Mục Lục
Lời mở đầu 1
Nội dung 2
I.Lạm phát 2
1.Định nghĩa 2
2 Các loại lạm phát 2
II.Nguyên nhân gây ra lạm phát 3
III.Hậu quả của lạm phát 4
Tác động tích cực của lạm phát 4
Tác động tiêu cực của lạm phát 5
IV. Lạm phát ở Việt Nam thời kỳ 1988 – 1991 7
1. Phân tích, đánh giá sơ bộ tình hình lạm phát trong giai đoạn 1988 - 1991 7
2. Một số biện pháp được Việt Nam áp dụng để kiềm chế lạm phát trong thời kỳ này 9
V.Một số biện pháp kiềm chế lạm phát 9
1. Siết chặt cung tiền tệ 9
2.
13 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1726 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Lạm phát và các chính sách kiềm chế lạm phát, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kiềm chế giá cả 10
3. ấn định mức lãi suất cao 10
4. Hạn chế tăng tiền lương 10
5. Thực hiện một chiến lược thị trường cạnh tranh hoàn hảo 10
6. Biện pháp lạm phát chống lạm phát 10
Kết luận 11
Lời mở đầu
Trong lịch sử của mình, các nước trên thế giới đều trải qua lạm phát với những mức độ khác nhau. Do mỗi quốc gia có một nền kinh tế và chế độ chính trị – xã hội riêng nên sự tác động của lạm phát lên từng quốc gia có mức độ khác nhau. Hầu hết các nước trên thế giới đều đã từng bị lạm phát làm điêu đứng và biết được lạm phát có sức huỷ hoại nền kinh tế ghê gớm như thế nào nên các nước đều rất quan tâm đến tình hình lạm phát của nước mình. Lạm phát đã trở thành một hiện tượng phổ biến ở trên thế giới và là mục tiêu kinh tế vĩ mô của các nước. Việc tăng hay giảm tỷ lệ lạm phát đều có những ảnh hưởng tới các hoạt động của nền kinh tế của đất nước.
Lạm phát thường được phân loại theo mức độ gia tăng của nó. Nguyên nhân gây ra lạm phát có rất nhiều như do chi phí đẩy, bội chi ngân sách, … . Do vậy, các biện pháp để kiềm chế lạm phát cũng rất phong phú. Mỗi biện pháp được đưa ra để kiềm chế lạm phát đều phải xuất phát từ những nguyên nhân làm cho lạm phát gia tăng riêng. Vì một số lợi ích kinh tế – xã hội mà lạm phát đem lại nên các nước thường đưa ra các chính sách để kiềm chế lạm phát ở mức thấp chứ không triệt tiêu hoàn toàn lạm phát.
Nội Dung
I. Lạm phát
1. Định nghĩa
Lạm phát là hiện tượng phát hành thừa tiền giấy so với lượng cần thiết cho lưu thông làm cho giá cả mọi thứ hàng hoá tăng lên. Lạm phát càng cao thì đồng tiền mất giá càng nhiều.
2. Các loại lạm phát
Có nhiều cách phân loại lạm phát, nhưng người ta thường phân biệt lạm phát thành 3 loại: lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát.
a. Lạm phát vừa phải
Lạm phát vừa phải (lạm phát với một con số 1- 9%) nhìn chung là không ảnh hưởng nhiều tới đời sống của người dân cũng như toàn nền kinh tế. Trong điều kiện lạm phát vừa phải, giá cả tăng tương đối chậm và không khác mức bình thường bao nhiêu, lãi suất thực tế và lãi suất danh nghĩa chênh lệch nhau không đáng kể, sự ảnh hưởng tới khả năng tiêu dùng của người dân là rất thấp.
b. Lạm phát phi mã
Khi xuất hiện lạm phát phi mã thì sự ảnh hưởng tới đời sống của người dân cũng như nền kinh tế bắt đầu tăng mạnh thậm chí là rất đáng lo ngại. Lạm phát phi mã xuất hiện khi mà giá cả tăng với tỉ lệ hai hoặc ba con số như 40%, 120%, 300% một năm. Đồng tiền nhanh chóng bị mất giá, nhân dân tránh giữ nhiều tiền mặt mà tích trữ hàng tiêu dùng, cho vay với lãi suất cao hơn bình thương hoặc đầu tư vào bất động sản, đổi lấy vàng và ngoại tệ mạnh làm cho nền kinh tế rối loạn, mất ổn định. Vì vậy lạm phát phi mã có tác động rất tiêu cực đối với đời sống của người dân cũng như toàn nền kinh tế.
c. Siêu lạm phát
Lạm phát phi mã đã gây ra trở ngại đối với nền kinh tế nhưng vẫn có thể khắc phục được, nhưng khi đã xảy ra siêu lạm phát tức là mức lạm phát rất lớn, lạm phát với nhiều con số làm cho nền kinh tế khốn đốn. Các chính sách được đưa ra để khắc phục lạm phát gần như vô hiệu do căn bệnh lạm phát đã trở nên quá trầm trọng với tốc độ giá cả tăng nhanh vùn vụt không thể kiểm soát nổi dẫn đến đồng tiền cũng mất giá rất nhanh chóng.
II. Nguyên nhân gây ra lạm phát
Lạm phát là kết quả của tổng hoà nhiều nguyên nhân kinh tế xã hội. Mỗi loại lạm phát có những nguyên nhân của nó. Nguyên nhân lạm phát của một nền kinh tế phát triển có hiệu quả, khác với nguyên nhân lạm phát của một nền kinh tế suy thoái không có hiệu quả. Không những thế, lạm phát ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển khác với lạm phát ở các nước đang phát triển, cũng như là ở các nước có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung cao. Song dù khác nhau như thế nào đi nữa, các cuộc lạm phát đều có những nguyên nhân có tính chất chung như:
- Những nguyên nhân có liên quan đến chính sách của nhà nước:
+ Sự kém hiệu quả của các chính sách điều tiết vĩ mô mà điển hình là việc phát hành tiền quá mức là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát. Trong thập niên 1980, Việt Nam đã bị lạm phát do thâm hụt ngân sách của chính phủ ngày càng cao và do chính phủ bù đắp cho khoản thâm hụt đó bằng cách phát hành tiền.
+ Chính sách thuế không hợp lý, không đảm bảo được các nguồn thu.
+ Chính sách cơ cấu không hợp lý, khuyến khích các ngành có chi phí cao.
- Những nguyên nhân do chi phí sản xuất gia tăng.
+ Chi phí quản lý
+ Tiền lương lao động
+ Nguyên liệu, vật tư. (Một ví dụ điển hình là cú sốc dầu mỏ năm 1973-1974 và 1979-1980. Giá dầu từ 2,9 đôla vào cuối năm 1972 đã được OPEC đẩy lên đến 9 rồi đến 13 đôla vào năm 1974 và 30 đôla vào năm 1980. Một số nước nhập khẩu dầu mỏ nhiều đã xảy ra lạm phát và bị suy thoái kinh tế).
- Những nguyên nhân liên quan đến điều kiện tự nhiên (bất khả kháng) như: thiên tai, lũ lụt, hạn hán, động đất, khiến cung sụt giảm đột ngột so với cầu.
Các nguyên nhân gây ra lạm phát rất đa dạng và bao quát trong cả lĩnh vực cung cầu, cả sản xuất, lưu thông, phân phối và tiêu dùng, cả chính sách tài chính- tiền tệ lẫn các yếu tố tâm lý, cả nhân tố bên trong lẫn các nhân tố bên ngoài, các nhân tố khách quan và chủ quan…, mà tuỳ theo điều kiện cụ thể, lạm phát nảy sinh với tư cách là kết quả trực tiếp và gián tiếp của tổ hợp các nguyên nhân trên hoặc chỉ do vài nguyên nhân trong số đó.
III. Hậu quả của lạm phát
1. Tác động tích cực của lạm phát
Nếu chúng ta có thể giữ mức lạm phát với mức độ vừa phải (thường là 2% đến 5%/ năm ở những nước kém phát triển và dưới 10%/ năm ở những nước kém phát triển), và với việc “chỉ số hoá” lạm phát cùng các chỉ số kỹ thuật tương ứng khác thì lạm phát sẽ đem lại một số lợi ích:
- Lạm phát tựa như dầu mỡ giúp “Bôi trơn” nền kinh tế. Trong điều kiện nào đó, có thể thông qua lạm phát từ 2-4%/ năm để bỏ ngỏ khả năng có những lãi suất thực âm, có tác dụng kích thích tiêu dùng, vay nợ đầu tư, do đó giảm bớt thất nghiệp xã hội, kích thích tăng trưởng kinh tế. Lạm phát, phá sản và thất nghiệp dường như là những căn bệnh đặc trưng vốn có của mọi nền kinh tế thị trường và giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau (Lạm phát tỷ lệ nghịch với thất nghiệp và tỷ lệ thuận với tăng lương).
- Cho phép chính phủ có thêm khả năng lựa chọn các công cụ kích thích đầu tư vào những lĩnh vực kém ưu tiên thông qua việc mở rộng tín dụng và tài trợ lạm phát. Giúp phân phối lại thu nhập và các nguồn lực xã hội theo các định hướng mục tiêu và trong khoảng thời gian nhất định có chọn lọc. Điều này sẽ càng cần thiết khi có sự suy thoái chung và lạm phát đang ở mức thấp như tình hình kinh tế thế giới thời gian 1997-1998. Theo Palu Krugman, nhà kinh tế mỹ, thì các ngân hàng trung ương cần duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4% để có lợi cho sự phát triển kinh tế và giảm tỷ lệ thất nghiệp.
2. Tác động tiêu cực của lạm phát
Nếu các nước mà để xảy ra lạm phát phi mã hoặc siêu lạm phát thì lạm phát sẽ tác động tiêu cực đối với nền kinh tế. Lạm phát có thể gây ra những tác động như sau:
a) Tác động làm phân phối lại thu nhập
Việc phân phối thu nhập thường kém đồng đều trong các thời kỳ lạm phát. Một số người nắm giữ các hàng hoá có giá cả tăng đột biến trở nên giàu có nhanh chóng, và ngược lại, những người có các hàng hoá, tài sản mà giá cả không tăng hoặc tăng chậm bị nghèo đi, mức lương thực tế cũng sụt giảm làm tổn hại đến mức sống thực tế của người có thu nhập thấp và cố định. Khi dự đoán có lạm phát các người ta thường dự trữ vàng, đầu tư vào bất động sản và ngồi chờ lạm phát xảy ra. Ví như trong khoảng thời gian 1987-1988 và đầu năm 1989 nhiều người đầu cơ vàng và bất động sản ở Việt Nam đã giàu lên nhanh chóng. Còn những người làm công ăn lương thì nghèo đi cũng nhanh chóng như vậy. Khi giá vàng bị đẩy lùi trở lại kẻ dự trữ vàng vẫn không bị thiệt hại gì bởi vì giá vàng so sánh với các loại hàng hoá cao cấp (tivi, tủ lạnh,v…v…) và ngoại tệ thì vẫn không suy giảm chút nào cả. Trong thời kỳ này những người gửi tiết kiệm bị thiệt nhiều nhất.
b) Tác động đến đời sống người dân
- Những người làm công ăn lương tự do:
Những người làm việc tự do, thu nhập của họ chịu sự chi phối của tốc độ gia tăng của lạm phát rất rõ nét:
Ví dụ: Trong năm 1990, một người làm công tự do, nếu có ai thuê với mức tiền công 3.000đ đến 3.500đ/ ngày , họ sẽ chấp nhận làm việc ngay. Bởi vì, tổng thu nhập bình quân của người lao động phổ thông trong tháng khoảng 90.000đ đến 100.000đ/ tháng. Nhưng đến năm 1995, do lạm phát tăng 2,6694 lần, nếu cứ giữ mức thuê cũ sẽ không có ai làm. Do đó, tiền công phải được nâng lên từ 6.000đ đến 10.000đ/ ngày. Bởi vì tổng thu nhập bình quân 1 tháng của người lao động phổ thông từ 180.000 đến 300.000/ tháng, đủ đảm bảo mức sống tối thiểu so với thời điểm giá của năm 1995 (gần tương ứng với tốc độ tăng lạm phát từ năm 1991-1995 là: 2,6694 x 100.000đ/ tháng của năm 1990 = 266.940đ/ tháng của năm 1995 ).
- Đối với công nhân viên chức nhà nước, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, những người nghỉ hưu, nghỉ mất sức hưởng trợ cấp xã hội với số tiền lương cố định hàng tháng.
Nếu hàng tháng những người này không được trợ cấp tiền trượt giá, mức thu nhập của các viên chức sẽ giảm dần theo tốc độ tăng của lạm phát hàng năm. Với tốc độ gia tăng vùn vụt của giá cả mà đồng lương của họ lại không đổi làm cho mức sống của họ bị sụt giảm.
C) Tác động đến sản xuất kinh doanh
Lạm phát làm biến dạng hành vi kinh doanh, đặc biệt là hành vi đầu tư, do làm mất khả năng tính toán hợp lý về lợi nhuận. Lạm phát kìm hãm các đầu tư dài hạn, nhất là trong lĩnh vực sản xuất, kích thích đầu tư ngắn hạn thương là vào các các tài sản mang lại lãi vốn, có tính đầu cơ (các bất động sản, kim loại quý…), gây ra tình trạng khan hiếm hàng hoá không bình thường và lãng phí. Các nhà kinh doanh tiêu phí nhiều nỗ lực vào hoạt động dự báo và đầu cơ theo tỷ lệ lạm phát hay ngăn ngừa những bất ổn kèm theo.
Vì lạm phát làm rối loạn chức năng thước đo giá trị của tiền tệ, nên lạm phát bóp méo, làm biến dạng các yếu tố và tín hiệu thị trường, làm cho toàn bộ các hoạt động các toàn bộ các hoạt động kinh tế- xã hội, đặc biệt là các hoạt động sản xuất - kinh doanh không thể tiến hành bình thường được.
D) Tác động đến toàn nền kinh tế
Lạm phát làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường vốn và tín dụng. Sự bất ổn đinh giá cả trong tương lai làm suy giảm lòng tin, động cơ và gây khó khăn cho sự lựa chọn các quyết định của cả người gửi tiền lẫn của các thể chế tài chính - tín dụng; lạm phát có thể gây tác động xấu đến các ngân hàng tiết kiệm, cộng đồng những người để dành, thị trường trái phiếu, các quỹ an sinh xã hội, hưu trí, bảo hiểm và các công cụ nợ của chính phủ. Lạm phát thường tạo ra tình huống lãi suất thực tế âm, khiến tiền tiết kiệm giảm sút và chuyển hướng ra đầu tư sản xuất. Bởi vậy, lạm phát thường kèm theo suy thoái kinh tế.
Lạm phát làm tăng nguy cơ phá sản do vỡ nợ và làm tăng chi phí dịch vụ nước ngoài tính bằng ngoại tệ của cả doanh nghiệp và chính phủ, do lạm phát thường kéo theo việc nâng tỷ giá và lãi suất đồng bản tệ với tư cách là các giải pháp nhằm thích nghi và kiềm chế lạm phát.
Một nghiên cứu mới đây của ngân hàng thế giới (WB) về quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng : nếu lạm phát vừa phải hoặc tăng dần đến dưới 25%/ năm, thì tốc độ tăng GDP bình quân vẫn duy trì tích cực (nhất là thời kỳ 1960 – 1972 khi có sức ép đầu tư mở rộng của thời kỳ khôi phục sau Chiến tranh thế giới thứ hai) hoặc chỉ giảm nhẹ; tốc độ tăng GDP bình quân giảm mạnh. Lạm phát thực sự nguy hiểm ở mức 40%/ năm và cao hơn, đồng thời kéo dài nhiều năm. Nhìn chung, lạm phát cao là nguyên nhân dẫn đến tăng trưởng thấp. Thực tiễn các nước đang phát triển những năm 80 cho thấy rõ điều đó.
Chương trình nghiên cứu của Ngân hàng canada đối với 62 nước trong vòng 25 năm gần đây khẳng định, việc làm giảm lạm phát ở các nước đi 1% sẽ làm tỷ lệ tăng trưởng hàng năm tăng lên 0,1%. Tổ chức hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) cũng đưa ra kết quả nghiên cứu của mình: nếu một nước giảm được lạm phát từ 5% xuống xấp xỉ 0% thì trong vòng 20 năm tổng sản lượng sẽ tăng thêm 10% so với trường hợp không có lạm phát.
IV. Lạm phát ở Việt Nam thời kỳ 1988 – 1991
1. Phân tích, đánh giá sơ bộ tình hình lạm phát trong giai đoạn 1988-1991
Đây là thời kỳ đầu tiên lạm phát được chính thức thừa nhận bằng nghị quyết số 11 của Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam về đấu tranh với lạm phát. Việt Nam bước vào thời điểm thử thách khó khăn nhất của đất nước kể từ năm 1975.
Năm
Tốc độ cả năm
Năm
Tốc độ cả năm
1988
1989
1990
1991
308,2
134,9
167,5
167,6
1992
1993
1994
1995
117,4
105,2
114,5
112,7
Chỉ số tăng giá bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng trên thị trường trong thời kỳ 1988-1995
Nguồ
Nguồn tổng cục thống kê và tạp chí “thông tin kinh tế kế hoạch” tháng 5-1995
Lạm phát ở Việt Nam, lạm phát chuyển từ dạng “ẩn” sang dạng “mở” với tốc độ cao và không ổn định trong suốt cả một thời kỳ dài tới hàng chục năm. Lạm phát xảy ra trong hoàn cảnh mất ổn định của nền kinh tế, đồng thời chính là tác nhân khá mạnh gây ra sự bất ổn định đó. Lạm phát được tăng cường bởi sự thiếu hụt ngân sách, mất cân đối cán cân thanh toán, ngoại thương, nợ nước ngoài nặng nề.
Lạm phát đó như là sản phẩm của cơ chế hành chính, mệnh lệnh, duy ý chí. Lạm phát của một nền kinh tế kém phát triển và đang trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế, nơi độc quyền nhà nước còn mang đậm tính chất phi kinh tế và được dung dưỡng bởi những chỉ thị của nhà nước và tồn tại thống trị phổ biến trong tất cả các lĩnh vực.
Ngoài ra, lạm phát ở Việt Nam còn diễn ra trong một nền kinh tế đóng cửa, phụ thuộc một chiều vào các nguồn viện trợ bên ngoài từ các nước xã hội chủ nghĩa. Luồng viện trợ từ bên ngoài thì chủ yếu tập trung cho thực hiện các dự án công nghiệp lớn, chậm hoàn vốn và đòi hỏi chi phí đối ứng to lớn về vật chất và nhân lực trong nước càng làm tăng tình trạng thiếu hụt ngân sách và tăng gánh nặng nợ nần Nhà nước kinh niên ở Việt Nam. Sự thiếu hụt ngân sách còn bị làm sâu sắc thêm bởi những chi phí không nhỏ để khắc phục hậu quả của những cuộc chiến tranh kéo dài ( bao gồm cả tiền nuôi dưỡng quân đội khá đông đảo, trợ cấp hưu trí, trợ cấp nạn nhân chiến tranh) và của những trận thiên tai thường xuyên hàng năm.
Trong suốt thời kỳ này, toàn bộ nền kinh tế bị chấn động mạnh, lưu thông hàng hoá và tiền tệ bị rối loạn; các hoạt động kinh tế – xã hội trở nên bất bình thường và định hướng vào các hoạt động mang tính đầu cơ. Tình trạng phá sản và hoạt động cầm chừng của các doanh nghiệp là phổ biến. Đời sống công nhân viên chức và những người có thu nhập thấp bị giảm sút nghiêm trọng. Lạm phát lúc này thực sự là cơn bão có sức phá hoại khủng khiếp và toàn diện đến đời sống kinh tế – xã hội và cả chính trị của đất nước.
2. Một số biện pháp được Việt Nam áp dụng để kiềm chế lạm phát trong thời kỳ này
a. Nâng lãi suất tiền gửi và tiền cho vay tín dụng
Từ 1/ 4/ 1989, lãi suất tiền gửi thông thường vào ngân hàng đã được tăng lên đến 9%/tháng, còn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn 3 tháng là 12%/tháng trong khi tỷ lệ lạm phát là 3,3%/tháng.
b. Thực hiện cơ chế giá cả thị trường bằng liệu pháp sốc có điều tiết.
c. Mở rộng quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước và cho phép khu vực phi nhà nước tự do kinh doanh trong các lĩnh vực kinh tế khác nhau.
d. Khuyến khích mở mang hoạt động xuất nhập khẩu, trước hết là nhập khẩu những hàng tiêu dùng và máy móc vật tư khan hiếm.
Những biện pháp trên cũng đã nhanh chóng phát huy được tác dụng một cách nhanh chóng với sự thành công của việc kéo được mức giá hàng tiêu dùng – dịch vụ từ mức 3 con số của những năm 1986, 1987 và 1988 xuống chỉ còn ở mức 34,7% trong cả năm 1989.
V. Một số biện pháp kiềm chế lạm phát
1. Siết chặt cung tiền tệ
Ngân hàng trung ương thắt chặt cung tiền tệ bằng các biện pháp:
- Nâng lãi suất tín dụng.
- Biện pháp phong toả các loại giá, kể vả phong toả phụ phí được áp dụng khi chống lạm phát cấp bách, thường chỉ kéo dài 3 đến 6 tháng.
2. Kiềm chế giá cả
Để chống lại sự tăng giá của hàng hoá Nhà nước có thể thực hiện chính sách kiềm giữ giá cả bằng nhiều biện pháp như:
- Nhập hàng hoá của nước ngoài để bổ sung cho khối lượng hàng hoá trong nước tạo ra sự cân bằng cung cầu hàng hoá để kìm giữ giá.
- Xuất kho dự trữ vàng và ngoại tệ bán cho công chúng. Đối với các nước nghèo thì biện pháp này khó thực hiện do khối lượng dự trữ vàng và ngoại tệ của các nước này thường thấp.
- Kiểm soát giá cả: Nhà nước ấn định mức giá và kiểm soát giá. Biện pháp này chỉ có tác động nhất thời và trong cơ chế thị trường, Nhà nước khó lòng có thể kiểm soát được mức giá.
3. ấn định mức lãi suất cao
Nhà nước ấn đinh mức lãi suất tiền gửi tăng lên để thu hút bớt khối lượng tiền trong lưu thông. Khi mức lãi suất tiền gửi tăng lên các người có tiền sẽ thấy có lợi khi gửi tiền vào ngân hàng.
4. Hạn chế tăng tiền lương
ở đây là có sự tự nguyện giảm tiền lương. Sự gia tăng tiền lương có thể sẽ đẩy chi phí sản xuất tăng lên và do đó giá cả tăng lên. Tiền lương tăng lên có nghĩa là khối lượng tiền trong lưu thông tăng lên. Vì vậy, việc hạn chế tăng tiền lương là cần thiết để giảm lạm phát.
5. Biện pháp lạm phát chống lạm phát
Nhà nước tăng việc phát hành tiền để chi phí cho việc mở rộng đầu tư, sản xuất và hy vọng chúng mang lại hiệu quả để chặn đứng lạm phát. Tuy nhiên, việc đầu tư phải mang lại hiệu quả chắc chắn. Nếu không nó sẽ càng đẩy lạm phát lên cao hơn nữa.
6. Thực hiện một chiến lược thị trường cạnh tranh hoàn hảo
Việc cạnh tranh hoàn hảo sẽ tạo ra một sự giảm giá tất yếu (do cạnh tranh). Cạnh tranh giúp thúc đẩy các nhà sản xuất cải tiến kỹ thuật, cải tiến quản lý và do đó chi phí sản xuất sẽ giảm đi dẫn đến giá cả hàng hoá sẽ giảm đi.
Kết Luận
Lạm phát ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển kinh tế của một đất nước. Nếu chúng ta không khắc phục được thì nó sẽ làm cho nền kinh tế có thể sẽ lâm vào khủng hoảng trầm trọng, tăng trưởng âm. Không có phương thức chung duy nhất nào cho điều trị căn bệnh lạm phát ở các nước, các nền kinh tế khác nhau, bao gồm cả nền kinh tế chuyển đổi bởi vì lạm phát ở mỗi nước có do những nguyên nhân khác nhau xuất phát từ hoàn cảnh của mỗi nước. Tuy nhiên, các chính sách chống lạm phát cần phải được thực hiện theo một nguyên tắc chung đó là: các biện pháp chống lạm phát cần phải nằm trong tổng thể, đồng bộ, nhất quán và triệt để và chống nguy cơ tái lạm phát trong tương lai. Chúng ta cũng không nên quá nhấn mạnh hoá tới việc đấu tranh với lạm phát vì nó có thể dẫn đến suy thoái kinh tế. Lạm phát ở mức thấp vừa phải và được kiểm soát sẽ không nguy hiểm, thậm chí là lành mạnh và cần thiết cho tăng trưởng kinh tế.
Nước ta là một nền kinh tế mới chuyển đổi và cũng đạt được một số thành tựu trong việc kiềm chế lạm phát và giữ mức tăng trưởng cao. Tuy nhiên để đảm bảo sự tăng trưởng bền vững cần: một mặt, coi trọng sử dụng các kinh nghiệm và công cụ kiềm chế lạm phát có tính phổ biến trên thế giới như tôn trọng yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ; không phát hành tiền bù đắp thâm hụt ngân sách… mặt khác, cần đặc biệt lưu ý đến sự phát sinh và tác động của những chiếc bẫy lạm phát, hay tính hai mặt của những giải pháp và công cụ đấu tranh với lạm phát, cần tuỳ theo những mục tiêu kinh tế – xã hội ưu tiên trong từng thời kỳ cụ thể của quá trình cải cách thị trường mà cân nhắc sử dụng những biện pháp chống lạm phát với những điều chỉnh cụ thể, linh hoạt cần thiết.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Tài Chính – Trường Đại học Quản Lý Và Kinh Doanh Hà Nội
Lý thuyết lạm phát, giảm lạm phát và thực tiễn ở Việt Nam – Nguyễn Minh Phong
Tiền và hoạt động Ngân hàng – Lê Vinh Danh
Báo Tin tức số 23/2004
Báo Thanh Niên 34/2003
6. Trang web:
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7047.doc