Lạm phát tiền tệ và ảnh hưởng của nó đối với xã hội

Mục lục A. Giới thiệu đề tài Trong nền kinh tế thị trường phân phối thu nhập đóng một vai trò rất quan trọng. Phân phối thu nhập nối liền sản xuất với sản xuất , sản xuất với tiêu dùng, nối liền các thị trường hàng hóa tiêu dùng, dịch vụ với thị trường yếu tố sản xuất , làm cho sự vận động của kinh tế thị trường diễn ra thông suốt. Phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất. Mỗi phương thức sản xuất có qyu luật phân phối của cải thích ứng với nó. ở mỗi xã hội có quan hệ phân phối riêng phù h

doc29 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1421 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Lạm phát tiền tệ và ảnh hưởng của nó đối với xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợp với tính chất của quan hệ sản xuất của xã hội ấy. Lí luận về phân phối có vị trí quan trọng trong kinh tế chớnh trị. Nó là vấn đề rộng lớn, liên quan đến các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội của nhà nước và nhân dân lao động. Phân phối thu nhập trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một vấn đề vô cùng quan trọng để tạo ra động lực mạnh mẽ góp phần tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển, ổn định tình hình kinh tế-xã hội,thự hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Giải quyết tốt vấn đề phân phối thu nhập có y nghĩa to lớn đối với sự ổn định tăng trưởng và phát triển kinh tế. Thực tiễn Việt nam đã chỉ rõ trong quá trình đi tới ổn định và tăng trưởng nền kinh tế, trước hết chung ta phải cải cách lưu thông và phân phối. Nhờ tháo gỡ những ách tắc trong lĩnh vực này mà nền kinh tế nước ta đang dần dần thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, lạm phát và từng bước có sự tăng trưởng, phát triển. Tuy nhiên, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, hàng loạt vấn đề thuộc lĩnh vực phân phối thu nhập như tiền lương, lợi nhận,lợi tức, địa tô phù hợp với nguyên lí kinh tế thị trường cũng như tác động của chúng đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở nước ta đòi hỏi có sự nghiên cứu nghiêm túc công phu. Phân phối có thể được coi là một công cụ để xây dựng chế độ mới để phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy nghiên cứu lí luận phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị dtrường và vận dụng vào Việt Nam là hết sức cấp bách, có ý nghĩa cả về mặt lí luận và thực tiễn. Vì những lí do nêu trên, em đã chọn đề tài: "Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp ". B.Nội dung cơ sở lí luận 1.Vị trí của phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường a) khái niệm ngày nay tuy còn nhiều ý kiến khác nhau nhưng nhiều nhà kinh tế đã thống nhất với nhau rằng kinh tế thị trường là nền kinh tế vận dộng theo cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường là cơ chế mà trong đó tổng thể các nhân tố , các quan hệ cơ bản tự do vận động dưới sự chi phối của các qui luật thị trường, trong môi trường cạnh tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận. thị trương là một quá trình mà người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và sản lượng. thị trường bao gồm hai loại: thị trường các yếu tố sản xuất va thị trường hàng hóa tiêu dùng. Hàng hóa trên thị trường có giá cả và giá cả mang lại thu nhập cho những chủ của nó. Các hộ doanh nghiệp bán hàng có được thu nhập gọi là doanh thu của các doanh nghiệp. Hộ gia đình bán hàng có được thu nhập. theo nghĩa rộng, thu nhập trong nền kinh tế thị trường bao gồm doanh thu của các chủ doanh nghiệpvà thu nhập của chủ các yếu tố sản xuất. Còn theo nghĩa hẹp, thu nhập là phần trả công cho chủ các yếu tố sản xuất như tiền lương, lợi nhuận, lợi tức, địa tô. Vậy phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường là phân phối về tiền lương, lợi nhuận, lợi tức, địa tô cho chủ các yếu tố sản xuất . từ đó hình thành nên thu nhập. Đó là tổng số tiền mà chủ các yếu tố sản xuất kiếm được nhoặc thu góp trong một thời gian nhất định. b) Vị trí của phân phối thu nhập trong kinh tế thị trường Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế. Vai trò của nó thể hiện dưới hai phương diện. Thứ nhất, phân phối thu nhập có ảnh hưởng to lớn đối với sản xuất. Mác đã từng nói tới vai trò của phân phối đối với sản xuất . trên phương diện phân phối trực tiếp các yếu tố cho quá trình sản xuất, nó nối liền sản xuất với sản xuất. điều này có nghĩa là nó đảm bảo các yếu tố đầu vào cho doanh nghiệpđảm bảo các nguồn lực phục vụ cho sản xuất kinh doanh để cung cấp hàng hóa trên thị trường sản phẩm. Sự phân phối các nguồn lực diễn ra thông suốt diễn ra thông suốt sẽ đảm bảo quá trình tái sản xuất được tiến hành một cách liên tục. Thứ hai, phân phối thu nhập quyết định sự tiêu dùng của các chủ yếu tố sản xuất. Thông qua phân phối thu nhập các chủ thể yếu tố sản xuất có được thu nhập để mua hàng tiêu dùng và dịch vụ trên thi trường sản phẩm, dịch vụ. Về cơ bản,qui mo phân phối quyết định qui mô tiêu dùng. Các chủ thể nhận dược thu nhập nhiều thì mức tăng tiêu dùng ngày cang cao hơn về mặt giá trị tuyệt đối. 2. nguyên tắc thực hiện phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường nguyên tắc sở hữu trong phân phối thu nhập Trong nền kinh tế thị trường có nhiều chủ thể tham gia đó là những người lao động, các chủ vốn, chủ đất đai và chủ kinh doanh. Mỗi người có quyền sở hữu về các yêu tố sản xuất của mình. Người lao động có quyền sở hữu về sức lao động, chủ vốn có quyền sở hữu về vốn , chủ đất đai có quyền sở hữu về đất đai, nhà kinh doanh có quyền sỏ hữu về năng lực kinh doanh. Quyền sở hữu các yếu tố sản xuất này mang lai thu nhập cho những chủ của nó. Rõ ràng thu nhập là quyền sở hữu được thực hiện về mặt kinh tế, nói quyền sở hữu mà không nói đến quyền thu nhập thì chỉ là quyền sở hữu suông. Mác đã từng nói: "địa tô là quyền sở hữu ruộng đất được thực hiện về mặt kinh tế". Người ta có thể nói như vậy với các yếu tố sản xuất khác . chẳng hạn tiền lương là quyền sở hữu lao động được thực hiện về mặt kinh tế, lợi tức là quyền sở hữu vốn được thực hiện về mặt kinh tế , lơij nhận là quyền sở hữu kinh doanh được thực hiện về mặt kinh tế. Nguyên tăc năng suất giới hạn Năng suất giới hạn là năng suất của yếu tố sản xuất cuối cùng được sử dung trong quá trình sản xuất . chẳng hạn, năng suất của người công nhân cuối cùng, của đơn vị tư bản cuối cùng, của đơn vị tư bản sử dung cuối cùng, của đơn vị dất đai sử dụng cuối cùng. Năng suất đó là nhỏ nhất và nó quyết định năng suất của các đơn vị khác của yếu tố sản xuất. Sở dĩ phải phân phối theo năng suất của yếu tố sản xuấtđược sử dụng cuối cung vì khi người ta tăng thêm đều đặn các đơn vị của yếu tố sản xuất nào đó vào quá trình tạo ra sản phẩm còn các yếu tố khác không thay đổi thì năng suất của các đơn vị sản xuất tăng thêm có xu hướng giảm sút. Vì vậy đơn vị yếu tố sản xuất cuối cùng được coi là yếu tố sản xuất giới hạn. năng suất của nó gọi là năng suất giới hạn. năng suất này trở thành năng suất chung quyết định năng suất của các đơn vị khác của yếu tó sản xuất c) Công cụ thực hiện phân phối thu nhập trong kinh tế thị trường là cầu và giá cả hàng hóa trên các thị trường Ta đã biết là trên thị trường yếu tố sản xuất, các hàng hóa mua bán có giá cả là tiền lương, lợi tức, địa tô Giá cả các yếu tố sản xuất là sự cân bằng giữa cung và cầu các yếu tố sản xuất. Sức cầu của nhà sản xuất là nhu cầu của các nhà kinh doanh về số lượng lao động, đất đai,vốn với mỗi giá cả nhất định. Sức cung của các yếu tố sản xuất là số lượng lao động, vốn , đất đai có thể. Cung ứng trên thị trường với một giá cả nhất định. Lao động, vốn đất đai vốn là những yếu tố sản xuât khan hiếm. Trong điều kiện nhất định nguồn lao động vốn , đát đai là một lượng nhất định mà chúng ta không thể tăng các yếu tố sản xuất này lên được. 3. tác động kinh tế - xã hội của phân phối thu nhập trong kinh tế thị trường a) tác động tích cực Phân phối thu nhập đảm bảo thục hiện quyến sở hữu về kinh tế của các chủ thể yếu tố sản xuất góp phần vào việc bảo vệ, tăng cường quyền sở hữu của các chủ thể tham gia kinh tế thị trường Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trưòng đánh giá đúng đắn các yếu tố sản xuát đến trả công Phân phối thu nhập đảm bảo được quyền tự do của các chủ thể kinh tế, đồng thời nó đảm bảo tính năng động , thích ứng nhanh chóng để tạo ra sự cân bằng tổng quát trên các thị trường b) tác động tiêu cực Phân phối thu nhập cung có nhiều khuyết tật như bản thân nền kinh tế thị trường đó là sự phân hóa giàu nghèo bất bình đẳng dẫn đến những xung đột, những cuộc cách mạng làm khung hoảng chế độ xã hội, đe dọa sự tồn tại, tăng trưởng và phát triển của các nền kinh tế 4 . Các hình thức phân phối thu nhập trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội Tính tất yếu khách quan của sự tồn tai nhiều hình thức phân phối thu nhập trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Xuất phát từ yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan và từ đặc điểm kinh tế xã hội nước ta, trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta tồn tại nhiều hình thúc phân phối thu nhập. đó là vì: Thứ nhất, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, có nhiều hình thúc sở hữu khác nhau. Thứ hai, trong nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều phương thúc kinh doanh khác nhau. Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế này có nhiều chủ thê sản xuất , kinh doanh thuộc nhiều thành phần kinh tế tham gia. Mỗi thành phần kinh tế có phương thức tổ chức sản xuát kinh doanh khác nhau. Ngay trong mỗi thời kì , kể cả thành phần kinh tế nhà nước cũng có các phương thức kinh doanh khác nhau, do đó, kết quả thu nhập là khác nhau. Hơn nữa, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, các chủ thể sảnxuất, kinh doanh tham gia vào nền kinh tế đêùu có sự khác nhau về sở hữu của cải , tiền vốn trình độ chuyên môn, tay nghề, năng lực sở trường. Do đó, khác nhau về phân phối thu nhập. vì vậy khong thể có một hình thúc phân phối thu nhập thống nhất, trái lại có nhiều hình thức khác nhau. Các hình thức phân phối thu nhập Trong mục tiêu và phương hướng phát triển đất nước năm năm 2006- 2010, đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X nêu rõ:" thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động , hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội". Một là, phân phối theo lao động: Phân phối theo lao động là phân phối trong các đơn vị kinh tế trên cơ sở sở hữu công công về tư liệu sản xuất hoặc các hợp tác xã cổ phần mà phần góp vốn của các thành viên băng nhau. Các thanh phần kinh tế nay đêùu dựa trênchế độ cong hữu về tư liệu sản xuát ở trình độ khác nhau. Người lao động làm chủ những tư liệu sản xuất, nên tất yếu cũng phải làm chủ phân phối thu nhập vì vậy phân phối phải vì lợi ích của người lao động. Trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội và ngay cả trong giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản , tức là chủ nghĩa xã hội cũng chưa thể thực hiện phân phối theo nhu cầu và cung không thể thực hiện phân phối theo bình quân mà chỉ có thể phân phối theo lao động. Tất yếu phải thực hiện phân phối theo lao động trong các đơn vị kinh té thuộc thành phần kinh tế dựa trên công hữu về tư liệu sản xuất vì: Lực lượng sản xuất phát triển chưa cao, chưa đến mức có đủ sản phẩm để phân phối theo nhu cầu. Vì phân phối do sản xuất quyết định nên Mác đã viết :"quyền khong bao giờ được ở một mức cao hơn chế đọ kinh tế và sự phát triển kinh tế và sự phát triển văn hóa xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định". Sự khác biệt về tính chất và trình độ lao động dẫn tới việc mỗi người có sự cống hiến khác nhau , do đó phải căn cứ vao sự cống hiến của mỗi người để phân phối. Lao động chưa trở thành một nhu cầu của cuộc sống, nó còn là phương tiện để kiếm sống, là nghĩa vụ quyền lợi. Hơn nữa, còn những tàn dư ý thúc, tư tưởng của xã hội cũ để lại, như: coi khinh lao động, ngại lao động chân tay, so bì cống hiến và hưởng thụ... Trong những điều kiện đó, phải phân phối theo lao động để khuyến khích người chăm, người giỏi ,giáo dục kẻ lười, người xấu, gắn sự hưởng thụ của mỗi người với sự cống hiến của họ. Phân phối theo lao động là hình thúc phân phối thu nhập căn cứ vao số lượng và chất lượng lao động của từng người đóng góp cho xã hội . theo quy luật này, người làm nhièu hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, lao đong kĩ thuật cao. Lao động trong điều kiện độc hại, khó khăn phải được hương phần thu nhập xứng đáng Căn cứ cụ thể để phân phối theo lao động là: Số lượng lao động được do bằng thời gian lao động hoặc số lượng sản phẩm làm ra; Trình độ thành thao và chất lượng sản phẩm làm ra; điều kiện và môi trường lao động; tính chất của lao động; các ngành nghề được khuyến khích. Phân phối theo lao động được thưc hiệ thông qua những hình thức cụ thể như: tiền công trong các đơn vị sản xuất kinh doanh; tiền thưởng; tiền phụ cấp; tiền lương trong các cơ quan hành chính sự nghiệp; phân phối lao động có tác dụng: thúc đây moi người nâng cao năng suất lao động, xây dựng tinh thần trách nhiệm, thúc dây nâng cao năng suất lao động,xây dựng tinh thần trách nhiệm và thái độ lao động đúng đắn thúc đẩy mọi người nâng cao trình độ nghề nghiệp, trình độ văn hóa ,ổn định lao động tạo điều kiện thuân lợi cho việc tổ chức lao động xã hội tác động mạnh đến đời sống vật chất và văn hóa của người lao động, vừa tạo mọi điều kiện cho người lao động phát triển toàn diện. Phân phối theo lao động là hợp lí nhất công băng nhất so vơi các hình thúc phân phối đã có trong lịch sử . cơ sỏ của sự cong băng trong xã hội của sự phân phối đó là sự bình đẳng trong quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Hai là, phân phối theo vốn và các nguồn lực khác ở nước ta đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế với sự đa dạng các hình thúc sở hữu và các hình thức tổ chức, kinh doanh. Do đó, ngoài hinh thúc phân phối theo lao động, trong thời kì quá độ còn tòn tại các hình thức thu nhập khác. dó là: Trong các đơn vị kinh tế tập thể bậc thấp có sự kết hợp phân phối theo vốn và theo lao động trong thành phần kinh tế tiểu chủ thì thu nhập phụ thuộc vào sở hữu tư liệu sản xuất ,vốn đầu tư sản xuất và khả năng sản xuất kinh doanh của chinh nhũng người lao động trong kinh tế tư bản tư nhân và tư bản nhà nước ,việc phân phối dựa trên cơ sở sở hữu vốn cổ phần , sở hữu sức lao động ,sở hữu tư bản ... ba là,phân phối thông qua phúc lợi tập thể, phúc lợi xã hội. Để nâng cao mức sống vật chất của nhân dân, sự phân phối thu nhập còn được thông qua quỹ phúc lợi tập thể và xã hội. Sự phân phối này có ý nghĩa hết sức qua trọng vì nó góp phần: phát huy tính tích cực lao động cộng đồng của moi thành viên trong xã hội; nâng cao mức sống toàn dân, đặc biệt đối vơi những người thu nhập thấp giáo dục ý thúc cộng đồng , xây dựng chế độ xã hội mới. Thưc trạng phân phối thu nhâp trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 1. Thực trang và giải pháp tiền lương ở nước ta a) Thực trạng chính sách tiền lương ở nuớc ta Tiền lương là hình thức thu nhập tương ứng với nguyên tắc phân phối theo lao động Nhận định chung về chính sách tiền lương của công nhân viên chức trước tháng 9/1985 Chế độ tiền lương đến trước tháng 9/1985 là chế độ tiền lương ban hành năm 1960 và được bổ sung năm 1963 băng chế độ cung cấp một số mặt hàng thiết yếu định lượng theo tem phiếu. Nói cách khac lương mang tinh chất hiện vật. đồng thời nhà nước duy trì chế độ bán cung cấp về nhà ở, điện, nước sinh hoat. Nhìn chung, chế độ lương trong thời kì này, vừa bằng tiền vừa bằng hiện vật với giá quá thấp, vừa chăp vá và bình quân kéo dài quá lâu, nên đã gây nhiều tiêu cực, trong tỏ chức, quản li lao động, trong lĩnh vực phân phối lưu thông không thê phát huy hết tiem lực sáng tạo của những người lao động cũng như các tập thể sản xuất. Diễn biến quá trình điều chỉnh tiền lương sau khi ban hành Nghị định 235/HĐBT Sau khi có nghị định 235/HĐBT, nhà nước tếp tục có những biện pháp về tiền lương cụ thể như sau: - Năm 1986: 2 lần điều chỉnh tiền lương danh nghĩa bằng chế độ phụ cấp đắt đỏ 15% và 40%. Ngoài ra, áp dụng trở lại bán 6 mặt hàng định lượng (gạo, thịt, nước mắm, nước mắm, đường, chất đốt và xà phòng) theo giá thấp và theo 3 nhóm mức lương. - Năm 1987: trợ cấp thêm bằng 100% trên mức lương cấp bậc(chức vụ) từ tháng 5 đến tháng 9/1987. từ tháng 10/1987 điều chỉnh lại mức lương theo giá một số mặt hàng tính lương. đối với các đơn vị sản xuất kinh doanhhệ số điều chỉnh bằng 13-15 lần, hành chính sự nghiệp băng 10-68 lần , các lực lượng vũ trang băng 11-51 lần - Năm 1988; sau khi điều chỉnh thống nhất hệ số tiền lương của công nhân viên chức hành chính sự nghiệp và lực lượng vũ trang lên13-15 lần , nhà nước còn thực hiện 3 lần phụ cấp với mức 30%, 60%, 90%trên tiền lương dã tính lại theo hệ số 13-15 lần . đồng thời duy trì 6 mặt hang nhưng khong bán theo giá thấp mà chỉ để tính bù giá vào lương theo sát giá thị trường - Năm 1989, tiền lương, trợ cấp,sinh hoạt phí của người hưởng lương và đối tượng chính sách xã hội được tính lại trên cơ sở mức lương tối thiểu là 22.500đ/tháng theo quyết định số 202/HĐBT và 203/HĐBT ngày 28/12/1989. đối với các đơn vị sản xuất kinh doanhthì tiền lương tính lại chỉ làm thông số tính dơn giá tiền lương theo sản phẩm hoặc dịch vụ và tính nộp bảo hiểm xã hội ; còn quĩ lương đơn vị , mức thu nhập thực tế của mỗi cán bộ công nhân viên cũng như phân phối và hạch toán giá thành vẫn thực hiện theo đúng các quyết định 217HĐBT và nghị định 50/HĐBT của hội đồng bộ trưởng. Mặc dù chỉ số tăng giá lương vào khoảng 204.5 lần nhưng chỉ số giá tinh cho 44 mặt hàng trong cơ cấu lương tối thiểu đã tăng xấp xỉ 700 lần. - Năm 1990 bù giá những mặt hàng nhà nước điều chỉnh giá( điện, dàu thắp sáng ), bổ sung sửa đổi một số chế đọ bất hợp lí qui định tại nghị định235/HĐBT; bổ sung một số chế độ đối với một số đối tượng chính sách xã hội. - Tháng 5.1993,Đảng,Nhà nước tiến hành cải cách tiền lương, ban hành hệ thống lương mới theo hướng , thiết lập hệ thống tiền lương theo hệ số với mức lương tối thiểu la 120000 đồng/tháng, tương đương vói 60 kg gạo đảm bảo cho mỗi người 2100 calo/ngày... nhưng mức lương tối thiểu này không thể duy trì được năng lực lao động cho banr thân người lao động chưa nói gì tới việc nuôi con cái và học hành. Do đó đầu năm 2000, Nhà nước đã nâng mức lương tối thiểu lên 180000 đồng/tháng, đến năm 2001, mức lương này được nâng lên 210000 đồng/tháng, năm 2003 nâng lên 290000 đồng/ tháng, năm 2006 là 360000 đồng/tháng, năm 2007 là 450000 đồng/ tháng, năm 2008 là 540000 đồng/tháng. Sở dĩ phải nâng mức lương tối thiểu lên một cách liên tục là để bù vào sự trượt giá vào lương nhằm đảm bảo lương thực tế cho người lao động Ngoài việc tiền lương thực tế bị hạ quá thấp, hệ thống tiền lương còn bộc lộ sự chênh lệch bất hợp lí giữa lương của các loại lao động, của các ngành nghề các đơn vị khác nhau. thí dụ có trương hợp thu nhập của lao động giản đơn cao hơn thu nhập của lao động phức tạp; thu nhập của doanh nghiệp trung ương cao hơn thu nhập của doanh nghiệp đia phương... Điều này được phản ánh qua số liệu diều tra về tiền lương của 637 doanh nghiệp do sở lao động thương binh xã hội thành phố Hồ Chí Minh tiến ành năm 1999: doanh nghiệp Nhà nước trung ương 1,5-1,9 triệu đồng/ người/ tháng, con số đó đối với các doanh nghiệp thành phố là 1-1,5; doanh nghiệp Nhà nước quận, huyện là 0,6-0,8, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài la 0,975, đơn vị hành chính sự nghiệp là 0,6-0,8. Tính chung từ năm 2003-2007 đã qua 4 lần điều chỉnh mức lương tối thiểu bình quân tăng 38,2%, trong khi giá tiêu dùng tăng 6,8%/năm, GDP bình quân tăng 7,96%/năm, giá tiền công bình quân tăng 10%/năm. Về thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp, qua điều tra 1000 donh nghiệp, 10000 lao động thuộc 12 tinh thành phố trực thuộc trung ương cộng với số liệu của các tổng công ty hạng đặc biệt, các tập đoàn kinh tế đạt gần 4 triệu đồng/tháng, trong doanh nghiệp doanh dân đạt 1,85 triệu đồng/tháng, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 2,5 triệu đồng/tháng. Có một thực tế là tiền lương thấp nhất bình quân thực trả cho các doanh nghiệp năm 2007 đều cao hơn so với qui định của Nhà nước khoảng 1 triệu đồng/tháng. Theo Vụ Tiền lương, tiền công( Bộ LĐTB&XH), mức lương tối thiểu nói chung còn thấp, chưa đạt mục tiêu đảm bảo nhu cầu sống tối thiểu của người lao động. Mức lương tối thiểu áp dụng đối với khu vực doanh nghiệp chưa được điều chỉnh theo nguyên tắc thị trường , cơ bản vẫn phụ thuộc ngân sách nhà nướ, ngoài ra đó là sự phân biệt theo loại hình doanh nghiệp tạo ra sự chênh lệch, không bình đẳng. Hệ thống bảng lương của công ty nhà nước chưa trở thành thước đo giá trị để trả lương cho người lao động mà chỉ là cơ sở dể hưởng đống bảo hiểm xã hội. Đối với doanh nghiệp ngoài nhà nước, mới chỉ có khoảng 305 đăng kí bảng lương theo qui định, nhiều doanh nghiệp chỉ đăng kí để đối phó, xây dựng bảng lương không theo qui định, kéo dài số bậc lương, có trường hợp tới hơn 40 bậc lương, khoảng cách bậc lương quá thấp chỉ khoảng 2-3%, gây thiệt thòi cho người lao động. Cơ chế phân phối tiền lương của doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự theo nguyên tắc thị trường , quan hệ phân phối giữa người có tiền lương cao nhất và thấp nhất chỉ khoảng 5-6 lần, trong khi đó trên thị trường chênh lệch hàng chục lần, thâm chí có những ngành dịch vụ khoảng cách này là 50-60 lần. Vụ Tiền lương, tiền công cho rằng tình trạng thiếu cơ chế phù hợp để điều tiết các yêú tố lợi thế ngành nghề khi xác định tiền lương dẫn đến nhiều công ty nhà nước lương cao không phải do năng suất lao dộng và hiệu quả kinh doanh. Tại nhiều doanh nghiệp nhà nước, vẫn ép mức tiền công của người lao động, nhất là những ngành sử duụng lao động trình độ chuyên môn không cao như da giày, dệt may, chế biến... Một số doanh nghiệp có lợi dụng chia thu nhập của người lao động thành phụ cấp, trợ cấp, tiền thưởng để trốn đóng bảo hiểm xã hội , không đảm bảo quyền lợi của người lao động. Về cơ chế chính sách tiền lương. nhà nước trực tiếp định mức lao động định mức tiền lương, duyệt quĩ lương , qui định thang lương , bảng lương bậc, bậc lương cụ thể cho các đơn vị sản xuất kinh doanh phải thúc hiện chuyển sang một cơ chế mới, trong đó tiền lương đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh chỉ còn là thông só để tính toán, nhà nước chỉ không chế lương tối thiểu, không khống chế thu nhậo tối đa. Trong khu vực hành chính sự nghiẹp, tiền lương vẫn thực hiện theo nghi định 235/HĐBT. đồng thời nhà nước cho phép các cơ quan thuộc lĩnh vực này được hoạt động dịch vụ đời sống để tăng thêm thu nhập Các cơ quan nghiên cứu khoa học ngoài phần ngân sách nhà nước cấp , được trục tiếp kí hợp đồng với các cơ quan đơn vị có nhu cầu để tăng thêm thu nhập. Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước , cố lĩnh vực chuyển nhanh như xác định tự chủ sản xuất kinh doanh của các đơn vị cơ sở kinh tế , có lĩnh vực chưa chuyên lập như cơ chế kiểm soát và diều tiết tiền lương, thu nhập của nhà nước khi các đơn vị kinh tế chuyên sang kinh doanh,... Trong các đơn vị sản xuát kinh doanh vẫn đồng thới tồn tại song song hai kiểu hạch toán : tổng doanh thu trừ tổng chi phí và đơn giá tiền lương trên đơn sản phẩm. Kiểu hạch toán này dẫn đến lãi thì xí nghiệp hưởng , lỗ thì Nhà nước chịu. Chính sách tiền lương theo nghị định 235/HĐBT chỉ giữ được thời gian ngắn, sau đó tiền lương thực tế bắt đầu giảm manh và giảm liên tục. Trên thực tế diễn ra tình trang tốc đọ tăng lương danh nghĩa chậm hơn tốc độ tăng giá. Từ năm 1993 đến nay, mức tăng giá đã tăng 1,79 lần, mức tăng GDP là 2,21 lần, mức tăng dân số là 1,15 lần.nếu tính ra mức tăng lương phải đạt 3,42 lần mới có thể tương đương với mức tăng giá và tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người. nhưng nếu tính cả mức tăng lương vao 1/10 sắp tới thì chỉ đạt 2,42 lần thấp hơn con số 3,42 nêu trên là 17%. Như vây tính trên mặt bằng kinh tế chung thì người làm công ăn lương đã nói chung bị thiệt. Vấn đề đặt ra ở đây là cứ khi nao tăng lương thì giá cả lại tăng trước. tinh từ năm 1993 nước ta đã thực hiện 5 lần tăng lương, trung bình mỗi lần khoảng 20%, mức tăng này thấp hơn mức tăng trưởng kinh tế và lạm phát tính từ lần tăng trước nhưng lại cao hơn gáp 2 lần mức tăng trưởng cộng với lạm phát năm trước đó. Trước tình hình biến động của giá làm cho tièn lương thực tế , đời sống dân cư ngày càng sa sút đã gây ra phản ứng của các đối tượng trong xã hội . cu thể như sau: - ở bộ máy nhà nước các cấp:mặc dù nhà nước trung ương đã có biện pháp che chắn, kiểm soát liên tục, nhưng các nhà nước địa phương đã có nơi tự ý định lại mức lương tối thiểu ví dụ Long An nâng lên 2 lần , Vũng Tau nâng lên 1,5 lần ... không theo chính sách chung - ở các đơn vị sản xuất - kinh doanh; dựa vào quyền tự chủ sản xuất kinh doanh và những sơ hởcủa cơ chế quản lí đang trong bước giao thời, đều tìm mọi cách tăng thu nhập cho mình. Nhiều xí nghiệp làm ăn thua lỗ nhưng thu nhập của họ vẫn cao. Trong các đơn vị sản xuất kinh doanh,có thể phâ ra 3 loại xí nghiệp: + loại xí nghiệp làm ăn thực sự có lãi , có điều kiện phát triển chưa nhiều . + loại này lương và thu nhập thực sự gắn với kết quả sản xuất kinh doanh. điều đáng quan tam là khi thu nhập của họ quá cao cũng không bị điều tiết. + Loại xí nghiệp ở trang thái bấp bênh, nay lãi, mai lỗ ,sản xuất không ổn định. Loại này thường tìm mọi cách để tăng thu nhập, thậm chí xí nghiệp đang lỗ mà thu nhập của người lao động vẫn cao, nguồn thu nhập này được tạo ra một cách không chính đáng. + Loại xí nghiệp lam ăn thua lỗ liên tục, thiếu việc làm, có nguy cơ giải thể , thu nhập của người lao động thực chát là ăn dần vào vốn cho đến khi toàn bộ tài sản bị khánh kiệt, nhưng không chịu phá sản như các xí nghiệp tư doanh. + ở các đơn vị hành chính sự nghiệp: phải thực hiện theo Nghị định 235/HĐBT nhưng lại được nhà nước cho phép mở ra các hoạt động dịch vụ đời sống đủ loại để tăng thu nhập. toàn bộ những thực tế này đã tạo nên sự chênh lệch về thu nhập rất lớn . + ngoài cán bộ công nhân viên chức nhà nước trong khi mức lương tối thiểu do nhà nước qui định là 22.500đ/tháng , thì ngoài xã hội tiền công lao động trả cho lao động bình thường từ 3000-5000đ, lương kĩ thuật15000-20000đ/công. trong khi Nhà nước qui định tiền lương tối đa bằng 3,5 lần tiền lương tối thiểu, thì ngoài xã hội đang thực hiện băng 7-8 lần. đặc biệt ở khu vực này tiền công đã được tiền tệ hóa hoàn toàn và đã tính đến quan hệ cung cầu về lao động Ngoài những phản ứng trên, nhà nước còn thực hiện sự phân phối gián tiếp qua ngân sách cho công nhân viên chức. ví dụ vấn dề phân phối nhà ở tuy đã có quyết định 150/ CP, nhưng khi thực hiện lại rất tùy tiện;chế độ trang cấp đồ dùng gia đình, chế độ chi cho phương tiện, thì tùy từng địa phương , từng đơn vị cũng thực hiện khác nhau không thông nhất. Từ sự phân tích khái quát cho phép chúng ta rút ra một số kết luận sau: + việc giải quyết vấn đề tiền lương ở ta trong thời gian qua chưa phù hợp với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đang hoạt động trong một thị trương thống nhất. + tiền lương đó chưa thực sự là thước đo giá trị-sức lao động , chưa đảm bảo tái sản xuất giản đơn và mở rộng sức lao động không ngừng , chưa trở thành nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động làm công ăn lương. điều đó dẫn đến một hiện tượng là trong một thời gian dài (vài thập niên vừa qua ) hàng chục triệu người lao động làm việc với một động lực mờ nhạt, không tha thiết với công việc. Nói cách khác tiền lương chưa thực sự trở thành đòn bẩy kích thích người lao động làm việc với sự nhiệt tình và sức sáng tạo cao. + Tiền lương vừa mang tính chất bình quân, vừa mang tính bao cấp. Mặc dù từ giữa cuối năm 1993 chúng ta triển khai thí điểm chính sách tiền lương mới nhưng trong nó vẫn đang chứa đựng nhiều điều bất hợp lí đòi hỏi phải tiếp tục giải quyết. + Trong nhiều năm chính sách tiền lương và các chính sách kinh tế xã hội như nhà ở, phân phối điện, nước sinh hoạt... có liên quan mật thiết với nhau. Song trong quá trình giải quyết vấn đề tiền lương chưa tính toán cân đối với từng chính sách một cách cụ thể, do đó phát sinh nhiều hiện tượng mâu thuẫn khó giải quyết gây ra sự bất bình dẳng lớn trong xã hội + Nhà nước chưa thực sự hoàn toàn làm chủ trong việc kiểm soát và quản lí tiền lương và thu nhập nói chung của người lao động. b)Nguyên nhân của tình hình trên: lương tối thiểu được tính toán chỉ dựa theo yêu cầu đảm bảo tái sản xuất sức lao động, dựa trên cân đối kế hoạch của các yếu tố đảm bảo, chưa tính đến biến động của chúng trong quá trình thực hiện , không xác định được mức sống tối thiểu đang tồn tại trong xã hội ở thời điểm đó. Bội số tiền lương không phải là thước đo chung cho toàn xã hội cho toàn xã hội, quan hệ tiền lương không phản ánh quan hệ thu nhập chung trong toàn xã hội. Toàn bộ chính sách tiền lương chỉ áp dụng cho công nhân viên chức nhà nước và một số đối tượngđặc biệt, không có tác động đối với lao động xã hội, với người nước ngoài thuê lao động ở Việt Nam, với những người có chức vụ cao hơn bộ trưởng. Một bộ phận khá lớn chi tư ngân sách Nhà nước cho CNVC được để ngoài lương như nhà ở, bảo hiểm... Từ một hệ thống tiền lương thống nhất khi cho khu vực sản xuất kinh doanh chuyển sang cơ chế mới, thu nhập của họ phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh là đúng. Nhưng tiền lương do nhà nước qui định chỉ còn là thông số tính toán, nhà nước lại không khống chế thu nhập tối đa trong khi nhà nước chưa có công cụ kiểm soát và điều tiết, chưa có luật chống độc quyền... Chưa phân biệt rõ quyền tự chủ của xí nghiệp và kiểm soát và điều tiết của nhà nước về mặt tiền lương và thu nhâp. Việc thực hiện các chính sách điều chỉnh lương thương thiếu đồng bộ và không thống nhất. Đặc biệt là những tác động của chính sách giá-lương-tiền năm 1985 đã ảnh hưởng trực tiếp đến tiền lương làm xuất hiện những chênh lệch quá đáng, bất công xã hội trong tiền lương và thu nhập của các loại lao động. c) Những giải pháp cơ bản về vấn đề tiền lương nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việc không ngừng đổi mới hoàn thiện chính sách tiền lương là một bộ phận quan trọng hàng đầu trong hệ thống các quan hệ phân phối thu nhập ở nước ta hiện nay. Sự nghiệp cách mạng trong điều kiện đổi mới đã đặt con người vào vị trí trung tâm. Họ có thể phát huy hết tiềm năng sáng tạo của mình, khi lợi ích kinh tế của họ được đảm bảo trước hết là tiền lương và nói rộng hơn là thu nhập. chính vì vậy để phát huy hết khả năng sáng tạo của nhân tố con người trong nền kinh tế , tất yếu và trước hết phải giải quyết vấn đề tiền lương - với tư cách là một trong những hình thức phân phối thu nhập ở nước ta hiện nay Hệ thống các quan điểm cơ bản đổi mới chính sách tiền lương ở Việt Nam tiền lương tối thiểu có đảm bảo phải là một trong những nội dung quan trọng nhất của chính sách tiền lương mới. nội dung cơ bản của đổi mới các chính sách tiền lương phải là thay đổi kết cấu lương ( lương tối thiểu , tiền tệ hóa tiền lương...) và thay đổi cơ chế tiền lương ( nhà nư._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7390.doc
Tài liệu liên quan