Lạm phát, giảm phát ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ứng phó

Lời Mở đầu Tiền tệ từ lâu đã trở thành vật ngang giá chung của các hàng hoá dịch vụ. Các giao dịch buôn bán ở hầu hết mọi nơi trên thế giới đều sử dụng tiền và tiền tệ gắn liền với quan hệ lợi ích. Thực tế này minh chứng cho vai trò quan trọng của tiền tệ trong nền kinh tế của các quốc gia cũng như toàn thế giới. Nó được đặc trưng bởi sức mua; khi sức mua thay đổi hay lạm phát hoặc giảm phát xuất hiện sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của mọi người, từ các tổ chức, cá nhân cho tới các chính p

doc95 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1639 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Lạm phát, giảm phát ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ứng phó, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hủ. Do vậy, lạm phát và giảm phát là đối tượng nghiên cứu của các nhà kinh tế học từ nhiều năm nay. Lý thuyết về lạm phát cũng như giảm phát đã khá phát triển nhưng việc làm thế nào vận dụng các biện pháp để kiểm soát chúng có hiệu quả đối với mỗi nền kinh tế vẫn luôn là vấn đề phức tạp. Dường như trong ký ức những người đã sống trên đất nước ta vào thập kỷ 80 của thế kỷ XX, dấu ấn về lạm phát với tốc độ mất giá tới ba con số của tiền tệ gây ra khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng vẫn chưa phai mờ. Những gì đã qua luôn để lại những bài học kinh nghiệm sâu sắc cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta về vấn đề kiểm soát lạm phát. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn nhiều bất cập như thị trường tài chính tiền tệ kém phát triển, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp, các chính sách pháp luật vừa chồng chéo, vừa thiếu đồng bộ thì việc kiến nghị những giải pháp mới, qua sự phân tích thấu đáo luôn là điều cần thiết nhằm kiềm chế tốt lạm phát, khắc phục giảm phát, tạo ra một môi trường kinh tế vĩ mô lành mạnh cho hoạt động sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội. Để công tác kiềm chế lạm phát ở nước ta đạt gần mức kỳ vọng, vấn đề là phải làm thế nào xây dựng được một hệ thống giải pháp có tính đồng bộ. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn trên, khoá luận mang tên: “Lạm phát, giảm phát ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp ứng phó” được thực hiện. Trên cơ sở vận dụng các phương pháp: duy vật biện chứng, nghiên cứu tại bàn, thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp... khóa luận sẽ trình bày lý thuyết chung về lạm phát và giảm phát một cách chặt chẽ, cụ thể dựa trên quan điểm của các nhà kinh tế học nổi tiếng. Khoá luận cũng đưa ra bức tranh chung về tình hình lạm phát, giảm phát ở Việt Nam trong thời gian qua (từ 1976 đến nay) để thấy được những thành công và hạn chế trong các giải pháp mà Nhà nước ta đã thực hiện, đồng thời phân tích xu hướng lạm phát, giảm phát ở nước ta trong tương lai. Từ đó, khoá luận đề xuất các giải pháp kinh tế trên tầm vĩ mô và nhấn mạnh tính đồng bộ của các giải pháp cũng như sự chặt chẽ, có hệ thống trong cách phân tích. Với những nội dung cơ bản như trên, khoá luận được trình bày theo 3 chương: Chương I: Tổng quan về lạm phát và giảm phát Chương II: Thực trạng lạm phát, giảm phát ở Việt Nam và chính sách của chính phủ Chương III: Các giải pháp ứng phó với lạm phát và giảm phát ở Việt Nam từ nay cho đến năm 2010. Hy vọng rằng khoá luận sẽ có ích cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà kinh doanh và những ai quan tâm đến vấn đề này. CHương I: tổng quan về lạm phát và giảm phát I. Lạm phát (inflation) 1. Khái niệm, phân loại và đo lường lạm phát . Khái niệm Lạm phát là khái niệm xuất hiện từ rất lâu, gắn liền với sự ra đời và phát triển của tiền tệ hiện đại, từ khi có các đồng tiền hiện đại là các đồng tiền vàng, bạc... vào thế kỷ VIII trước Công nguyên với chế độ bản vị kim loại (giá trị của một đồng tiền được xác định theo hàm lượng kim loại làm nên đồng tiền đó). Lúc đầu, lạm phát được đồng nhất với sự phá giá tiền tệ, hay là việc làm giảm hàm lượng kim loại so với giá trị danh nghĩa của tiền. Về sau, các luận thuyết về lạm phát ra đời và mỗi luận thuyết có cách hiểu khác nhau về lạm phát. Những người theo luận thuyết “lạm phát lưu thông tiền tệ” như Milton Friedman, nhà kinh tế học người Mỹ, cho rằng: "Lạm phát bao giờ cũng là một hiện tượng của lưu thông tiền tệ. Lạm phát xuất hiện và chỉ xuất hiện khi số lượng tiền trong lưu thông tăng lên với nhịp độ nhanh hơn so với sản xuất.” Theo L.V Chandeler, D.C. Cliner- những đại biểu của trường phái lạm phát giá cả - lạm phát là việc giá cả hàng hoá tăng lên, không kể trong dài hạn hay ngắn hạn, mang tính đột xuất hay theo chu kì. Trong cuốn "Kinh tế học vĩ mô" (Macroeconomics - Nhà xuất bản Addison - Wesley, 1999), giáo sư Michael Parkin (Trường đại học Western Ontario) cho rằng: "Lạm phát là một quá trình trong đó mức giá tăng, còn tiền thì liên tục mất giá trị”. Ông cho rằng một sự thay đổi đột ngột của giá cả không phải là lạm phát. Lạm phát phải là một quá trình tiếp diễn liên tục (ongoing process). Như vậy có thể thấy các nhà kinh tế học đều thừa nhận đặc điểm chung nhất của lạm phát là hiện tượng mức giá chung của các hàng hoá và dịch vụ tăng lên và sức mua thực tế của đồng tiền giảm xuống so với một thời điểm trước đó. Lạm phát là một trong các yếu tố đầu ra của nền kinh tế (sản lượng, thu nhập, việc làm, lạm phát, kim ngạch xuất nhập khẩu, cán cân thương mại) và là kết quả của các yếu tố đầu vào (các chính sách kinh tế vĩ mô và các nhân tố sản xuất như: sức lao động, vốn, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên). Để hiểu rõ hơn về khái niệm lạm phát chúng ta cần xem xét thế nào là mức giá (price level). Đây là số bình quân gia quyền của giá các hàng hoá và dịch vụ (thường là một “rổ” hàng hoá và dịch vụ nào đó được lựa chọn, tùy đặc điểm và cách tính của từng nước) trong một nền kinh tế. Mức giá được đo bằngchỉ số giá cả (price index) hay là mức giá ở một thời điểm so với một thời điểm khác được chọn làm mốc, với giá trị của chỉ số giá ở thời điểm gốc là 100. Nếu mức giá ở thời điểm nghiên cứu cao hơn 100 tức là giá cả nói chung đã tăng lên so với thời điểm gốc. Ngược lại, mức giá ở thời điểm nghiên cứu thấp hơn 100 đồng nghĩa với việc mức giá đã giảm xuống từ thời điểm gốc đến thời điểm nghiên cứu. . Phân loại lạm phát Tuỳ căn cứ phân loại, chúng ta có các cách phân loại lạm phát khác nhau. Sau đây là những cách phân loại thường gặp. Căn cứ vào tốc độ lạm phát Đây là cơ sở để chia lạm phát làm 3 loại: lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã và siêu lạm phát. Lạm phát vừa phải (Moderate inflation) là loại lạm phát mà tốc độ tăng giá cả chậm, ở mức dưới một con số (dưới 10%) mỗi năm. Khi đó, tiền tệ mất giá không nhiều và người ta tin tưởng vào giá trị của đồng tiền. ở hầu hết các nền kinh tế thị trường, lạm phát vừa phải luôn tồn tại. Lạm phát phi mã (Galloping inflation) là lạm phát xảy ra khi giá cả tăng với tốc độ 2 hoặc 3 con số (30%, 50%, 100%, 500% . . .). Khi đó, tiền mất giá trị một cách nhanh chóng và người ta chỉ nắm giữ một lượng tiền tối thiểu để đảm bảo cho các giao dịch hàng ngày. Siêu lạm phát (Hyper inflation) là hiện tượng tốc độ tăng mức giá hết sức nhanh chóng, có khi tới vài trăm phần trăm một tháng hay vài nghìn phần trăm mỗi năm. Siêu lạm phát không thể kéo dài trong quá nhiều năm do tiền gần như mất hết giá trị, các doanh nghiệp không thể hoạt động được và phá sản, người dân không dùng tiền trong các giao dịch nữa và quốc gia gặp phải tình trạng này buộc phải cải tổ chính sách kinh tế nước mình và tìm cách chấm dứt lạm phát. Căn cứ vào nguyên nhân gây ra lạm phát Theo cách phân loại này, lạm phát gồm có: lạm phát cầu kéo, lạm phát chi phí đẩy, lạm phát cơ cấu. Lạm phát cầu kéo (Demand - pull inflation) xảy ra khi tổng cầu tăng nhanh hơn so với sản lượng tiềm năng của nền kinh tế, kéo theo sự tăng lên của mức giá ở điểm cân bằng giữa tổng cung và tổng cầu. Có 3 nguyên nhân làm cho tổng cầu tăng là: sự gia tăng cung tiền, tăng chi tiêu chính phủ và xuất khẩu tăng. Bản chất của lạm phát cầu kéo là chi tiêu quá nhiều tiền để mua một lượng cung hàng hóa hạn chế trong điều kiện nền kinh tế đã đạt cân bằng trên thị trường lao động. Có thể thấy rõ hơn cơ chế lạm phát cầu kéo qua mô hình dưới đây. Hình1: Lạm phát cầu kéo Q* Q, AD0 AD1 AD2 AS 0 AS 1 AS 2 P 0 P 1 P 2 P 3 Q (Sản lượng) P (Mức giá) Trong ngắn hạn, đường tổng cung AS (Aggregate demand) mới đầu nằm ngang và sẽ dốc ngược lên khi vượt quá mức sản lượng tiềm năng Q*. Điều này là do khi chưa đạt mức sản lượng tiềm năng, một sự thay đổi nhỏ về giá cả của đầu ra (hàng hoá, dịch vụ) cũng khuyến khích được các hãng tăng nhanh sản lượng sản xuất ra để đáp ứng sự tăng lên của nhu cầu, thu nhiều lợi nhuận hơn. Khi sản lượng của nền kinh tế là Q’ > Q*, chi phí đầu vào đã kịp thời điều chỉnh tăng lên, các hãng không còn động lực để tăng cao sản lượng nữa, do đó dù giá có tăng nhiều nhưng sản lượng vẫn không tăng đáng kể hay đường AS có độ dốc lớn. Lúc đó, cầu tăng mạnh, đường AD0 dịch chuyển lên trên đến vị trí mới là AD1 và mức giá tăng nhanh từ P0 đến P1. Tổng cầu tăng liên tục làm cho đường tổng cầu liên tiếp dịch chuyển về phía bên phải và mức giá không ngừng tăng lên, tức là xảy ra lạm phát cầu kéo. Khi đường cầu dịch chuyển đến AD1, nền kinh tế ở trạng thái vượt quá trạng sản lượng tiềm năng và toàn dụng nhân công, người lao động gây áp lực tăng lương làm cho tổng cung giảm, đường tổng cung AS0 dịch chuyển về bên trái tới vị trí AS1. Mức giá tăng tiếp từ P1 đến P2, nền kinh tế lại chuyển về trạng thái đạt mức sản lượng tiềm năng và toàn dụng nhân công. Cứ như thế, sau khi đường tổng cầu dịch chuyển về bên phải thì đường tổng cung lại dịch chuyển về bên trái kéo theo mức giá tăng liên tục. Lạm phát chi phí đẩy (Cost-push inflation) bắt nguồn từ sự gia tăng chi phí do các nguyên nhân chủ yếu như chi phí tiền lương tăng, giá nguyên vật liệu tăng, chính sách thuế và các khoản phải nộp khác tăng; công nghệ sản xuất lạc hậu, cơ chế quản lý kém hiệu quả đẩy chi phí sản xuất tăng lên. Mô hình dưới đây cho ta thấy quá trình diễn ra lạm phát chi phí đẩy. Hình 2: Lạm phát chi phí đẩy P (Mức giá) Q (Sản lượng) AS 0 AS 1 AS 2 AD0 AD1 P 1 P 2 P 0 Q* Q, Ban đầu đường tổng cầu là AD0, đường tổng cung là AS0. Khi chi phí đầu vào tăng (ví dụ giá dầu lửa tăng), các hãng giảm mức cung hàng hoá, dịch vụ và đường tổng cung dịch chuyển sang tới vị trí AS1, sản lượng giảm xuống còn Q’, đẩy mức giá tăng từ P0 lên P1. Hiện tượng mức giá tăng liên tục, đồng thời sản lượng (hay GDP thực tế) suy giảm được gọi tình trạng lạm phát đình trệ hay đình lạm (stagflation); kèm theo đó là thất nghiệp gia tăng. Lạm phát cơ cấu phát sinh do sự mất cân đối sâu sắc trong cơ cấu của nền kinh tế (chẳng hạn giữa công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ, giữa khu vực sản xuất và khu vực dịch vụ, giữa tích lũy và tiêu dùng) được gọi là lạm phát cơ cấu. Lạm phát “nhập khẩu” xảy ra do tác động của những bất ổn về kinh tế ở nước ngoài lên giá cả, thị trường trong nước. Chẳng hạn, một quốc gia công nghiệp sử dụng nguyên liệu nhập khẩu là chủ yếu có thể gặp lạm phát “nhập khẩu” khi giá nguyên liệu ở nước ngoài tăng mạnh, kéo theo sự lên giá của các hàng hoá, dịch vụ được sản xuất ra trong nước. c. Phân loại theo tính chất của lạm phát Dựa vào tính chất của lạm phát, người ta chia lạm phát thành: Lạm phát thuần thuý, lạm phát được dự đoán trước (lạm phát ỳ) và lạm phát không được dự đoán trước. Lạm phát thuần tuý (Pure inflation) Một nền kinh tế trải qua lạm phát thuần tuý khi giá cả của tất cả các hàng hoá, dịch vụ tăng với tốc độ như nhau. Lúc đó, giá cả tương đối của các hàng hoá (giá của hàng hóa này so với giá trung bình của các hàng hoá khác) không thay đổi. Vì thế, lạm phát thuần tuý không khuyến khích người tiêu dùng thay thế hàng hoá này bằng hàng hoá khác (nếu xuất phát từ động lực thu nhập). Lạm phát được dự kiến trước (Anticipated inflation) Lạm phát dự kiến còn được gọi là lạm phát ỳ (inertial inflation). Đó chính là tỷ lệ lạm phát mà người ta dự đoán sẽ xảy ra. Lạm phát được dự kiến thường là một nhân tố được xem xét đến trong các hợp đồng. Tuy nhiên, những cú sốc trong nền kinh tế như sự thay đổi tổng cầu, mùa màng thất bát lại làm cho tỷ lệ lạm phát thực tế có thể cao hơn hay thấp hơn tỷ lệ lạm phát ỳ. Lạm phát không được dự kiến (Unanticipated inflation) Đây là mức chênh lệch giữa tỷ lệ lạm phát thực tế và tỷ lệ lạm phát dự đoán. Chẳng hạn, nếu tỷ lệ lạm phát được dự đoán là 5%, tỷ lệ lạm phát thực tế xảy ra là 8% thì tỷ lệ lạm phát không được dự đoán là 3%. 1.3. Đo lường lạm phát. Sự sai lệch của chỉ số giá tiêu dùng Để đánh giá được tác động của lạm phát đến nền kinh tế, rồi từ đó đưa ra “phương thuốc điều trị” thích hợp, chúng ta cần đo lường lạm phát. a. Đo lường lạm phát Tỷ lệ lạm phát hàng năm được xác định bằng tỷ lệ thay đổi của chỉ số giá cả ở một năm (tháng) so với chỉ giá của năm (tháng) được chọn làm gốc. = x 100 % Có nhiều loại chỉ số giá cả như: Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá sản xuất và chỉ số giảm phát GNP. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI- Consumer Price Index) được sử dụng rộng rãi nhất để tính tỷ lệ lạm phát. CPI đo lường mức giá bình quân gia quyền của một nhóm hàng hoá, dịch vụ trong một khoảng thời gian. Số lượng, chủng loại hàng hoá nào được lựa chọn lại tuỳ theo quy định của từng nước. CPI của năm n được tính như sau: CPIn = ( x x 100) + ( x x 100) + ... Trong đó: CPIn là chỉ số giá tiêu dùng năm n Pn là giá hàng hoá năm n (Pn gạo là giá gạo vào năm n) Po là giá hàng hoá vào năm được chọn làm năm gốc. Tỷ lệ chi tiêu cho từng loại hàng hóa thường được cố định, tức là giá các loại hàng hóa có thể thay đổi từ năm này sang năm khác nhưng trọng số của các hàng hóa vẫn được giữ nguyên. CPI chính là tỷ lệ % giữa giá cả hiện tại của giỏ hàng hoá với cơ cấu tiêu dùng như ở năm gốc so với giá của giỏ hàng hoá đó vào thời điểm gốc. Chỉ số giá của giỏ hàng hoá hiện tại (Current - Period Basket Price Index, tạm gọi tắt là CPBI) là tỷ lệ % giữa giá hiện tại của giỏ hàng hoá hiện tại so với giá của giỏ hàng hóa đó vào thời diểm gốc. Như vậy cách tính CPI và CBPI khác nhau ở tỷ lệ chi tiêu của người tiêu dùng cho mỗi loại hàng hoá. Chỉ số giá cả sản xuất (PPI - Producer Price Index) phản ánh sự biến động của mức giá bán buôn hay giá cả của đầu vào (chi phí sản xuất). Chi phí đầu vào biến đổi sẽ dẫn tới những thay đổi về xu thế giá cả trên thị trường. Chỉ số giảm phát tổng sản phẩm quốc nội (GDP deflator) đo lường mức giá bình quân của tất cả các hàng hóa, dịch vụ cấu thành nên GDP (bao gồm tiêu dùng, đầu tư, chi tiêu chính phủ, xuất khẩu ròng); trong khi đó CPI chỉ bao gồm các hàng tiêu dùng. Công thức để tính chỉ số giảm phát GDP là: Chỉ số giảm phát GDP = x 100 % Cách tính chỉ số giảm phát GDP cũng tương tự như cách tính CBPI; tức là chỉ số giảm phát GDP chính là tỷ lệ % giữa giá cả hôm nay của giỏ hàng hoá hiện tại (mà ở đây bao gồm tất cả các hàng hoá dịch vụ trong GDP) so với trị giá của giỏ hàng hoá đó tính theo giá của năm được chọn làm gốc. Do vậy, chỉ số giảm phát GDP khác CPI ở chỗ: trọng số của các loại hàng hoá, dịch vụ trong GDP thay đổi liên tục, còn trọng số của các loại hàng hoá trong CPI được cố định từ năm gốc đến năm nghiên cứu. Trong công thức tính chỉ số giảm phát GDP, GDP danh nghĩa là tổng giá trị bằng tiền tính theo giá cả hiện tại của tất của các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm. Còn GDP thực tế đo lường giá trị tổng sản lượng của nền kinh tế trong năm hiện tại theo giá cả của năm gốc. Vào thời kỳ có lạm phát, chỉ số giảm phát GDP lớn hơn 100%. ở nước ta, phương pháp cải tiến để tính chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã được Tổng cục Thống kê chính thức công bố từ tháng 1/1998. Theo đó, CPI của cả nước được tính dựa trên cơ sở chỉ số giá tiêu dùng của tất cả các tỉnh thành. Giỏ hàng hoá để tính CPI gồm 296 mặt hàng (cả hàng hoá và dịch vụ). Giá kỳ gốc là mức giá bình quân năm 1995. CPI hàng tháng được công bố với 4 kỳ gốc so sánh: CPI bình quân năm 1995, so với tháng trước, so với tháng đó năm trước và so với tháng 12 năm trước. Vàng và đô-la Mỹ (USD) được công bố chỉ số giá riêng, không tính chung vào CPI [10]. Sự sai lệch của chỉ số tiêu dùng (CPI) Cách tính CPI chỉ đảm bảo độ chính xác tương đối vì CPI không tính đến sự thay đổi trong cơ cấu tiêu dùng, sự thay đổi về chất lượng sản phẩm, về cách phân phối sản phẩm tới người tiêu dùng. Sự thay đổi trong cơ cấu tiêu dùng Do kết quả của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, các hàng hóa dịch vụ mới ra đời thay thế một số hàng hóa dịch vụ trước đây. Để so sánh mức giá năm 2002 với mức giá năm 1978, chúng ta phải xem xét giá của nhiều mặt hàng, trong đó giá của một chiếc máy vi tính hiện tại phải được đem so với giá của một chiếc máy chữ năm 1978 do máy vi tính gần như đã thay thế hoàn toàn máy chữ. Tuy nhiên, máy vi tính ngày nay đắt hơn máy chữ do các tính năng tiện lợi hơn nhiều của nó. Vì vậy có thể nói, sự xuất hiện của những sản phẩm mới làm cho CPI tăng lên và tỷ lệ lạm phát cũng bị “thổi phồng”. Cơ cấu tiêu dùng còn thay đổi do người tiêu dùng thay thế hàng hóa này bằng hàng hóa khác. Chẳng hạn, giá thịt lợn tăng, giá thịt gà không đổi thì người ta có xu hướng mua ít thịt lợn, nhiều thịt gà hơn. Giả sử sự thay thế hai loại hàng hoá này cho nhau không làm thay đổi hàm lượng protein và mức độ thoả mãn của người tiêu dùng thì CPI đã không tính đến sự thay thế này, tức là CPI phản ánh giá protein đã tăng lên trong khi thực tế giá trị của protein không hề thay đổi . Sự thay đổi về chất lượng sản phẩm Ti-vi, cassette, ô-tô và các hàng hoá nói chung ngày càng có chất lượng cao nhờ tiến bộ của khoa học kỹ thuật, sự đầu tư công sức, trí tuệ v.v... để cải tiến chất lượng sản phẩm. Điều này có nghĩa là giá trị của chúng ngày càng tăng lên. Dựa trên quy luật giá trị của Karl Mark có thể suy ra rằng một phần sự gia tăng giá cả hàng hóa là để trả cho chất lượng đã tăng lên chứ không phải do lạm phát. Tuy nhiên CPI không tính đến sự tăng lên của chất lượng và coi mọi sự gia tăng về mức giá đều là lạm phát. Sự thay đổi trong cách phân phối sản phẩm tới người tiêu dùng Khi giá cả của các hàng hoá tăng cao, người ta sẽ mua hàng ở các cửa hàng bán giảm giá nhiều hơn là việc tiện ở đâu thì mua ở đó. Như thế các cửa hàng bán giảm giá sẽ mọc lên nhiều hơn, tức là có sự thay đổi trong cách phân phối sản phẩm tới người tiêu dùng. Giá của các hàng hoá được thống kê tại các cửa hàng để tính CPI không hoàn toàn chính xác vì chưa tính đến giá thấp hơn thế ở các hàng bán giảm giá, và vì thế tỷ lệ lạm phát được tính cao hơn mức thực tế. Sự sai lệch của chỉ số giá tiêu dùng cũng gây ra một số hậu quả. Nó dẫn tới việc các công ty có thể điều chỉnh sai về mức lương trả cho người lao động khi mức lương được tính theo tỷ lệ tăng lương cộng với tỷ lệ lạm phát. Người lao động sẽ có thu nhập thực tế cao hơn so với mức lẽ ra họ được hưởng. Các khoản chi qua nhiều năm của ngân sách Chính phủ (như điều chỉnh tăng lương cho công chức nhà nước, tăng trợ cấp xã hội khi lạm phát tăng cao) được gắn với CPI sẽ bị đội lên rất nhiều khi CPI có sự sai lệch thực tế dù sự sai lệch chỉ ở mức độ rất nhỏ, khoảng 1- 2 %. CPI sai lệch còn dẫn tới những phân tích, đánh giá không chính xác về sự tăng trưởng của nền kinh tế, của một số ngành, từ đó một số chính sách kinh tế đưa ra có dựa vào CPI sẽ tác động đến nền kinh tế không tốt như mong đợi. Để khắc phục sự sai lệch của chỉ số giá tiêu dùng, Cục thống kê lao động Mỹ đã quyết định tiến hành các cuộc điều tra về chi tiêu của người tiêu dùng một cách thường xuyên hơn và cứ sau mỗi năm họ lại điều chỉnh cơ cấu của giỏ hàng hóa được dùng để tính CPI. Tuy nhiên chúng ta cần chú ý rằng, không phải nước nào có tính CPI hàng tháng, hàng năm cũng nên điều chỉnh cơ cấu giỏ hàng hoá một cách thường xuyên để tính CPI vì việc làm này đòi hỏi phải bỏ ra chi phí không nhỏ mà lợi ích đem lại chưa chắc đã bù đắp được chi phí. Do đó, vấn đề có điều chỉnh hay không còn phụ thuộc vào quy mô của nền kinh tế; theo tôi, đối với các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật, Trung Quốc thì nên điều chỉnh thường xuyên, còn với nước nhỏ như Việt Nam thì nên điều chỉnh từ 7 - 10 năm một lần. 2. Phân tích nguyên nhân gây ra lạm phát Lạm phát xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau, tùy thuộc vào loại lạm phát, cơ chế quản lý kinh tế, tình hình kinh tế xã hội của từng nước trong mỗi thời kỳ. Dưới đây chúng ta lần lượt xem xét một số nguyên nhân chủ yếu. 2.1. Lạm phát do sai lầm của các chính sách kinh tế vĩ mô Đây là loại lạm phát do ý chí chủ quan của con người mang lại với những sai sót ngay từ chính sách, cơ sở lý luận như: tăng cung tiền quá mức nhằm bù đắp thâm hụt ngân sách hay đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Chính phủ, chính sách đầu tư không thích hợp dẫn đến mất cân đối trong cơ cấu hàng hoá và cầu về hàng thiết yếu không được thỏa mãn làm giá cả tăng cao. Nhu cầu không được thoả mãn trong trường hợp này là nhu cầu xuất phát từ yêu cầu thực tế của một nền kinh tế phát triển bình thường. 2.2. Lạm phát do nền kinh tế phát triển quá nóng Một nền kinh tế tăng trưởng nóng khi sản lượng vượt quá mức sản lượng tiềm năng (mức sản lượng tối đa đạt được khi sử dụng một lượng đầu vào nhất định), hay là có sự quá tải, mất cân đối trong một khâu nào đó của yếu tố đầu vào. Trạng thái nóng của nền kinh tế có liên quan đến việc làm tăng mức cung tiền trong lưu thông, dẫn đến mức giá tăng theo. Chúng ta cần nhận thức rõ các dấu hiệu về trạng thái nóng của nền kinh tế để từ đó thấy được nguy cơ lạm phát gắn liền với nó. Một nền kinh tế ở trạng thái cân bằng được coi là chuyển sang trạng thái nóng khi có những dấu hiệu sau đây xuất hiện đồng thời và được khẳng định chắc chắn: Thứ nhất, nền kinh tế đạt trạng thái toàn dụng nhân công (hay tỷ lệ thất nghiệp ở mức tự nhiên) Thông thường, hầu hết các nền kinh tế đều không sử dụng hết công suất thiết kế của máy móc thiết bị và năng lực nhân công. ở giai đoạn nền kinh tế tăng trưởng mạnh, cầu tăng nhanh và lớn hơn cung buộc các doanh nghiệp phải cho máy móc thiết bị vận hành hết tốc lực, mở rộng qui mô đầu tư, sử dụng tối đa nguồn nhân lực, tăng ca, tăng giờ sản xuất. Trong nền kinh tế xuất hiện sự mất cân đối ngắn hạn giữa lượng tiền được đưa vào lưu thông và lượng hàng hoá cung ứng vì sản xuất chưa kịp. Hơn nữa, các khoản chi tiêu của chính phủ, các nhà đầu tư lại là khoản thu của những người cung cấp máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu và người lao động, làm tăng cầu có khả năng thanh toán trong nền kinh tế và quan hệ cung cầu thêm căng thẳng, giá cả hàng hóa, dịch vụ có nguy cơ tăng vọt. Nếu các khoản thu trên tạm thời chưa dùng đến, người ta sẽ gửi vào ngân hàng. Thông qua cơ chế tạo tiền của hệ thống ngân hàng, lượng tiền trong lưu thông tăng lên nhiều lần và xuất hiện nguy cơ lạm phát cao. Thứ hai, lượng cầu có khả năng thanh toán của xã hội chưa được đáp ứng. Khi cầu chưa được đáp ứng, các tác nhân khác trong nền kinh tế có xu hướng đầu cơ: nhanh chóng chuyển tiền mặt sang các loại hàng hóa có giá trị (như đất đai, nhà cửa) và dùng tiền mua hàng hóa tích trữ để tránh việc nắm giữ lượng tiền lớn đang giảm dần sức mua gây ra sự khan hiếm hàng hóa giả tạo. Nhu cầu không được thoả mãn là nhu cầu “ảo”, tức là sự kết hợp giữa nhu cầu thực tế của một nền kinh tế phát triển bình thường và nhu cầu gia tăng không thực chất do nền kinh tế nóng tạo ra. Thứ ba, trong khu vực kinh tế then chốt, chi phí lao động cận biên tăng. Để đáp ứng nhu cầu tăng quá mức cung của nền kinh tế, các nhà sản xuất tăng ca, tăng giờ làm của công nhân, tuyển thêm nhân công làm cho cầu về lao động tăng cao, mức lương cũ của người lao động không còn hấp dẫn với họ nữa. Duới sự bảo trợ của công đoàn, công nhân gây sức ép đòi tăng lương. Doanh nghiệp buộc phải tăng chi phí nhân công nhằm đảm bảo mục tiêu mở rộng sản xuất, tăng số lượng sản phẩm cung ứng. Điều này đồng nghĩa với việc đưa thêm tiền vào lưu thông. Trong khi đó, hàng hoá chưa được sản xuất ra kịp để cân bằng với lượng tiền, làm cho quan hệ tiền hàng càng thêm căng thẳng. Các chi phí tăng thêm cho người lao động cũng được tính vào giá thành sản phẩm mà đây là sản phẩm của các ngành then chốt, đóng vai trò chủ đạo, điều tiết nền kinh tế nên mức giá chung tăng lên (tức là xảy ra lạm phát cao). Thứ tư, nhu cầu chi tiêu làm cho cầu tiền tệ căng thẳng, gây sức ép tăng lãi suất liên tục trên các thị trường tiền tệ. Sau đó, xu hướng xuống giá chứng khoán xuất hiện. Nền kinh tế tăng trưởng nóng kích thích các doanh nghiệp vay vốn để đầu tư vào máy móc thiết bị, nhà xưởng, tuyển thêm nhân công, tăng dự trữ hàng hoá, đầu cơ chứng khoán v.v... để kiếm lời. Cầu về vốn tăng cao và theo quy luật cung cầu, giá của quyền sử dụng vốn cũng tăng theo nên lãi suất vay vốn trên thị trường tiền tệ tăng. Chi phí tăng lên này được hạch toán vào giá thành sản phẩm, dẫn đến sự tăng giá bán sản phẩm. Tuy nhiên, doanh nghiệp không thể tăng mãi giá bán sản phẩm trong điều kiện thị trường có cạnh tranh. Đến lúc lãi suất vay vốn tăng lên quá cao, nhà sản xuất không còn lợi nhuận nếu tiếp tục vay vốn để kinh doanh. Họ không muốn đầu tư nữa mà gửi tiền vào ngân hàng để huởng lãi suất. Nền sản xuất do vậy bị đình đốn rồi suy giảm và kéo theo đó là xu hướng tụt giá chứng khoán. Hiện tượng lạm phát cao do nền kinh tế tăng trưởng nóng xuất phát từ chính sách đúng nhưng không được điều chỉnh kịp thời ở giai đoạn sau. 2.3. Sự gia tăng chi phí Trong điều kiện bình thường của nền kinh tế, sự khan hiếm của một số vật tư, nguyên liệu quan trọng trong các ngành kinh tế chủ chốt có thể làm cho mức giá chung tăng mạnh. Một cuộc khủng hoảng năng lượng có thể đẩy mức giá chung của nền kinh tế lên cao. Sự yếu kém trong cơ chế quản lý của các doanh nghiệp cũng là lý do khiến giá thành của các sản phẩm cao hơn, gây ra lạm phát cao. 2.4. Nhập khẩu lạm phát Nguyên nhân này của lạm phát đúng với các nước có nền kinh tế mở. Độ mở càng rộng thì nguy cơ gặp phải lạm phát “nhập khẩu” càng cao vì nền kinh tế dễ bị ảnh hưởng bởi các tác động bên ngoài. Giá cả hàng hoá, dịch vụ trong khu vực lân cận quốc gia đó cũng như trên phạm vi quốc tế gia tăng sẽ kích thích luồng hàng hoá di chuyển ra nước ngoài nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao hơn. Dòng di chuyển này càng lớn, càng nhanh thì thu nhập quốc dân càng nhiều nhưng kèm theo đó là tình trạng khan hiếm hàng hoá ở trong nước. Sự đối lập này phản ánh hiện tượng chênh lệch giữa lượng tiền trong lưu thông so với lượng hàng hóa, dịch vụ đối ứng và điều này gây ra lạm phát. Mặt khác, những bất ổn về kinh tế, tài chính, tiền tệ trong khu vực hoặc suy thoái kinh tế toàn cầu “xói mòn” lòng tin của các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào triển vọng kinh tế sáng sủa, khả năng bảo toàn vốn và làm ăn có lãi. Họ rút vốn ra khỏi kinh doanh làm tổng cung sụt giảm. Trong khi đó, vẫn tồn tại khả năng lượng tiền trong lưu thông còn quá nhiều (có thể do cơ chế tạo tiền trước đó của ngân hàng), cùng với số vốn bị chuyển hướng ra khỏi đầu tư làm cho sức mua của nền kinh tế giảm, đẩy lạm phát lên cao. 2.5. Yếu tố bất khả kháng Những yếu tố nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người như hạn hán, lũ lụt, động đất, hoả hoạn, khủng bố cũng có thể làm nảy sinh lạm phát. Khi những điều này xảy ra trên diện rộng, gây thiệt hại lớn thì toàn bộ nền kinh tế bị ảnh hưởng: sản xuất suy giảm, hàng hóa không đủ cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng và khắc phục hậu quả của các sự kiện bất khả kháng. Phân tích này đặc biệt đúng trong trường hợp bất khả kháng xảy ra tại một hay các vùng chuyên canh, các khu sản xuất mà nguyên vật liệu, sản phẩm từ đó là nguồn cung cấp chủ yếu cho nền kinh tế. Nếu chúng kéo dài sẽ gây ra lạm phát . 2.6. Nguyên nhân khác Ngoài các nguyên nhân kể trên, lạm phát có thể là kết quả của kỳ vọng về lạm phát của các tác nhân trong nền kinh tế hoặc là kết quả của đầu cơ v.v... Khi các doanh nghiệp, các cá nhân dự đoán rằng lạm phát sẽ tăng, họ tính đến lạm phát trong các quyết định của mình: người cho vay sẽ nâng cao lãi suất danh nghĩa, người tiêu dùng tích trữ hàng hoá, doanh nghiệp nâng cao dần giá bán sản phẩm. Chính những việc này đẩy giá cả tăng lên và có thể gây lạm phát. Tương tự như vậy, việc các nhà sản xuất hoặc các nhà đầu cơ tích trữ hàng hoá, không bán ra thị trường để tạo cơn sốt cung giả tạo cũng dễ dẫn tới lạm phát. 3. Mối quan hệ giữa lạm phát và một số biến số kinh tế vĩ mô Khi xem xét lạm phát từ tầm nhìn tổng thể nền kinh tế, không thể không xét đến quan hệ giữa lạm phát với lãi suất và thất nghiệp vì giữa chúng có sợi dây liên kết; nếu tác động đến một nhân tố thì các nhân tố còn lại cũng thay đổi theo. 3.1. Quan hệ giữa lạm phát và lãi suất Để thấy rõ mối quan hệ lạm phát và lãi suất chúng ta cần phân biệt lãi suất danh nghĩa (nominal interest rate) và lãi suất thực (real interest rate). Lãi suất được yết tại các ngân hàng hay được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng là lãi suất danh nghĩa. Lãi suất danh nghĩa được đo bằng số lượng tiền tệ. Lãi suất thực là lãi suất đo bằng lượng hàng hóa mua được; đó là tỷ lệ phần trăm lượng hàng hóa tăng lên hoặc giảm đi mà cùng một số tiền hiện tại hay giá trị của số tiền đó trong tương lai có thể mua được do không chi tiêu ngày hôm nay và đem cho vay. Lãi suất thực bằng lãi suất danh nghĩa sau khi đã tính đến tác động của lạm phát. Quan hệ giữa lãi suất và tỷ lệ lạm phát được thể hiện qua đẳng thức sau: Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát Đẳng thức trên có ý nghĩa quan trọng đối với quyết định mua sắm hay đầu tư. Nếu lãi suất danh nghĩa không đủ để bù đắp tỷ lệ lạm phát thì một người khôn ngoan sẽ không cho vay tiền để sau này được nhận một giá trị thực nhỏ hơn giá trị ban đầu của khoản tiền anh ta có. Anh ta có thể dùng khoản tiền vào việc mua sắm. Quan hệ giữa lãi suất và lạm phát còn áp dụng được khi tính toán để đưa ra quyết định đầu tư. Nếu: Lợi nhuận < Lãi suất thực Vốn đầu tư thì nhà đầu tư sẽ không có lợi bằng việc đem tiền cho vay (với thời hạn cho vay bằng khoảng thời gian đầu tư ) để hưởng lãi suất. 3.2. Quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp Ngày nay, khi đề cập đến mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp, người ta thường sử dụng đường cong Phillip, tên nhà kinh tế học người New Zealand, người đặt nền móng cho việc nghiên cứu mối quan hệ này từ năm 1958. Tuy nhiên, đường cong Phillip hiện đại khác với đường Phillip ban đầu ở chỗ: đường Phillip hiện đại phản ánh quan hệ giữa lạm phát giá cả và thất nghiệp chứ không phải giữa lạm phát tiền lương và thất nghiệp; đường Phillip hiện đại có tính đến tỷ lệ lạm phát dự kiến cũng như cú sốc cung. Trong phân tích sau đây, chúng ta sẽ sử dụng đường cong Phillip hiện đại cho phù hợp với thực tiễn kinh tế các nước. a. Trong ngắn hạn Đường cong Phillip trong ngắn hạn cho thấy mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp khi tỷ lệ lạm phát dự kiến của nền kinh tế ở một mức nhất định. Đến đây, cần nói qua về khái niệm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Đó là tỷ lệ thất nghiệp khi thị trường lao động ở trạng thái cân bằng. Số người thất nghiệp lúc đó b._.ằng tổng số người thất nghiệp tự nguyện. Trong ngắn hạn, quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp là tỷ lệ nghịch, tức là có thể đánh đổi lạm phát cao để lấy thất nghiệp thấp. Nếu lạm phát tăng cao hơn tỷ lệ lạm phát dự kiến (ei) thì thất nghiệp sẽ giảm xuống thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên (UN) và ngược lại. Đường Phillip ngắn hạn sẽ dịch chuyển khi một trong hai yếu tố tỷ lệ lạm phát dự kiến hoặc tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên thay đổi. Khi tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên tăng từ UN đến UN1 thì đường Phillip mới là là đường (P1). Trong trường hợp tỷ lệ lạm phát dự kiến giảm xuống ei’, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên không đổi thì đường Phillip dịch chuyển sang (P') (xem hình 4). Đường Phillip ngắn hạn chỉ thể hiện sự đánh đổi giữa thất nghiệp và lạm phát khi có các cơn sốt cầu (cầu tăng dẫn đến giá tăng cao, sản xuất tăng và thất nghiệp giảm); còn khi xuất hiện các cơn sốt cung, chi phí sản xuất tăng, sản xuất bị thu hẹp làm cho giá cả tăng và thất nghiệp cũng tăng. Tỷ lệ lạm phát Hình 3: Đường Phillip ngắn hạn và dài hạn UN UN1 Tỷ lệ thất nghiệp ei' ei (P) (P1) Đường Phillip dài hạn (P') Đường Phillip ngắn hạn Dựa vào đường Phillip ngắn hạn, các nhà hoạch định chính sách có thể lựa chọn chính sách kinh tế vĩ mô (nhất là chính sách tài chính, tiền tệ). Chẳng hạn, khi nền kinh tế gặp phải lạm phát cao, chính phủ theo đuổi mục tiêu giảm lạm phát sẽ thắt chặt chính sách tiền tệ (tăng lãi suất, giảm chi tiêu chính phủ...) và thất nghiệp sẽ gia tăng. Ngược lại, nếu nền kinh tế rơi vào suy thoái, thất nghiệp gia tăng thì chính phủ lại kích cầu đầu tư và tiêu dùng để giảm thất nghiệp nhưng phải chấp nhận lạm phát cao. b. Trong dài hạn Đường Phillip dài hạn là một đường thẳng song song với trục biểu diễn tỷ lệ lạm phát và cắt trục hoành tại điểm có tỷ lệ lạm phát tự nhiên (UN). Về lâu dài, tỷ lệ thất nghiệp thực tế bằng tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên do tác động của các chính sách tài khóa, tiền tệ, dù tỷ lệ lạm phát thay đổi ra sao. Như vậy, không tồn tại mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp trong dài hạn. 4. Tác động của lạm phát Lạm phát có những tác động không chỉ về mặt kinh tế mà trên cả khía cạnh chính trị, xã hội. Mức độ tác động tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như: tỷ lệ lạm phát, khả năng dự toán chính xác sự thay đổi của lạm phát. Khi lạm phát ở mức vừa phải (khoảng từ 2% -5% đối với các nước phát triển và dưới 10% ở các nước đang phát triển) và các tác nhân trong nền kinh tế dự tính trước được thì loại lạm phát này có tác dụng tích cực đối với nền kinh tế. Lạm phát ở mức độ nền kinh tế "chịu đựng được" như vậy sẽ kích thích các nhà đầu tư vay nợ để đẩy mạnh sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm, giảm thất nghiệp cho xã hội. Thu nhập của các thành phần trong xã hội cũng vì thế mà cao hơn, thúc đẩy tiêu dùng và tăng trưởng kinh tế. Nếu nền kinh tế rơi vào suy thoái và giảm phát (lý thuyết về giảm phát được xét ở cuối chương I), có thể dùng lạm phát để kích thích tăng trưởng kinh tế chung. Theo Palu Krugman, một nhà kinh tế học người Mỹ, các ngân hàng trung ương nên giữ tỷ lệ lạm phát ở mức 3 - 4% để tạo điều kiện cho kinh tế tăng trưởng và giảm thất nghiệp. Tình hình lại hoàn toàn khác nếu tỷ lệ lạm phát ở mức hai con số trở lên mà nhà nước không kiểm soát được. Khi đó, lạm phát gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với đời sống kinh tế - xã hội. Tính chính xác của những dự đoán về lạm phát cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quyết định của các tác nhân trong nền kinh tế. Kỳ vọng về lạm phát làm thay đổi hành vi, sự lựa chọn của họ. Phần lớn mọi người sẵn sàng mua một số hàng hoá nào đó ngay từ hôm nay để tránh sự lên giá nếu họ dự tính mức giá chung sẽ tăng lên trong tương lai. Những người nào dự đoán được tương đối chính xác ảnh hưởng của lạm phát lên thu nhập thì họ có thể tránh được sự giảm sút thu nhập thực tế do lạm phát gây ra. Có thể thấy điều này trong trường hợp những người cho vay cộng thêm tỷ lệ lạm phát dự kiến vào lãi suất danh nghĩa, hay khi các doanh nghiệp đưa ra những điều khoản giá cả của hợp đồng mua bán theo mức lạm phát hoặc họ tiến hành mua nguyên vật liệu dự trữ đề phòng sự tăng giá trong tương lai. Lạm phát làm cho chúng ta khó có được thông tin về các nhân tố cấu thành nên giá cả hợp lý của một hàng hóa, dịch vụ nào đó và do vậy khó đưa ra quyết định xem có nên mua hay không và mua khi nào là có lợi. Dưới đây, chúng ta sẽ xem xét cụ thể từng ảnh hưởng của lạm phát đến nền kinh tế. 4.1. Phân phối lại thu nhập và của cải Một số người thường cho rằng chỉ có lạm phát cao mới phân phối lại thu nhập và của cải, nhưng thực tế không phải như vậy. Có những bằng chứng cho thấy ngay cả lạm phát vừa phải cũng gây ra hiệu ứng này. Những người cầm giữ trái phiếu năm 1976 ở Mỹ không hề cho rằng lạm phát sẽ tăng lên trong giai đoạn 1976-1980. Kết quả là bất cứ ai nắm giữ trái phiếu trong khoảng thời gian này đều thấy giá trị thị trường của trái phiếu giảm còn lãi suất thị trường tăng lên. Giá trị thị trường của trái phiếu giảm, đồng thời sức mua của đô-la giảm nên đến năm 1980, giá trị thực của những trái phiếu được phát hành từ năm 1976 chỉ còn một nửa so với giá trị ban đầu. Lạm phát làm cho tổng thu nhập danh nghĩa tăng lên nhưng thực chất lại hàm chứa trong đó sự phân phối lại thu nhập và của cải giữa các nhóm dân cư (giữa người đi thuê lao động và công nhân, giữa người đi vay và người cho vay, giữa Chính phủ và người đóng thuế,...). ích lợi hay thiệt hại do lạm phát đem đến không phụ thuộc vào bản thân tỷ lệ lạm phát mà phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát không được dự kiến. Nếu người mua và người bán, chủ và thợ,... đều dự đoán chính xác về lạm phát thì không có sự phân phối lại thu nhập và của cải. Hiệu ứng tái phân phối thể hiện rõ nét trên thị trường lao động và trên thị trường vốn. a. Trên thị trường lao động Thông thường, tiền lương được quy định trong hợp đồng lao động giữa người đi thuê lao động (người chủ) và công nhân đều có tính đến một mức lạm phát nào đó mà cả hai bên dự kiến. Nếu tỷ lệ lạm phát trên thực tế cao hơn dự kiến thì khoản tiền lương trả thêm do dự tính một tỷ lệ lạm phát nhất định trong hợp đồng không đủ để bù đắp sự thay đổi của lạm phát. Rõ ràng, người chủ có lợi nhuận cao hơn còn lương của người lao động lại mua được ít hàng hóa hơn so với dự kiến ban đầu của họ. Ngược lại, nếu mức lạm phát dự kiến trong hợp đồng lao động cao hơn mức lạm phát thực tế xảy ra thì người chủ bị thiệt còn công nhân được lợi. b. Trên thị trường vốn Lạm phát không được dự tính trước phân phối lại thu nhập giữa người đi vay và những người cho vay. Nếu lạm phát xảy ra với tỷ lệ cao hơn dự đoán thì lãi suất được đặt ra trước đó không đủ để bù đắp cho người cho vay vì tiền đang bị giảm sút sức mua. Lúc đó người đi vay có lợi còn người cho vay bị thiệt. Trong trường hợp tỷ lệ lạm phát thấp hơn mức đã dự kiến thì lãi suất đã định là quá cao; người cho vay sẽ được lợi còn thua thiệt rơi vào người đi vay. Lạm phát tăng cao cũng gây thiệt hại cho những người gửi tiền tiết kiệm (mà thực chất là người cho vay) vì sức mua của khoản tiết kiệm bị giảm sút. Sự phân phối lại thu nhập giữa chủ và thợ, giữa người cho vay và người đi vay khuyến khích họ cố gắng dự đoán lạm phát sao cho càng chính xác càng tốt. Tuy nhiên, hầu hết họ đều dự đoán không chính xác sự thay đổi của lạm phát và do vậy tác động của lạm phát về mặt phân phối lại thu nhập và của cải luôn xảy ra. Riêng hiệu ứng phân phối lại thu nhập giữa Chính phủ và người đóng thuế có thể được thấy rõ trong phần phân tích tác động của lạm phát lên công cụ thuế khoá. Ngoài tác động phân phối lại thu nhập và của cải, lạm phát còn có những ảnh hưởng khác đến hiệu quả kinh tế như bóp méo tín hiệu giá cả, làm tăng chi phí của các cá nhân cũng như của toàn xã hội cho các giao dịch kinh tế. 4.2. Tác động đến hiệu quả kinh tế a. Bóp méo tín hiệu giá cả (Price signals distortion) Khi mức độ lạm phát của một nền kinh tế là vừa phải, nếu giá cả của một hàng hóa nào đó trên thị trường tăng lên thì người bán cũng như người mua đều biết rằng đã có sự thay đổi thực sự về cung và/hoặc cầu đối với hàng hoá đó và họ sẽ có hành vi thích hợp để ứng phó (chẳng hạn, chuyển hướng tiêu dùng hay sản xuất mặt hàng khác nhiều hơn để thay thế). Nhưng nếu nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát cao, người tiêu dùng sẽ khó so sánh giá cả giữa các hàng hoá với nhau vì giá tất cả các hàng hoá đều tăng nhiều so với trước mà so sánh một tiêu thức nào đó với một tiêu thức không đổi bao giờ cũng dễ hơn việc so sánh hai tiêu thức cùng biến đổi. Tỷ lệ lạm phát càng cao càng khuyến khích người ta mua nhiều hàng hoá tích trữ để tránh sự giảm sút sức mua của tiền tệ và đề phòng sự leo thang của giá cả. Vì vậy, hàng hóa càng trở lên khan hiếm và giá cả càng lên cao, tạo ra cơn sốt cung giả tạo. Người sản xuất có thể chạy theo cơn sốt "ảo" này để đẩy mạnh sản xuất. Điều đó chứng tỏ giá cả trong thời kì lạm phát cao không phải là tín hiệu đáng tin cậy về cầu thực tế của thị trường. b. Chi phí "giầy da" (Shoeleather cost) Trong thời kì có lạm phát, người ta cố gắng giữ càng ít tiền càng tốt vì sức mua của tiền tệ giảm sút nhanh chóng. Chi phí để giảm bớt lượng tiền nắm giữ được gọi là "chi phí giày da" của lạm phát vì giày sẽ bị mòn và cũ nhanh chóng khi người ta thường xuyên đến ngân hàng để lấy tiền. Đây chỉ là cách nói hình ảnh: "chi phí giày da" chính là chi phí một người bỏ ra (chẳng hạn như hy sinh thời gian, sự tiện lợi) để có tiền trong tay khi cần và phần nào tránh được sự giảm sút sức mua của khoản tiền anh ta có. Như vậy, lạm phát làm cho các cá nhân tốn nhiều thời gian, công sức để "ném" số tiền mình có vào lưu thông và mua về các tài sản thực (hàng hóa, đất đai, nhà cửa,...) hoặc chuyển đổi sang đồng tiền có sức mua ổn định. Nếu lạm phát thấp, thời gian và sức lực đó được giành cho những việc khác. Đối với các doanh nghiệp, họ phải đưa ra những kế hoạch phức tạp để quản lý tiền mặt. Vì thế, các nguồn lực bị tiêu tốn vào việc đối phó với lạm phát chứ không phải để góp phần tạo ra các giá trị thực. c. Chi phí "thực đơn" (Menu cost) Đây là chi phí để thay đổi giá cả của hàng hoá dịch vụ bán ra khi lạm phát tăng cao. Trong điều kiện bình thường của nền kinh tế, đa số các công ty, những người cung cấp hàng hóa, dịch vụ không phải thay đổi giá bán hàng ngày, mà giá của các sản phẩm thường được giữ cố định trong hàng tuần, hàng tháng, có khi tới hàng năm vì điều chỉnh giá cả gây tốn kém thời gian, sức lực, của cải. Khi giá cả thay đổi lớn, các công ty phải tăng thêm các nguồn lực để điều chỉnh giá cả: các nhà hàng phải in thực đơn mới, các công ty thay đổi báo giá và catalogue, các cửa hàng, siêu thị phải thay đổi giá bán các hàng hoá... Các chi phí phát sinh không chỉ gồm chi phí in ấn, chi phí quảng cáo về các mức giá mới mà còn bao gồm các chi phí "chìm" như chi phí tập hợp nhân lực để đưa ra các quyết định mới về giá, chi phí giải quyết các vấn đề liên quan đến sự tức giận của khách hàng trước việc giá cả bị thay đổi thường xuyên. d. Chi phí điều chỉnh chính sách Lạm phát cao khiến các nhà hoạch định chính sách phải thường xuyên theo dõi diễn biến lạm phát, phản ứng của dân chúng, dự báo của các nhà kinh tế để đưa ra các chính sách thích hợp với thực trạng kinh tế lúc đó. Thay vì nghiên cứu định hướng để đưa ra các chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong tương lai, họ phải tập trung tìm kiếm các giải pháp để đối phó với lạm phát và đó là một chi phí không chỉ với nhà nước mà là chi phí với cả nền kinh tế. Chúng ta đã xem xét hiệu ứng phân phối lại thu nhập và của cải do lạm phát gây ra cũng như các chi phí cho lạm phát xét ở góc độ vi mô. Trên tầm vĩ mô, lạm phát tác động đến công ăn việc làm, sản lượng, hoạt động đầu tư, hoạt động xuất nhập khẩu của nền kinh tế cũng như cán cân thanh toán quốc tế. 4.3. Tác động về mặt kinh tế vĩ mô a. Tác động đến tiết kiệm và đầu tư Mọi sự tăng lên quá nhanh của chỉ số giá đều có thể làm cho những dự đoán về lạm phát trở nên sai lệch. Các nhà đầu tư khó có thể dự đoán về giá các yếu tố đầu vào và đầu ra trong tương lai và điều này làm tăng rủi ro của việc ước tính lợi ích của các dự án đầu tư. Kết quả là quyết định về tiết kiệm và đầu tư không đem lại hiệu quả như mong muốn. Lạm phát làm suy giảm đầu tư thông qua ảnh hưởng xấu đến lợi nhuận của hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi nhà đầu tư mua thêm các máy móc, các trang thiết bị, giá trị của các tài sản đó (cũng như các tài sản khác chưa khấu hao hết) được khấu trừ vào thu nhập trước khi chịu thuế. Tổng giá trị khấu hao cho đến khi hết vòng đời của tài sản bằng giá mua tài sản đó. Lạm phát làm cho giá trị thực của tài sản được khấu hao giảm và nhà đầu tư phải nộp nhiều thuế hơn. Tỉ lệ lạm phát càng cao thì lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp càng thấp. Lợi nhuận là động lực chủ yếu để các nhà đầu tư bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh, nhưng trong thời kỳ lạm phát, lợi nhuận bị thu hẹp. Vì thế, lạm phát làm suy giảm đầu tư, từ đó làm chậm quá trình tăng trưởng kinh tế. Lạm phát còn kìm hãm đầu tư dài hạn, hạn chế sản xuất (vì nhà đầu tư không chắc chắn là giá cả sẽ bình ổn trở lại trong tương lai), kích thích đầu cơ vào các tài sản mang lại lợi nhuận nhanh chóng như bất động sản, vàng bạc, đá quý,... Một nền kinh tế rơi vào lạm phát cao cũng có nghĩa là các khoản tiền gửi ngân hàng, các tài sản tài chính có giá trị danh nghĩa cố định (như trái phiếu) bị suy giảm giá trị thực một cách nhanh chóng. Đây là lý do khiến những người có tiền gửi tiết kiệm, những người nắm giữ những tài sản tài tài chính tìm cách chuyển đổi chúng thành tiền mặt rồi mua bất động sản, đồ cổ, đồ qúy hiếm,... để đầu cơ chờ giá lên. Hơn nữa, các nhà đầu tư giảm lòng tin vào thị trường vốn và thị trường tín dụng vì lạm phát làm lãi suất thực giảm, thậm chí còn có tình trạng âm. Theo đó, cung tiết kiệm giảm sút và người ta có xu hướng ít đầu tư vào sản xuất, tức là đầu tư giảm. Những động thái của ngân hàng trung ương trong thời kì có lạm phát cao nhằm đạt mục tiêu giảm tỷ lệ lạm phát (như nâng cao lãi suất, thu hẹp cung tín dụng) sẽ kéo theo hiện tượng thoái lui đầu tư, vốn chạy vào các ngân hàng và kèm theo là suy thoái kinh tế. Khi lạm phát cao, đồng tiền trong nước mất giá trầm trọng so với ngoại tệ. Các nhà đầu tư nước ngoài hiện tại và tiềm năng nhận thấy rằng lợi nhuận thu được bằng đồng bản tệ sẽ đổi được ít ngoại tệ hơn. Họ cũng không tin tưởng vào sự an toàn của môi trường đầu tư nội địa trong tương lai. Do đó, họ rút vốn về nước hoặc không muốn đầu tư nữa. b. Tác động tới tình trạng thất nghiệp Lạm phát cao làm cho nền kinh tế dịch chuyển khỏi trạng thái toàn dụng nhân công. Trong trường hợp cả hãng sản xuất và công nhân đều dự đoán rằng lạm phát sẽ cao nhưng thực tế không diễn ra như vậy thì lương thực tế của công nhân tăng. Những dự đoán thiếu chính xác trong thời gian dài buộc các công ty phải sa thải bớt nhân công; do vậy mà tỷ lệ thất nghiệp gia tăng. Những người còn có việc làm thì được lợi còn người đi thuê lao động bị thiệt. Ngược lại, nếu cả người đi thuê và công nhân đều cho rằng lạm phát thấp nhưng lạm phát thực tế lại cao hơn đáng kể so với dự đoán của họ thì sự gia tăng lương theo thoả thuận không đủ bù đắp lạm phát không dự kiến được. Điều này có lợi cho nhà sản xuất nên họ cố gắng thuê nhiều lao động để đẩy mạnh sản xuất. Do tỷ lệ tăng lương thấp hơn tỷ lệ lạm phát trong thực tế, một số công nhân rời bỏ nhà máy, xí nghiệp họ đang làm để đi tìm việc ở nơi mà lương họ được trả có thể bù đắp tác động của lạm phát lên thu nhập. Hãng sản xuất muốn nhà máy hoạt động với công suất cao hơn nhằm đáp ứng cầu hàng hoá lên cao thì phải trả tiền làm thêm giờ cho số công nhân hiện tại, ngay cả khi sản phẩm chưa được tung ra thị trường. Hơn nữa, chi phí bảo dưỡng máy móc thiết bị cũng gia tăng do tăng công suất hoạt động; điều này làm lợi nhuận thực tế của nhà sản xuất không tăng nhiều như khi lạm phát thấp. Những người công nhân bỏ nhà máy đi tìm việc nhưng chưa chắc họ đã tìm được chỗ làm mới phù hợp; những người ở lại nhà máy cảm thấy mình bị lừa dối vì tiền lương của họ bây giờ mua được ít hàng hoá hơn họ từng nghĩ. Một tâm lý không ổn định, muốn thay đổi chỗ làm bao trùm trong lòng những người làm thuê. Chính tâm lý này và tình trạng công nhân bỏ việc để tìm việc khác có mức lương cao hơn đẩy tỷ lệ thất nghiệp lên cao. Trong thời kì lạm phát cao, mặt hàng chung của giá cả tăng, tức là các chi phí đầu tư vào cho quá trình sản xuất cũng tăng. Chúng ta biết rằng lạm phát bóp méo tín hiệu giá cả thị trường (phần 4.2, mục a) khiến nhiều nhà đầu tư đưa ra quyết định sai lầm. Kết quả là nhiều doanh nghiệp bị phá sản hoặc sản xuất cầm chừng và một bộ phận công nhân bị mất việc. c. Tác động đến sản lượng Lạm phát vừa phải có tác động không đáng kể đến năng suất và sản lượng. Ngân hàng thế giới đã tiến hành nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát ở 127 quốc gia trong giai đoạn 1960 - 1992 và đưa ra kết luận: tốc độ tăng trưởng GDP bình quân vẫn duy trì tích cực hoặc chỉ giảm nhẹ khi tỷ lệ lạm phát nhỏ hơn 25%/năm; khi tỷ lệ lạm phát cao hơn 25%/năm, tốc độ tăng GDP bình quân giảm mạnh; nếu lạm phát cao trên 40%/năm và kéo dài nhiều năm thì thực sự nguy hiểm cho nền kinh tế. Như vậy, giữa lạm phát và tăng trưởng có mối quan hệ khá chặt chẽ: lạm phát cao là nguyên nhân dẫn đến tăngtrưởngthấp. d. Tác động đến hoạt động ngoại thương và cán cân thanh toán quốc tế Đối với các nền kinh tế mở, lạm phát còn tác động đến hoạt động ngoại thương và cán cân thanh toán quốc tế thông qua tác động đến tỷ giá hối đoái. Theo lý thuyết cân bằng sức mua (PPP- Purchasing Power Parity), nước nào có tỷ lệ lạm phát cao hơn thì đồng tiền nước đó mất giá so với ngoại tệ. Khi đó, hàng xuất khẩu trở nên rẻ tương đối trên thị trường nước ngoài và xuất khẩu gia tăng; còn hàng nhập khẩu vào trong nước trở nên đắt hơn và nhập khẩu giảm. Cán cân tài khoản vãng lai được cải thiện và ảnh hưởng tích cực lên cán cân thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, về lâu dài, lạm phát cao sẽ phá hoại đầu tư và sản xuất, hàng hóa không có nhiều để xuất khẩu nữa, nhập khẩu gia tăng mạnh mẽ làm cho cán cân thanh toán thâm hụt nặng nề. e. Tác động đến sự phân bổ các nguồn lực Các nền kinh tế dựa vào giá cả tương đối giữa những hàng hoá khác nhau để phân bổ những nguồn lực khan hiếm. Quyết định của người tiêu dùng về việc mua cái gì thường được thực hiện sau khi so sánh chất lượng và giá cả của các hàng hóa có thể thay thế cho nhau, có cùng chất lượng; hàng hóa nào có giá tương đối thấp hơn sẽ được người tiêu dùng lựa chọn nhiều hơn. Cầu tăng thúc đẩy các nhà sản xuất đầu tư hơn nữa để sản xuất ra sản phẩm loại này, tức là các nguồn lực được phân bổ nhiều hơn vào ngành sản xuất đó. Khi giá cả của các hàng hóa tăng liên tục với tốc độ không đồng đều nhau thì giá tương đối giữa các hàng hóa cũng thay đổi; có khi trong nền kinh tế còn có sự khan hiếm hàng hóa giả tạo do tâm lý thích đầu cơ, tích trữ. Tín hiệu về giá tương đối bị sai lệch làm cho quyết định của người tiêu dùng về việc mua hay không mua một hàng hoá nào đó thay đổi liên tục. Các nhà sản xuất sẽ khó đưa ra quyết định đầu tư cho phù hợp với nhu cầu có khả năng thanh toán của thị trường. Một quyết định đầu tư không chính xác có thể dẫn tới hiệu quả đầu tư thấp hay phá sản, gây lãng phí các nguồn lực của nền kinh tế. Qua đó, lạm phát tạo ra sự phân bổ không hợp lý các nguồn lực. Chúng ta còn có thể thấy tác động này của lạm phát qua việc người ta sẽ cố gắng tìm các cách để tránh bị thiệt hại do lạm phát hơn là tập trung trí tuệ, sức sáng tạo cho sự cải tiến, đổi mới công nghệ, mẫu mã sản phẩm, tăng chất lượng, tăng năng suất. f. Tác động đến công cụ thuế khoá Lạm phát làm tăng gánh nặng thuế đối với người nộp thuế và làm giảm thu nhập của họ vì các nhà hoạch định chính sách thường không tính đến lạm phát khi soạn thảo các chính sách pháp luật. Tác động này của lạm phát đặc biệt rõ nét với các trường hợp thuế đánh vào lợi nhuận chuyển nhượng tài sản và thuế thu nhập doanh nghiệp. Trước hết, chúng ta xem xét trường hợp thuế đánh vào lợi nhuận từ hoạt động chuyển nhượng tài sản: khi giá bán lại tài sản cao hơn giá ban đầu mua tài sản đó, người hưởng lợi từ hoạt động bán lại sản này có nghĩa vụ nộp thuế. Chẳng hạn, vào năm 1995, một người mua cổ phiếu của một công ty với giá 20 USD; đến năm 2000 bán lại với giá 60 USD. Nếu mức giá từ năm 1995 đến năm 2000 tăng gấp rưỡi thì 20 USD bỏ ra để mua cổ phiếu vào năm 1995 tương đương 30 USD vào năm 2000; do đó thu nhập thực tế của người đó là: 60 USD - 30 USD = 30 USD. Song, thuế thu nhập vẫn bị tính trên số lợi nhuận danh nghĩa 40 USD. Như vậy, khi có lạm phát người đó phải nộp số tiền thuế cao hơn khi không có lạm phát là: (40 USD - 30 USD) x thuế suất. Cũng tương tự như vậy với trường hợp thuế đánh vào thu nhập từ hoạt động tiết kiệm. Thuế được tính trên lãi suất danh nghĩa từ tiền tiết kiệm chứ không tính trên lãi suất thực. Giả sử một người gửi tiết kiệm một khoản tiền với lãi suất thực tế là 6%/ năm và thuế suất đánh trên lãi thu được từ tiết kiệm là 50%. Nếu nền kinh tế không có lạm phát thì lãi suất danh nghĩa 60% và lãi suất sau thuế là: 50% x 6% = 3 %. Nếu tỷ lệ lạm phát là 6%/ năm thì lãi suất danh nghĩa là 12% (bằng lãi suất thực 6%/năm cộng với tỷ lệ lạm phát 6%/năm). Lãi suất danh nghĩa sau thuế là: 50% x 12% = 6%. Lãi suất thực của khoản tiết kiệm sau khi nộp thuế là: 6% - 6% = 0%. Qua ví dụ trên ta thấy lạm phát làm cho thuế khóa trở thành gánh nặng cho người nộp thuế. Khoản lãi thực mà họ kiếm được từ việc tiết kiệm có khi còn rất ít, thậm chí không còn sau khi đã nộp thuế. Chúng ta càng hiểu rõ hơn rằng lạm phát cao không khuyến khích những người có vốn nhàn rỗi đem gửi tiết kiệm, tức là một nguồn vốn quan trọng cho đầu tư bị giảm sút và dẫn đến việc người ta tìm cách trốn thuế. 4.4. Tác động về mặt xã hội - chính trị Như chúng ta đã thấy, bất lợi của lạm phát cao đối với nền kinh tế là rất lớn; mà kinh tế thuộc về cơ sở hạ tầng còn chính trị xã hội thuộc về kiến trúc thượng- những biến đổi về về cơ sở hạ tầng sẽ kéo theo sự thay đổi trong kiến trúc thượng tầng. Lạm phát gây thiệt hại nặng nề cho những người nghỉ hưu, những người thất nghiệp, những người nghèo đói, các đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội do thu nhập của họ thấp và thường không thay đổi (chỉ thay đổi khi nhà nước có chính sách quy định thu nhập này được tăng lên khi lạm phát tăng). Lạm phát cao còn gây tình trạng thất nghiệp của người lao động, các doanh nghiệp rơi vào phá sản, những người cho vay lớn bị thua thiệt quá nhiều. Đời sống của đa số nhân dân trở lên khó khăn; trong họ là tâm lý hoang mang, lo sợ lạm phát sẽ tăng cao hơn nữa, nhiều tệ nạn xã hội nảy sinh. Các mối quan hệ xã hội giữa người đi thuê lao động và công nhân, giữa người đi vay và cho vay, giữa người nộp thuế và nhà nước... cũng bị rạn nứt. Khắp nơi dấy lên những cuộc bãi công biểu tình của công nhân dưới sự bảo trợ của công đoàn để đòi tăng lương. Đó là những tác động của lạm phát về mặt xã hội. Những bất ổn trong đời sống kinh tế xã hội tất yếu sẽ dẫn tới những bất ổn về mặt chính trị. Những người thất nghiệp, những người nghèo khổ, các chủ doanh nghiệp bị phá sản mà tựu trung lại là tất cả những ai bị thiệt hại nặng nề do lạm phát sẽ giảm dần lòng tin vào chính phủ của họ. Đối với một thể chế nhà nước, không thể nói rằng không có các lực lượng chống phá, cản trở bên trong và bên ngoài nhằm lung lạc rồi lật đổ chính phủ. Lạm phát tăng cao, càng kéo dài và tác động càng nặng nề đến nền kinh tế, xã hội thì đất nước càng khó có được sự bình ổn chính trị. 5. Các giải pháp chung để đối phó với lạm phát Trước những hậu quả nặng nề mà lạm phát cao có thể gây ra cho toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của một đất nước, các chính phủ đều tìm những biện pháp thích hợp với tình hình của đất nước mình, tiềm lực của mình để kiềm chế lạm phát. Có thể xếp những giải pháp chung để ứng phó với lạm phát thành các nhóm theo nguyên nhân gây ra lạm phát như trong bảng 4. Bảng 4: Nguyên nhân gây lạm phát và các nhóm giải pháp STT Nguyên nhân gây ra lạm phát Các giải pháp chung (1) Sự kém hiệu quả của các chính sách Điều chỉnh các chính sách sai lầm (2) Nền kinh tế phát triển quá nóng (bao gồm sự gia tăng của tổng cầu) - Chính sách tài chính tiền tệ thắt chặt - Điều chỉnh hoạt động đầu tư, vay vốn nước ngoài theo cơ cấu kinh tế trong nước - Giảm tốc độ tăng thu nhập (3) Sự gia tăng chi phí - Đổi mới công nghệ và quản lý, tăng năng suất, hạ giá thành - Khuyến khích cạnh tranh lành mạnh (4) Nhập khẩu lạm phát - Phối hợp chính sách đối nội và đối ngoại - Kết hợp nguồn lực bên trong và bên ngoài (5) Các yếu tố bất khả kháng - Chính sách phát triển sản xuất - Kêu gọi trợ giúp từ bên ngoài (6) Nguyên nhân khác (nội chiến, kỳ vọng về lạm phát,....) Tùy nguyên nhân cụ thể mà có giải pháp thích hợp * Phân tích cụ thể một số nhóm giải pháp: (2) Khi nền kinh tế rơi vào tăng trưởng nóng, người ta thấy sự xuất hiện của trạng thái toàn dụng nhân công, lượng cầu có khả năng thanh toán của xã hội chưa được đáp ứng, chi phí lao động cận biên tăng, cầu tiền căng thẳng, lãi suất tăng liên tục và sau cùng là chứng khoán có xu hướng xuống giá (xem phần 2.2). Bản thân nền kinh tế nóng lại bắt nguồn từ sự gia tăng cung tiền hoặc đầu tư dự trữ. Chúng ta cần xem xét cụ thể cơ chế dẫn tới nền kinh tế nóng để có biện pháp làm giảm sự tăng trưởng nóng, từ đó sẽ dẫn đến lạm phát giảm. Cơ chế này được minh hoạ trong hình 5. Hình 5: Cơ chế dẫn đến nền kinh tế nóng Y2 Y(Sản lượng) P2 P0 E0 E1 AS2 AS0 AS1 AD Y0 Y1 P(giá) M0 M1 Y(Sản lượng) i2 i0 i1 MS0 MS 1 i(lãi suất) E0 E2 E1 Y2 Y0 Y1 i2 i0 i1 E0 E1 LM2 LM 0 LM 1 IS Y(Sản lượng) i(lãi suất) LP 0 LP 2 P1 Đường IS cho biết sự cân bằng trên thị trường hàng hoá ứng với các tổ hợp khác nhau giữa lãi suất và thu nhập; trạng thái cân bằng trên thị trường tiền tệ của các tổ hợp đó được phản ánh qua đường LM. Tại giao điểm của đường IS và LM, cả hai thị trường hàng hoá và tiền tệ đều đạt cân bằng. Mỗi mức lãi suất ứng với một mức cung tiền và cầu tiền nhất định, được biểu diễn lần lượt bằng đường MS và LP. Tại điểm E0, cả thị trường hàng hoá và thị trường tiền tệ đều ở trạng thái cân bằng với mức cung tiền là MS, lãi suất là io, sản lượng đạt mức sản lượng tiềm năng là Y0 và mức giá là P0. Bây giờ đường cung tiền dịch chuyển từ MS0 sang MS1 do một động thái nào đó của ngân hàng trung ương (in thêm tiền, giảm lãi suất,...). Điểm cân bằng mới của các thị trường là E1. Sự chuyển dịch của đường cung tiền làm lãi suất giảm từ i0 xuống i1, kích thích đầu tư và tiêu dùng làm tổng cầu tăng; sản lượng mới của nền kinh tế là Y1> Y0. Mức giá giảm từ P0 xuống còn P1. Nếu trong nền kinh tế có sự đầu tư dự trữ thì người ta sẽ mua sắm máy móc, trang thiết bị nguyên nhiên vật liệu nhiều hơn làm tổng cầu càng tăng mạnh. ở điểm cân bằng mới E1 cầu hàng hoá và cầu đầu tư phát triển đẩy lãi suất tăng dần lên vì các doanh nghiệp cạnh tranh nhau để vay vốn. Lãi suất tăng dần từ i1 lên i2 làm tăng chi phí sản xuất và do vậy cung hàng hoá giảm. Đường AS1 dịch chuyển sang trái tới vị trí AS2. Mức giá tăng từ P1 lên P2. Lạm phát cao xuất hiện. Nếu trong quá trình nhận thức được sự tăng trưởng nóng của nền kinh tế, chính phủ nước đó thắt chặt chính sách tài chính tiền tệ (giảm chi tiêu chính phủ, hạn chế cung tiền, kiểm soát chặt chẽ vay nợ nước ngoài) thì lãi suất sẽ tăng chậm, điểm cân bằng chỉ dịch chuyển dần tới E1 chứ không tiến đến E2. Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế có bị chậm lại nhưng về cơ bản, sự phát triển như vậy là tương đối vững chắc. Ngược lại, nếu chính phủ không có bước điều chỉnh theo hướng thắt chặt chính sách tài chính tiền tệ thì nền kinh tế rơi vào lạm phát cao. Lúc đó để “hạ nhiệt” nền kinh tế, điều cần thiết là phải khống chế sự gia tăng lượng cung tiền trong lưu thông mà không có hàng hóa đối ứng; các ngành phát triển quá nhanh gây mất cân đối kinh tế nên được kìm hãm. Theo đó, nhà nước còn phải điều chỉnh hoạt động đầu tư và vay vốn nước ngoài theo cơ cấu kinh tế trong nước; có thể điều chỉnh tăng thuế, giảm dần mức lương để giảm tốc độ tăng thu nhập. Tuy nhiên, đây chỉ là giải pháp chung còn vấn đề vận dụng cụ thể ra sao lại tuỳ thuộc và đặc điểm của mỗi nền kinh tế. (3) Sự gia tăng chi phí Đối với lạm phát có nguyên nhân là chi phí tăng cao, các chính sách ứng phó phải làm sao kéo chi phí xuống thấp. Đổi mới công nghệ sản xuất, cải tiến bộ máy quản lý, tăng năng suất, thúc đẩy hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị và nhân công là cách làm hạ giá thành sản phẩm vì trong cùng một khoảng thời gian, số sản phẩm sản xuất ra nhiều hơn thì các chi phí nhân công tính cho mỗi sản phẩm sẽ giảm xuống. Nhà nước cũng cần nới lỏng sự bảo hộ cho một số ngành, ngăn chặn nạn buôn lậu, chống các hình thức cạnh tranh không lành mạnh (cấu kết giữa các hãng để đẩy giá lên cao, "dìm" hàng không bán nhằm tạo cơn sốt cung giả tạo...) để thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh. Như thế, các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả có thể bị phá sản, các doanh nghiệp tồn tại được sẽ đầu tư hơn nữa vào sản xuất làm tăng cung hàng hoá, kéo chỉ số giá giảm xuống. (4) Lạm phát do "nhập khẩu" những yếu tố bất ổn từ bên ngoài có thể được kiểm soát bằng sự kết hợp các nguồn lực bên trong và bên ngoài trên cơ sở phối hợp các chính sách đối nội với chính sách đối ngoại. Đây là nguyên lý chung để đối phó với tình trạng “nhập khẩu” lạm phát, còn cụ thể các chính sách đó như thế nào thì phải xét xem yếu tố bất ổn nào từ bên ngoài đã gây ra lạm phát. Chẳng hạn, lạm phát do giá cả quốc tế gia tăng, kích thích xuất khẩu quá nhiều, làm khan hiếm hàng hóa trong nước thì nhà nước phải hạn chế xuất khẩu bằng các cách như: ra các quy định về hạn ngạch, áp đặt thuế suất cao đối với hàng xuất khẩu, đối với lợi nhuận chuyển từ nước ngoài vào trong nước, giảm thuế và các rào cản phi thương mại đối với hoạt động nhập khẩu. Trong trường hợp nền kinh tế gặp phải hiện tượng thoái lui đầu tư ồ ạt do những biến cố tiêu cực trên thị trường tài chính, tiền tệ khu vực và thế giới thì các biện pháp khuyến khích đầu tư trong nước thu hút vốn đầu tư nước ngoài để làm tăng tổng cung là cần thiết (Ví dụ như: miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, giảm thuế s._. triển hệ thống ngân hàng Các ngân hàng Việt Nam hiện nay vẫn là kênh huy động và dẫn vốn chủ yếu trong nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng còn nhiều yếu kém cần được khắc phục (xem chương II), từ vấn đề nâng cao vai trò của Ngân hàng Nhà nước trên thị trường tiền tệ và thị trường ngoại hối cho đến việc cải tổ các ngân hàng thương mại. a. Về vai trò của ngân hàng trung ương và việc nâng cao hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ Kinh nghiệm của cac nước OECD cho thấy một ngân hàng trung ương độc lập có thể giảm hữu hiệu nguy cơ tăng cung tiền vì động cơ chính trị, giữ cho tỷ lệ lạm phát ở mức thích hợp với tăng trưởng kinh tế [18]. ở các nước đang phát triển như Việt Nam, kiểu mẫu như vậy chưa chắc đã tạo ra kết quả tốt; nhưng không nên để chính quyền can thiệp tùy tiện, phi kinh tế vào hoạt động của ngân hàng trung ương. Chúng ta nên xem xét lựa chọn mô hình trung gian đó là ngân hàng trung ương sẽ được trao cho sự độc lập như là một công cụ, hay ngân hàng trung ương là cơ quan lập chính sách hàng ngày và thực thi chính sách để đạt một số mục tiêu nhất định; còn các cơ quan chính trị giành quyền lựa chọn mục tiêu. Trước mắt, sự độc lập này có thể được thực hiện bằng cách ngân hàng nhà nước chấm dứt cho ngân sách vay, để tránh phải phát hành tiền khi ngân sách thâm hụt trầm trọng và tránh lạm phát cao. Tính độc lập cao hơn của ngân hàng trung ương sẽ cho phép sử dụng các công cụ gián tiếp như hoạt động thị trường mở để thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ (mà đây là xu hướng đã trở nên phổ biến ở các nước trên thế giới.) thay vì dùng nhiều biện pháp còn mang nặng tính hành chính như hiện nay. Khi nói về việc điều hành chính sách tài chính tiền tệ của ngân hàng trung ương ở Việt Nam, cần nhấn mạnh hoạt động thị trường mở vì so với các công cụ khác, công cụ thị trường mở ở nước ta chưa phát huy được tác dụng vốn có của nó (xem chương II). Để phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế, xu thế hội nhập và tận dụng được các ưu điểm của nghiệp vụ thị trường mở như: cho phép ngân hàng thương mại linh động trong việc quyết định khối lượng và thời điểm “bơm” tiền ra hay “hút” tiền vào, theo sát diễn biến cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế hơn, cần phải đưa hoạt động này trở thành bộ phận chính của chính sách tiền tệ. Muốn vậy, Nhà nước cần thực hiện những việc sau: Sửa đổi khoản 15 Điều 9 Luật Ngân hàng Nhà nước (giấy tờ có giá ngắn hạn là giấy tờ có giá "có thời hạn dưới 1 năm") thành "giấy tờ có giá ngắn hạn là giấy tờ có thời hạn còn lại dưới 1 năm". Đây là điều khoản quy định về hàng hoá cho hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở, nghiệp vụ tái chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước. Nếu sửa đổi như vậy thì hàng hoá được phép lưu thông trên thị trường mở sẽ đa dạng hơn vì kể cả các giấy tờ có giá trị dài hạn nhưng thời hạn dưới 1 năm cũng được phép sử dụng. Thu hút thêm các tổ chức tín dụng tham gia thị trường mở bằng cách Ngân hàng Nhà nước đưa ra lãi suất thấp hơn một chút so với lãi suất vay trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Cách này sẽ có tác dụng đáng kể vì trên thị trường mở có hai phương thức giao dịch là đấu thầu lãi suât và đâu thầu khối lượng. Hiện đại hoá công nghệ giao dịch trên thị trường mở. Các biện pháp có thể áp dụng được là: sử dụng hệ thống ghi sổ để xác nhận quyền sở hữu các giấy tờ có giá trị, thanh toán tức thời thông qua hệ thống tài khoản tiền gửi ở NHNN. Thành lập bộ phận thông tin thị trường, chuyên thu thập, phân tích thông tin trên thị trường liên ngân hàng để đánh giá, đưa ra dự đoán chính xác về cung cầu tiền tệ, tín dụng của nền kinh tế và thông báo kịp thời cho NHNN. Bên cạnh công cụ mới mẻ là thị trường mở, điều hết sức cần thiết là phải làm tăng hiệu quả tác động của công cụ lãi suất đến nền kinh tế. Cơ chế thị trường đòi hỏi chế độ lãi suất thị trường để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, nhưng do vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn (xem chương II) nên trước mắt Ngân hàng Nhà nước nên duy trì công bố lãi suất cơ bản nhưng mức lãi suất cơ bản phải khác nhau đối với các khoản vay ngắn hạn và dài hạn, chứ không phải để giống nhau như hiện nay. Như thế, lãi suất cơ bản sẽ phản ánh sát cung cầu vốn thị trường hơn, đồng thời tạo cơ hội giảm chi phí một cách bình đẳng đối với mọi thành phần doanh nghiệp, tăng cường thêm động lực cho guồng máy kinh tế, góp phần kiềm chế tốt tốc độ lạm phát. Để lãi suất trong tương lai thực sự là lãi suất thị trường, việc cải tổ hệ thống ngân hàng, cải cách các doanh nghiệp nhà nước cần được đẩy mạnh hơn nữa theo phương châm vừa thực hiện vừa rút kinh nghiệm rồi điều chỉnh và hoàn thiện. Từ nay đến năm 2010, Nhà nước nên thành lập Côngty đánh giá mức độ tín nhiệm của các doanh nghiệp để hỗ trợ cho hoạt động của hệ thống ngân hàng cũng như nâng cao hiệu quả của chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát lạm phát. b. Cải cách các ngân hàng thương mại Các ngân hàng thương mại là những chiếc “máy bơm hút và đẩy” vốn trong nền kinh tế. Dịch vụ của ngân hàng có đa dạng, phong phú, đạt chất lượng tốt thì mới cạnh tranh được trong bối cảnh hội nhập quốc tế và do đó mới hỗ trợ cho Ngân hàng Nhà nước đảm bảo cân đối cung, cầu tiền tệ, kiểm soát được lạm phát. Muốn khách hàng đến với mình, đặt niềm tin vào mình, quảng cáo cho mình thì thái độ phục vụ của các các cán bộ, nhân viên ngân hàng phải nhã nhặn, lịch thiệp, phải yêu quý khách hàng; dịch vụ ngân hàng cung cấp phải nhanh chóng, thuận tiện, giảm chi phí không cần thiết cho khách hàng, qua đó giảm chi phí cho toàn xã hội. Để chất lượng phục vụ khách hàng được tốt hơn, ngành ngân hàng phải tiến hành nhiều biện pháp, trong đó cần chú trọng những việc sau: Hiện đại hoá hoạt động kinh doanh ngân hàng. Nhiều ngân hàng quốc doanh (ngân hàng Ngoại thương, ngân hàng Công thương, ngân hàng Đầu tư và Phát triển ) đã tiến hành giao dịch ngoại tệ trực tiếp với các ngân hàng trong nước và ở nước ngoài thông qua hệ thống Reuters Dealing 3000, telex, fax, được trang bị màn hình tin Reuter, Telerate để nắm bắt kịp thời các thông tin trên thị trường quốc tế. Hoạt động này cần được khuyến khích và hỗ trợ hơn nữa từ phía Nhà nước, các tổ chức quốc tế. Trong tương lai, Việt Nam cần tiến tới cung cấp các dịch vụ ngân hàng điện tử (thanh toán hoá đơn qua mạng máy tính, giao dịch qua mạng...) để giảm chi phí. Có kế hoạch đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ cũng như đạo đức nghề nghiệp cho các cán bộ, nhân viên ngành ngân hàng phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Nhà nước nên có chính sách khuyến khích (tuyên dương, khen thưởng...) các ngân hàng gửi người giỏi đi học tập, nghiên cứu chuyên sâu ở nước ngoài, khuyến khích hình thức thi tuyển cán bộ, nhân viên đảm bảo khách quan, từ đó mới chọn được người có khả năng thích ứng với công việc. Xúc tiến và tăng cường hoạt động tiếp thị thông tin về các dịch vụ cho khách hàng. Hoạt động này đã được một số ngân hàng tiến hành nhưng cách thức thực hiện chưa đa dạng, phong phú. Các ngân hàng thường quảng cáo qua mạng nhưng không phải tất cả các doanh nghiệp và người dân đều có điều kiện truy cập thông tin trên mạng. Khi quảng cáo về các dịch vụ mà mình cung cấp, ngân hàng nên nói rõ là doanh nghiệp có thể dùng dịch vụ đó để làm gì, cách thức tiến hành ra sao. Ngân hàng nên sử dụng các phương tiện thông tin để quảng cáo dịch vụ với khách hàng như báo, đài, vô tuyến, thậm chí fax cho khách hàng. Trong cuộc điều tra khảo sát tại 30 doanh nghiệp ở miền Bắc vào tháng 6 và tháng 7 vừa qua, tôi được biết một số ngân hàng nước ngoài (Ngân hàng Tokyo - Mitsubishi) đã fax bản báo cáo hàng tuần về thị trường tài chính Việt Nam (Vietnam weekly financial market report) cho doanh nghiệp có quan hệ với ngân hàng thì tại sao các ngân hàng Việt Nam không thể làm điều đó. Bản báo cáo của ngân hàng Tokyo - Mitsubishi gồm 3 phần: thị trường ngoại hối, thị trường tiền tệ và các thông số kinh tế cơ bản trong đó có dự đoán của các quan chức chính phủ, Bộ Thương mại v.v... về sự thay đổi các thông số này trong tương lai. Các Ngân hàng Việt Nam không những có thể làm một báo cáo như thế mà hoàn toàn làm được bản báo cáo tốt hơn thế. Ngân hàng nước ngoài chưa nêu được ảnh hưởng của những biến đổi trên thị trường tài chính sẽ ảnh hưởng đến các doanh nghiệp như thế nào, doanh nghiệp nên làm gì để đối phó với tình hình. Hơn nữa, báo cáo đó được thể hiện bằng tiếng Anh, tiếng Nhật chứ chưa có tiếng Việt. Vậy, các ngân hàng của ta nên khắc phục những điểm chưa tốt này để báo cáo của ta hấp dẫn hơn với các doanh nghiệp. Chi phí bỏ ra để làm báo cáo và fax tới doanh nghiệp chắc sẽ nhỏ hơn nhiều so với lượng lợi nhuận mà ngân hàng thu được từ việc khách hàng sử dụng nhiều dịch vụ của ngân hàng. Đây là một công cụ cạnh tranh rất hiệu quả, các ngân hàng không nên xem nhẹ và nên tận dụng, nhất là trong tương lai khi nước ta mở cửa thị trường tài chính hơn nữa. 2.4. Cải cách khu vực kinh tế nhà nước Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn nhằm nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp này. Tuy nhiên, cổ phần hoá chỉ thực sự triệt để khi cổ phiếu của các doanh nghiệp được niêm yết trên thị trường chứng khoán để tránh việc những người có quyền chức trong các doanh nghiệp nhà nước lại trở thành người nắm giữ cổ phần chủ yếu của công ty mới (mà điều này không tạo ra sự chuyển biến lớn trong cung cách làm ăn của họ). Thị trường chứng khoán sẽ là nơi để các cổ phiếu cạnh tranh nhau dựa trên khả năng sinh lời thực sự của đồng vốn. Nhưng ở nước ta, thị trường chứng khoán mới đi vào hoạt động được vài năm, còn chưa sôi động, số công ty tham gia niêm yết chứng khoán còn ít, lượng vốn chu chuyển trên thị trường này còn rất nhỏ so với quy mô vốn trong nền kinh tế. Trong tương lai thị trường này phải trở thành nơi thu hút nhanh nhất, với chi phí thấp nhất các nguồn vốn trong xã hội, thúc đẩy cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Từ góc độ chống lạm phát, có thể phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam theo hướng: Thực hiện đa dạng hoá các chứng khoán được phép mua bán. Hiện nay do các tầng lớp trong xã hội chưa quen với hoạt động đầu tư chứng khoán, đa phần tham gia với tính chất thăm do thử nghiệm, hơn nữa khả năng tài chính của các nhà đầu tư chứng khoán còn hạn chế nên cần coi trọng các cổ phiếu có mệnh giá không lớn, các tín phiếu, các trái phiếu kho bạc nhà nước. Phổ biến kiến thức cho dân chúng về hoạt động kinh doanh trên thị trường chứng khoán, tổ chức rộng rãi các trò chơi tập kinh doanh chứng khoán qua sàn giao dịch ảo. Xây dựng luật về thị trường chứng khoán để đảm bảo hoạt động lành mạnh của thị trường này, giúp phòng ngừa, hạn chế các hành vi lừa đảo, móc ngoặc, đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư. Chính sách phát triển thị trường chứng khoán được thực hiện sẽ là chất xúc tác chủ yếu cho quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Để thị trường chứng khoán Việt Nam có tầm quan trọng như ở các nước phát triển, có lẽ phải cần thời gian khoảng 10 tới 20 năm sau, nên trước mắt, những thay đổi của Chính phủ trong chính sách phát triển doanh nghiệp nhà nước cần được tiến hành theo hướng: giảm chi ngân sách, giảm bao cấp ngầm cho các doanh nghiệp này, giao cho họ quyền tự chủ hơn trong sản xuất kinh doanh đồng thời ra chỉ tiêu mỗi doanh nghiệp phải đóng góp vào ngân sách mỗi năm là bao nhiêu. Trách nhiệm của các giám đốc doanh nghiệp nhà nước cần được đặt lên tầm cao mới và gắn liền với kết quả hoạt động của doanh nghiệp. 2.5. Hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật và cải cách hành chính Nền kinh tế là tập hợp của các tế bào mà mỗi tế bào là một địa phương; kinh tế mỗi địa phương có lớn mạnh thì sự phát triển của cả nước mới chắc chắn và bền vững. Theo phân tích của các chuyên gia, tăng trưởng kinh tế của từng địa phương phụ thuộc tới 70% vào cơ chế, chính sách do các cơ quan trung ương ban hành còn 30% tuỳ thuộc vào chính sách của từng địa phương [68]. Như vậy, hệ thống chính sách pháp luật có vai trò rất quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Chúng ta cần khắc phục những bất cập (xem chương II) của các chính sách pháp luật mà đặc biệt là chính sách thu hút FDI, chính sách ngoại thương và chính sách quản lý ngoại hối vì các chính sách này tác động trực tiếp đến nền kinh tế. Chính sách thu hút FDI Chính phủ phải đưa ra được bảng đánh giá, sắp xếp thứ tự rõ ràng về các ngành công nghiệp, các sản phẩm chủ yếu có lợi thế cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế, ở hiện tại cũng như trong tương lai. Dựa trên bảng này, Chính phủ sẽ đưa ra danh mục cụ thể các dự án cần gọi vốn đầu tư trong và ngoài nước theo một thứ tự ưu tiên để tránh hiện tượng đầu tư giàn trải, dẫn đến hiệu quả không cao, lãng phí vốn. Đồng thời, một lộ trình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng cần được xây dựng gắn liền với tiến trình hội nhập của nước ta và các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong ngắn hạn cũng như dài hạn. Lộ trình dưới đây với 3 giai đoạn thu hút vốn đầu tư từ nay đến năm 2010 có thể sẽ là một gợi ý bổ ích cho các nhà hoạch định chính sách: Giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2005: Nhà nước cần tập trung hoàn thiện môi trường đầu tư theo hướng ngày càng thông thoáng, xây dựng một nền tảng pháp lý ngày càng đồng bộ và ổn định qua các công việc cụ thể như rà soát và điều chỉnh các luật có liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài (chẳng hạn: giảm mức độ bảo hộ với các ngành điện, nước, điện thoại để giảm chi phí đầu vào cho các nhà đầu tư; cấp visa trong thời hạn dài hơn và nên căn cứ vào khoảng thời gian công tác của các nhà đầu tư; giảm thuế thu nhập đối với người nước ngoài); nhanh chóng ban hành luật đầu tư chung cho cả hoạt động đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; ban hành luật chống phá giá và luật chống độc quyền; tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Từ năm 2005 đến năm 2008: Biến các khu kinh tế ở các vùng có vị trí địa lý, điều kiện giao thông và thông tin liên lạc thuận lợi (như tam giác kinh tế Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh, khu vực lân cận cảng Vũng áng, miền Đông Nam Bộ) thành các vùng trọng điểm thu hút FDI; qua đó sẽ đóng vai trò đầu tầu kéo các vùng lân cận phát triển. Từ năm 2008 đến năm 2010: Nhìn nhận kết quả của quá trình thu hút FDI trong 6 năm từ 2002 tới 2008 và tiến hành khắc phục cơ bản những mặt còn hạn ché trong công tác triển khai các dự án cũng như các bất cập còn sót lại trong hệ thống chính sách pháp luật liên quan đến đầu tư; đưa ra những kế hoạch cụ thể hơn về thu hút vốn đầu tư vào các vùng có điều kiện khó khăn hơn để tạo ra sự cất cánh của cả nền kinh tế, để Việt Nam có thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực như Trung Quốc, Singapore về thu hút vốn đầu tư. Chính sách ngoại thương Ngoại thương và tốc độ lạm phát có tác động qua lại với nhau: tỷ lệ lạm phát ảnh hưởng đến sức mua của đồng tiền trong tương quan so sánh với ngoại tệ, do vậy ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường quốc tế và giữa hàng sản xuất ra trong nước với hàng nhập khẩu (xem chương I); ngược lại, hoạt động xuất nhập khẩu (nhất là nhập khẩu) tạo ra nguồn thu thuế rất lớn cho ngân sách nhà nước, đồng thời kìm hãm hoặc kích thích sản xuất trong nước phát triển nên có thể làm trầm trọng hơn hoặc giảm nhẹ tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước. Chúng ta biết rằng thâm hụt ngân sách là một trong các nguyên nhân gây ra lạm phát (xem chương I), tức là hoạt động ngoại thương có thể có tác dụng tích cực hoặc tiêu cực đến tốc độ tăng mức giá. Dù nhà nước đã có nhiều cố gắng để đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng nhưng nhiều khi kết quả đạt được chưa như mong đợi. Lượng xuất khẩu cứ tăng lên nhưng giá xuất khẩu lại giảm, hàng Việt Nam chưa có sức cạnh tranh cao, thậm chí chúng ta đã đánh mất vị trí thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo. Để ngoại thương góp phần tích cực vào việc kiềm chế lạm phát, phòng ngừa giảm phát, khóa luận đề xuất một số giải pháp như sau: Nhà nước đầu tư đồng thời khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư hơn nữa vào công nghệ chế biến hàngxuất khẩu, đặc biệt là nông sản xuất khẩu để tăng chất lượng, hạ giá thành, kiên quyết xử lý các trường hợp dùng hoá chất trái quy định trong chế biến nông sản, chẳng hạn sử dụng chloramphenicol để bảo quản thủy sản. Chúng ta có thể hiện tượng này nếu bộ Thương mại, bộ Thuỷ sản và bộ Y tế phối hợp thanh tra, kiểm tra đồng bộ từ khâu chế biến, bảo quản để xuất khẩu nhằm giữ uy tín với khách hàng quốc tế. Xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm xuất khẩu gắn liền với địa danh sản xuất chế biến các mặt hàng đó (chẳng hạn Gốm Bát Tràng, than dừa Bến Tre, nhãn lồng Hưng Yên...). Các cơ quan chức năng (bộ Thương mại, các cơ quan xúc tiến thương mại, tham tán thương mại Việt nam ở nước ngoài, các hiệp hội xuất khẩu) cần có hoạt động hỗ trợ thích hợp trong việc bảo vệ các thương hiệu đó, như: đăng ký thương hiệu tại nước ngoài, quảng bá thương hiệu đến nhiều khu vực thị trường trên thế giới. Các cơ quan Nhà nước như bộ Thương mại, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các cơ quan tham tán thương mại Việt Nam ở nước ngoài cần tích cực, chủ động hơn nữa trong việc tìm kiếm, nghiên cứu, khai thác, cung cấp thông tin về tình hình cung cầu, xu hướng giá cả, thị hiếu khách hàng trên thị trường thế giới cho các doanh nghiệp Việt Nam, từ đó định hướng cho họ xem cần thay đổi gì về mẫu mã, chất lượng, số lượng cho phù hợp yêu cầu thị trường, tránh trường hợp sản xuất dư thừa, lãng phí nguồn lực. Duy trì các thị trường xuất khẩu hiện tại, chú ý mở rộng phạm vi xuất khẩu sang các thị trường mới, nhiều tiềm năng và ít đối thủ cạnh tranh như Trung Cận Đông và Châu Phi. Bên cạnh một số động thái như trên nhằm hoàn thiện chính sách xuất khẩu, chính sách nhập khẩu cũng cần có sự điều chỉnh như sau: Nâng cao chất lượng công tác thẩm định giá trị, chất lượng máy móc và công nghệ nhập khẩu, nhất định không nhập công nghệ cũ kỹ, lạc hậu của nước ngoài (ví dụ như công nghệ sản xuất xi-măng bằng lò đứng từ Trung Quốc) để tránh nguy cơ nước ta trở thành nơi chứa rác thải công nghệ. Nhà nước nên cử các các bộ về thẩm định đi học ở nước ngoài, sử dụng phương pháp chuyên gia trong đánh giá chất lượng công nghệ. Hạn chế tối đa việc nhập khẩu hàng tiêu dùng, phương tiện đi lại (xe máy, xe ô tô bốn chỗ) thay vào đó phải đẩy mạnh sản xuất các linh kiện, phụ tùng và lắp ráp trong nước. Nhà nước phải tìm mọi cách ngăn chặn tình trạng nhập lậu hàng hoá. Muốn thế, đội ngũ cán bộ ngành Hải quan cần được cung cấp phương pháp, kỹ năng, trang thiết bị hiện đại cũng như việc nâng cao tư cách, đạo đức nghề nghiệp. Thông qua thực hiện một số giải pháp cơ bản về xuất nhập khẩu như đã trình bày ở trên, chúng ta có thể tăng xuất khẩu cả về lượng và chất, đem về nhiều ngoại tệ, đáp ứng nhu cầu nhập khẩu phục vụ sản xuất trong nước, góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và giữ cho giá trị đồng tiền không sụt giảm quá nhiều, gây dựng lòng tin của người dân vào đồng nội tệ. c. Chính sách quản lý ngoại hối Chính sách quản lý ngoại hối liên quan trực tiếp đến vấn đề điều hành cơ chế tỷ giá hối đoái, đến cung cầu ngoại hối trên thị trường và do vậy ảnh hưởng đến kim ngạch nhập khẩu khi quy đổi từ ngoại tệ ra nội tệ, đến nợ nước ngoài của Chính phủ. Đến lượt mình, kim ngạch xuất nhập khẩu và ngân sách lại gây áp lực tăng hoặc giảm tỷ lệ lạm phát . Trong tương lai, lượng ngoại tệ lưu chuyển trong nền kinh tế ngày càng lớn với số lượng các giao dịch ngày càng nhiều, tính chất ngày càng phức tạp đòi hỏi Nhà nước phải hoàn thiện khung pháp lý để kiểm soát được lượng ngoại tệ sử dụng trong nền kinh tế, khắc phục hiện tượng đô-la hóa, thu hút được vốn nhàn rỗi trong dân, tạo điều kiện để cho các ngân hàng thương mại mở rộng hoạt động kinh doanh với khách hàng. Các giải pháp sau đây sẽ giúp thực hiện những yêu cầu đó: Nghiên cứu xây dựng Luật quản lý ngoại hối thống nhất trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Theo đó, Nhà nước đã tạo một khung pháp lý để điều chỉnh các hoạt động liên quan đến ngoại hối, vừa đảm bảo tính chặt chẽ, nhất quán của thị trường ngoại hối, vừa tạo điều kiện cho các thành viên tham gia thị trường yên tâm về tính ổn định, nghiêm minh của luật. Ban hành các quy định tạo môi trường pháp lý để các ngân hàng có thể cung cấp cho doanh nghiệp các dịch vụ như nghiệp vụ hối đoái tương lai, nghiệp vụ hối đoái quyền chọn. Biện pháp này sẽ giúp các ngân hàng nâng cao khả năng cung ứng dịch vụ và cạnh tranh được với các ngân hàng nước ngoài trong tiến trình hội nhập. Tiến tới ban hành quy chế về sự ra đời và hoạt động của thị trường ngoại hối mà ở đó không chỉ các tổ chức tín dụng mà cả các doanh nghiệp, các cá nhân được phép tham gia. Cách này sẽ tập trung được lượng ngoại tệ trôi nổi trong các tổ chức, cá nhân mà hiện nay Nhà nước chưa kiểm soát được. Nhà nước cần hoàn thiện hơn nữa thị trường ngoại tệ và thị trường tiền tệ liên ngân hàng để tỷ giá trên thị trường này trở thành tỷ giá cơ bản, phản ánh đúng quan hệ cung cầu ngoại hối và lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng trở thành lãi suất cơ bản, thể hiện cân bằng cung cầu vốn của nền kinh tế. Trước mắt, Nhà nước cần xem xét lại các quy định vẫn được áp dụng hệ thống ngân hàng thương mại ở nước ta nhằm sửa đổi sao cho phù hợp với điều kiện cạnh tranh mới và yêu cầu mới của khách hàng ở nước ta theo hướng xoá bỏ những quy định cản trở các ngân hàng mở rộng kinh doanh sang các lĩnh vực tài chính khác. Chẳng hạn, cần điều chỉnh lại quy định về trạng thái ngoại tệ của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Như đã phân tích trong công trình này, quy định trạng thái ngoại tệ đối với USD bằng 15% vốn tự có của các ngân hàng thương mại là chưa phù hợp với quy mô vốn tự có rất ít của các ngân hàng này. Nhà nước cần tạo sự chủ động, linh hoạt hơn cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại bằng cách quy định trạng thái đối với các ngoại tệ (chứ không chỉ riêng đồng USD) dựa trên tài sản có ngoại tệ. Tỷ lệ trạng thái các ngoại tệ/ tài sản có nên được nới rộng và thay đổi tuỳ theo thời kỳ, hiện nay có thể để ở mức khoảng 30%. Đối với các doanh nghiệp, Nhà nước nên giảm dần tỷ lệ kết hối ngoại tệ, tiến tới xoá bỏ quy định này vào năm 2003. Theo đề nghị của nhiều doanh nghiệp, Nhà nước nên giảm tỷ lệ kết hối hiện nay là 30% xuống còn từ 15 - 20%. Việc làm này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh. Đồng thời Nhà nước cần tích cực tạo quỹ dự trữ ngoại hối đủ lớn, tương xứng với tốc độ tăng của kim ngạch xuất khẩu để có thể sử dụng nó một cách hiệu quả, kịp thời trong việc điều tiết nền kinh tế, tránh tình trạng tỷ giá biến động quá mạnh, gây thiệt hại lớn cho các doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế, và ảnh hương xấu đến tình hình lạm phát. d. Cải cách hành chính Bên cạnh các chính sách trên, cải cách hành chính là việc làm không thể thiếu bởi nó là môi trường phát triển của nền kinh tế. Sự rườm rà của các thủ tục hành chính chẳng hạn như việc cấp một giấy đăng ký xe máy ở Hà Nội phải dựa vào 54 loại văn bản giấy tờ [10] đã và đang làm hao phí thời gian, nguồn lực của xã hội trong việc quản lý, triển khai chúng đồng thời tạo cơ hội cho nạn tham những phát triển. Tham nhũng làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài cũng như trong nước vào những cam kết khác của Nhà nước về chống buôn lậu, chống đầu cơ, chống sản xuất và buôn bán hàng giả; vào môi trường cạnh tranh và môi trường xã hội, từ đó ảnh hưởng đến lạm phát. Một bộ máy nhà nước trong sạch, không có tham nhũng, các thủ tục hành chính đơn giản, minh bạch sẽ thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ. 2.6. Nâng cao trình độ nền sản xuất Trình độ còn thấp kém của nền sản xuất là nhân tố hết sức cơ bản dẫn đến thực trạng lạm phát và giảm phát như những năm qua, đặc biệt là giai đoạn từ 1990 đến nay. Một đất nước đi lên từ xuất phát điểm thấp thì các chính sách như chính sách tài chính tiền tệ, chính sách quản lý ngoại hối, chính sách ngoại thương tuy có vai trò quan trọng nhưng không thể tạo ra những bước đột phá về chất lượng cũng như giá trị của hàng hoá. Khi thu nhập của đại bộ phận dân số còn thấp thì kích cầu cũng chỉ là giải pháp tình thế. Điều quan trọng là chúng ta phải nâng cao trình độ của nền sản xuất để khắc phục các “căn bệnh” kinh niên của nền kinh tế như: vốn ít, công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý và kỹ năng của người lao động còn thấp kém. Để giải quyết vấn đề vốn, nước ta phải tiếp tục phương châm: vốn trong nước là quyết định, vốn từ nước ngoài có vai trò quan trọng. Thực tế những năm qua, Nhà nước đã làm theo phương châm này, nhưng so với các nước trong khu vực, năng lực tích lũy nội bộ nền kinh tế còn thấp. Nguồn vốn trong nước chỉ có thể tăng khi Chính phủ, các thành phần kinh tế và mọi cá nhân tích cực tiết kiệm nhằm tích lũy vốn. Vai trò phát động, kêu gọi phong trào tiết kiệm trong cả nước có ý nghĩa to lớn, mà điều đặc biệt quan trọng là Chính phủ phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách để vừa gia tăng được nguồn thu, vừa tránh lãng phí nguốn vốn còn ít ỏi. Đi đôi với tích luỹ vốn, các biện pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài như đã nêu trong phần a, mục 2.5 cần được thực hiện càng sớm càng tốt. Về bài toán công nghệ hiện nay còn lạc hậu, chúng ta không có cách nào khác là vừa đầu tư hơn nữa cho hoạt động nghiên cứu sáng chế và ứng dụng công nghệ (đặc biệt là việc ứng dụng) để có thể “đi tắt đón đầu”, vừa phải xem xét lựa chọn công nghệ khi nhập khẩu để tránh biến nước ta thành bãi thải công nghệ của các nước trên thế giới. Đây là công việc gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng, chức năng thực hiện của Chính phủ mà cụ thể là Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường. Trong các nhân tố cấu thành nền sản xuất xã hội, con người bao giờ cũng là nhân tố quyết định. Một quốc gia không thể tăng trưởng và phát triển khi trình độ dân trí thấp, các giá trị đạo đức bị suy đồi. Đầu tư hiện nay của Chính phủ cho giáo dục và đào tạo ngày càng tăng nhưng chưa tương xứng với yêu cầu phát triển kinh tế, Nhà nước phải đầu tư nhiều hơn cho việc đào tạo, sử dụng trí thức, bồi dưỡng nhân tài; hỗ trợ những người gặp hoàn cảnh khó khăn nhưng có tài và hiếu học bằng cách cấp tín dụng học tập trong thời hạn từ 3 đến 5 năm, khi họ đi làm sẽ thu hồi nợ dần dần. Nhà nước cần tích cực kêu gọi các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia hỗ trợ, đỡ đầu cho họ trong học tập và tìm kiếm việc làm. Hơn nữa, khi ở nước ta tồn tại tình trạng thừa thầy thiếu thợ, số lượng cử nhân thất nghiệp hoặc làm trái nghề rất nhiều trong khi người ta vẫn ưu tiên đại học là lựa chọn số một cho con em mình, thì một chương trình nâng cấp cả về số lượng và chất lượng các trung tâm dạy nghề, cho phép và khuyến khích nước ngoài, tư nhân trong nước đầu tư vào lĩnh vực này sẽ làm thay đổi đáng kể tình hình hiện nay. Vấn đề phối hợp đồng bộ các chính sách Các chính sách kinh tế có quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại và bổ sung cho nhau. Muốn việc triển khai các biện pháp trên đạt hiệu quả cao, tức là đạt được mục tiêu của chính sách, chúng ta không thể thực hiện từng chính sách rời rạc, tuỳ tiện mà phải đặt chúng trong một tổng thể, tức là phải phối hợp được đồng bộ các chính sách. Từ điển kinh tế kinh doanh do Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật ấn hành năm 1996 viết: "phối hợp đồng bộ chính sách (policy mix) là sự phối hợp các chính sách nhằm đạt được một mục tiêu nào đó". Mục tiêu kiểm soát lạm phát không phải là cái đích của chính sách mà là phương tiện đạt được các mục tiêu khác nữa cho nền kinh tế như: ổn định kinh tế (ngân sách cân bằng, giá trị đồng tiền ổn định, ổn định tỷ giá hối đoái và cân bằng cán cân thanh toán quốc tế), tăng trưởng kinh tế trong dài hạn và đảm bảo công bằng xã hội. Trong đó, mục tiêu kinh tế - xã hội tổng hợp được các chính phủ đặt lên hàng đầu là ổn định và phát triển nền kinh tế. Để công tác kiềm chế lạm phát thực sự đóng góp vào sự nghiệp phát triển kinh tế, Nhà nước phải nhất quán trong chỉ đạo xây dựng, ban hành các chính sách: Chính phủ là nơi đưa ra các chính sách qua cơ chế các bộ, ngành xây dựng và Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Khi định ban hành một quy định mới, Nhà nước phải xác định xem nó sẽ dẫn tới những biến đổi gì trong nền kinh tế để đưa ra các chính sách đi kèm. Chính phủ cũng nên thành lập một cơ quan chuyên nghiên cứu về phối hợp đồng bộ các chính sách và tư vấn cho Chính phủ. Kết luận Qua quá trình tìm hiểu các sách báo, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước, khóa luận đã đạt được một số kết quả như sau: Phân tích một cách có hệ thống những vấn đề cơ bản về lạm phát và giảm phát, bao gồm: khái niệm, phân loại, cách đo lường lạm phát; các nguyên nhân gây ra lạm phát và giảm phát; mối quan hệ giữa lạm phát và một số biến số kinh tế vĩ mô (lãi suất, thất nghiệp); tác động của lạm phát, giảm phát đến nền kinh tế. Từ đó, khóa luận trình bày các giải pháp về mặt lý thuyết để đối phó với lạm phát và giảm phát. Nghiên cứu tốc độ lạm phát, giảm phát; các nguyên nhân dẫn đến lạm phát, giảm phát; tác động của lạm phát cũng như giảm phát tới nền kinh tế và các chính sách mà Chính phủ đã áp dụng để kiềm chế lạm phát, khắc phục giảm phát tại Việt Nam qua 4 giai đoạn: trước tháng 5/1988, từ tháng 5/1988 đến 1990, giai đoạn 1991 - 1998 và từ 1999 đến nay; đặc biệt, hai giai đoạn gần đây nhất được nghiên cứu kỹ hơn. Khoá luận cũng đưa ra những đánh giá chung về các giải pháp của Chính phủ. Xem xét xu thế lạm phát, giảm phát và rút ra những khó khăn trong công tác kiềm chế lạm phát, ngăn ngừa giảm phát từ nay đến năm 2010 ở nước ta. Những khó khăn này, cùng với những tồn tại về những chính sách của Chính phủ đã được tổng hợp ở cuối chương II là cơ sở để khóa luận nêu lên nhiệm vụ của các giải pháp ứng phó với lạm phát và giảm phát; đồng thời đề xuất các biện pháp (chuyển dịch cơ cấu đầu tư, nâng cao hiệu quả các dự án đầu tư; giảm thâm hụt ngân sách nhà nước; phát triển hệ thống ngân hàng; cải cách khu vực kinh tế nhà nước; hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật, cải cách hành chính và nâng cao trình độ nền sản xuất) để giải quyết các vướng mắc đã nêu. Đây là khối lượng công việc rất lớn, nếu không được tổ chức triển khai một cách khẩn trương, đồng bộ và có hệ thống thì Việt Nam khó có khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế - nhân tố quyết định sự thắng lợi của công cuộc kiềm chế lạm phát, khắc phục giảm phát. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluanvanlinhngoaithuong.DOC
  • docbia.doc
  • docdanh muc tham khao.doc
  • docloi cam on.doc
  • docmuc luc.doc
  • docphu luc.doc
Tài liệu liên quan