a. phần mở đầu
Lạm phát và tái lạm phát đang là một băn khoăn lớn trong nền kinh tế của chúng ta. Với tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm khoảng 7-8% trong thời gian qua và sẽ còn tiếp tục tăng trong nhiều năm tới, tình trạng lạm phát trong nền kinh tế được nhiều người e ngại không tránh khỏi. Trong sự nghiệp phát triển kinh tế thị trường ở nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước, việc nghiên cứu lạm phát, tìm hiểu nguyên nhân và các biện pháp tối ưu để chống lạm phát
14 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1601 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Lạm phát và kiềm chế lạm phát ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có vai trò to lớn góp phần vào sự nghiệp phát triển đất nước.
Trong bài tiểu luận này, em xin vận dụng những kiến thức đã học để nói về đề tài “Lạm phát và kiềm chế lạm phát ở Việt Nam”. Vì thời gian và trình độ có hạn nên em rất mong được các thầy cô xem xét và cho ý kiến nhận xét.
B. phần nội dung
I. Lạm phát
1. Làm phát là gì?
Khi phân tích lưu thông tiền giấy theo chế độ bản vị vàng, Mac đã khẳng định một quy luật : “Việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn ở số lượng vàng thực sự lưu thông nhờ các đại diện tiền giấy của mình”, với quy luật này, khi khối lượng tiền giấy do Nhà nước phát hành và lưu thông vượt quá mức giới hạn số lượng vàng hoặc bạc mà nó đại diện thì giá trị của tiền giấy sẽ giảm xuống và tình trạng lạm phát xuất hiện.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đã xuất hiện nhiều lý thuyết khác nhau về lạm phát. Trong số đó có các lý thuyết chủ yếu là :
Lý thuyết cầu do nhà kinh tế Anh nổi tiếng là John Keynes đề xướng, ông đã quy nguyên nhân cơ bản của lạm phát về sự biến động của cung cầu.
Lý thuyết chi phí cho rằng lạm phát nảy sinh do mức tăng các chi phí sản xuất, kinh doanh đã nhanh hơn mức tăng năng suất lao động. Mức tăng chi phí này chủ yếu là do tiền lương được tăng lên, giá các nguyên nhiên vật liệu tăng, công nghệ cũ kỹ không được đổi mới, thể chế quản lý lạc hậu không giảm được chi phí...
Lý thuyết cơ cấu được phổ biến ở nhiều nước đang phát triển. Theo lý thuyết này thì lạm phát nảy sinh là do sự mất cân đối sâu sắc trong chính cơ cấu của nền kinh tế mất cân đối giữa tích lũy và tiêu dùng, giữa công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ, giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa sản xuất và dịch vụ...
Còn có thể kể ra nhiều lý thuyết nữa như lý thuyết tạo lỗ trống lạm phát, lý thuyết số lượng tiền tệ... song dù có khác nhau về các giải thích, nhưng hầu như các lý thuyết đều thừa nhận : lạm phát chỉ xuất hiện khi mức giá cả chung tăng lên, do đó làm cho giá trị của đồng tiền giảm xuống. Tốc độ lạm phát được xác định bởi tốc độ thay đổi mức giá cả.
2. Sự phát triển của khái niệm lạm phát trong điều kiện hiện tại:
Trong điều kiện hiện tại, khi mà nền kinh tế của một nước luôn được gắn liền với nền kinh tế thế giới thì biểu hiện của lạm phát thể hiện qua một số nhân tố mới.
Sự mất giá của các loại chứng khoán có giá. Song song với sự tăng giá hàng hóa, giá trị các loại chứng khoán có giá bị sụt giảm nghiêm trọng. Vì việc mua tín phiếu và công khố phiếu là để nhằm thu các khoản lợi nhuận khi đáo hạn, nhưng vì giá trị của tiền sụt giảm nghiêm trọng nên người ta không tích lũy tiền theo hình thức mua tín phiếu và công khố phiếu nữa. Người ta tích trữ vàng và ngoại tệ.
Sự giảm giá của đồng tiền so với ngoại tệ và vàng. Trong điều kiện mở rộng quan hệ quốc tê, vàng và ngoại tệ mạnh được coi là tiêu chuẩn để đo lường sự mất giá của tiền quốc gia. Tiền càng giảm giá với vàng và đôla bao nhiêu nó lại có tác động nâng giá hàng hóa lên cao bấy nhiêu. ở đây người ta bán hàng dựa trên cơ sở quy đổi giá vàng hoặc ngoại tệ để bán mà không căn cứ vào tiền quốc gia nữa.
Khối lượng tiền ghi sổ tăng vọt nhanh chóng, bên cạnh khối lượng tiền giấy phát ra trong lưu thông. Trong điều kiện kinh tế ngân hàng được mở rộng, khi khối lượng tiền ghi sổ tăng lên nó có ý nghĩa lớn trong tác động đến sự tăng trưởng của nền kinh tế. Vậy lạm phát trong điều kiện hiện đại còn có nghĩa là sự gia tăng các phương tiện chi trả trong đó có khối lượng tín dụng ngắn hạn gia tăng nhanh chóng.
Lạm phát trong điều kiện hiện đại còn là chính sách của Nhà nước nhằm kích thích sản xuất, chống nạn thất nghiệp, bù đắp các chi phí thiếu hụt của Ngân sách. Lạm phát đôi khi được những kẻ bóc lột lợi dụng để bóc lột nhiều hơn nữa những người làm công ăn lương. Tuy nhiên không nhất thiết là lạm phát phải là có lợi duy nhất cho những người bóc lột. mà đôi khi nó lại là chính sách kích thích sự phát triển kinh tế vì nó có tác dụng làm tăng khối lượng tiền lưu thông, cung cấp thêm vốn cho các đơn vị sản xuất, kích thích sự tiêu dùng của chính phủ và nhân dân. Vì vậy nó kích thích sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, việc sử dụng chính sách như vậy cần phải thận trọng vì nó dễ dẫn đến sự quá đà đưa lạm phát tiến lên với tốc độ cao.
3. Tác động của lạm phát:
a. Lạm phát làm phân phối lại thu nhập và của cải giữa các giai cấp khác nhau.
Khi lạm phát xảy ra, những người có tài sản, những người đang vay nợ là có lợi vì giá cả các loại hàng hóa tăng lên, còn giá trị đồng tiền thì giảm xuống. Những người làm công ăn lương, những người gửi tiền tiết kiệm là bị thiệt hại nhiều nhất. Vì vậy để tránh thiệt hại, lãi suất cần được điều chỉnh cho phù hợp, đúng với tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên, sự điều chỉnh lãi suất cho phù hợp với tỷ lệ lạm phát chỉ có thể thực hiện ở mức lạm phát thấp, lạm phát một con số một năm.
Khuynh hướng chung là khi dự đoán có lạm phát, người ta thường dự trữ vàng, đầu tư vào bất động sản và chờ lạm phát xảy ra. Khi giá vàng bị đẩy lùi trở lại thì những kẻ dự trữ vàng vẫn không bị thiệt hại gì vì giá vàng so sánh với các loại hàng hóa cao cấp và ngoại tệ thì không suy giảm chút nào.
b. Tác động của lạm phát đối với phát triển kinh tế và công ăn việc làm.
Đối với nền kinh tế thị trường, khi lạm phát xảy ra, nói chung nó có tác động làm tăng trưởng kinh tế và tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn. Nhưng trong nền kinh tế bao cấp thì không như vậy, vì việc sản xuất nhiều hay ít đều do Nhà nước quy định, chỉ tiêu giá cả được Nhà nước ấn định, nên sự thúc đẩy của lạm phát tới gia công sản xuất là không có, tất nhiên là khối lượng công ăn việc làm cũng không nhiều ra.
Trong nền kinh tế thị trường, lạm phát đồng nghĩa với cung tín dụng lớn lên nhanh chóng, các nhà kinh doanh có cơ hội đầu tư thêm, công ăn việc làm được tạo ra nhanh chóng. Nhưng khi lạm phát giảm thì lao động và tư bản bị bỏ không, không sử dụng hết năng lực của nền kinh tế. Các món nợ của ngân hàng và các chủ nợ khác sẽ dễ dàng thu lại được trong thời kỳ lạm phát.
ở cơ chế thị trường, lạm phát làm biến dạng giá cả tương đối. Đặc biệt là tiền tệ bị mất giá nghiêm trọng, lãi suất thực tế giảm đến mức dưới không. Tuy nhiên cần lưu ý là tùy và mức độ lạm phát mà thiệt hại lạm phát sẽ như thế nào. Lạm phát thấp chỉ gây thiệt hại vừa phải, lạm phát cao sẽ có tác hại lớn hơn.
ở khía cạnh chính trị, lạm phát làm nhân dân phẫn nộ. Xung đột giai cấp sẽ xảy ra ở các nước tư bản, ở các nước XHCN, nhân dân sẽ phản ứng do việc phân phối không công bằng : bộ phận sản xuất luôn được tăng thu nhập, bộ phận hành chính sự nghiệp thu nhập giảm.
c. Các tác động khác của lạm phát.
Lạm phát cân bằng có dự tính trước : đây là một trường hợp tưởng là khi giá cả tăng lên 5% thì thu nhập danh nghĩa cũng tăng lên 5% có nghĩa là lạm phát không ảnh hưởng gì đến thu nhập cả, nó không phân chia lại thu nhập. Nhà nước đã dự đoán trước thu nhập và điều chỉnh lại chính sách cho phù hợp, nhân dân cũng vậy bởi vì họ biết được trước tỉ lệ lạm phát và đã điều chỉnh hành vi của mình.
Một cuộc lạm phát cân bằng và dự đoán trước không có ảnh hưởng gì đến sản lượng thực tế, hiệu quả hoặc phân phối thu nhập.
Lạm phát không cân bằng : thực tế là lạm phát thường làm các loại chi phí tăng lên, đẩy thuế tăng lên. Có nghĩa là nó ảnh hưởng đến sản lượng và thu nhập. Ví dụ khi chúng ta ấn định mức thu nhập trên 2 triệu đồng thì phải đóng thuế thu nhập, khi có lạm phát chính sách thuế đó sẽ không thay đổi kịp, nên người có thu nhập tăng lên nhanh chóng phải đóng thuế nhiều hơn. Nhà nước thu được thuế nhiều hơn, còn người dân thiệt hại do phải đóng thuế cho Nhà nước.
II. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam
1. Nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam
Nguyên nhân đầu tiên phải nói đến là cơ chế quản lý hành chính bao cấp. Do cuộc chiến tranh kéo dài 30 năm, nền kinh tế Việt Nam đã thích nghi sau với quản lý thời chiến tranh, mọi hoạt động kinh tế - xã hội đều do các trung tâm bên trên ban hành ra và các cơ sở bên dưới chỉ có nhiệm vụ chấp hành. Lối quản lý ấy đã chậm thay đổi khi đất nước bước vào thời bình.
Do sự tàn phá của chiến tranh nên hầu hết các cơ sở vật chất kỹ thuật đều bị thiệt hại và lạc hậu so với yêu cầu phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, việc chậm thay đổi phương thức quản lý đã làm cho nền sản xuất không phát triển được. Mặc dù Nhà nước đã có nhiều cố gắng đầu tư cho nền kinh tế nhưng hậu quả của nó rất thấp. Trong thời gian 1976-1990, lương thực thiếu hụt nghiêm trọng, mức tiêu dùng lương thực của khu vực Nhà nước chỉ huy động được 5,8 triệu tấn gạo, tương đương 49% mức nhu cầu. Nguyên vật liệu chỉ thỏa mãn được 1/2, có khi là 1/3 nhu cầu của công nghiệp. Cán cân thanh toán thiếu hụt, xuất khẩu chỉ bằng 24% nhập khẩu. Dân số tăng nhanh hơn tổng sản phẩm và thu nhập quốc dân (1976-1980 tổng sản phẩm và thu nhập quốc dân tăng 0,8% trong lúc đó dân số tăng 2,4%). Tỉ lệ động viên từ thu nhập quốc dân vào Ngân sách Nhà nước ngày càng thấp. Năm 1980 chỉ đạt 20,1% so với 1976 là 23,3% và thời kỳ 1960-1965 là 28,3%.
Ngân sách Nhà nước đã chi 1300 triệu trong 5 năm 1976-1980, bị bội chi tiền mặt khoảng 4000 triệu. Thi hành nghị quyết 6 của Ban Chấp hành Trung ương, nghị quyết 26 của Bộ chính trị đã có nhiều sai sót, sơ hở, nhiều chế độ quản lý Nhà nước không được chấp hành nghiêm chỉnh nên tình hình kinh tế tài chính khủng hoảng nghiêm trọng. Lạm phát càng trầm trọng thêm. Việc tổng điều chỉnh giá lương và đổi tiền tháng 9/1985 đã gây ra một khủng hoảng tài chính - kinh tế nghiêm trọng hơn nữa.
Trong những năm đầu 1986-1990 mới có sự đổi mới hoạt động của lĩnh vực ngân hàng và tài chính nhưng chưa có hệ thống luật pháp chặt chẽ quy định các hoạt động này. Tiền tiếp tục mất giá nhanh, tỷ lệ chi ngân sách so với số thu năm 1986 là 27,3%; năm 1987 là 29,5%; năm 1988 là 29,6%.
Hệ thống giá cả của nền kinh tế chậm sửa đổi cũng là một nguyên nhân gây ra sự bất ổn của nền kinh tế và lạm phát. Khi miền Nam được giải phóng, Nhà nước có quy định lại giá mua nông sản có cao hơn giá trước đây được áp dụng ở miền Bắc như lúa từ 0,18 đồng/kg lên 0,21 đồng/kg, lạc từ 0,55 đồng/kg lên 0,75 đồng/kg..... Mức giá quy định ở miền Nam thấp hơn miền Bắc khoảng 10-30%. Sự quy định giá như vậy đã dẫn đến việc hình thành hệ thống 2 giá, giá Nhà nước và giá thị trường tự do
Thời kỳ 1981-1990 mới bắt đầu có sự điều chỉnh giá cả. Đặc điểm đây là Nhà nước quy định 2 loại giá : giá cung cấp và giá bán lẻ chỉ đạo. VD: gạo có giá cung cấp là 0,4 đồng/kg và giá bán lẻ chỉ đạo là 5-6đồng/kg, thịt có giá cung cấp là 3 đồng/kg, giá bán lẻ chỉ đạo là 35 đồng/kg......
Đến năm 1985 có một cuộc tổng điều chỉnh giá với hệ thống giá bán lẻ chỉ đạo. Khi công bố ngang bằng giá thị trường, thậm chí có mặt hàng cao hơn giá thị trường. Nhưng đến cuối năm 1985 đầu năm 1986 giá đó đã bắt đầu lạc hậu so với thị trường.
Lạm phát ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là do chính sách tài chính tiền tệ còn nhiều yếu kém mà trọng tâm là việc cung cấp nhiều tín dụng không có hiệu quả, bội chi ngân sách lớn và một chính sách lãi suất chưa hợp lý. Trước năm 1991, Nhà nước luôn phát hành một lượng tiền lớn để bù vào bội chi ngân sách, nhưng nhà nước lại chuyển gánh nặng bù bội chi đó cho Ngân hàng Trung ương bằng việc cung cấp tín dụng lãi suất thấp đối với nhiều xí nghiệp quốc doanh và một số chương trình kinh tế quốc gia. Chính việc cung cấp tín dụng với khối lượng lớn, không hiệu quả là nguyên nhân quan trọng gây ra lạm phát ở Việt Nam hiện nay.
2. Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
Nói chung ở Việt Nam không ai cho rằng có thể và cần phải loại bỏ lạm phát trong điều kiện tăng trưởng ở mức hai con số. Song lạm phát ở mức nào thì tồn tại hai ý kiến khác nhau :
- ý kiến thứ nhất cho rằng, nên kiểm soát lạm phát ở mức 1,2 đến 1,5 lần tốc độ tăng trưởng là có thể chấp nhận được.
- ý kiến còn lại cho rằng cần kiểm soát lạm phát ở mức bằng hoặc thấp hơn mức độ tăng trưởng.
ở các nước đang phát triển, đặc biệt là nước có tốc độ tăng trưởng cao ở giai đoạn đầu như nước ta, thì quan điểm giữ tốc độ lạm phát cao hơn mức độ tăng trưởng là rất nguy hiểm, điều này thể hiện ở hai góc độ:
- Thứ nhất, kinh nghiệm các nước đi trước cho thấy, khi lạm phát lên tới trên 10% thì Chính phủ không còn kiểm soát được nữa và nền kinh tế rơi vào thế không ổn định.
- Thứ hai, nếu chú ý đến mối quan hệ nhân quả giữa lạm phát và tăng trưởng thì có thể thấy như sau : lạm phát cao dẫn đến lãi suất cao, lãi suất cao dẫn đến đầu tư thấp, do đó sẽ dẫn đến tăng trưởng chậm.
III. Kiềm chế lạm phát và chống lạm phát ở nước ta
1. Nhà nước và lạm phát
Tình tất yếu của lạm phát trong nền kinh tế thị trường chính là sự phát triển mất cân đối của nền kinh tế đó. Do sự phát triển mất cân đối của nền kinh tế thị trường, quan hệ cung cầu về hàng hóa vận động trong trạng thái mất cân bằng, hoặc là cung lớn hơn cầu, hoặc là cầu lớn hơn cung. Lạm phát chính là bắt nguồn chủ yếu từ tình trạng cầu về hàng hóa và dịch vụ lớn hơn cung về hàng hóa và dịch vụ, khiến cho giá cả hàng hoá và dịch vụ tăng lên mang tính phổ biến.
Chính sách lạm phát thực chất là tổng hòa những giải pháp của một nhà nước nhằm sử dụng lạm phát để thực thi các mục tiêu kinh tế xã hội trong từng thời kỳ nhất định. Ngày nay, chính sách lạm phát bao gồm những nội dung quan trọng khác, như nhà nước phải có giải pháp để khống chế được mức độ in thêm tiền để giải quyết việc bội chi ngân sách, những giải pháp duy trì tăng trưởng liên tục của nền kinh tế, giảm dần số người thất nghiệp, đảm bảo công ăn việc làm cho đại bộ phận người có sức lao động trong xã hội. Vấn đề ở đây là giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tốc độ lạm phát :
- Cần mạnh dạn sử dụng lạm phát để tăng trưởng kinh tế khi hoàn cảnh cho phép, nhưng chỉ số lạm phát không nên vượt quá 10% một năm.
- Trong trường hợp có nhiều nguyên nhân chi phối mà nền kinh tế phát triển quá nóng (trên 10% một năm), chỉ số lạm phát cao trên 10% một năm thì phải áp dụng mọi biện pháp để hạ sốt cho nền kinh tế, đưa lạm phát trở lại lạm phát vừa phải. Như vậy, điều khó khăn không phải là bản thân chính sách lạm phát mà là cơ chế sử dụng nó.
Thực tiễn chinh phục lạm phát của thế giới và Việt Nam cho thấy : lạm phát có thể chinh phục được, nhưng vì lạm phát là sự biến động về giá nên không thể chinh phục một lần là xong, mà đó là cuộc chiến lâu dài, thường xuyên. Hơn nữa, ở mỗi nước, mỗi giai đoạn lại có sự thay đổi riêng nên không thể có được giải pháp chung cho mọi lúc, mọi nơi. Một trong những vấn đề trong cơ chế kiềm chế lạm phát hiện nay là giải quyết mức bội chi ngân sách, quản lý các khoản vay nợ và viện trợ quốc tế. Không thể để tiền vật tư tài sản viện trợ và vay nợ bị phân tán, điều tiết tín dụng của toàn bộ nền kinh tế quốc dân và không thể không quan tâm đến vấn đề thông tin về tình hình sản xuất - kinh doanh, thị trường giá cả.
2. Các phương pháp chủ yếu chống lạm phát ở nước ta
Để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế đạt mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, vấn đề chống lạm phát cần được đảm bảo và luôn duy trì ở mức hợp lý. Để thực hiện chống lạm phát, chúng ta có những chủ trương và giải pháp sau:
a. Các giải pháp về tiền tệ tài chính
- Tiếp tục triển khai phát triển thị trường vốn ngắn hạn, củng cố thị trường tín phiếu kho bạc.
- Ngân hàng nhà nước điều hành chặt chẽ phương tiện thanh toán đã dự kiến.
- Ngân hàng nhà nước cần sơ kết kinh nghiệm điều hành thị trường ngoại tệ liên ngân hàng để có những sửa đổi bổ sung cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu mua bán ngoại tệ giữa các ngân hàng với các tổ chức kinh tế.
- Bên cạnh các công cụ điều hành chính sách tiền tệ trực tiếp, cần áp dụng thành các chuyển gián tiếp để điều hành lãi suất thị trường, điều hòa lưu thông tiền tệ, mở rộng việc thanh toán.
b. Các biện pháp về ngân sách nhà nước
- Phấn đấu tăng thu, thực hiện triệt để tiết kiệm chi nhằm giảm bội chi ngân sách nhà nước, tăng dự trữ tài chính đảm bảo cân đối ngân sách nhà nước vững chắc là biện pháp cơ bản để góp phần kiềm chế lạm phát.
- Cần phải thực hiện việc nghiên cứu chính sách thuế.
- Thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu, tổ chức sử dụng vốn ngân sách Nhà nước đúng mục đích, có hiệu quả và phải chịu trách nhiệm đối với khoản chi sai chế độ làm thất thoát tài sản và những khoản chi lãng phí, phô trương hình thức.
- Tiếp tục sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao năng suất lao động, chống thất thoát, lãng phí vốn tài sản Nhà nước.
c. Các biện pháp về điều hành cung cầu thị trường
- Thực hiện các biện pháp để hàng hóa lưu thông thông suốt trong cả nước nhằm ngăn chặn các hiện tượng đầu cơ, tích trữ khan hiếm giả tạo, kích giá tăng lên gây thiệt hại cho sản xuất và đời sống.
- Về điều hành cân đối cung cầu hàng hóa : Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì phối hợp với các cơ quan quản lý ngành hàng, phối hợp với cơ quan chức năng chịu trách nhiệm theo dõi diễn biến cung cầu những mặt hàng thuộc Bộ, cơ quan của mình quản lý.
- Bộ Thương mại khẩn trương tổ chức tốt việc triển khai thực hiện quyết định số 864/ITG ngày 30/12/1995 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hàng hóa và điều hành công tác xuất nhập khẩu.
- Ban vật giá Chính phủ phải theo dõi sát diễn biến giá cả thị trường, nắm bắt kịp thời những thông tin về tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu, lưư thông hàng hóa, tiền tệ trên thị trường, từ đó đề xuất với Thủ tướng chính phủ những biện pháp bình ổn giá cả, giúp các bộ ngành quản lý sản xuất, kinh doanh, hình thành mức giá cụ thể theo định hướng của Nhà nước.
d. Về chỉ đạo điều hành
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà Nước, Bộ Thương mại, Ban vật giá chính phủ, Tổng cục hải quan, Tổng cục thống kê... tổ chức giao ban định kỳ hàng tháng để nắm chắc diễn biến tình hình vận động của hàng hóa, thị trường, tiền tệ, tình hình cân đối hàng tiền qua đó phát hiện những khâu yếu phát sinh trong công tác điều hành và đề xuất với Chính phủ các biện pháp xử lý kịp thời.
- Tổ tư vấn giá cả do Trưởng ban vật giá Chính phủ làm tổ trưởng cần nắm bắt thông tin về diễn biến giá cả trong nước, ngoài nước chính xác, kịp thời, phát hiện những vấn đề vướng mắc trong điều hành hàng hóa và thông báo tình hình đến các Bộ ngành liên quan để xử lý.
- Các Tổng công ty kinh doanh, nhất là Tổng công ty kinh doanh các mặt hàng quan trọng, thiết yếu phải định kỳ báo cáo tình hình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm cho cơ quan cấp trên, cơ quan quản lý chức năng và chịu trách nhiệm trước Bộ quản lý chuyên ngành về tình hình giá cả các mặt hàng do mình phụ trách. Bộ quản lý chuyên ngành phải chịu trách nhiệm trước chính phủ về việc tăng giá đột biến với những mặt hàng thuộc phạm vi mình quản lý.
IV. lạm phát và vấn đề xử lý lạm phát của một số nước trên thế giới áp dụng vào việt nam
1. Mỹ
Gần 30 năm nay, tình hình lạm phát ở Mỹ có thể khái quát : trước thập kỷ 60, mức lạm phát bình quân 5 năm là 1,3% một năm. Từ năm 60 trở đi, lạm phát bình quân 5 năm liền là 4,7%. Đến thập kỷ 70 đã vọt lên 7,5% kéo dài đến đầu thập kỷ 80. 10 năm trở lại đây đã giảm xuống còn 4,7% một năm. Lạm phát của Mỹ ở thập kỷ 70 đạt đỉnh cao nhất và nguyên nhân chủ yếu là do Chính phủ Mỹ coi nhẹ những điểm nóng kinh tế, thiếu chú ý xử lý lạm phát. Đầu những năm 80, Mỹ đứng trước tình hình chưa từng thấy về suy thoái kinh tế và lạm phát. Để ngăn chặn lạm phát phi mã đó, Mỹ đã thực hiện một chính sách về lãi suất và tiền tệ để giảm dần lạm phát.
2. Nhật
Lạm phát ở Nhật Bản xảy ra vào những năm 50-51 do ảnh hưởng của chiến tranh Triều Tiên và năm 1973-1974 do cuộc chiến tranh vùng vịnh. Để ngăn chặn lạm phát, và đưa nền kinh tế thoát khỏi cảnh khó khăn, Chính phủ Nhật Bản đã áp dụng nhiều biện pháp để đối phó. Tháng 12 năm 1984, chính phủ Nhật đã nêu 9 nguyên tắc nhằm ổn định kinh tế. Đối phó với đợt lạm phát năm 1970, Nhật đã áp dụng chính sách giảm chi tài chính và tăng xuất khẩu nhằm ổn định vật giá. Từ tháng 4 đến tháng 12 năm 1973 đã năm lần nâng lãi suất, đồng thời quản lý vật giá một cách hữu hiệu. Nhờ những giải pháp đúng đắn, Nhật Bản không những ngăn chặn được lạm phát mà còn tăng thực lực của nền kinh tế.
Có thể nêu ra những biện pháp mà các chính phủ đã thực hiện chủ yếu để can thiệp vào lạm phát một cách khoa học và có hiệu quả như sau :
- Lựa chọn chiến lược phát triển kinh tế đúng đắn, nắm chắc tình hình trong nước và quốc tế để điều chỉnh cho phù hợp.
- Nghiêm khắc khống chế giá cả và bảo vệ lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng.
- Bảo đảm cân bằng thu chi tài chính, sử dụng biện pháp tài chính ngân hàng để khống chế lạm phát
- Tăng cường quản lý ngoại hối, khống chế lạm phát
- Sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài
- Quy định những hành vi của xí nghiệp và thương nhân phối hợp chặt chẽ với chính phủ
C. Phần kết luận
Chống lạm phát và kiềm chế lạm phát là mục tiêu cơ bản để tăng trưởng và phát triển kinh tế, ổn định xã hội, thực hiện công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước ta trong thời gian tới. Phát huy kết quả mà Đảng và Nhà nước ta đã đạt được trong những năm qua, những nhiệm vụ chủ yếu trong thời gian tới là: nghiên cứu và tổ chức thực hiện các chính sách bình ổn giá cả thị trường, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát; nghiên cứu điều chỉnh mặt bằng giá, quan hệ giá sao cho phù hợp với tình hình sản xuất; giữ quan hệ công nông hợp lý cũng như quan hệ cung cầu và sự biến động giá cả trên thị trường thế giới; hoàn thiện cơ chế quản lý giá; kiểm soát giá độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh; thúc đẩy tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế; đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học và mở rộng hợp tác quốc tế. Có như vậy mới có thể ổn định kinh tế vĩ mô, khôi phục lòng tin đối với chính sách và năng lực điều hành kinh tế của Nhà nước, sự lãnh đạo kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam.
d. tài liệu tham khảo
1. Tạp chí phát triển kinh tế.
2. Tạp chí thị trường tài chính, tiền tệ.
3. Thời báo kinh tế Việt Nam số 87 -1999.
4. Tạp chí ngân hàng 1/1994
5. Tài chính tiền tệ - Trường ĐHQLKD Hà Nội
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35569.doc