Lời nói đầu
Khủng hoảng kinh tế Việt Nam vào những năm cuối thập kỷ 80, sự khẳng định chỗ đứng của trường phái phi tập trung vào thập kỷ 80 với những thành công của một số nước trong việc cải tổ nền kinh tế, đặc biệt là Hàn Quốc. Đài Loan và Trung Quốc đã thúc đẩy cuộc đổi mới nền kinh tế Việt Nam từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng XHCN. Hệ thống tiền tệ- tài chính buộc phải có những cải tổ toàn diện để thực hiện sứ mạng là huyết mạch, là
26 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1339 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Lãi suất - Vai trò của lãi suất và đổi mới chính sách lãi suất trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trung tâm tiền tệ tín dụng, thanh toán của nền kinh tế hàng hoá. Muốn vậy, giá trị của tiền tệ phải ổn định. Điều đó, đến lượt nó, đòi hỏi phải có một cơ chế lãi suất thích hợp.
Nhận thức rõ vấn đề, Đảng và Nhà nứơc mà đạidiện là NHNN đã liên tục có những điều chỉnh cơ chế lãi suất. Vậy tại sao NHNN lại điều tiết cơ chế lãi suất như vậy?. Xuất phát từ nhận định trên em đã quyết định lựa chọn đề tài "Lãi suất - Vai trò của lãi suất và đổi mới chính sách lãi suất trong giai đoạn hiện nay" vì hai lí do:
Thứ nhất, trong lý tuyết kinh tế, lãi suất được coi là một công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua tác động điều chỉnh các mối quan hệ trên thị trường tài chính tiền tệ. Vì vậy, muốn ổn định thị trường tài chính tiền tệ, tạo điều kiện ổn định môi trường kinh tế vĩ mô không thể không đề cập đến vai trò của chính sách lãi suất trong hệ thống chính sách tài chính tiền tệ quốc gia.
Thứ hai, lãi suất là đầu mối tập trung các quan hệ kinh tế, phản ánh chân thực và tác động trực tiếp đến lợi ích của mọi chủ thể kinh tế. Vì vậy, để huy động được nguồn vốn đầu tư phục vụ quá trình phát triển kinh tế thì chính sách lãi suất cũng giữ một vai trò hết sức quan trọng. Hơn thế nữa, sau khi khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Nam á nổ ra, nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam có xu hướng giảm sút thì nguồn vốn đầu tư trong nước càng trở nên quan trọng. Và thực tiễn cho thấy nếu chính sách ngoại hối (chính sách tỷ giá hối đoái) tác động mạnh đến nguồn vốn đầu tư nước ngoài thì chính sách lãi suất lại có ý nghĩa quyết định đối vơí việc huy động nguồn vốn đầu tư trong nước.
Đề tài nghiên cứu nhằm đạt đến các mục đích sau đây:
Làm rõ cơ sở lý luận ứng dụng lãi suất của nền kinh tế thị trường vào hoàn cảnh ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Xem xét trên bình diện vĩ mô về thực trạng xây dựng và điều hành chính sách lãi suất trong thời gian qua ở nước ta.
Kiến giải về những định hướng hoàn tiện chính sách lãi suất nhằm tiếp tục đổi mới hoạt động của hệ thống ngân hàng nước ta.
Đề án gồm 3 chương.
Chương I: Lý luận chung về lãi suất và vai trò của nó trong quá trình phát triển kinh tế.
Chương II: Khái quát quá trình cải cách lãi suất và tác động của nó tới quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam.
Chương III: Một số giải pháp nhằm đổi mới chính sách lãi suất trong mục tiêu phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Trong quá trình thực hiện đề án vì thời gian, tài liệu và trình độ nghiên cứu còn nhiều hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong thầy giáo TS. Đào Hùng xem xét và chỉ bảo.
Chương I
Lí luận chung về lãi suất và vai trò của nó với quá trình
phát Triển kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ nhất bởi nó quan hệ mật thiết đối với lợi ích kinh tế của tong người trong xã hội. Lãi suất tác động đến quyết định của mỗi cá nhân: chi tiêu hay tiết kiệm để đầu tư. Sự thay đổi của lãi suất có thể dẫn tới sự thay đổi quyết diịnh của mỗi doanh nghiệp: vay vốn để mở rộng sản suất hay cho vay tiền để hưởng lãi suất, hoặc đầu tư vào đâu có lợi nhất. Thông qua những quyết định của các cá nhân, doanh nghiệp lãi suất ảnh hưởng đến mức độ phát triển cũng như cơ cấu của nền kinh tế đất nước.
I. Lãi suất- khái niệm và bản chất
1. Các lý thuyết kinh tế về bản chất của lãi suất
Hiện tại có rất nhiều lí thuyết về lãi suất, trong đó có một số lí thuyết thường được các quốc gia có nền kinh tế thị trường tính đến khi hoạch định các chính sách lãi suất của mình ở trong các giai đoạn phát triển như: Lý thuyết coi lãi suất là phần thưởng người thực hành tiết kiệm, lý thuyết về sự giảm giá của thời gian, lý thuyết lãi suất diễn tả sự ưa chuộng thanh toán ... Sau đây ta sẽ nghiên cứu lý thuyết về lãi suất của một số trường phái cụ thể.
1.1 Lí thuyết của C. Mac về lãi suất:
Lý thuyết của Mac về nguồn gốc, bản chất lãi suất trong nền kinh tế hàng hoá TBCN
Qua quá trình nghiên cứu bản chất của CNTB, mac đã vạch ra rằng quy luật giá trị thặng dư- tức giá trị lao động không công của công nhân làm thuê tạo ra-là quy luật kinh tế cơ bản của chử nghĩa tư bản và nguồn gốc của mọi lãi suất đều xuất phát từ giá trị thặng dư.
Theo Mac, khi xã hội phát triển thì tư bản tài sản tách rời tư bản chức năng, tức là quyền sở hữu tư bản tách rời quyền sử dụng tư bản nhưng mục đích của tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư thì lhông thay đổi. Vì vậy, thì trong xã hội phát sinh quan hệ cho vay và đi vay, đã là tư bản thì sau một thời gian giao cho nhà tư bản đi vay sử dụng, tư bản cho vay được hoàn trả lại cho chủ sở hữu nó kèm theo một giá trị tăng thêm gọi là lợi tức .
Về thực chất lợi tức chỉ là một bộ phận của giá trị thặng dư mà nhà tư bản đi vay phải cho nhà tư bản cho vay. Trên thực tế nó là một bộ phận của lợi nhuận bình quân mà các nhà tư bản công thương nghiệp đi vay phải chia cho các nhà tư bản cho vay. Do đó nó là biểu hiện quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa được mở rộng trong lĩnh vực phân phối và giới hạn tối đa của lợi tức là lợi nhuận bình quân , còn giới hạn tối thiểu thì không có, nhưng luôn lớn hơn không.
Vì vậy sau khi phân tích công thức chung của tư bản và hình thái vận động đầy đử của tư bản Mac đã kết luận : lãi suất cũng là phần giá trị thặng dư được tạo ra do kết quả bóc lộ lao động làm thuê bị bọn tư bản- chủ ngân hàng chiếm đoạt.
Lý thuyết của C.MAC về lãi suất trong nền kinh tế XHCN
Các nhà kinh tế học Mác xít nhìn nhận trong nền kinh tế XHCN, cùng với tín dụng , sự tồn tại của lãi suất và tác động của nó do mục đích khác quyết định, đó là mục đích thoả mãn đầy đử nhất các nhu cầu của tất cả các thành viên trong xã hội. Lãi suất không chỉ là động lực của tín dụng mà tác dụng của nó đối với nền kinh tế phải bám sát các mục tiêu kinh tế. Trong XHCN không còn phạm trù tư bản và chế độ người bóc lột người song điều đó không có nghĩa là ta không thể xác định bản chất của lãi suất. Bản chất của lãi suất trong xã hội chủ nghĩa là " giá cả của vốn cho vay mà nhà nước sử dụng với tư cách là công cụ điều hoà hoạt động hạch toán kinh tế" .
Qua những lý luận trên ta thấy các nhà kinh tế học Mác xít đã chỉ rõ nguồn gốc và bản chất lãi suất. Tuy nhiên quan điểm của họ không thể hiện được vai trò của lãi suất và các biến số kinh tế vĩ mô khác. Ngày nay trước sự đổ vỡ của hệ thông XHCN, cùng với chính sách làm giàu chính đáng, chính sách thu hút đầu tư lâu dài... đã không phù hợp với các chính sách trước đây vì nó tôn trọng quyền lợi người đầu tư, người có vốn ,thừa nhận thu nhập từ tư bản.
1.2 Lý thuyết của J.M.Keynes về lãi suất:
J.M.KEYNESS (1833-1946) nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh cho rằng lãi suất không phải là số tiền trả công cho việc tiếc kiệm hay nhịn chi tiêu vì khi tích trữ tiền mặt người ta không nhận được một khoản trả công nào, ngay cả khi trường hợp tích trữ rất nhiều tiền trong một khoản thời gian nhất định nào đó. Vì vậy lãi suất chính là sự trả công cho số tiền vay, là phần thưởng cho "sở thích chi tiêu tư bản". Lãi suất do đó còn được gọi là sự trả công cho sự chia lìa với của cải tiền tệ .
Sự phân tích bản chất lãi suất như trên cho thấy nếu lãi suất thấp thì tổng số nhu cầu về tiền mặt của dân cư sẽ vượt quá số cung tiền và nếu lãi suất cao thì sẽ có một lượng tiền mặt dư khi đó không có ai muốn giữ tiền.
1.3 Lý thuyết của trường phái trọng tiền về lãi suất :
M.Friedman, đại diện tiêu biểu của trường phái trọng tiền hiện đại, cũng có quan điểm tương tự J.M.Keyness rằng lãi suất là kết quả của hoạt động tiền tệ. Tuy nhiên quan điểm của M.Friedman khác cơ bản với Keynes ở việc xác định vai trò của lãi suất. Nếu Keyness cho rằng cầu tiền là một hàm của lãi suất (M=(r)) còn M.Friedman dựa vào nghiên cứu các tài liệu thực tế thống kê trong một thời gian dài, ông đi đến khẳng định mức lãi suất không có ý nghĩa tác động đến lượng cầu về tiền mà cầu tiền biểu hiện là một hàm của thu nhập và đưa ra khái niệm tính ổn định cao của cầu tiền tệ .
Có thể thấy rằng : quan điểm coi lãi suất là kết quả hoạt động của tiền tệ đã rất thành công trong việc xác định các nhân tố cụ thể ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng. Tuy nhiên hạn chế của cách tiếp cận này là suy bản chất của lợi tức là bản chất của tiền và dừng lại ở việc nghiên cứu cụ thể.
Tóm lại, lãi suất là tỷ lệ % giữa khoản tiền người đi vay phải trả thêm cho người cho vay trên tổng số tiền vay đầu một thời hạn nhất định để được sử dụng tiền vay đó.
2. Các phép đo lãi suất
Lãi suất hoàn vốn
Tuy có nhiều phương pháp chung để tính lãi suất, nhưng quan trọng nhất là lãi suất hoàn vốn, là lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của khoản tiền trả trong tương lai với giá trị hôm nay của nó. Vì khái niệm tiềm ẩn trong việc tính lãi suất hoàn vốn có ý nghĩa tốt về mặt kinh tế, các nhà kinh tế coi nó là phép đo lãi suất chính xác nhất. Bây giờ ta tính lãi suất hoàn vốn cho 4 loại công cụ thị trường tín dụng.
Fn=P.(1+i)^n
*Vay đơn:
Công thức:
Fn: số tiền vốn và lãi thu về trong tương lai
P,n,i :số tiền vay ban đầu, thời hạn tín dụng, lãi suất đơn
*Vay hoàn trả cố định:
Công thức:
FP FP FP FP
Tiền vay= + + . . . +
1+i (1+i)2 (1+i) 3 (1+i) N
Tiền vay: Toàn bộ món tiền vay
FP : Số tiền trả cố định hàng năm
N :Số năm cho tới mãn hạn
*Trái khoán coupon:
Công thức:
C C C F
Pb= + . . .+ +
1+i (1+i) 2 (1+i)N (1+i)N
Pb : Giá trái khoán
C : Tiền coupon hàng năm
F :Mệnh giá trái khoán
N : Số năm tới ngày mãn hạn
*Trái khoán giảm giá:
F- Pd
=i
Pd
Công thức:
F : Mệnh giá của trái khoán giảm giá
Pd : Giá hiện tời của trái khoán
3. Phân biệt lãi suất với một số phạm trù kinh tế khác
3.1 Lãi suất và giá cả
Lãi suất được coi là hình thái bí ẩn của giá cả vốn vay, vì nó trả cho giá trị sử dụng của vốn vay- đó chính là khả năng đầu tư sinh lời hoặc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Lãi suất cũng biến động theo quan hệ cung cầu trên thị trường vốn như giá cả hàng hoá thông thường. Nhưng lãi suất là giá cả cho quyền sử dụng mà không phải quyền sở hữu, hơn nữa không phải quyền sử dụng vĩnh viễn mà chỉ trong một thời gian nhất định. Thêm vào đó, lãi suất không phải là biểu hiện bằng tiền giá trị vốn vay như giá cả hàng hoá thông thường, mà nó độc lập tương đối- thường nhỏ hơn nhiều so với giá trị vốn vay.
3.2 Lãi suất và lợi tức
Đối với một chứng khoán bất kỳ, lợi tức được định nghĩa là tiền lãi trả cho chủ sở hữu cộng với những thay đổi về giá trị của chứng khoán đó.
Tỷ suất lợi tức là tỷ số lợi tức chia cho giá mua.
Ví dụ: Một người mua một trái khoán chính phủ mệnh giá 1 triệu VND, thời hạn 5 năm, lãi suất 12% năm. Sau một năm anh ta bán trái khoán đó với giá 1,2 triệu VND.
Tiền lãi: 12% x 1.000.000=120.000 VND
Lợi tức trái khoán: (12%x 1.000.000) + ( 1.200.000 - 1.000.000) = 320.000 VND Tỷ suất lợi tức : 320.000/ 1.000.000 = 32%
Qua ví dụ trên ta có thể thấy rõ sự khác nhau giữa lãi suất và lợi tức của một chứng khoán bất kỳ.
3.3 Lãi suất thực và lãi suất danh nhgiã
Từ lâu nay chúng ta đã quên mất tác dụng của lạm phát đối với chi phí vay mượn. Cái mà chúng ta gọi là lãi suất không kể đến lạm phát cần được gọi một cách chính xác hơn là lãi suất danh nghĩa để phân biệt với lãi suất thực. Lãi suất danh nghĩa là lãi suất cho ta biết sẽ thu được bao nhiêu đồng hiện hành về tiền lãi nếu cho vay một trăm đồng trong một đơn vị thời gian ( năm, tháng...). Như vậy sau khoảng thời gian đó ta sẽ thu được một khoản tiền gồm gốc và lãi. Tuy nhiên giá cả hàng hoá không ngừng biến động do lạm phát, điều chúng ta quan tâm là lúc đó số tiền gốc và lãi sẽ mua được bao nhiêu hàng hoá.
Lãi suất thực là lãi suất danh nghĩa được chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi dự tính về mức giá, thể hiện mức lãi theo số lượng hàng hoá và dịch vụ.
Mối quan hệ giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực đã được Fisher phát biểu thông qua phương trình mang tên ông như sau:
Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa - Tỷ lệ lạm phát dự tính
Công thức xác định lãi suất thực này được sử dụng phổ biến hiện nay. Tuy nhiên, công thức này không chú ý đến tổng lãi thu được phải chịu thuế thu nhập. Nếu tính đến yếu tố thuế thì:
Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa - Thuế thu nhập biên thực tế - Tỷ lệ lạm phát dự tính
II. Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất
Như ta đã biết lãi suất tín dụng ngân hàng được xác định trên cơ sở cân bằng cung cầu về tiền gửi, tiền cho vay trên thị trường. Do đó những nhân tố ảnh hưởng tới hình thái diễn biến của lãi suất chính là những nhân tố tác động làm thay đổi cung cầu cho vay.
Phân tích diễn biến lãi suất trên thị trường trái khoán (khuôn mẫu tiền vay) và trên thị trường tiền tệ ( khuôn mẫu ưa thích tiền mặt) tuy có những đặc điểm khác nhau nhưng đều mang lại những kết quả tương đương nhau trong việc xem xét vấn đề lãi suất được xác định như thế nào.
Lãi suất i % lãi suất i% Ms
cun Lượng cung
25 Tiền vay
17,6 17,6
11,1 Lượng cầu
Tiền vay Md
5,3
100 200 300 400 Q 100 200 300 Q
a)sự cân bằng trong cung cầu trái khoán b)sự cân bằng trong thị trường tiền tệ
Bây giờ sẽ sử dụng tổng hợp hai phương pháp: khuôn mẫu tiền vay và khuôn mẫu tiền mặt, đồng thời chú ý đến những đặc điểm của nền kinh tế hiện đại để phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất
1. Cuả cải – tăng trưởng
Phân tích khuôn mẫu tiền mặt cho thấy khi của cải tăng lên trong thời kỳ tăng trưởng của một chu kỳ kinh tế, lượng cầu tiền sẽ tăng do mọi người gia tăng tiêu dùng hoặc đầu tư hay chỉ đơn giản là muốn giữ thêm tiền làm nơi trữ giá trị. Kết quả là đường cầu tiền dịch chuyển về bên phải trong khi đường cung tiền do chính phủ quy định đường thẳng đứng. Như vậy khuôn mẫu tiền mặt phân tích diễn biến lãi suất trên thị trường tiền tệ đưa đến kết luận khi của cải tăng lên trong giai đoạn tăng trưởng của chu kỳ kinh tế (các biến số khác không đổi ) lãi suất sẽ tăng lên và ngược lại
Lãi suất i
Ms
i 2 E2
i1 E1 Md2
Md1
Lượng tiền
Hình 1.1: Mô tả mối liên hệ giữa tăng trưởng và lãi suất. Khi của cải tăng lên đường cầu tiền dịch chuyển sang phải từ Md1 đến Md2 làm lãi suất tăng từ i1 lên i2
2. Khả năng sinh lợi dự tính của các cơ hội đầu tư
Càng có nhiều cơ hội đầu tư sinh lợi mà một doanh nghiệp dự tính có thể làm thì doanh nghiệp sẽ càng có nhiều ý định vay vốn và tăng số dư vay nợ nhằm tài trợ cho các cuộc đầu tư này. khi nền kinh tế đang phát triển nhanh có rất nhiều cơ hội đầu tư được trông đợi là sinh lợi, do đó lượng cầu tiền cho vay ở mỗi giá trị lãi suất tăng lên.
Lãi suất
S
Hình 1.2: ảnh hưởng tăng khả năng sinh lời dự tính
của các cơ hội đầu tư tới lãi suất. Đường cầu tăng i2
dịch chuyển từ D đến D.Lãi suất tăng từ i đến i. i1 D2
Vởy tăng cơ hội đầu tư sinh lợi sẽ làm tăng lãi suất D1
do tăng cầu về tư bản cho vay và ngược lại
Lượng tiền
3. Lạm phát dự tính
Như ta đã biết, chi phí thực của việc vay tiền được đo một cách chính xác hơn bằng lãi suất thực là lãi suất danh nghĩa trừ đi lạm phát dự tính. Do đó một lãi suất cho trước, khi lạm phát dự tính tăng lên, chi phí thực hiện việc vay tiền giảm xuống nên cầu tiền vay tăng lên. Mặt khác khi lạm phát dự tính tăng lên thì lợi tức dự tính của những khoản tiền gửi giảm xuống. Những người cho vay lập tức chuyển vốn tiền tệ vào một thị trường khác như thị trường bất động sản hay dự trữ hàng hoá, vàng bạc... Kết quả lượng cung tư bản cho vay giảm đối với bất kỳ lãi suất nào cho trước
Như vậy một sự thay đổi về lạm phát dự tính sẽ tác động đến cung cầu tư bản cho vay.
Cụ thể, tăng lạm phát dự tính sẽ làm tăng lãi suất do giảm lượng cung ứng va tăng cầu về tư bản.
lãi suất S2
Hình 1.3: Mô tả mối liên hệ giữa lạm phát dự
tính và lãi suất. Lạm phát dự tính tăng dẫn đến câu về i1 S1
tư bản cho vay tăng từ D1 đến D2 đồng thời cung
giảm từ S1 đến S2, lãi suất tăng từ i1 đến i2
i2 D2
D1
Lượng tiền
4. Thay đổi mức giá
Khi mức giá tăng lên, cùng với một lượng tiền như cũ hàng mà nó mua được sẽ ít hơn, nghĩa là giá trị đồng tiền bị giảm xuống . Để khôi phục lại tài sản của mình dân chúng muốn giữ một lượng tiền danh nghĩa lớn hơn do đó làm đường cầu tiền dịch chuyển sang phải. điều đó chứng tỏ rằng khi mực giá tăng lên, các biến số khác không đổi, lãi suất sẽ tăng.
Lãi suất
Ms
Hình 1.4: Quan hệ giữa mức giá và lãi suất E2
P tăng làm dịch chuyển từ Md1 đến Md2 , i tăng từ i2
i1 đến i2 i1 E1 Md2
Md1
Mr
5. Hoạt động thu, chi ngân sách Nhà nước
Ngân sách Nhà nước vừa là nguồn cung tiền gửi vừa là nguồn cầu tiền vay đối với ngân hàng. Do đó, sự thay đổi giữa thu, chi ngân sách nhà nước là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất. Ngân sách bội chi hay thu không kịp tiến độ sẽ dẫn đến lãi suất tăng. Để bù đắp, chính phủ sẽ vay dân bằng cách phát hành trái phiếu. Như vậy lượng tiền trong dân chúng sẽ bị thu hẹp làm tăng lãi suất.
Ngoài ra khi thâm hụt ngân sách đã trực tiếp làm cầu về quỹ cho vay trong các định chế tài chính tăng lên, trong khi cung lại giảm và nâng cao lãi suất hoặc người dân dự đoán lạm phát sẽ tăng cao do Nhà nước tăng khối lượng cung ứng tiền tệ , dẫn tới việc găm tiền lại để mua tài sản khác làm cung quỹ cho vay bị giảm một cách tương ứng và lãi suất tăng lên.
Trường hợp bội thu ngân sách sẽ dẫn đến lãi suất giảm do sự vận động ngưỡc lại với trường hợp bội chi ngân sách.
6. Thị trường vốn quốc tế
Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới hiện nay, vốn được luân chuyển trên phạm vi quốc tế. Vì vậy lãi suất trên thị trường tiền tệ của một quốc gia cũng chịu tác động của thị trường vốn khu vực và thế giới.
Trước hết thị trường vốn quốc tế quyết định lãi suất thực quốc tế rw . Sau đó lãi suất thực quốc tế lại ảnh hưởng gián tiếp đến lãi suất thực tại các nước theo từng quy mô của nền kinh tế mở:
- Đối với nền kinh tế quy mô nhỏ : lãi suất thực nội địa phải cao hơn lãi suất thực thế
giới nếu muốn thu hút đầu tư quốc tế và ngăn cản người gửu tiết kiệm trong nước đầu tư vốn
ra nước ngoài.
- Đối với nền kinh tế mở quy mô lớn : mức độ ảnh hưởng lãi suất quốc tế đến lãi suất thực trong nước không lớn bằng tác động ngược lại của sự thay đổi lãi suất do thay đổi tiết kiệm và đâù tư của nước đó đến lãi suất thực quốc tế do tiềm lực hùng mạnh về tài chính.
7. Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá là giá cả tiền tệ của nước này thể hiện bằng đơn vị tiền tệ của nước khác. Tỷ giá do quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối quyết định và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như giá cả, thuế... Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay làm cho không một quốc gia nào, nếu muốn tồn tại và phát triển, lại không tham gia thực hiện phân công lao động và thương mại quốc tế. Thông qua quá trình trao đổi buôn bán giữa các nước tỷ giá hối đoái đã tác động đến lãi suất trong nước. Khi đồng nội tệ bị giảm giá, nghĩa là tỷ giá hôi đoái giảm, xuất khẩu tăng lên nguồn thu ngoại tệ tăng lên. Điều đó làm tăng cung ngoại tệ, tương đương với việc tăng cầu nội tệ kết quả là lãi suất tăng lên.
Bằng cách lập luận tương tự, chúng ta sẽ thu được một mức lãi suất nội tệ thấp hơn nếu tỷ giá hối đoái tăng lên, đồng nội tệ có giá hơn. Tóm lại, khi mức giá của đồng tiền một nước so với các nước khác giảm xuống thì một ước đoán hợp lý là lãi suất trong nước sẽ tăng lên và ngược lại. E(đ/$) e($/đ)
S1($) S(đ)
Hình 1.7 : Mô tả khi đồng nội S2($)
Tệ giảm giá, e($/đ) giảm làm E1 e2
xuất khẩu tăng, S($) tăng hay
D(đ) tăng làm đồng nội tệ E2 e1 D2(đ)
Tăng giá và lãi suất nội tệ tăng D(đ) D1(đ)
Q Q 8. Lượng tiền cung ứng
Qua phân tích trên cho thấy có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất nhưng nhân tố ảnh hưởng lớn và nhạy cảm với lãi suất nhất là lượng tiền cung ứng. Vậy lượng tiền cung ứng thay đổi thì nó tác động đến lượng tiền cung ứng như thế nào ?
Một sự tăng lên của lượng tiền cung ứng gây ra 4 tác động đối với lãi suất : tác dụng tính lỏng, tác dụng tính thu nhập, tác dụng mức giá, tác dụng lạm phát dự tính.
-Tác dụng tính lỏng cho biết một sự tăng lên của lượng tiền cung ứng sẽ làm giảm nhẹ lãi suất, bởi vì đường cung tiền sẽ dịch chuyển sang phải.
-Tác dụng thu nhập chỉ ra rằng do tăng lượng tiền cung ứng sẽ có ảnh hưởng tốt đến nền kinh tế, sẽ làm tăng thu nhập khi đó lãi suất sẽ tăng lên. vì đường cầu tiền lúc này sẽ dịch chuyển sang phải.
-Tác dụng mức giá cho biết một sự tăng lượng tiền cung ứng sẽ làm mức giá chung tăng lên và kết quả lãi suất cân bằng tăng.
-Tác dụng lạm phát dự tính : sự tăng lên lượng tiền cung ứng sẽ làm dân chúng dự tính một mức lạm phát cao hơn trong tương lai. Kết quả là lãi suất tăng lên.
Trong 4 tác dụng trên chỉ có tác dụng tính lỏng chỉ ra rằng một sự tăng lên của lượng tiền cung ứng sẽ làm giảm lãi suất trong khi các tác dụng khác thì ngược lại. Nghiên cứu thực tiễn cho thấy tác dụng thu nhập, mức giá và lạm phát dự tinh vượt trội so với tính lỏng.
Vì vậy một sự tăng lượng tiền cung ứng dẫn đến việc tăng lãi suất trong dài hạn.
III. Các quan điểm về chính sách lãi suất
1. Trường phái tự do cổ điển
Mặc dù đưa ra nhiều cách giải thích khác nhau về lãi suất song trường phái tự do cổ điển như N.W.Senior, Bond, Baweek, Marshall tựu trung đều tin tưởng rằng lãi suất là yếu tố quân bình tự động của định luật cung cầu thông qua cơ chế điều chỉnh của Ngân hàng trung ương (NHTW) và hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM)
Trên cơ sở mức cầu về tiền tệ của nền kinh tế trong các thời kỳ khác nhau sẽ được thoã mãn một cách tự nhiên. nếu trong một thời điểm nào đó, ví dụ trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế cao, dữ trữ NHTM đã sử dụng hết cho đầu tư, trong lúc cầu về tín dụng vẫn tăng cao, NHTW sẽ cung cấp tiền cho NHTM bằng cách mua lại trái phiếu hoặc tái chiết khấu thương phiếu của NHTM để cung ứng lượng tiền cần thiết cho nền kinh tế theo sự vận hành của quy luật tối đa hoá lợi nhuận. Các chủ thể kinh tế thoát khỏi tình trạng kẹt vốn đầu tư. Sự gia tăng của mức cầu tiền được nguồn tiền cung ứng tự nhiên đáp ứng sẽ không gây ra sức ép đối với lãi suất tín dụng vì ngân hàng sẽ không quá hao tốn nhiều sức lực cho việc huy động tiền gửi để đầu tư trung và dài hạn.
Hạn chế của lý thuyết cổ điển là đã coi lãi suất như nhân tố tạo ra sự cân bằng giữa nhu cầu đầu tư và ý muốn tiết kiệm, là giá cả đơn thuần của nguồn lực có thể đầu tư và coi nhẹ vai trò điều tiết của nhà nước.
Lý thuyết lãi suất có xu hướng quân bình tự nhiên của trường phái kinh tự do cổ điển ảnh hưởng đến nhiều nước phương tây vào thế kỷ 19.
2. Trường phái Keynes
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933, J.M.Keynes đã phê phán nhược điểm của trường phái "lãi suất bình quân tự động" và chủ trương Nhà nước tham gia vào việc điều tiết lãi suất và tăng chi tiêu khi cần thiết vào cac chương trình mà khu vực kinh tế tư nhân không thể đảm nhiệm để kích thích sự tăng trưởng một cách liên tục.
Trường phái này cho rằng việc hạ lãi suất tín dụng luôn là đòn bẩy cho sự phát triển. Keynes lập luận rằng: thay vì gia tăng huy động vốn bằng biện pháp tăng ký thác, NHTW có thể tăng khối lượng tiền tệ để cung ứng cho đầu tư trong những thời kỳ mà mức cầu tiền tệ tăng cao, bằng cách phát hành thêm giấy bạc giảm dự trữ bắt buộc đối với các nhân hàng thương mại. Tổng khối luơọng tiền tệ gia tăng sẽ làm giảm sức ép của mức cầu tiền tệ cho đầu tư và làm giảm lãi suất tín dụng. Lãi suất giảm sẽ làm gia tăng doanh lợi và nâng cao độ an toàn của đầu tư. Hiệu suất biên tế của tư bản sẽ tăng lên , kích thích các doanh nghiệp tái đầu tư mở rộng trung và dài hạn, tạo sức bật cho nền kinh tế tăng trưởng.
Tư tưởng của Keynes ảnh hưởng nền kinh tế châu Âu, Bắc Mỹ, cho đến thập niên 80. Từ thập niên 80 đến đầu thập niên 90 là thời kỳ thoái bộ trong ảnh hưởng của học thuyết hạ lãi suất trong bất kỳ tình huống nào của Keynes. Sự điều tiết lãi suất nhưng không nhấn mạnh đến lượng cung tiền tệ đã dẫn đến tình trạng vừa lạm phát vừa suy thoái trong nền kinh tế các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Lượng cung tiền tệ dư thừa đã dẫn đến tình trạng lạm phát. Lúc đó lãi suất thấp sẽ không còn co ý nghĩa gì trong việc huy động tiết kiệm và kích thích đầu tư.
3.Trường phái lãi suất ổn định
Trường phái lãi suất ổn định do Edward shaw đưa vào năm 1950. ông cho rằng một lãi suất biến động dễ tạo ra sự mất ổn định cho tổng khối ký thác của ngân hàng và làm thay đổi các hạng mục đầu tư. Hệ quả cuối cùng là tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ bị ảnh hưởng. E. Shaw chia tổng khối lượng tiền tệ M trong nền kinh tế ra làm hai phần là dự trữ ngân lưu động ( M’) và trữ ngân bất động hay trữ ngân dự phòng ( M") . Theo ông M"/M’=L là hằng số. Thông thường lãi suất có khuynh hướng tăng lên khi mức cầu về trữ ngân luân chuyển (M’) tương đối nhiều hơn so với trữ ngân dự phòng (M") , nghĩa là L thay đổi giảm . Ngược lại lãi suât có xu hướng giảm khi trữ ngân bât động M" tương đối nhiều hơn trong tổng khối tiền tệ, hay L thay đổi tăng . Để ổn định lãi suất Shaw chủ tương phải giữ L là l hằng số thông qua việc duy trì mối tương quan hợp lý giữa M và M" tuỳ theo mức cầu của thị trường.
Vấn đề mà trường phái lãi suất ổn định không giải quyết được là : nếu sử dụng lãi suất một cách cố định thì rất có thể chỉ có tác dụng tích cực ở thời kỳ này, nhưng chuyển sang thời kỳ khác với những điều kinh tế-xã hội đã thay đổi lại trở thành "vật cản" kìm hãm, trói buộc đầu tư sản xuất kinh doanh.
4. Trường phái chính hiện đại
Trong những năm 50-60 của thế kỷ, hình thành "kinh tế học của trường phái chính hiện đại" và giữ vai trò thống trị ở Mỹ và Tây Âu đến nay. Nếu các nhà kinh tế cổ điển và cổ điển mới say sưa với "bàn tay vô hình" hay "thăng bằng tổng quát" hoặc Keynes với "bàn tay nhà nước" thì Samuelson, đại diện tiêu biểu của trường phái chính hiện đại, chủ trương phát triển kinh tế phải dựa vào hai bàn tay là cơ chế thị trường và Nhà nước.
Đến đây, hình như các nền kinh tế Tây Âu, Bắc Mỹ và thị trường hỗn hợp nhất trí rằng, một mức lãi suất tín dụng thực ( đã trừ đi lạm phát dự tính) thấp là đầu mối của quá trình kích thích đầu tư và tăng trưởng. Tuy nhiên Nhà nước phải kiểm soát lượng cung tiền tệ thông qua việc ấn định dự trữ và phát hành tiền để tạo vốn vững chắc cho chính sách lãi suất có hiệu quả. Vì như chúng ta đã biết, nếu lượng tiền cung ứng đột nhiên dư thừa, phần dư thừa sẽ bị chuyển thành tình trạng lạm phát giá cả. Lúc đó lãi suất thấp sẽ không còn ý nghĩa trong việc huy động tiết kiệm và kích thích đầu tư.
IV. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế
1. Lãi suất với quá trình huy động vốn
Lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy để phát triển kinh tế cần phải có vốn và thời gian. Các nước tư bản phát triển phải mất hàng trăm năm phát triển công nhgiệp và quá trình lâu dài tích tụ vốn từ sản xuất và tiêu dùng. Đối với Việt Nam trên con đường phát triển kinh tế thì vấn đề tích luỹ và sử dụngvốn có tầm quan trọng đặc biệt cả về phương pháp nhận thức và chỉ đạo thực tiễn. Vì vậy chính sách lãi suất có vai trò hết sức quan trọng trong việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội và các tổ chức kinh tế đảm bảo đúng định hướng vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng trong chiến lược CNH-HĐH nước ta hiện nay.
Việc áp dụng một chính sách lãi suất hợp lý đảm bảo nguyên tắc quy định lãi suất : lãi suất phải bảo tồn được giá trị vốn vay, đảm bảo tích luỹ cho cả người cho vay và người đi vay. Cụ thể:
+ Tỷ lệ lạm phát < lãi suất tiền gửi <lãi suất tiền vay<tỷ suất lợi nhuận bình quân
+ Lãi suất ngắn hạn < lãi suất dài hạn (đối với cả tiền gửi và tiền vay )
2. Lãi suất với quá trình đầu tư
Quá trình đầu tư của các doanh nghiệp vào tài sản cố định được thực hiện khi mà họ dự tính lợi nhuận thu được từ tài sản cố định này nhiều hơn số lãi phải trảcho các khoản đi vay để đầu tư. Do đó khi lãi suất xuống thấp các hãng kinh doanh có điều kiện tiến hành mở rộng đầu tư và ngược lại. Trong môi trường tiền tệ hoàn chỉnh, ngay cả khi một doanh nghiệp thừa vốn thì chi tiêu đầu tư co kế hoạch vẫn bị ảnh hưởng bởi lãi suất, bởi vì thay cho việc đầu tư vào mở rộng sản xuất doanh nghiệp có thể mua chứng khoán hay gửi vào ngân hàng nếu lãi suất của nó cao.
Đặc biệt trong thời kỳ nền kinh tế bị đình trệ, hàng hoá ứ đọng và xuống giá, có dấu hiệu thừa vốn và áp lực lạm phát thấp cần phải hạ lãi suất vì nguyên tắc cơ bản là lãi suất phải nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của đầu tư , sự chênh lệch này sẽ tạo động lực cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô đầu tư.
Mối quan hệ giữa đầu tư và lãi suất được thể hiện qua đồ thị sau:
Lãi suất
Hình 1.8: biểu diễn mối quan hệ tỷ lệ nghịch
giữa đầu tư và lãi suất I = I - b.i
i1
i 2
I1 I2 Đầu tư
3. Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm
Thu nhập của một hộ gia đình thường được chia thành hai bộ phận: tiêu dùng và tiết kiệm. Tỷ lệ phân chia này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như thu nhập, vấn đề hàng hoá lâu bền và tín dụng tiêu dùng, hiệu quả của tiết kiệm trong đó lãi suất có tác dụng tích tực tới các nhân tố đó.
Khi lãi suất thấp, chi phí tín dụng tiêu dùng thấp, người ta vay nhiều cho việc tiêu dùng hàng hoá, nghĩa là tiêu dùng nhiều hơn. Ngược lại, khi lãi suất cao đem lại thu nhập từ khoản tiền để dành nhiều hơn sẽ khuyến khích tiết kiệm, do đó tiết kiệm tăng.
4. Lãi suất với tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu
Tỷ giá là giá cả tiền tệ của nước này thể hiện bằng đơn vị tiền tệ của nước khác.Tỷ giá do quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối quyết định và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như giá cả , thuế quan,năng suất lao động... Ngoài ra trong ngắn hạn tỷ giá còn chịu ảnh hưởng của lãi suất: lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ. Sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ ở đây là sự thay đổi trong lãi suất danh nghĩa. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do tỷ lệ lạm phát tăng (lãi suất thực không thay đổi) thì tỷ giá giảm. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do lãi suất thực tế tăng(tỷ lệ lạm phát không đổi) thì giá đồng tiền trong nước tăng, tỷ giá tăng. Khi tỷ giá đồng ngoại tệ tăng đồng nội tệ sẽ giảm giá (tỷ giá giảm) và ngược lại.
Tỷ gái rất quan trọng trong hoạt động xuất nhập khẩu (XNK). Do vậy , một sự biến động của lãi suất trong nước và ngoại tệ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động XNK :
+ Vai trò của lãi suất trong nước với quá trình XNK:
Khi lãi suất thực tế tăng lên thì các khoản tiền gửi bằng nội tệ sẽ trở nên hấp dẫn ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35106.doc