Lãi suất & vai trò của lãi suất trong việc huy động vốn

Lời nói đầu Lãi suất là một phạm trù kinh tế,phản ánh mối quan hệ giữa người cho vay và người đi vay,phản ánh mối quan hệ giữa cung và cầu về tiền tệ, thực trạng kinh tế của một nước.Thông qua sự biến động của lãi suất,người ta có thể dự đoán được nền kinh tế đang phát triển hay suy thoái. Lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ nhất trong nền kinh tế, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường. Sự dao động của lãi suất được đưatrên các phương tiện thông tin đại chúng

doc17 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1408 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Lãi suất & vai trò của lãi suất trong việc huy động vốn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nó trực tiếp tác động đến đời sống hàng ngày của mỗi người ,đến các quyết định của Chính phủ, doanh nghiệp, cũng như hoạt động của các tổ chức tín dụng và toàn bộ nền kinh tế. Việt Nam trong hơn 10 năm đổi mới. Những chính sách lãi suất ngân hàng nhà nước sử dụng đã có tác động mạnh mẽ tới việc huy động vốn và hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp. Để tăng hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại và thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế đòi hỏi NHNN phải tiếp tục đổi mới hơn nữa cơ chế điều hành lãi suất. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đó em xin chọn đề tài”Lãi suất và vai trò của lãi suất trong việc huy động vốn” làm tiểu luận môn học. Nghiên cứu đề tài này đem lại giá trị khoa học to lớn và thực tiễn sâu sắc không chỉ về mặt lý luận mà còn góp phần nhỏ đến việc thực hiện các chính sách lãi suất ở nước ta hiện nay. Bố cục của tiểu luận được kết cấu bởi hai phần lớn. Phần I : Lý luận chung về lãi suất. Phần II: Vai trò, tác động của lãi suất đến việc huy động vốn trong nền kinh tế trị trường. NỘI DUNG Phần I:Lý luận chung về lãi suất I. Lãi suất 1.Khái niệm về lãi suất -Lãi suất là tỷ số giữa tổng số lợi tức hàng năm và tổng số vốn đã bỏ ra cho vay trong năm.Nói khác đi,lãi suất và giá cả mà con nợ phải trả cho chủ nợ để được sử dụng khoản tiền vay trong một kỳ hạn nhất định. -Lãi suất cao hay hạ do quan hệ cung cầu vốn quyết định.Khi cung lớn hơn cầu thì lãi suất giảm,khi cầu lớn hơn cung thì lãi suất tăng.Giới hạn cao nhấtc ủa lãi suất vbao giờ cũng fải thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân,nếu bằng thì không có người đi vay.Giới hạn thấp nhất của lãi suất bao giờ cũng fải lớn hơn số 0,nếu bằng thì không có người cho vay.Theo Máhall:”Lãi suất là cái giá fải trả cho việc sử dụng vốn trên một thị trường bất kỳ;lãi suất vươn tới một mức cân bằng sao cho tổng cầu về vốn trên thị trường đó với lãi suất đó,bằng tổng cung về vốn được cung ứng trên thị trường đó với lãi suất đó. 2. Các nhân tố tác động đến lãi suất: 2.1. Sự thay đổi của tổng cầu (viết tắt là GNP). Khi GNP tăng lên, nền kinh tế đòi hỏi phảI tăng khối lượng tiền cung ứng(nếu tốc đọ lưu thông tiền tệ không thay đổi)để đảm bảo cung cầu tương ứng.Nừu trong điều kiện đó khối lượng cung ứng tiền(M1 hoặcM2)tăng quá cầu thì MV>PQ cung vốn đầu tư lớn hơn cầu vốn đầu tư làm cho lãI suất giảm.Ngược lạI khi GNP giảm thì khối tiền cung ứng thực tế cũng giảm theo,nếu tốc đọ lưu thông tiền tệ không thay đổi mà giảm khối lượng tiền tệ xuống quá thấp sẽ đưa đến tình trạng MV<PQ.Lúc đó,cung vốn đầu tư nhỏ hơn cầu vốn đầutư thì lãI suất sẽ tăng. 2.2. Sự chi tiêu của chính phủ. Trong khi lượng cung ứng tiền tệ(M1 hoặcM2)không thay đổi mà chính phủ chi tiêu nhiều hơn sẽ làm giảm bớt nhu cầu chi cho đầu tư và tiêu dùng của cá nhân nhu cầu tiền của nhân dân trở nên khan hiếm, nguồn cung ứng vốn nhỏ hơnnhu cầu vốn,lãI suất sẽ tăng. 2.3 Chính sách tiền tệ của chính phủ. Chính sách tiền tệ của Chính phủ ban hành là nhằm mục đích kiểm soát lượng cung ứng tiền tệ, kiểm soát tình trạng lạm phát và các tác động đến lãi suất để thực hiện các mục tiêu đã định. 2.4. Nhu cầu tiêu dùng và đầu tư. Trong thực tiễn khi nhu cầu tiêu dùng tăng thì kéo theo lãi suất tăng và ngược lại. Cũng giống như nhu cầu đầu tư, khi mà người dân đổ xô vào đầu tư kinh doanh kiếm lợi nhuận thì cầu về khối lượng tiền, tài sản lớn dẫn đến lãi suất tăng. Khi nhu cầu tiêu dùng, đầu tư giảm thì lãi suất sã giảm xuống. II. VAI TRÒ, TÁC ĐỘNG CỦA LÃI SUẤT ĐẾN VIỆC HUY ĐỘNG VỐN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ THƯỜNG. 1. Lãi suất với sự phân bổ các nguồn lực Lãi suất là một loại giá cả, nó có vai trò phân bổ hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của xã hội. Để quyết định đầu tư vào một ngành kinh tế, một dự án hay một tài sản nào đó chúng ta đều phải quan tâm đến sự chênh lệch giữa giá trị tỷ suất lợi tức thu được từ ngành kinh tế đó, dự án đó hay tài sản đó với chi phí ban đầu. Như vậy lãi suất là tín hiệu, là căn cứ để có sự phân bổ hiệu quả của các nguồn lực khan hiếm trong xã hội, lãi suất là yếu tố cần thiết ban đầu trước khi đi đến quyết định đầu tư. 2. Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm Thu nhập của các hộ gia đình thường được chia làm hai bộ phận: tiêu dùng và tiết kiệm. Tỷ lệ phân chia nàyphụ thuộc vào nhiều nhân tố như thu nhập, vấn đề hàng lâu bền và tín dụng tiêu dùng, hiệu quả của tiết kiệm trong đó tiền tệ và lãi suất có tác dụng tích cực tới các nhân tố khác.Khi lãi suất thấp, chi phí tín dụng tiêu dùng thấp, người ta vay nhiều hơn cho việc mua sắm các hàng hoá, nghĩa là tiêu dùng nhiều hơn. Ngược lại, khi lãi suất cao đem lại thu nhập từ khoản tiền để dành nhiều hơn sẽ khuyến khích tiết kiệm, do đó tiết kiệm tăng. 3. Lãi suất với đầu tư Hoạt động đầu tư chịu nhiều ảnh hưởng của nhiều nhân tố như thu nhập, chi phí kỳ vọng trong kinh doanh.Khi lãi suất ở mức cao, ít khoản đầu tư vào vốn hiện vật sẽ mang lại thu nhập nhiều hơn chi phí lãi trả cho các khoản đi vay, do vậy chi tiêu cho đầu tư giảm, ngược lại khi lãi suất giảm các doanh nghiệp sẽ quyết định đầu tư cho vốn hiện vật nhiều hơn, chi tiêu đầu tư sẽ tăng. 4. Lãi suất với tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu Tỷ giá trong ngắn hạn chịu ảnh hưởng của lãi suất: lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ. Sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ ở đây là sự thay đổi lãi suất danh nghĩa. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do lãi suất tăng do tỷ lệ lạm phát dự tính tăng( lãi suất thực không đổi) thì tỷ giá giảm. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do lãi suất thực tế tăng (tỷ lệ lạm phát không đổi) thì giá đồng tiền trong nước tăng, tỷ giá tăng. Khi lãi suất tiền gửi ngoại tệ tăng, đồng nội tệ giảm giá (tỷ giá giảm) và ngược lại. 5. Lãi suất với lạm phát Trong thời kỳ lạm phát, tăng lãi suất sẽ cho phép hệ thống ngân hàng có thể thu hút phần lớn số tiền có nhiều trong lưu thông khiến cho đồng tiền trong lưu thông giảm, cơ số tiền và lượng tiền cung ứng giảm, lạm phát được kiềm chế. Như vậy, lãi suất cũng góp phần chống lạm phát. 6. Vai trò của lãi suất đến việc huy động vốn Lãi suất là chi phí huy động vốn của doanh nghiệp và ngân hàng. Các doanh nghiệp phải xem xét khả năng lợi nhuận thu được với chi phí huy động vốn bỏ ra để quyết định huy động vốn từ nguồn nào và đầu tư vào đâu để có lợi cho doanh nghiệp nhất. Còn ngân hàng phải xem xét giữa lãi xuất huy động với khả năng cho vay ở mức lãi suất cao hơn để đưa ra phương hướng hoạt động đảm bảo mục tiêu của ngân hàng tồn tại và phát triển. PHẦN II: VAI TRÒ, TÁC ĐỘNG CỦA LÃI SUẤT ĐẾN VIỆC HUY ĐỘNG VỐN Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA. I. GIAI ĐOẠN TỪ THÁNG 3/1989 TRỞ VỀ TRƯỚC Đây là thời kỳ điều hành lãi suất theo cơ chế lãi suất âm, chính sách lãi suất cứng nhắc, có lạm phát phi mã nên khiến lãi suất luôn trong tình trạng âm, nghĩa là: -Lãi suất tiền gửi < mức lạm phát. -Lãi suất cho vay < lãi suất huy động < mức lạm phát. Đối với NHTM -Chính sách lãi suất cứng nhắc khiến cho các NHTM không linh hoạt trong hoạt động tín dụng trước mọi biến động của nền kinh tế. -Lãi suất tín dụng luôn ở mức qui định bắt buộc nên không khuyết khích cạnh tranh lành mạnh giữa các NHTM. -Lãi suất tiền gửi < lạm phát nên không khuyến khích người dân và các tổ chức gửi tiền vào ngân hàng hoặc gửi một thơì gian ngắn. Do đó chỉ huy động được vốn huy động ngắn hạn, sử dụng vốn ngắn hạn cho vay đầu tư trung và dài hạn. Kết quả là NHTM bị lỗ. -Lãi suất cho vay< lãi suất huy động vốn và mức lạm phát nên ngân hàng trong tình trạng bao cấp đối với doanh nghiệp vay vốn thông qua hệ thống tín dụng lãi suất thấp, ngân hàng luôn trong tình trạng lỗ,và hoạt động không bình thường. 2.Đối với doanh nghiệp -Vì lãi suất cho vay < lạm phát nên các DN thi nhau vay vốn, tìm mọi cơ hội vay vốn để được hưởng bao cấp. -DN vay nhiều nhưng lợi nhuận thu được không phải do sản suất kinh doanh mà do hưởng bao cấp của NHTM tạo mức lợi nhuận giả cho các doanh nghiệp. II. GIAI ĐOẠN TỪ THÁNG 3/1989 ĐẾN 1993 Chính sách lãi suất thực dương đã phát huy hiệu quả với lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn là 109%/ năm, lãi suất tiết kiệm 3 tháng là 12% / tháng tức 144%/ năm huy động được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, tạo thế ổn định tương đối về tiền tệ -một điều kiện tiền đề quan trọng để ổn định và phát triển kinh tế xã hội . Tác động tích cực của chính sách lãi suất dương. Đối với NHTM Lãi suất cho vay tín dụng> lãi suất tiền gửi tiết kiệm > tỷ lệ lạm pháp. Do đó NHTM không còn phải bao cấp đối với các DN vay vốn thông qua tín dụng nữa. -Lãi suất thực dương cao đã thu hút một số lượng tiền gửi lớn vào các ngân hàng làm lượng tiền dự trữ của các ngân hàng tăng cao đáp ứng được nhu cầu vay vốn của DN. Đối với DN -Lãi suất tiền gửi cao dẫn đến lãi suất cho vay cao buộc các DN phải cân nhắc việc vay vốn đầu tư, phải xem xét và lựa chọn các phương án đầu tư có hiệu quả tốt nhất. -Cơ cấu tổ chức của các DN được tổ chức một cách hợp lý hơn, giảm thiểu bộ phận quản lý cồng kềnh để giảm thiểu chi phí. Tác động tiêu cực của chính sách lãi suất thực dương quá cao đến hoạt động của NHTM và DN. Đối với NHTM Do lãi suất tiền gửi cao dẫn đến lãi suất cho vay cao nên càng khuyến khích gửi tiền hơn là vay tiền, lãi suất thực dương cao của ngân hàng đem lại khả năng thu được lợi nhuận lớn hơn là đưa tiền vaò đầu tư mà rủi ro lại thấp nên cũng khuyến khích các DN gửi tiền vào ngân hàng hơn là vay vốn để kinh doanh. Đến một lúc do lượng tiền gửi vẫn tăng, khối lượng vay giảm dẫn đến tài sản nợ trong bảng cân đối của NHTM lớn hơn tài sản có. 2.2 . Đối với DN -Lãi suất vay vốn không khuyến khích các DN đầu tư mà các DN tích cực gửi tiền vào ngân hàng hơn. Bên cạnh đó, các DN cũng giảm quy mô đầu tư dẫn đến một lực lượng lớn thất nghiệp không có lợi cho sự phát triển chung của nền kinh tế. -Trong tổng số vốn đầu tư sản xuất kinh doanh, một phần lớn là đi vay của ngân hàng, bởi lãi suất vốn cao dẫn đến chi phí sản xuất kinh doanh lớn do đó giá thành phẩm cao, giá hàng hoá cao và như vậy hàng hoá sẽ giảm tính cạnh tranh trên thị trường. III. GIAI ĐOẠN 1993-1996 Thời gian này ngân hàng Nhà nước vừa cầu lãi suất trần ,lãi suất thoả thuận. -Thoả thuận trường hợp ngân hàng không huy động đủ vốn để cho vay theo lãi suất qui định phải phát hành kỳ phiếu với lãi suất cao hơn thì được cầu lãi suất thoả thuận. Lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng thời hạn là 0.2% tháng và cho vay cao hơn mức lãi suất trần là 2.1% tháng. 1- Tác động tích cực -NHTM cũng dần cân bằng giữa tài sản nợ và tài sản có, đảm bảo được lợi nhuận. Các DN cũng có thêm cơ hội vay vốn kinh doanh, mở rộng quy mô đầu tư. -Nhờ có lãi suất thoả thuận mà hoạt động tín dụng giữa NHTM và DN linh hoạt hơn, phù hợp với các đặc điểm hoạt động và tình hình cung cầu vốn. 2- Tác động tiêu cực Do những bất hợp lý đó các NHTM và cả kho bạc Nhà nước đã phải nâng lãi suất huy động bằng cách phát hành kỳ phiếu, tín phiếu trả lãi trước. Thực chất việc trả lãi trước chỉ là hành động phá rào vượt khung lãi suất khống chế một cách hợp pháp. Kỳ phiếu ngân hàng kỳ hạn 6 tháng lãi suất 1.7 %/tháng trả lãi trước tương đương 2% /tháng nếu trả lãi khi đến kỳ hạn thanh toán. -Trần lãi suất cho vay đối với DNNN 1.8% tháng, kinh tế ngoài quốc doanh là 2.1% tháng. -Thoả thuận trường hợp ngân hàng không huy động đủ vốn để cho vay theo lãi suất qui định phải phát hành kỳ phiếu với lãi suất cao hơn thì được cầu lãi suất thoả thuận. Lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng thời hạn là 0.2% tháng và cho vay cao hơn mức lãi suất trần là 2.1% tháng. Trên thực tế khoảng 30-60% tổng dư nợ lúc bấy giờ là từ các khoản vay bằng lãi suất thoả thuận mà phần lớn là cho vay DN ngoài quốc doanh và hộ nông dân với lãi suất phổ biến là 2.3-3.3 % tháng. Đối với NHTM Thời gian này, do thiếu nguồn vốn cho vay trung hạn, ngân hàng Đầu tư và Phát triển và Ngân hàng nông nghiệp đã lần lượt phát hành trái phiếu dài hạn lãi suất 21%/ năm, trả lãi trước tương đương với 26.6% nếu trả lãi sau. Nếu trừ chỉ số lạm phát năm 1994 là 14.4% thì lãi suất thực của trái phiếu NHTM là 12.6%. Đây là lực hấp dẫn mạnh mẽ đối với khách hàng. Ngày 6/10/1994 ngân hàng Đầu tư và phát triển phát hành thí điểm trái phiếu đợt đầu với tổng số vốn cần huy động 100 tỷ đồng, dự kiến phát hành trong 2 tháng mà chỉ sau 5 ngày đã bán được 95 tỷ đồng. Với lãi suất 21%/năm trả lãi trước làm cho NHTMQD triệt tiêu việc huy động vốn của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp -Cơ chế lãi suất hiện hành thật sự gây khó khăn cho các DN trong việc vay vốn sản xuất nhất là đầu tư sản xuất trong trung và dài hạn do ngay chính ngân hàng cũng khó huy động được vốn trung và dài hạn nếu cho vay với mức lãi suất thoả thuận lại ở mức cao. -Lãi suất cao làm cho người kinh doanh chủ yếu đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất có lợi nhận cao tức thời và thu hồi vốn nhanh như: dich vụ, thương mại, sản xuất nhỏ tạo nên sự mất cân bằng trong nền kinh tế. IV. GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN LÃI SUẤT TRẦN Sau khi có nghị quyết số 381/QĐ NH1 ngày 28/12/1995 của thống đống ngân hàng nhà nước Việt Nam, từ ngày 1/1/1996 chính sách lãi suất trần được đưa vào thực hiện. Chính sách lãi suất trần tác động đến các NHTM. 1.1- Tích cực -Việc tổ chức quản lý lãi suất trần cho phép các tổ chức tín dụng được tự do ấn định các mức lãi suất cho vay và tiền gửi trong phạm vi trần do NHNN cho phép,chính sách lãi suất trần đã chấm dứt thời kỳ NHNN qui định các mức lãi suất cụ thể, xoá bỏ lãi suất cho vay theo thoả thuận và từng bước tiến hành tự do hoá lãi suất. -Để nâng cao lợi nhuận các NHTM phải nâng cao mức dư nợ cho vay và huy động vốn gấp nhiều lần. -Sau thời gian khá ngắn, hệ thống NHTM tự điều chỉnh nhằm tối đa hoá cơ cấu tín dụng và cân đối tài chính để sẵn sàng thay đổi linh hoạt lãi suất theo sự tăng giảm lãi suất của ngân hàng nhà nước. Hạn chế Ảnh hưởng đến cơ cấu nguồn vốn trung và dài hạn. -Tỷ lệ vốn trung và dài hạn trong tổng số vốn huy động của NHTM hiện tại là rất nhỏ vì cần có lãi suất cao trong khi NHNN liên tục cắt giảm lãi suất,NHTM sử dụng quá nhiều vốn ngắn hạn vào trung và dài hạn. Hậu quả là làm suy yếu khả năng an toàn thanh toán khi có một dòng tiền gửi bị rút ra. -Khoảng cách chênh lệch lãi suất cho vay tiền gửi không đáng kể 0.15% tháng nơi nào cao lắm là 0.2% tháng, nên không đảm bảo bù đắp chi phí và có lãi. -Lãi suất cho vay trung hạn > vay ngắn hạn là 0.05% tháng. Mức chênh lệch tạo động lực khuyến khích các tổ chức tín dụng mở rộng cho vay trung và dài hạn. Xuất hiện khả năng tiềm tàng về rủi ro lãi suất bất khả kháng. -Do lãi suất cho vay và lãi suất huy động (ngắn, trung, dài hạn) liên tục giảm, nhiều ngân hàng thương mại không lường trước được đã huy động vốn có thời hạn 1-3 năm để cho vay trung và dài hạn. Năm 1999 NHNN 5 lần cắt giảm lãi suất trần cho vay tối đa, có lần NHNN còn buộc NHTM giảm ngay cả lãi suất dư nợ đã cho vay khi đó vốn huy động theo lãi suất thời kỳ trước vẫn được giữ nguyên cho tới khi hết hạn, đồng thời chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn nhỏ (bằng không hoặc thấp hơn). Vậy rủi ro lãi suất luôn đặt gánh nặng lên các NHTM. Thời kỳ đầu NHNN đã qui định chênh lệch lãi suất 0.35% tháng gây ra nhiều khó khăn cho NHTM. Các NHTMQD đang còn phải bao cấp cho lãi suất cho vay. -NHTM tăng lãi suất tiền gửi lên quá cao so lãi suất huy động vốn bình quân,lãi suất trong nước thấp. Sự cạnh tranh quyết liệt giữa các tổ chức tín dụng trong nước cũng như các nước trên thế giới diễn ra gay gắt. Kết quả đó được giải quyết bằng giảm lãi suất.Ngày 6/12/1999 bốn NHTMQD( NHNT, NHCT, NHNN và PTNT,NHĐT và PT) đã thống nhất sàn lãi suất cho vay không < 0.75% tháng, thực tế đã có một số ngân hàng cho vay lãi suất 0.68% tháng. NHCTVN giảm lãi suất cho vay đối công ty là 90, 91 xuống 1.02% tháng ngắn hạn, 1.062 tháng đối với trung và dài hạn. -Tổng vốn của toàn ngành NH không tăng mà nó chỉ từ NH này sang NH khác. Sự bất ổn định trong kinh doanh, cạnh tranh không lành mạnh, gây khó khăn cho NH nhỏ, NHCP đã xảy ra. NHTM cổ phần do huy động vốn khó khăn, do căng thẳng về khả năng thanh toán đã đã phải nâng lãi suất tiền gửi 12 tháng lên 1.05-1.1% tháng, tăng lãi suất trái phiếu NH trả lãi trước lên tới 1.16%-1.356% tháng. Chính sách lãi suất trần đối với các DN. Tích cực Đáp ứng tốt nhu cầu vốn sản xuất cho doanh nghiệp. -Doanh nghiệp không phải vay với mức lãi suất vượt trần, tức là các doanh nghiệp không bị các ngân hàng ép khi đi vay tiền. -Do lãi suất trần được đưa ra, các NHTM cạnh tranh dẫn đến giảm lãi suất: +DN tích cực vay vốn đầu tư phát triển sản xuất. +DN tích cực hoạt động tái đầu tư thay vì gửi tiền vào ngân hàng. +Nguồn vốn cho vay trung và dài hạn tăng. Trong thời kỳ này cả nước có 6000 doanh nghiệp nhà nước hơn 1000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, 23000 doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. (Phát biểu của thủ tướng Phan Văn Khải tại cuộc gặp các nhà DN tại Hà Nội 1/1998), hầu hết các DN này được vốn ngân hàng hỗ trợ 80-90% trong sản xuất kinh doanh cải tiến và đổi mới công nghệ. Tạo cơ hội giảm chi phí bình đẳng đối với mọi thành phần DN, ở các vùng, tăng cường thêm động lực cho guồng máy tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế đồng đều giữa các vùng, các ngành. Hướng dẫn tiêu dùng ảnh hưởng sản xuất của doanh nghiệp. Khi lãi suất tăng làm giá thành sản phẩm đắt tương đối nên tiêu dùng giảm và dẫn đến sản xuất giảm.Khi lãi suất giảm làm giá thành sản phẩm rẻ tương đối , kết quả là tiêu dùng tăng và sản xuất tăng. Hạn chế Việc giảm lãi suất là điều kiện cần nhưng không đủ để tạo vốn cho DN. -Lãi suất còn cao, khó khăn trong thủ tục vay NH. Cho dù lãi suất cho vay đã giảm khá mạnh song các DN vẫn không dám vay tiền vì tỷ lệ lãi suất cho vay ngân hàng vào khoảng 10%-11% năm -Nhiều DN làm ănkhông cóhiệuquả do trang thiết bị cũ kỹ, công nghệ lạc hậu nhưng muốn cơ cấu lại sản suất, đổi mới trang thiết bị phải có cơ cấu vốn lớn, bắt buộc phải đi vay. Với số vốn lớn DN phải trả lãi lớn trong khi lợi nhuận thu được lại chưa ổn định do vậy lãi suất giảm DN vẫn không dám vay. -Các ngân hàng cạnh tranh dẫn đến tăng mức lãi suất tiền gửi các DN cắt giảm tất cả những khoản đầu tư không đưa lại lợi nhuận cao bằng gửi tiếp vào ngân hàng. -Việc vay vốn trung và dài hạn của các DN không thuận lợi vì các NH cho vay dễ gặp rủi ro từ việc huy động vốn NH cho vay trung và dài hạn trong khi mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn bị xoá bỏ. V. GIAI ĐOẠN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CƠ BẢN. 1.Định nghĩa về lãi suất cơ bản. Khoá 12 điều 9 luật NHNN VN giải thích “ lãi suất cơ bản là lãi suất cho do NHNN công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh”. 2. Tác động của lãi suất cơ bản đến hoạt động của NHTM và DN. -Chính sách lãi suất cơ bản được thực hiện trong hơn một năm qua đã phát huy phần nào tác dụng đối với NHTM và các DN. 2.1.Đối với các NHTM: Cơ chế lãi suất linh hoạt càng tạo điều kiện cạnh tranh giảm chi phí hoạt động ngân hàng đa dạng hoá các loại hình dịch vụ: thẻ tín dụng....Lãi suất giảm Tuy nhiên cuối tháng 8/2001 lãi suất huy động tiền gửi tiết kiệm bằng VNĐ tăng đột biến, nhất là các NHTM cổ phần. So với cuối tháng 6/2001 lãi suất huy động 6 tháng VNĐ tăng từ 0.05%/ tháng lên 0.17% /tháng, đưa lãi suất huy động bằng VNĐ xấp xỉ lãi suất cho vay cơ bản do NHNN công bố , thậm chí còn cao hơn 0.02%/ tháng như NHTM cổ phần VPB. Đó là do các NHTM đang gặp khó khăn về chi trả và cho vay bằng tiền mặt. 2.2-Đối với các DN: Lãi suất giảm đã khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn.Tuy nhiên có sự chênh lệch lãi suất giữa đồng nội tệ và ngoại tệ (USD), và xu hướng tăng giá của đồng đô la nên nhiều DN găm giữ ngoại tệ do đó mà thiếu VND để phục vụ sản xuất kinh doanh. Điều này làm cho tình trạng đô la hoá của nền kinh tế càng thêm trầm trọng. Cuối năm 2000 đầu năm 2001 các NHTM đã đưa ra các mức lãi suất tiền gửi như nhau đối VND và USD. Việc mặt bằng lãi suất của VND và USD bằng nhau như vừa qua đã khuyến khích thêm quá trình USD hoá và về lâu dài có thể dẫn tới việc VND bị lấn át hoàn toàn. VI- HƯỚNG TỚI TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT VÀ THỰC TẾ TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. Hiện nay ở Việt Nam mới chỉ thực hiện cơ chế tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ. Theo nghị quyết số 718 ngày 29/5/2001, kể từ ngày 1/6/2001 thống đốc ngân hàng nhà nước đã bãi bỏ cơ chế lãi suất cho vay USD bằng lãi suất sibov và biên độ cho phép. Các tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay bằng USD trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn tín dụng bằng ngoại tệ ở trong nước. Thực hiện tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ lúc này là một bước tiếnphù hợp với thông lệ quốc tế, đó là một quyết định đúng đắn, phù hợp với mục tiêu được thể hiện ngày càng rõ ràng hơn của NHNN trong việc tiến tới xoá bỏ những hạn chế không cần thiết đối với hoạt động ngân hàng, điều này sẽ mang lại những tác động lớn đối với thị trường vốn của Việt Nam, đối với hệ thống NHVN cũng như nền kinh tế Việt Nam nói chung. C.Kết Luận Chính sách lãi suất là một bộ phận cấu thành của chính sách tiền tệ quốc gia, là mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia: ổn định tiền tệ, đảm bảo mức lạm phát hợp lý (4-5%), kích thích tăng trưởng kinh tế.Chính sách tiền tệ quốc gia nước ta hiện nay phải nhằm tiến tới hình thành một thị trường tiền tệ tạo ra sự cạnh tranh công bằng và lành mạnh giữa những tổ chức tín dụng tạo điều kiện để giảm chi phí tín dụng. Ngoài ra chính sách tiền tệ còn phải đảm bảo có sự chênh lệch lãi suất kinh doanh .Chính sách lãi suất phải tạo động lực cho các DN mở rộng sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn hiệu quả tăng sản phẩm xã hội. Chính phủ Việt nam thông qua NHNN đã có những thay đổi trong cách nhìn nhận về tự do hoá lãi suất từ đó có những chính sách lãi suất phù hợp với điều kiện nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong thời gian tới chính sách lãi suất tiếp tục điều chỉnh theo hướng tự do hoá lãi suất phù hợp với mức độ thị trường tài chính khu vực và quốc tế, theo sát thị trường quốc tế. Khi các điều kiện đã hội đủ chúng ta sẽ chuyển sang cơ chế tự do hoá lãi suất nhưng vẫn có sự điều tiết gián tiếp của NHNN Việt Nam để đảm bảo giữ vững định hướng cho hoạt động của hệ thống ngân hàng. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0594.doc
Tài liệu liên quan