy hoạch lâu dài cho các làng nghề . Cụ thể là: chưa có quy chế chung với làng nghề và quy chế riêng đối với từng loại hình làng nghề . Chưa có quy hoạch phát triển từng làng nghề nên mặt bằng sản xuất, kinh doanh thường rất chật hẹp, giao thông khó khăn, điện phục vụ cho sản xuất, kinh doanh không ổn định, an toàn, môi trường sinh thái bị ô nhiễm. ý thức chấp hành nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước của các làng nghề còn rất kém. Nhiều hộ không đăng ký kinh doanh. Đến nay, hầu như chỉ có các hợp tác xã, các Công ty trách nhiệm hữu hạn, các doanh nghiệp tư nhân nộp thuế cho Nhà nước song mức thuế nộp còn thấp so với doanh thu thực tế của họ. Tình trạng nộp thuế không đủ, mức ghi thu không đúng, trốn thuế và lậu thuế vẫn xảy ra chưa khắc phục được đã làm thất thoát nguồn thu của ngân sách Nhà nước. IV. Phát triển làng nghề với tiến trình hội nhập kinh tế Việt nam có bốn ngàn năm lịch sử với nền văn minh độc đáo tồn tại và phát triển rực rỡ, đặc biệt là thủ đô ngàn năm văn hiến của chúng ta. Những sản phẩm, những thành tựu văn hóa, kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất trải qua nhiều thế hệ, cho đến nay vẫn giữ nguyên giá trị bản sắc văn hóa của dân tộc Việt. Đó là nền tảng, nhân tố quan trọng đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển bền vững, lâu dài của ngành nghề thủ công truyền thống, đông thời mở rộng, phát triển những ngàng nghề phù hợp nhu cầu ngày nay. Trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, việc gìn giữ và phát triển những sản phẩm độc đáo, củng cố và phát triển làng nghề không chỉ là phát triển kinh tế theo ý nghĩa thông thường mà còn là phát triển kinh tế theo ý nghĩa thông thường mà còn là phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc trong tăng trưởng kinh tế. Những hàng hóa mang tính truyền thống cũng là một thế mạnh trong quá trình hội nhập AFTA vào năm 2003. Sau đây là một số kiến nghị, giải pháp nhằm mở rộng phát triển làng nghề. A - Giải pháp trước mắt * Đối với làng nghề 1/ Đổi mới nhận thức về làng nghề phù hợp với các quan điểm của Đảng ta về công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn Đa số các làng nghề đều nằm ở nông thôn, vì thế phát triển làng nghề là một bộ phận của công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Nếu trước đây, làng nghề chỉ được xem là kinh tế phụ thuộc nông dân, để tận dụng thời gian lao động nông nhàn và tăng thu nhập " phụ " cho nông dân thì ngày nay cần nhận thức lại làng nghề là một nội dung quan trọng, một bộ phận chủ yếu trong chiến lược công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Làng nghề gắn với trung tâm cụm xã, có các hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ phi nông nghiệp và tạo ra rthu nhập chính ở nông thôn. Làng nghề còn là trung tâm tạo việc làm mới, thu hút lao động dư thừa trong nông nghiệp gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế nông thôn. Quá trình tồn tại và phát triển của làng nghề đã chỉ ra rằng khu vực sản xuất của các ngành nghề truyền thống chính là mảnh đất nuôi dưỡng, sáng tạo ra những giá trị vật chất , tinh thần truyền thống với những nét độc đáo riêng biệt của dân tộc . Nhiều sản phẩm thủ, công mỹ nghệ đã đem lại niềm tự hào cho dân tộc bởi nó phản ánh được nền văn minh và văn hóa của dân tộc Việt nam đã có hàng ngàn năm lịch sử . Đặc tính truyền thống được thể hiện trên từng sản phẩm . Tiến bộ khoa học công nghệ là một trong những nhân tố tác động đến sự phát triển của làng nghề, song điều trước tiên và quan trọng nhất là phải hướng tới để nghiên cứu tính truyền thống, kỹ thuật thể hiện những nét đẹp, những cái hay, quý giá của dân tộc . Tính truyền thống không phải là tính bảo thủ mà nó luôn được nghiên cứu, cải tiến, hoà quyện với những tiến bộ của nền văn hóa dân tộc , của thời đại làm cho truyền thống có tính hiện đại . Điều đó sẽ loại trừ được sự chắp vá tuỳ tiện , bị ảnh hưởng ngoại lai làm lu mờ tính truyền thống đích thực. 2/ ứng dụng rộng rãi tiến bộ khoa học và công nghệ mới vào các làng nghề Các làng nghề chủ yếu sử dụng công nghệ từ xa xưa, những công nghệ mang tính đặc thù riêng biệt thì vẫn cần phải giữ gìn, còn lại chúng ta rất khó khăn khi cạnh tranh với các mặt hàng chủ yếu dựa trên lợi thế công nghệ. Vì vậy, để khôi phục và phát triển làng nghề theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa nhất thiết phải đổi mới máy móc, thiết bị và ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất. Thực tế cho thấy ở Hà nội: Năm Tỷ lệ hộ gia đình SD máy móc Sản lượng ( tỷ đồng ) Số lao động ( người ) 1995 59,8% 419 37.901 2000 75,6% 706 34.140 Các công đoạn sản xuất nặng nhọc như xay nghiền bột ở bánh mứt Xuân Đỉnh, khoan bào cưa xẻ ở làng mộc mỹ nghệ Vân Hà , nghiền trộn đất ở gốm Bát Tràng ... đã được thay thế bằng máy móc . Nhờ đó , năng suất tăng lên rõ rệt . ở Vân Hà , công nghệ phun sơn thay thế gỗ đánh vecni ; ở Bát Tràng , lò nung gốm bằng ga dần thay thế lò nung bằng than củi ... chất lượng sản phẩm đã tăng lên . Bài học rút ra từ thực tế cho thấy khoa học công nghệ phải đi trước một bước trong quá trình khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống và làng nghề mới theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Để có thể đưa sản phẩm làng nghề ra thị trường, cần phải coi trọng và quan tâm đến tâm lý người tiêu dùng, tức là: Người mua sản phẩm quan tâm đến giá trị sử dụng, chất lượng sản phẩm, ít người quan tâm đến công nghệ làm ra sản phẩm, do vậy sử dụng và phát triển công nghệ sản xuất phải xuất phát từ yêu cầu làm ra được sản phẩm mong muốn, đáp ứng yêu cầu của từng đối tượng người tiêu dùng. Người mua sản phẩm quan tâm đến giá thành sản phẩm và luôn muốn mua rẻ. Do đó, việc lựa chọn công nghệ, vật tư, tổ chức quản lý sản xuất và lực lượng lao động cần phải kết hợp sao cho giá thành sản phẩm thấp nhất mà vẫn thoả mãn yêu cầu về chất lượng sản phẩm. Người mua thường có thói quen so sánh với các sản phẩm cùng loại từ các nhà sản xuất khác nhau. Do đó, việc đổi mới mẫu mã, tiếp thị và tổ chức tiêu thụ sản phẩm cần được điều chỉnh kịp thời để đảm bảo ưu thế cạnh tranh. Nói cách khác, cần phải đổi mới, hiện đại hóa khâu thiết kế sản phẩm, muốn vậy cần phải có những giải pháp cụ thể : . Tăng cường đội ngũ hoạ sĩ sáng tác mẫu, kỹ sư chuyên môn cho các cơ sở sản xuất. . Tạo điều kiện cho các nhà báo, nhà phê bình, nhà kinh tế học ... nghiên cứu về ngành nghề và sản phẩm làng nghề, những kết quả nghiên cứu, phê bình sẽ là cơ sở đúng đắn cho việc thiết kế sản phẩm. . Khuyến khích phát triển các trung tâm dịch vụ tư vấn và hoàn thiện sản phẩm tại các làng nghề. Bên cạnh đó, các sản phẩm mỹ nghệ như mây, tre, đan, làm nón... vẫn cần công nghệ cổ truyền. Giải pháp cho vấn đề này là lựa chọn máy móc, thiết bị công nghệ phù hợp yêu cầu sản xuất các sản phẩm làng nghề. Chúng ta phải bảo tồn và phát triển làng nghề theo nguyên tắc : " Hiện đại hóa công nghệ truyền thống và truyền thống hóa công nghệ hiện đại ". Nói cách khác, chúng ta phải kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại trên cơ sở khai thác hợp lý tiềm năng và lợi thế của các làng nghề truyền thống với công cụ hiện đại nhằm mục tiêu tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm làng nghề. Như vậy, một mặt phải chú ý bảo tồn các công nghệ cổ truyền độc đáo tinh xảo mà máy móc hiện đại không thể thay thế được. Mặt khác, phải cố gắng đến mức tối đa việc áp dụng phương pháp công nghệ tiên tiến ở những công đoạn không đòi hỏi phải có " bàn tay vàng " của các nghệ nhân nhằm nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. 3/ Tăng cường đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ lao động Từ xa xưa, việc truyền nghề trong từng gia đình, dòng họ, là con đường chủ yếu để học nghề. Theo cách này thì tay nghề bí quyết nghề được hình thành vững chắc và người thợ có thể tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, giàu tính độc đáo, đồng thời có thể phát triển tiếp nghề của cha ông. Tuy nhiên, học theo cách truyền nghề thì thời gian học nghề khá dài, số người được học nghề ít và sự phát triển toàn diện nhân cách lao động kỹ thuật hạn chế. Đặc biệt trong điều kiện giao lưu mở rộng thị trường lao động trong và ngoài nước thì cách truyền nghề tỏ ra không phù hợp. Chính vì vậy, chúng ta cần mở rộng các hình thức đào tạo nghề. Trước hết, cần phát triển nhanh công tác đào tạo nguồn nhân lực cho các cơ sở sản xuất, phải coi trọng khả năng đào tạo, bồi dưỡng lớp thợ trẻ kế cận trong tương lai. Tăng tỷ lệ lao động có nghề nghiệp được đào tạo theo hệ chính quy có chất lượng làm nòng cốt cho các cơ sở sản xuất và là lực lượng kế cận tiếp thu các bí quyết của nghề truyền thống. Bên cạnh việc tăng cường đào tạo bồi dưỡng đội ngũ các bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề cho các làng nghề, cần đi đôi với bảo tồn và nâng cao trình độ của các nghệ nhân, các " bàn tay vàng " để họ có thể sáng tạo ra nhiều sản phẩm mới. Sự kết hợp giữa các thế hệ trong các làng nghề nhằm mục đích khôi phục và phát triển làng nghề theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa nhưng vẫn duy trì và phát huy tính truyền thống, vai trò của các nghệ nhân. Sản phẩm của sự kết hợp đó là những di sản văn hóa, sản phẩm điêu khắc, nghệ thuật, các công trình kiến trúc và cả những sản phẩm phục vụ đời sống hàng ngày của con người ... được sản xuất theo quy trình công nghệ hiện đại, có sức cạnh tranh cao trên thị trường trong nước và thế giới. Giải pháp cho vấn đề đào tạo bồi dưỡng và nâng cao tay nghề cho người lao động cũng như bảo vệ các " bàn tay vàng " chỉ có thể thực hiện bằng sự hỗ trợ của Nhà nước kết hợp với sự tham gia của các làng nghề, chính quyền cấp xã và cấp huyện. Hiện nay cả nước mới có bảy trường đào tạo nghề thủ công. Tổng cục dạy nghề đã rất chú trọng việc phát huy giá trị của các làng nghề bằng việc dạy nghề, đào tạo gắn với việc sản xuất tại các làng nghề với những lớp học ngắn hạn. Bên cạnh đó, ta có thể hình thành các điểm đào tạo ngay tại các làng nghề, đào tạo trên cơ sở kiến thức và kỹ năng vốn có của các nghệ nhân trẻ sinh ra và lớn lên tại chính làng nghề đó. Việc bổ sung các chương trình tài liệu, đưa ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào hệ thống đào tạo tại các lớp học này cùng là một yêu cầu cấp bách. Đồng thời cần nghiên cứu xây dựng quy định danh hiệu và cơ chế chính sách tôn vinh những nghệ nhân, những thợ giỏi , " những người thắp lửa trong các làng nghề ". Đội ngũ nhân lực kỹ thuật làm việc trong lĩnh vực làng nghề thường bao gồm thợ giỏi, nghệ nhân làm nòng cốt cùng với đội ngũ thợ thủ công đông đảo trực tiếp sản xuất, ngoài ra còn gồm các nhà quản lý, kinh doanh giỏi trong tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong điều kiện mới của nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt đòi hỏi đội ngũ nhà kinh doanh, quản lý phải hết sức am hiểu nghề, luật pháp trong sản xuất kinh doanh. Đặc biệt cần có sự nhanh nhạy, sáng tạo trong quá trình tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm ở trong và ngoài nước. Bởi vậy, họ cần phải được đào tạo, bồi dưỡng về nghề nghiệp và các lĩnh vực hoạt động liên quan. Đồng thời cần được tạo điều kiện liên kết, liên doanh ở trong và ngoài nước để mở rộng tầm hiểu biết cũng như phát huy năng lực sáng tạo của họ trong lĩnh vực mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm làng nghề ra nước ngoài. 4/ Nâng cao giá trị thẩm mỹ, nghệ thuật của sản phẩm làng nghề Đây là một hướng đi phổ biến của các làng nghề cũng như của các doanh nghiệp về nghề truyền thống hiện nay. Nhiều khách hàng không chỉ mua với ý nghĩa là hàng hóa mà còn là một sản phẩm chứa cả bản sắc văn hóa của một địa phương, một quốc gia. Các mặt hàng được làm bằng chất liệu thiên nhiên truyền thống thường xuyên thay đổi mẫu mã với kiểu dáng độc đáo mà ở các nước phát triển hầu như ít tồn tại. Các sản phẩm cần được thiết kế thời trang hơn, dí dỏm hơn, có cá tính hơn. Chính vì vậy, ta cần phát triển thông tin trong nước giữa các nghệ nhân, hoạ sĩ, nhà sưu tập, giữa các làng nghề, vùng nghề, thông tin về sáng kiến mới trong nước, về thành tựu khoa học công nghệ, thông tin quốc tế ... để có thể cập nhật, sản xuất phù hợp thị hiếu tiêu dùng. Bên cạnh đó, cần phải có liên kết giữa các làng nghề, phối hợp chặt chẽ giữa các nghệ nhân ... để tạo ra những sản phẩm ngày càng hoàn thiện hơn, giàu tính thẩm mỹ hơn. 5/ Phát triển dịch vụ đi kèm, hình thành " làng nghề, làng văn hóa du lịch " Các làng nghề ven đô luôn là những địa điểm hấp dẫn thu hút du khách với hình thức du lịch văn hóa du khảo. Tiềm năng du lịch ở các làng nghề rất lớn, mỗi làng nghề lại có một văn hóa, truyền thống một hệ thống di tích và truyền thuyết riêng với những sản phẩm độc đáo mang đậm bản sắc địa phương . Trong xu thế hội nhập và mỗi quốc gia phát huy nội lực từ chính bản sắc văn hóa của mình hiện nay, hình thức phát triển du khảo văn hóa qua các làng nghề mang trong mình đầy tiềm năng mạnh mẽ nhất là vùng đồng bằng sông Hồng, đặc biệt Hà nội có một hệ thống làng nghề, phố nghề nổi tiếng . Bên cạnh một hệ thống dày đặc các " phường nghề " trong khu vực nội thành, phố cổ, chúng ta còn có cả một loạt các vành đai làng nghề xung quanh cũng đã rất quen thuộc và danh tiếng trong cả nước, đó là các làng hoa Ngọc Hà, Quảng Bá, Nghi Tàm, làng chuyên hồng đào Nhật Tân, làng ươm quất Tứ Liên, cốm làng Vòng, đậu phụ Hoàng Mai, bánh kẹo Xuân Đỉnh, làng kim hoàn Địn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35294.doc