Lạm PHÁT CỦA Việt Nam QUA HAI NĂM 2007- 2008, NGUYÊN NHÂN - thực trạng và giải pháp

Tài liệu Lạm PHÁT CỦA Việt Nam QUA HAI NĂM 2007- 2008, NGUYÊN NHÂN - thực trạng và giải pháp: ... Ebook Lạm PHÁT CỦA Việt Nam QUA HAI NĂM 2007- 2008, NGUYÊN NHÂN - thực trạng và giải pháp

doc36 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 18001 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Lạm PHÁT CỦA Việt Nam QUA HAI NĂM 2007- 2008, NGUYÊN NHÂN - thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Lời nói đầu 3 I. Lý luận chung về lạm phát 4 1. Khái niệm và phân loại lạm phát 4 a) Các khái niệm 4 b) Phân loại lạm phát 4 2. Nguyên nhân lạm phát 5 a) Lạm phát theo thuyết tiền tệ 5 b) Lạm phát theo thuyết Keynes (lạm phát cầu kéo) 6 c) Lạm phát theo thuyết chi phí đẩy 6 d) Lạm phát dự kiến 8 e) Các nguyên nhân khác 8 3. Những tác động của lạm phát 9 a) Đối với lĩnh vực sản xuất 9 b) Đối với lĩnh vực lưu thông 9 c) Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng 9 d) Đối với chính sách kinh tế tài chính của nhà nước 10 II. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam 10 1. Lịch sử của lạm phát 10 2. Đặc trưng lạm phát ở nước ta 11 3. Thực trạng 13 4. Nguyên nhân dẫn đến lạm phát ở Việt Nam tăng nhanh trong 2 năm 2007- 2008 18 a. Nguyên nhân sâu xa 18 b. Nguyên nhân trực tiếp 19 III. Các giải pháp hạn chế lạm phát ở nước ta hiện nay 21 1. Những bài học về kiềm chế lạm phát ở Trung Quốc 21 2. Giải pháp chống lạm phát ở nước ta 22 2.1. Những giải pháp cơ bản 22 a. Giải pháp đầu tiên 22 b. Các biện pháp về tiền tệ, tín dụng, thanh toán và ngân hàng trong việc chống lạm phát 23 c. Nhà nước thực hiện thả nổi giá cả 24 d. Thứ tư: Tạo điều kiện phát triển nền kinh tế ngoài quốc doanh 25 e. Thứ năm: Nhà nước mở rộng quyền xuất nhập khẩu mở cửa biên giới 25 2.2. Nhóm giải pháp của chính phủ kiềm chế lạm phát trong ngắn hạn 25 2.2.1. Chín nhóm giải pháp cho doanh nghiệp 26 2.2.2. Tám nhóm giải pháp của chính phủ 28 Kết luận 32 Tài liệu tham khảo 33 LỜI MỞ ĐẦU Cơ chế thị trường rung lên hồi chuông cảnh báo về sự thay đổi nền kinh tế Việt Nam trong những thập niên gần đây. Trong nền kinh tế thị trường hoạt động đầy sôi động và cạnh tranh gay gắt để thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên thương trường, các nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp phải nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt những vấn đề của nền kinh tế mới. Bên cạnh bao vấn đề cần có để kinh doanh còn là những vấn đề nổi cộm khác trong kinh tế. Một trong những vấn đề nổi cộm đấy chính là lạm phát. Lạm phát như một căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là một vấn đề phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian và trí tuệ mới có thể mong muốn đạt được kết quả khả quan. Chống lạm phát không chỉ là việc của các doanh nghiệp mà còn là nhiệm vụ của chính phủ và của tất cả chúng ta. Trong những năm gần đây, đặc biệt là trong 2 năm 2007 và 2008, đứng trước tình hình suy thoái dây chuyền của nền kinh tế thế giới, nền kinh tế của nước ta cũng đã bị ảnh hưởng không nhỏ, lạm phát diễn biến một cách hết sức phức tạp và khó lường, giá cả của hầu hết các hàng hoá đều tăng vọt và sức mua của đồng tiền ngày càng giảm nhanh. Xuất phát từ vấn đề nghiên cứu lạm phát là cần thiết, cấp bách, đặc biệt thấy được tầm quan trọng của lạm phát, qua quá trình tìm hiểu cùng với sự giúp đỡ, chỉ bảo của cô giáo Tiến sĩ Đỗ Hải Hà, em đã chọn đề tài “LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM QUA HAI NĂM 2007- 2008, NGUYÊN NHÂN - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP” Với lượng kiến thức còn hạn chế cũng như thời gian có hạn, cho nên bài viết không tránh khỏi một số thiếu sót. Chính vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của cô giáo để đề tài có thể hoàn thiện hơn Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2008 Sinh viên Nguyễn Ngọc Sơn I/ Lý luận chung về lạm phát: 1. Khái niệm và phân loại lạm phát: a) Các khái niệm: - Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường, nó xuất hiện khi các yêu cầu của quy luật kinh tế hàng hoá không được tôn trọng, nhất là quy luật lưu thông tiền tệ. Ở đâu còn sản xuất hàng hoá,còn tồn tại những quan hệ hàng hoá tiền tệ thì ở đó còn ẩn náu khả năng lạm phát và lạm phát chỉ xuất hiện khi các quy luật lưu thông tiền tệ bị vi phạm. - Trong bộ "Tư bản" nổi tiếng của mình C. Mác viết: "Việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn ở số lượng vàng hoặc bạc thực sự lưu thông nhờ các đại diện tiền giấy của mình". Điều này có nghĩa là khi khối lượng tiền giấy do nhà nước phát hành vào lưu thông vượt quá số lượng vàng mà nó đại diện thì giá trị của tiền giấy giảm xuống và tình trạng lạm phát xuất hiện. - Một định nghĩa nữa về lạm phát do các nhà kinh tế học hiện đại đưa ra và nó được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường : "Lạm phát là sự tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian" - Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số lạm phát. Nó chính là GNP danh nghĩa/ GNP thực tế. Trong thực tế nó được thay thế bằng tỷ số giá tiêu dùng hoặc chỉ số giá bán buôn Ip = åip.d ip: chỉ số giá cả của từng loại nhóm hàng d: tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại hàng. b) Phân loại lạm phát: - Lạm phát vừa phải: còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kỳ này nền kinh tế hoạt động bình thường, đời sống của người lao động ổn định. Sự ổn định đó được biểu hiện: giá cả tăng lên chậm, lãi suất tiền gửi không cao, không xẩy ra với tình trạng mua bán và tích trữ hàng hoá với số lượng lớn... Có thể nói lạm phát vừa phải tạo tâm lý an tâm cho người lao động chỉ trông chờ vào thu nhập. Trong thời gian này các hãng kinh doanh có khoản thu nhập ổn định, ít rủi ro nên sẵn sàng đầu tư cho sản xuất, kinh doanh. - Lạm phát phi mã: lạm phát xẩy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 hoặc 3 con số một năm. ở mức phi mã, lạm phát làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế , các hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường. Loại này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng. - Siêu lạm phát: xẩy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi mã, nó như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng nhanh không ổn định, tiền lương thực tế bị giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, thông tin không còn chính xác, các yếu tố thị trường biến dạng và hoạt động kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn. Tuy nhiên, siêu lạm phát rất ít khi xẩy ra. Lịch sử của lạm phát cũng chỉ ra rằng, lạm phát ở các nước đang phát triển thường diễn ra trong thời gian dài, vì vậy hiệu quả của nó phức tạp và trầm trọng hơn. Vì vậy các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại. Lạm phát kinh niên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dướ 50% một năm; lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên 50%; siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm. 2. Nguyên nhân lạm phát: a) Lạm phát theo thuyết tiền tệ: kinh tế đi vào lạm phát, đồng tiền mất giá... có nhiều nguyên nhân dẫn đến lạm phát. Chẳng hạn thời tiết không thuận, mất mùa, nông dân thu hoạch thấp, giá lương thực tăng lên. Giá nguyên vật liệu tăng làm cho giá cả hàng tiêu dùng tăng lên. Khi tiền lương tăng, chi phí sản xuất cũng tăng theo, dẫn đến giá các mặt hàng cũng tăng. Tăng lương đẩy giá lên cao. Tóm lại, lạm phát là hiện tượng tăng liên tục mức giá chung và có thể giải thích theo 3 cách. - Theo học thuyết tiền tệ, lạm phát là kết quả của việc tăng quá thừa mức cung tiền. - Theo học thuyết Keynes, lạm phát xẩy ra do thừa cầu về hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế (do cầu kéo). - Theo học thuyết chi phí đẩy, lạm phát sinh ra do tăng chi phí sản xuất (chi phí đẩy) Trên thực tế lạm phát là kết quả của tổng thể 3 nguyên nhân trên, mỗi nguyên nhân có vai trò khác nhau ở mỗi thời điểm khác nhau. Mức cung tiền là một biến số duy nhất trong đẳng thức tỷ lệ lạm phát, mà dựa vào đó ngân hàng Trung ương đã tạo ra ảnh hưởng trực tiếp. Trong việc chống lạm phát, các ngân hàng Trung ương luôn giảm sút việc cung tiền. Tăng cung tiền có thể đạt được bằng hai cách: - Ngân hàng trung ương in nhiều tiền hơn (khi lãi suất thấp và điều kiện kinh doanh tốt). hoặc - Các ngân hàng thương mại có thể tăng tín dụng Trong cả hai trường hợp sẵn có lượng tiền nhiều hơn cho dân cư và chi phí. Về mặt trung hạn và dài hạn, điều đó dẫn tới cầu về hàng hoá và dịch vụ tăng. Nếu cung không tăng tương ứng với cầu, thì việc dư cầu sẽ được bù đắp bằng việc tăng giá. Tuy nhiên, giá cả sẽ không tăng ngay nhưng nó sẽ tăng sau đó 2-3 năm. In tiền để trợ cấp cho chi tiêu công cộng sẽ dẫn đến lạm phát nghiêm trọng. b) Lạm phát theo thuyết Keynes (lạm phát cầu kéo): Tăng cung tiền không phải là nguyên nhân duy nhất dẫn đến tăng cầu về hàng hoá, dịch vụ. Tăng tiêu dùng, chi phí công cộng và tăng dân số là những nhân tố phi tiền tệ, sẽ dẫn đến tăng cầu. áp lực lạm phát sẽ tăng sau 1 đến 3 năm, nếu cầu về hàng hoá vượt quá mức cung, song sản xuất vẫn không được mở rộng hoặc do sử dụng máy móc với công suất tiến tới giới hạn hoặc vì nhân tố sản xuất không đáp ứng được sự gia tăng của cầu. Sự mất cân đối đó sẽ được giá cả lấp đầy. Lạm phát do cầu tăng lên hay lạm phát do cầu kéo được ra đời từ đó. Chẳng hạn ở Mỹ, sử dụng công suất máy móc là một chỉ số có ích phản ánh lạm phát trong tương lai ở Mỹ, sử dụng công suất máy móc trên 83% dẫn tới lạm phát tăng. c) Lạm phát theo thuyết chi phí đẩy: Lạm phát chi phí đẩy vừa lạm phát, vừa suy giảm sản lượng tăng thêm thất nghiệp nên còn gọi là lạm phát "đình trệ" Hình thức của lạm phát này phát sinh ra từ phía cung, do chi phí sản xuất cao hơn đã được chuyển sang người tiêu dùng. Điều này chỉ có thể được trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trả với giá cao hơn. Ví dụ: Nếu tiền lương chiếm một phần đáng kể trong chi phí sản xuất và dịch vụ. Nếu tiền lương tăng nhanh hơn năng suất lao động thì tổng chi phí sản xuất sẽ tăng lên. Nếu nhà sản xuất có thể chuyển việc tăng chi phí này cho người tiêu dùng thì giá bán sẽ tăng lên, công nhân và các công đoàn sẽ yêu cầu tiền lương cao hơn trước để phù hợp với chi phí sinh hoạt tăng lên, điều đó tạo thành vòng xoáy lượng giá. Một yếu tố chi phí chính khác là giá cả nguyên vật liệu đặc biệt là dầu thô. Trong năm 1972 - 1974 hầu như giá dầu quốc tế tăng 5 lần dẫn đến lạm phát tăng từ 4,6% đến 13,5% bình quân trên toàn thế giới. Ngoài ra sự suy sụp của giá dầu (1980) làm cho lạm phát giảm xuống mức thấp chưa từng thấy. Bên cạnh những yếu tố gây nên lạm phát đó là giá nhập khẩu cao hơn được chuyển cho người tiêu dùng nội địa. Nhập khẩu càng trở nên đắt đỏ khi đồng nội tệ yếu đi hoặc mất giá so với đồng tiền khác. Ngoài ra yếu tố tâm lý dân chúng, sự thay đổi chính trị, an ninh quốc phòng... Song nguyên nhân trực tiếp vẫn là số lượng tiền tệ trong lưu thông vượt quá số lượng hàng hoá sản xuất ra. Việc tăng đột ngột của thuế (VAT) cũng làm tăng chỉ số giá. y y y1 y0 y0 y* y* AD1 AD0 P P1 P0 E1 E0 E0 ASSL ASRL P1 P0 E1 ASLR AD P ASSR1 ASSR2 Chi phí tăng đẩy giá lên cao - Cầu không đổi, giá cả tăng sản lượng giảm xuống Y0 - Y1 AS1 - AS2 Chi tiêu quá khả năng cung ứng - Khi sản lượng vượt tiềm năng đường AS có độ dốc lớn nên khi cầu tăng mạnh, AD - AD1, giá cả tăng P0 - P1 d) Lạm phát dự kiến: Trong nền kinh tế, trừ siêu lạm phát, lạm phát phi mã, lạm phát vừa phải có xu hướng tiếp tục giữ mức lịch sử của nó. Giá cả trong trường hợp này tăng đều một cách ổn định. Mọi người thể dự kiến được trước nên còn gọi là lạm phát dự kiến y y* AD" AD' AD E E' E" ASLR ASSR2 ASSR1 ASSR0 P2 P1 P0 Trong lạm phát dự kiến AS & AD dịch chuyển lên trên cùng, độ sản lượng vẫn giữ nguyên, giá cả tăng lên theo dự kiến. Các nguyên nhân khác: Giữa lạm phát và lãi suất khi tỷ lệ lạm phát tăng lên lãi suất danh nghĩa tăng theo, tăng chi phí cơ hội của việc giữ tiền, càng giữ nhiều tiền càng thiệt. Điều này đặc biệt đúng trong các cuộc siêu lạm phát, tiền mất giá càng nhanh, tăng mức độ tiền gửi vào ngân hàng, vào quỹ tiết kiệm hoặc đẩy ra thị trường để mua về mọi loại hàng hoá có thể dự trữ gây thêm mất cân bằng cung cầu trên thị trường hàng hoá và tiếp tục đẩy giá lên cao. Giữa lạm phát và tiền tệ khi ngân sách thâm hụt lớn các chính phủ có thể in thêm tiền để trang trại, lượng tiền danh nghĩa tăng lên là một nguyên nhân gây ra lạm phát. Và một khi giá cả đã tăng lên thì sự thâm hụt mới nảy sinh, đòi hỏi phải in thêm một lượng tiền mới và lạm phát tiếp tục tăng vọt. Kiểu lạm phát xoáy ốc này thường xảy ra trong thời kỳ siêu lạm phát. Tuy nhiên, chính phủ có thể tài trợ thâm hụt bằng cách vay dân thông qua bán tín phiếu. Lượng tiền danh nghĩa không tăng thêm nên không có nguy cơ lạm phát, nhưng nếu thâm hụt tiếp tục kéo dài, số tiền phải trả cho dân (cả gốc lẫn lãi) sẽ lớn đến mức cần phải in tiền để trang trải thì khả năng có lạm phát mạnh là điều chắc chắn. Các nguyên nhân liên quan đến chính sách của nhà nước, chính sách thuế, chính sách cơ cấu kinh tế không hợp lý. Các chủ thể kinh doanh làm tăng chi phí đầu vào, nguyên nhân do nước ngoài. Những tác động của lạm phát: Lạm phát có nhiều loại, cho nên cũng có nhiều mức độ ảnh hưởng khác nhau đối với nền kinh tế. Xét trên góc độ tương quan, trong một nền kinh tế mà lạm phát được coi là nỗi lo của toàn xã hội và người ta có thể nhìn thấy tác động của nó. a) Đối với lĩnh vực sản xuất: Đối với nhà sản xuất, tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra biến động không ngừng, gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự mất giá của đồng tiền làm vô hiệu hoá hoạt động hạch toán kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh - sản xuất ở một vài danh nghiệp có thể thay đổi, gây ra những xáo động về kinh tế. Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn. b) Đối với lĩnh vực lưu thông: Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hoá. Các nhà doanh nghiệp thấy rằng việc đầu tư vốn vào lĩnh vực lưu thông. Thậm chí khi lạm phát trở nên khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực sản xuất sẽ gặp phải rủi ro cao. Do có nhiều người tham giâ vào lĩnh vực lưu thông nên lĩnh vực này trở nên hỗn loạn. Tiền ở trong tay những người vừa mới bán hàng xong lại nhanh chóng bị đẩy vào kênh lưu thông, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm thúc đẩy lạm phát gia tăng. c) Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng: Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàn bị thu hẹp. Số người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều. Về phía hệ thống ngân hàng, do lượng tiền gửi vào giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với việc sụt giá của đồng tiền quá nhanh, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm những người hiện đang có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Về phía người đi vay, họ là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng tiền một cách nhanh chóng. Do vậy, hoạt động của hệ thống ngân hàng không còn bình thường nữa. Chức năng kinh doanh tiền bị hạn chế, các chức năng của tiền tệ không còn nguyên vẹn bởi khi có lạm phát thì chẳng có ai tích trữ của cải hình thức tiền mặt. d) Đối với chính sách kinh tế tài chính của nhà nước: Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá, khi lạm phát xảy ra những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động của giá cả làm cho thị trường bị rối loạn. Người ta khó phân biệt được những doanh nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời lạm phát làm cho nhà nước thiếu vốn, do đó nhà nước không còn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi xã hội bị cắt giảm... các ngành, các lĩnh vực dự định đựơc chính phủ đầu tư và hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại hoặc không có gì. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện được. II. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam 1. Lịch sử của lạm phát: - Giai đoạn thứ nhất: Từ năm 1890 trở về trước, lạm phát được hiểu giống hoàn toàn định nghĩa của Marx, cho nên chống lạm phát là tìm tòi mọi cách hạn chế việc phát hành tiền vào lưu thông. - Thời kỳ 1938 - 1945: Ngân hàng Đông Dương cấu kết với chính quyền thực dân Pháp đã lạm phát đồng tiền Đông Dương để vơ vét của cải nhân dân Việt Nam đem về Pháp đóng góp cho cuộc chiến tranh chống phát xít Đức và sau đó để nuôi mấy chục vạn quân nhận bán Đông Dương làm chiếc cầu an toàn đánh Đông Nam á. Hậu quả nặng nề của lạm phát nhân dân Việt Nam phải chịu giá sinh hoạt từ 1939 - 1945 bình quân 25 lần. - Thời kỳ 1946 - 1954: Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo đã phát hành đồng tài chính thay đồng Đông Dương và sau đó là đồng ngân hàng để huy động sức người, sức của của toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến 9 năm đánh đuổi quân xâm lược Pháp, kết quả giải phòng hoàn toàn nửa đất nước. - Thời kỳ 1955 - 1965: Chính phủ tay sai Mỹ kế tiếp nhau ở miền Nam Việt Nam liên tục lạm phát đồng tiền Miền Nam để bù đắp lại cuộc chiến tranh chống laị phong trào giải phóng dân tộc ở Miền Nam. Mặc dù được chính phủ Mỹ đổ vào miền Nam một khối lượng hàng viện trợ khổng lồ, giá trị hàng trăm tỷ USD cũng không thể bù đắp lại chi phí. Nguyễn Văn Thiệu - Chính phủ đã lạm phát hàng trăm tỷ đồng tiền lưu thông ở miền Nam năm 1975 gấp 5 lần. Năm 1969 lên tới 600 triệu đồng, giá sinh hoạt tăng hàng trăm lần so với năm 1965. - Thời kỳ 1965 - 1975: ở miền Bắc Việt Nam chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà phải tiến hành một cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, chống chiến tranh phá hoại ở Mỹ tại miền Bắc, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, đã phát hành số tiền lớn (gấp 3 lần tiền lưu thông của năm 1965 ở miền Bắc) để huy động lực lượng toàn dân, đánh thắng độc quân xâm lược ở Mỹ và tay sai ở cả hai miền. Nhưng nhờ có sự viện trợ to lớn và có hiệu quả của Liên xô, Trung Quốc và các nước Xã Hội Chủ Nghĩa(XHCN) anh em đã hạn chế được lạm phát trong thời gian này. - Thời kỳ 1976 đến nay: Sau khi thống nhất đất nước, chúng ta thiếu nhiều kinh nghiệm trong thời bình nên duy trì quá lâu cơ chế thời chiến tập trung quan liêu bao cấp toàn diện, không mở rộng sản xuất hàng hoá. XHCN không tiến hành hạch toán kinh doanh nên đã tự gây cho mình nhiều khó khăn, sản xuất không đủ tiêu dùng, ngân sách không đủ chi tiêu, lạm phát tiền giấy liên tục và bùng nổ dữ dội tới 3 con số. Nhưng kể từ năm 1999 đến nay với sự chỉ đạo đúng đắn của nhà nước thì lạm phát hiện nay chỉ còn dừng lại ở mức độ tốt cho sự phát triển nền kinh tế tức là chỉ ở mức 15-17% có thể nói đây cũng là một thành công không nhỏ của nhà nước ta. 2. Đặc trưng lạm phát ở nước ta: Lạm phát ở Việt Nam cũng có những biểu hiện chung giống với lạm phát ở các quốc gia khác như: chỉ số giá cả nói chung tăng phổ biến do vậy giá trị của đồng tiền giảm. Song lạm phát ở Việt Nam có đặc trưng riêng do điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể: - Lạm phát của một nền kinh tế kém phát triển trong đó khu vực kinh tế nhà nước có địa vị thống trị. Nền kinh tế Việt Nam thuộc loại kém phát triển nhất thế giới, các chỉ tiêu bình quân đầu người rất thấp. Khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam chiếm 1 tỷ trọng lớn hiếm có trên thế giới. Mặc dù khu vực nhà nước chiếm phần lớn số vốn đầu tư và chất xám trong cả nước nhưng lại chỉ có thể làm ra từ 30% - 37% tổng sản phẩm xã hội. Các xí nghiệp quốc doanh nhìn chung đã nộp cho ngân sách nhà nước một số tiền thấp rất xa so với số tiền nhà nước cung cấp cho nó qua bù lỗ, bù giá, cấp phát tín dụng, lãi suất thấp... Đúng ra khu vực kinh tế nhà nước phải đem lại nguồn thu chủ yếu cho xã hội thì ở đây lại ngược lại. Khu vực kinh tế tư nhân làm ăn có hiệu quả hơn và đóng góp một phần quan trọng trong ngân sách của nhà nước. Chính hoạt động của các hãng kinh tế nhà nước với lãi giả, lỗ thật đã đẩy nền kinh tế lạm phát, thị trường rối loạn, lỗ lãi khó kiểm tra. Sự giảm sút hiệu quả sản xuất kinh doanh dẫn đến đến vòng luẩn quẩn. Hiệu quả giảm sát dẫn đến thu không đủ bù chi và lạm phát, rồi lạm phát làm cho hiệu quả kinh doanh tiếp tục giảm sút, cứ như vậy nó làm cho nền kinh tế Việt Nam càng lún sâu vào đói nghèo, lạc hậu. - Lạm phát của một nền kinh tế độc quyền mà nhà nước có địa vị thống trị trên mọi lĩnh vực, cơ chế kinh tế quan liêu bao cấp. Trong nền kinh tế thị trường sự cạnh tranh ắt sinh ra một công ty thắng thế chiếm vị trí độc quyền. Để đạt được điều đó, phải tiến hành cải tiến máy móc, trang thiết bị, tổ chức lao động, tập trung nguồn vốn ... Nhưng khi ở vị trí độc quyền công ty sẽ bóp chết các địch thủ khác và cũng ít chú ý hơn đến việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật dẫn đến sự suy thoái trong kinh doanh. Nếu công ty này nhỏ thì sự ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế sẽ không có nhiều hiệu quả tiêu cực. nhưng nếu đó là một công ty lớn thì sự suy thoái này sẽ kéo theo cả nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng. Trên thực tế, độc quyền ở Việt Nam cũng như ở các nước XHCN khác đã khống chế toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chế độ độc quyền nhà nước và cơ chế hoạch định quan liêu, mệnh lệnh đã triệt tiêu mất các quan hệ thị trường ở Việt Nam làm cho nền kinh tế Việt Nam xa lạ với thị trường. Đây cũng là nguyên nhân đáng chú ý trong việc góp phần tăng lạm phát. - Lạm phát của một nền kinh tế đóng, phụ thuộc một chiều vào các nguồn tài trợ từ bên ngoài. Việt Nam đóng cửa nền kinh tế, không quan hệ kinh tế với các nước tư bản chủ nghĩa. Chính sách này ra đời do sự thù địch, cấm vận của Mỹ. Nguyên nhân nữa dẫn đến sự đóng góp của nền kinh tế là do sự đối đầu đông tây mà Việt Nam và các nước XHCN là 1 cực. Sự bó hẹp nền kinh tế này đã dẫn đến những khó khăn đáng kể cho sản xuất kinh doanh. - Ngoài những đặc điểm trên thì lạm phát Việt Nam có cơ cấu của nó bao gồm những ngành kém hiệu quả có được sự ưu tiên phát triển. Mọi người đều thấy sự mất cân đối khi ưu tiên phát triển công nghiệp nặng (vốn lớn, thu hồi lãi chậm). - Lạm phát ở một nước chịu ảnh hưởng nặng nề của các cuộc chiến tranh kéo dài do đó chi phí cho lĩnh vực quốc phòng lớn, tiền trợ cấp gia đình chính sách... Những khoản này đã làm tăng thêm thâm hụt ngân sách và tăng lạm phát. - Việt Nam là nước nông nghiệp mà luôn chịu ảnh hưởng của thiên tai, hạn hán, mất mùa... Do đó, ngân sách hụt đi do phải chi ra 1 khoản trợ cấp cho các vùng thiên tai. 3. Thực trạng Năm 2007, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục đà tăng trưởng ấn tượng đạt 8,48%, cao hơn mức trung bình 5 năm giai đoạn 2003- 2007, là một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất trên thế giới. Tuy nhiên, vào những tháng cuối năm 2007 và đầu 2008, cùng với đà suy thoái kinh tế thế giới, đồng USD mất giá, giá dầu thô tăng cao, giá cả lương thực và nguyên nhiên vật liệu tăng đột biến cộng với tác động của thiên tai, dịch bệnh đã làm cho nền kinh tế Việt Nam bộc lộ những nhược điểm cố hữu của một nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi.   Năm 2007 là năm hội tụ của những “cơn bão” tệ hại cho nền kinh tế nước ta: thiên tai bão lụt, dịch bệnh và đặc biệt là cơn bão tăng giá kéo dài và bất kham, lạm phát của nước ta tăng cao và rơi vào tình trạng khó kiểm soát, tỉ lệ lạm phát cao ở mức 13%, chỉ số giá tiêu dùng tăng vọt từ hơn 6% năm 2006 lên 12,69% năm 2007. Tính chung cả năm 2007, CPI ước khoảng trên 10,5- 11%, phần nào phản ánh tốc độ trượt giá và lạm phát của năm nay.   Theo thống kê sơ bộ của tổng cục thống kê, tính đến cuối tháng 10/2007, mức tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã lên đến hơn 9.34% so với cùng kỳ năm trước, và khoảng 8,12% so với đầu năm. Bảng 1 cập nhất diễn biến tăng giá trong thời gian vừa qua. Bảng 1: Tình hình tăng giá đến cuối tháng 10/2007 Các nhóm hàng và dịch vụ Quyền số (%) Tháng 10/07 so với 8/06 Tổng chi dùng 100.00 109.34 01 Hàng ăn và dịch vụ ăn uống 42.85 113.94 011 Trong đó: 1. Lương thực 9.86 115.98 012 2. Thực phẩm 25.20 114.19 02 Đồ uống và thuốc lá 4.56 105.75 03 May mặc, mũ nón, giầy dép 7.21 105.82 04 Nhà ở, điện, nước, chất đốt và VLXD 9.99 111.72 05 Thiết bị và đồ dùng gia đình 8.62 105.90 06 Thuốc và dịch vụ y tế 5.42 106.46 07 Giao thông, bưu chính viễn thông 9.04 102.33 08 Giáo dục 5.41 102.02 09 Văn hoá, giải trí và du lịch 3.59 102.05 10 Hàng hoá và dịch vụ khác 3.31 108.08 Nguồn: mức tăng giá từ Thời báo Kinh tế Việt Nam, ngày 29/10/2007, quyền số từ Nguyễn Văn Công (2006), tr. 65. Từ bảng này, chúng ta thấy mức tăng CPI bắt nguồn chủ yếu từ việc gia tăng giá lương thực và thực phẩm. Đây là nguyên nhân giải thích tới hơn 60% trong tổng mức tăng CPI. Kế đó là sự gia tăng của nhóm nhà ở, điện nước và vật liệu xây dựng, đóng góp 12%. Các nhóm mặt hàng khác có mức tăng trung bình khoảng 5-6%, và do tỷ trọng trong tổng tiêu dùng nhỏ (dưới 10%) nên mức đóng góp của mỗi nhóm chỉ khoảng trên dưới 3%. Nhưng nhìn chung, mặt bằng giá của tất cả các mặt hàng đều tăng khoảng 5%, ngoài hai nhóm đề cập đầu tiên là tăng hơn 10%. Người tiêu dùng đang phải vật lộn với giá cả ngày một gia tăng. Xăng dầu là một trong những mặt hàng có sự tăng giá do được "giải phóng" khỏi sự kiểm soát của Nhà nước. Giá cả nhiều mặt hàng tăng lên, trong đó có thực phẩm. Bảng 2: Chỉ số lạm phát tiêu dùng và chỉ số lạm phát cơ bản 2006 2007 2007(quý 3) 2007(quý 4) 02-2008 Chỉ số lạm phát giá tiêu dùng ( Headline Inflation ) Việt Nam 7.4 8.3 8.6 10.7 15.7 Đóng góp của tăng giá lương thực vào CPI 3.7 4.8 5.1 6.7 10.8 Trung Quốc 1.5 4.8 6.2 6.7 8.7 Thái Lan 4.6 2.2 1.6 2.9 5.4 Phi-lip-pin 6.2 2.8 2.5 3.3 5.4 Chỉ số lạm phát “cơ bản”( “Core” Inflation ) Trung Quốc 0.8 0.9 0.8 1 1.1 Thái Lan 2.3 1 0.7 1.1 1.5 Phi-lip-pin 5.6 0 2.8 2.4 4 Nguồn: East Asia & Pacific Update (4-2008) Bảng 2 chỉ ra rằng, gia tăng lạm phát trong thời gian gần đây chủ yếu do tăng giá lương thực theo diễn biến chung trên thế giới. Nguyên nhân làm cho lạm phát ở Việt Nam cao hơn nước ngoài là do chế độ tỷ giá bất lợi làm cho Việt Nam phải nhập khẩu lạm phát giá lương thực tính theo USD, và làm khuếch đại mức tăng giá cả lương thực tương đối so với các nước khác. Những tháng đầu năm 2008, mức lạm phát của Việt Nam đã tăng đến 25,2% trong tháng 5, cao nhất kể từ năm 1992, tạo ra thách thức cho chính phủ khi họ cố gắng kìm chế nền kinh tế đang phát triển quá nóng. Mức tăng giá, ở tháng tư là 21%, vì mức tăng 67,8% của giá gạo – nông sản chủ yếu chịu trách nhiệm cho sự tăng gía 42,8% của hàng hoá và dịch vụ khi chúng ta tinh toán mức lạm phát. Chi phí xây dựng và tiền thuê nhà cũng tăng 22,9% so với năm ngoái. Đến tháng bảy, tỷ lệ lạm phát lại một lần nữa tăng lên tới 27%, chính phủ cho hay, khi giá thực phẩm và nhiên liệu đã kìm hãm nền kinh tế nơi mà Việt Nam hiện nay đang phải đối phó với trận chiến chống lạm phát tàn khốc nhất vùng Á Châu. Con số lạm phát này chỉ cao hơn tháng 6 chút đỉnh (26,8%), nhưng người ta tiên đoán con số này trong thực tế sẽ cao hơn rất nhiều trong tương lai gần, sau khi nhà nước Việt Nam quyết định tăng đột xuất giá xăng dầu hơn 30% và chấm dứt phụ cấp xăng dầu cho một số doanh nghiệp nhà nước. Giá xăng có thời điểm đã lên mức 19.000đ/lít vào ngày 21/7/2008, đã lập tức gây xáo trộn trong sinh hoạt trực tiếp của người dân. Chỉ nội trong tháng 7, giá thực phẩm tăng 44,7%, trong lúc giá lương thực chủ yếu và ngũ cốc tăng 72,7%. Giá nhà và vật liệu xây dựng tăng 24,9%, giá áo quần và giày dép tăng 10,9%, giá khám chữa bệnh và tiền thuốc men tăng 9,5% trong tháng. Lần đầu tiên trong 7 tháng, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng 21,28%. Nhưng trái ngược với dự đoán của các chuyên gia kinh tế về sự suy giảm của nền kinh tế thì chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của cả nước trong tháng 10 đã giảm 0,19% so với tháng 9, đưa chỉ số CPI 10 tháng qua tăng ở mức 21,64% so với tháng 12-2007 và tăng 23,15% so với cùng kỳ năm 2007.Sở dĩ CPI tháng 10 giảm là do 3 nhóm hàng hóa chiếm trọng số lớn nhất trong rổ hàng hóa chung giảm rõ rệt. Trong đó, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống (bao gồm lương thực, thực phẩm) đã giảm 0,42%; hai nhóm còn lại tiếp tục đà giảm của tháng 9: nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng giảm mạnh với mức giảm 1,08%, nhóm phương tiện đi lại và bưu điện giảm 0,94%. Điểm nổi bật trong CPI tháng 10 đó là mức giảm giá đáng kể của mặt hàng xăng dầu và lương thực. Trong tháng 10, mặt hàng xăng dầu đã được điều chỉnh giảm với mức giảm tổng cộng là 1.500 đồng/lít cũng đã tác động không nhỏ tới CPI tháng 10. Đến đầu tháng 11, giá xăng tiếp tục giảm đứng ở mức 14.000đ/lít. Nền kinh tế tuy chưa có động thái gì lớn nhưng đã có dấu hiệu hạ nhiệt Trong 10 nhóm hàng hóa để tính CPI thì nhóm lương thực đã chiếm tỉ trọng gần 43% nên khi giá lương thực giảm thì sức ép lên CPI được giải toả rất nhiều. Trước đó, CPI tháng 9 đã giảm tốc mạnh và chỉ tăng 0,18%, CPI tháng 8 tăng 1,56%, CPI tháng 7 tăng 1,13%, CPI tháng 6 tăng 2,14% và CPI tháng 5 tăng 3,91%. Theo sự đánh giá của ngân hàng phát triển châu Á (ADB), nỗ lực của Chính phủ nhằm kiểm soát tình hình lạm phát cũng như sự suy yếu dự kiến về nhu cầu bên ngoài sẽ khiến tăng trưởng của nền kinh tế chậm lại ở mức 7% trong năm 2008 và dự kiến tăng trở lại mức 8,1% vào năm 2009. Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam phục hồi đà tăng trưởng vào năm 2009, với mức tăng GDP dự kiến đạt 8,1%, tăng trưởng xuất khẩu vươn lên mức 23,5% và tỉ lệ lạm phát sẽ giảm dần xuống còn 10,2% nếu tính bình quân giai đoạn và 7,6% tính theo chỉ số cuối kỳ. 4. Nguyên nhân dẫn đến lạm phát ở Việt Nam tăng nhanh trong 2 năm 2007- 2008. Phần trước, chúng ta đã đề cập đến nguyên nhân lạm phát nói chung, bây giờ ta xét trong thời điểm cụ thể và ở quốc gia cụ thể. Lạm phát ở Việt Nam có nhiều nguyên nhân và ý kiến khác nhau. Lạm phát như biểu hiện vừa qua có nguyên nhân sâu xa và nguyên nhân trực tiếp. Những yếu kém vốn có của nền kinh tế đã tồn tích từ nhiều năm nhưng chậm được xử lý, khắc phục, đến thời điểm nền kinh tế chịu những tác động bất lợi từ kinh tế thế giới ( giá năng lượng tăng cao, kinh tế thế giới suy giảm...) cộng hưởng với tác động bất lợi kinh tế trong nước( thiên tai dồn dập cuối năm 2007, đầu 2008, tập trung vào những vùng trọng điểm khó khăn, dịch bệnh kéo dài trên diện rộng ) thì lạm phát mới bộc lộ. Những nguyên nhân chủ yếu là: a.Nguyên nhân sâu xa: -Trình độ phát triển, chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế thấp, sức cạnh tranh chưa cao. Theo xếp hạng của diễn đàn kinh tế thế giới năm 2007, nước ta ở nhóm trung bình thấp về sức cạnh tranh trong số 131 quốc gia được đánh giá, vị trí 68/131 ( Trung Quốc đứng thứ 34, Xin-ga-po:7 , Thái Lan: 28 ), trong khi độ mở của nền kinh tế lớn xét về cả đầu ra – kim ngạch xuất nhập khẩu tính trên GDP bằng 150% ( Trung Quốc là 63% ). Vì vậy, nền kinh tế dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới có những biến động bất lợi về giá cả, cung cầu, tăng trưởng kinh tế -Chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế còn thấp. Cơ cấu kinh tế chậm cải thiện; công nghiệp khai thác tài nguyên và gia công vẫn chiếm tỷ trọng lớn, công nghiệp phụ trợ chậm phát triển, phần lớn vật tư, nguyên liệu trung gian cho sản xuất phải nhập khẩu; giá trị gia tăng sản xuất công nghiệp thấp. -Chính sách tiền tệ nới lỏng trong nhiều năm dẫn đế._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6222.doc