Phần I: Lý luận chung về lãi suất tín dụng
I.khái niệm về tín dụng và Lãi suất tín dụng.
1.Khái niệm tín dụng
Tín dụng đã xuất hiện từ khi xã hội có phân công lao động, sản xuất và trao đổi hàng hóa. Trong quá trình trao đổi hàng hóa đã hình thành những sự kiện nợ nần lẫn nhau , phát sinh những quan hệ vay mượn để thanh toán.
Hiểu theo nghĩa hẹp, tín dụng là một quan hệ kinh tế hình thành trong quá trình chuyển hóa giá trị giữa hình thái hiện vật và hình thái tiền tệ, trong đó giá trị chuyể
38 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1430 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Lãi suất tín dụng Ngân hàng Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n từ chức năng này sang chức năng khác hay từ tay người này sang tay người khác theo nguyên tắc hoàn trả vốn và lãi trong một thời hạn nhất định. Nói cách khác, tín dụng là sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị nhất định dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ, trong một thời hạn nhất định, từ người sở hữu sang người sử dụng và khi đến hạn, người sử dụng phải hoàn trả lại cho người sở hữu với một lượng giá trị lớn hơn.
Hiẻu theo nghĩa rộng, quạn hệ tín dụng gồm 2 mặt : huy động vốn và cho vay. Tín dụng thu hút tiền tệ nhàn rỗi trong nền kinh tế và phân phối lại vốn đó dưới hình thức cho vay để bổ sung vốn cho các xí nghiệp, cá nhân có nhu cầu về vốn nhằm phục vụ cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Nhờ có hoạt động tín dụng mà một bộ phận lớn vốn của xã hội dưới dạng hiện kim hoặc hiện vật được vận động từ nơi tạm thời dư thừa sang nơi thiếu để đáp ứng các nhu cầu khác của các chủ thể trong nền kinh tế. Đối với các chủ thể thừa vốn, tín dụng mang đến cho họ cơ hội không những bảo tồn mà còn tạo thu nhập ( thu lãi ). Đối với các chủ thể thiếu vốn, tín dụng giúp cho họ bổ sung vốn để đáp ứng các nhu cầu sản xuất kinh doanh hoặc đời sống.
Tóm lại, tín dụng là một quan hệ kinh tế của nền sản xuất hàng hóa, tồn tại và phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của những quan hệ hàng hóa - tiền tệ.
2.Khái niệm lãi suất tín dụng và bản chất kinh tế của nó.
Một trong những nhận thức cơ bản và quan trọng nhất của kinh tế học là “ Thời giờ là tiền ”. Bất kỳ loại vật chất nào được sử dụng một cách hữu ích thì thời gian càng trôi đi, càng làm cho nó có giá trị nhiều hơn.Ví dụ như giá trị của một mảnh đất thường được xác định bằng sự hữu ích và nhu cầu mong muốn của mọi người đối với nó. Khi đất đem cho thuê, giá trị của nó được tính theo đơn vị thời gian cho thuê và sẽ tuỳ thuộc vào nhu cầu thuê của mọi ngươì cũng như lợi nhuận có thể làm ra được từ đất đó.
Tiền cũng vậy, khi được đem cất kỹ vào kho hay được đem chôn dưới gầm giường thì tiền không tạo được ra bất kỳ lợi nhuận hay giá trị nào vì nó bị cách ly với môi trường mà trong đó mọi người cần, nếu không muốn nói là càng để lâu, giá trị của nó càng thấp ( vì lạm phát ) giống như đất bỏ hoang. C.Mác, trong lý luận về tư bản cho vay, đã khẳng định rằng : “ Tiền không đẻ ra tiền, tiền chỉ có thể đẻ ra tiền một khi tiền được đưa vào sử dụng để sản xuất, lưu thông hàng hóa ”. Người cho vay đem tiền của mình ra chi với tư cách là tư bản thì khi người đi vay hoàn trả tư bản cho người cho vay tổng giá trị đã ứng ra không những phải vẫn giữ được nguyên vẹn mà còn phải sinh sôi nảy nở, phải tăng thêm lên trong quá trình vận động, tức là nó phải quay trở về có kèm theo một giá trị thặng dư: T + DT. DT được gọi nôm na là tiền lãi mà nhà tư bản cho vay thu được từ giá trị tư bản của mình.
Để biểu diễn mối quan hệ giữa tiền lãi và vốn gốc, người ta sử dụng khái niệm lãi suất tín dụng.
Lãi suất tín dụng ( interest rate ) được định nghĩa là % giữa tiền lãi ( hay chi phí ) phải trả, trên một số lượng tiền nhất định để được sở hữu và sử dụng tiền ấy trong khoảng thời gian đã thoả thuận trước. Nói cách khác, khoản chênh lệch giữa lượng tiền được nhận hôm nay và lượng tiền tổng cộng phải trả trong tương lai chính là tiền lãi hay chi phí để có lượng tiền ấy trong khoảng thời gian từ ngày nhận đến ngày trả . Khi đem tiền lãi ấy tính tỷ lệ % với tiền nhận được, kết quả thu được chính là lãi suất trong thời gian nói trên.
Ta có công thức:
Tiền lãi
x 100 % = lãi suất tín dụng
Vốn gốc
Như vậy, lãi suất tín dụng chính là giá cả của tín dụng, là tỷ lệ % theo một thời hạn xác định ( ngày, tuần, tháng, quý, năm... ) dùng làm căn cứ để tính toán số lợi tức tín dụng mà các chủ thể tín dụng phải trả ( đối với chủ thể đi vay ) hoặc nhận được ( đối với chủ thể cho vay ) để điều hoà các lợi ích kinh tế giữa các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng. Chính nhờ lãi suất tín dụng tác động đến lợi ích của các chủ thể mà các quan hệ tín dụng được xác lập và vận động. Nếu không có lãi suất tín dụng, hoặc có nhưng không hợp lý thì nó sẽ làm triệt tiêu các quan hệ tín dụng, làm giảm đi vai trò tích cực vốn có của tín dụng đối với sự phát triển của nền kinh tế.
Cần phân biệt giữa lãi suất tín dụng và tỷ suất lợi tức.
Lợi tức tín dụng là một phạm trù kinh tế gắn liền với sự vận động của tín dụng và do bản chất của tín dụng quyết định. Lợi tức tín dụng là một khái niệm rất quan trọng.
Một người đem vay một số tư bản và sau một thời gian sẽ thu được một khoản dôi ra, khoản đó được định lượng một cách chính xác bằng lợi tức hoặc nói một cách chính xác hơn, bằng tỷ suất lợi tức. Chúng ta xem xét ví dụ sau:
Giả sử chúng ta có 100 triệu và đầu tư vào trái phiếu Chính phủ. Trái phiếu Chính phủ có lãi suất là 10% /năm. Sau 1 năm, chúng ta bán số trái phiếu đó đi, có 3 trường hợp:
Trường hợp 1: Bán với giá 110 triệu. Lúc này thu nhập của chúng ta là:
+ 10 triệu : theo lãi suất trái phiếu (100 triệu x 10% = 10 triệu)
+ 10 triệu : theo chênh lệch ( 110 triệu - 100 triệu = 10 triệu )
Tổng thu nhập: 20 triệu. 20 triệu này chính là lợi tức mà chúng ta được hưởng.
Tỷ suất lợi tức = 20 triệu/100 triệu x 100 = 20% > lãi suất
Trường hợp 2: Bán với giá 100 triệu, thu nhập của chúng ta:
+ Theo lãi suất của trái phiếu : 100 triệu x10% = 10 triệu.
+ Theo chênh lệch : 100 triệu - 100 triệu = 0 triệu.
Tổng thu nhập : 10 triệu
Tỷ suất lợi tức = 10 triệu/100 triệu x 100 = 10% = Lãi suất.
Trường hợp 3: Bán với giá 95 triệu, lúc này lợi tức của chúng ta được hưởng chỉ còn : 10 triệu - 5 triệu = 5 triệu.
Tỷ suất lợi tức = 5 triệu/100 triệu x 100 = 5% < Lãi suất.
Điều này chứng tỏ tỷ suất lợi tức của một khoản vay không nhất thiết phải bằng lãi suất của khoản vay đó.
II. Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng.
1-Quan hệ cung - cầu về vốn vay trên thị trường.
Trong hoạt động kinh tế, nhu cầu về vốn vay nảy sinh khi có sự không phù hợp giữa khả năng hiện có và yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của chủ thể kinh tế.Các doanh nghiệp cần tiền để đầu tư vào việc mở rộng sản xuất kinh doanh của mình. Đặc biệt trong điều kiện khoa học kĩ thuật phát triển không ngừng và với tốc độ ngày càng nhanh chóng, thì để có thể tồn tại và cạnh tranh trên thị trường, doanh nghiệp phải đầu tư vào việc đổi mới, thay thế các công nghệ cũ và lạc hậu bằng công nghệ mới, hiện đại, từ đó việc mở rộng và phát triển sản xuất mới có hiệu quả. Mặt khác, đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân làm việc cũng luôn cần phải học tập và bồi dưỡng những kiến thức tiên tiến thì mới phù hợp với các công cụ sản xuất. Doanh nghiệp phải đào tạo họ. Do đó, doanh nghiệp có nhu cầu vay tiền.
Không chỉ các doanh nghiệp mà Chính Phủ cũng có nhu cầu vay tiền. Vào thời gian đầu năm khi việc thu ngân sách Nhà nước mới được ít, trong khi việc đầu tư vào các công trình kinh tế lớn, các công trình xã hội trọng điểm không thể chậm trễ,nên Chính phủ phải vay tiền để chi. Đến cuối năm khi việc thu ngân sách Nhà nước đã hoàn thành, Chính phủ sẽ trả các khoản vay.
Cung về nguồn vốn được tạo ra từ những hoạt động kinh tế trong nước, số vốn này nằm trong tay các doanh nghiệp là chủ yếu. Trong doanh nghiệp, vốn được hình thành từ việc tích luỹ tiền tệ, những nguồn tiền tệ “dư thừa” tạm thời nhàn rỗi trong doanh nghiệp và từ những giá trị vật tư, tài sản trong doanh nghiệp chưa được sử dụng hết công suất tối đa. Ngoài nguồn vốn trong doanh nghiệp, một phần lớn vốn của nền kinh tế nằm trong tay của công chúng. Đó chính là phần tiết kiệm trong dân cư.
Bằng cách nào cung và cầu về vốn gặp nhau trên thị trường?
Thứ nhất là nguồn vốn của nền kinh tế được huy động vào ngân sách Nhà nước thông qua việc thu thuế của Chính phủ hoặc Chính phủ vay tiền của nền kinh tế bằng việc phát hành các cộng cụ nợ của mình ( trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc... ).
Thứ hai là nhờ các tổ chức tài chính trung gian ( các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính phi ngân hàng...). Họ thu hút nguồn vốn trong nền kinh tế ( từ các tổ chức dân cư, các tổ chức kinh tế...) bằng việc phát hành kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng..., sau đó cho vay hoặc đầu tư ( đầu tư kinh doanh chứng khoán ...) để phát triển.
Thứ ba là nguồn vốn có thể được các tổ chức dân cư, tổ chức kinh tế cho vay hoặc đầu tư trực tiếp lẫn nhau mà không qua tổ chức trung gian.
Bây giờ chúng ta giả định rằng các yếu tố khác không đổi, nhu cầu về tiền vay và cung về tiền vay tác động đến lãi suất như thế nào ?
1.1.Nhu cầu về tiền vay ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng.
Lúc đầu cung và cầu về vốn vay trên thị trường cân bằng. Đường cầu về vốn vay ( DL ) cắt đường cung về vốn ( SL ) tại điểm cân bằng E1 , lúc này lãi suất trên thị trường là i1 . Giả sử lúc này một số doanh nghiệp muốn vay tiền để đầu tư sản xuất hoặc Chính phủ có nhu cầu vay tiền để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước, làm cho nhu cầu về tiền tăng lên.Giả định rằng tổng lượng tiền là không đổi . Đường ( DL ) dịch chuyển sang phải ( DL’ ) và xuất hiện điểm cân bằng mới E2, lãi suất mới là i2 và i2 > i1. Như vậy, sự tăng lên của nhu cầu về tiền vay trong khi tổng lượng tiền cho vay không đổi sẽ làm cho lãi suất tín dụng tăng lên.
1.2. Cung tiền cho vay ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng.
Lúc đầu, cung và cầu tiền vốn vay trên thị trường cân bằng tại E1, với lãi suất i1 . Giả sử, dân chúng có xu hướng không muốn gửi tiền vào ngân hàng, không muốn cho vay hoặc đầu tư mà chỉ giữ tiền trong tủ, trong khi nhu cầu về tiền vay trong nền kinh tế không đổi, có nghĩa là cung lượng tiền có khả năng cho vay giảm. Đường cung tiền cho vay ( SL ) dịch chuyển sang trái ( SL’ ) và xuất hiện điểm cân bằng mới E2. Tại E2 lãi suất cân bằng mới trên thị trường là i2 và i2 > i1. Như vậy, khi nhu cầu về tiền vay không đổi, sự giảm xuống của cung lượng tiền có khả năng cho vay sẽ làm cho lãi suất tín dụng tăng lên.
2. Tỷ lệ lạm phát dự tính trong nền kinh tế ảnh hưởng tới lãi suất tín dụng.
Lúc đầu, cung và cầu tiền vốn vay trên thị trường cân bằng tại E1, với lãi suất i1 . Giả sử các nhà kinh tế dự báo trong tương lai tỷ lệ lạm phát có xu hướng tăng lên. Các nhà đầu tư hiểu rằng một sự thay đổi của lạm phát dự tính sẽ làm thay đổi lợi tức dự tính của những tài sản hiện vật ( còn gọi là tài sản thực như nhà, đất,..) chúng có tác động đến nhu cầu về tiền vay. Do sự biến đổi giá của những tài sản thực bị gắn vào sự biến đổi của mức giá chung, một sự tăng lên của lạm phát dự tính sẽ dẫn đến những dự tính tốc độ tăng giá của những tài sản thực nhanh hơn, và do đó có một mức lợi vốn danh nghĩa cao hơn.
Điều này làm cho nhu cầu về tiền vay trong nền kinh tế tăng lên mạnh mẽ. Đường cầu về tiền vay ( DL ) dịch chuyển sang phải (DL’), điểm cân bằng mới tại E2 với i2 > i1. Thế nhưng những người có tiền cũng hiểu rằng, khi lợi tức dự tính của những tài sản thực tăng lên thì cũng có nghĩa là đồng tiền của họ sẽ bị mất giá trong tương lai và vì thế họ không muốn cho vay tiền. Do đó, cung về lượng tiền cho vay giảm. Đường cung tiền cho vay ( SL ) dịch chuyển sang trái ( SL’), điểm cân bằng mới của thị trường tại E3 với lãi suất mới i3 > i2 > i1. Như vậy, một sự tăng mức lạm phát dự tính sẽ làm cho lượng cầu về tiền vay tăng lên nhưng cung về lượng tiền có khả năng cho vay giảm đi và lãi suất tín dụng trên thị trường tăng lên.
3. Thời gian đáo hạn ( Term of maturity ).
Đây là độ dài về thời gian (giờ, ngày, tháng, năm) của khoản nợ từ ngày nhận cho đến khi nó được hoàn trả lại.
Tất cả các loại tài sản có và nợ khác nhau đều có thời gian đáo hạn hay kỳ hạn của chúng. ở Việt Nam, các khoản vay có kỳ hạn ngắn là dưới 1 năm, các khoản vay trung hạn từ 1 đến 3 hoặc 5 năm, các khoản vay dài hạn là từ 3 hoặc 5 năm trở lên.
Chính từ sự khác nhau về thời gian của khoản vay ( hoặc cho vay ), lãi suất cho mỗi loại cũng khác nhau. Đó là nguyên nhân cho sự phân biệt giữa lãi suất ngắn hạn và lãi suất dài hạn. Thông thường:
+ Lãi suất ngắn hạn ( Short- term interest rate ) chỉ ra loại lãi suất của khoản vay ( hoặc cho vay ) có kỳ hạn ngắn ( < 1 năm ). ở một vài nước các khoản cho vay hoặc vay từ dưới 1 tháng đến vài giờ được gọi là cho vay hoặc vay ngắn hạn. Lãi suất áp dụng cho nó là lãi suất ngắn hạn. Lãi suất ngắn hạn thường thấp hơn lãi suất dài hạn vì điều đơn giản là những khoản đầu tư ngắn hạn như thế sẽ có lợi tức không ổn định, Hơn nữa, chính lợi tức không ổn định là nguyên nhân làm cho loại lãi suất này biến động khá thường xuyên và dữ dội. Nhiều khi trong 1 ngày, ở các nước phát triển, nó có thể lên xuống hai, ba mức do ảnh hưởng của lợi tức chứng khoán.
+ Lãi suất dài hạn ( Long- term interest rate ). Ngược lại với lãi suất ngắn hạn, lãi suất dài hạn chỉ ra tỷ lệ lãi của khoản đầu tư dài hạn. Do thời gian của khoản vay ( hoặc cho vay ) là dài nên các nhà đầu tư có thể sử dụng cho các khu vực sản xuất, kinh doanh cơ bản, bền chắc, với lợi tức ít thay đổi. Lợi tức của đầu tư ổn định nên lãi suất của các loại tài sản này cao hơn các loại tài sản ngắn hạn.
Đến đây, chúng ta cần phân biệt lãi suất, trên góc độ nguồn sử dụng. Theo tiêu thức này. lãi suất được chia thành 2 loại:
+ Lãi suất huy động: là loại lãi suất quy định tỷ lệ lãi phải trả cho các hình thức nhận tiền gửi của khách hàng.
Để đảm bảo sự công bằng, trong nền kinh tế thị trường, về mặt kinh tế, việc định các mức lãi suất huy động khác nhau chỉ căn cứ vào đối tượng huy động ( tiền hay vật đảm bảo có giá trị ) và thời gian huy động.
+ Lãi suất cho vay: Là loại lãi suất quy định tỷ lệ lãi mà người đi vay phải trả cho người cho vay.
Về lý thuyết, các mức lãi suất cho vay khác nhau được căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận bình quân của đói tượng đầu tư và thời hạn cho vay. Tuy nhiên, với ý nghĩa là một công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, điều đó không phải bao giờ cũng đúng, vì nó còn tuỳ thuộc vào mục tiêu chính trị, xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ.
4. Tính lỏng của khoản vay ( Liquidity ).
Tính lỏng hay khả năng thanh khoản của một tài sản là mức độ nhanh hay chậm của việc chuyển một tài sản trở lại thành tiền mặt. Một tài sản có tính lỏng cao là một tài sản có thể chuyển sang tiền mặt một cách nhanh chóng và ít tốn kém nếu nhu cầu chuyển đổi nảy sinh. Một tài sản càng lỏng thì nó càng được ưa chuộng.
Chúng ta có thể thấy rằng, tính lỏng của một tài sản có liên quan đến thời gian đáo hạn của tài sản đó. Với những tài sản có thời gian đáo hạn ngắn và trung bình thì khả năng thanh khoản của nó cao và chi phí chuyển đổi thấp. Nhưng đối với những loại tài sản dài hạn như các khoản vay từ 3 đến 5 năm trở lên ; nhà cửa, đất đai..., là những loại tài sản khó thanh khoản và phải mất nhiều thời giờ hơn, tốn nhiều chi phí hơn, tốn công sức hơn, rủi ro cao hơn khi cần bán hoặc đổi nó ra tiền mặt.
Với những tài sản có tính lỏng cao, mọi người ưa thích hơn, lãi suất của nó thường thấp đến rất thấp. Ngược lại, những tài sản có tính lỏng kém thường có lãi suất cao hơn vì chi phí của nó cao hơn. Và cũng vì với thời gian dài, sự ổn định của tài sản sẽ tạo ra lợi nhuận cao.
Khoảng cách giũa lãi suất của các tài sản có tính lỏng cao và những tài sản có tính lỏng thấp được gọi là mức bù rủi ro. Chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ hơn phạm trù mức bù rủi ro ở phần sau.
5. Rủi ro ( Risk ).
Ngoài khả năng thanh khoản, rủi ro cũng là nhân tố làm tăng hoặc giảm lãi suất tài sản của ngân hàng và nền kinh tế. Các ngân hàng và các nhà đầu tư luôn phải tính đến các chi phí rủi ro khi vốn bị mất giá, vốn không thu hồi được vì nơi nhận đầu tư bị phá sản, vỡ nợ, lợi tức trở nên âm khi bị giá cả tăng nhanh...
Nếu chúng ta có trái khoán của một công ty hoặc công trái của chính phủ thì trái khoán của công ty có độ rủi ro cao do công ty rất có khả năng phá sản và không thể trả tiền, còn công trái của chính phủ thì hầu như không có rủi ro vì Chính phủ có thể tăng thuế hoặc thậm chí có thể in tiền để thanh toán dứt điểm nợ nần của mình. Khoảng cách giữa lãi suất của một trái khoán có rủi ro và lãi suất của trái khoán không có rủi ro gọi là mức bù rủi ro.
Như vậy, mức bù rủi ro cho biết chúng ta sẽ nhận được khoản lãi phụ là bao nhiêu để sẵn lòng nắm giữ một tài sản có rủi ro.
Khi một khoản vay có độ rủi ro càng cao thì lãi suất cho vay càng lớn để bù đắp cho các rủi ro tăng thêm. Bởi thế, một nhà đầu tư sẽ chấp nhận lãi suất thấp cho một món cho vay có tài sản thế chấp vững chắc làm đảm bảo hơn là món vay không có đảm bảo hoặc món vay đảm bảo bằng tài sản thế chấp kém vững chắc.
Một tài sản có rủi ro luôn luôn có một mức bù rủi ro dương và rủi ro càng cao thì mức bù rủi ro càng lớn.
6. Lạm phát.
Lạm phát là kẻ thù của lãi suất. ở đây, chúng ta quan tâm đến mối liên quan giữa lạm phát và lãi suất. Thí dụ, lãi suất mà ngân hàng thu được từ một dịch vụ cho vay hoặc đầu tư ( điều này cũng hoàn toàn giống trong trường hợp người cho vay là nhân dân gửi tiền vào ngân hàng và ngân hàng là người vay ) là 10% một năm. Với lãi suất ấy, một khoản đầu tư hôm nay có giá trị 1.000.000 VNĐ sẽ tạo ra một khoản tiền lãi sau đúng 1 năm là:
R1 = 1.000.000 VNĐ x 10% =100.000VNĐ
Cả vốn và lãi thu được vào thời điểm này sang năm sẽ là:
P2 = P1 ( 1+R1 )t với t =1
P2 = 1.000.000 x 1,10 = 1.100.000VNĐ
Giả sử chúng ta xem giá cả mua bán của gạo là giá đại diện cho giá cả hàng tiêu dùng bình quân trên thị trường hàng hóa. Trong trường hợp lạm phát bằng không trong cả năm nói trên, giá gạo vào hôm nay là 2000 VNĐ/kg. Vào thời điểm này của năm sau, nó tiếp tục vẫn là 2000VNĐ/kg.
Lúc đó, khi chưa đầu tư, 1.000.000VNĐ đổi được 1.000.000/2.000 = 500 ( kg ) gạo. Vào năm sau, khi đã đầu tư rồi, vốn và lãi thu hồi được 1.100.000/2.000 = 550 kg. Việc đầu tư đã sản sinh ra cho chúng ta một tài sản mới tương đương 50 kg gạo. Đó là tiền lãi.
Thế nhưng, thật là không may, lạm phát bằng không rất hiếm khi xảy ra. Thường là lạm phát lớn hơn không. Với trường hợp ấy, ta giả định tiếp về hai trường hợp:
Trương hợp 1: lạm phát trong năm cũng bằng 10% một năm. Bằng đúng lãi suất mà ta có thể thu được từ đầu tư.
Lúc đó: giá gạo hiện nay là 2000 VNĐ/kg.
Giá gạo vào thời điểm này sang năm sẽ là (2000 + 2000 x 10%) = 2200 VNĐ/kg.
Hiện nay, khi chưa đầu tư, các ngân hàng trung gian (hoặc chúng ta) với 1.000.000 VNĐ tài sản, có thể mua được 1.000.000/2.000 = 500 kg gạo.
Chúng ta hoặc ngân hàng, bỏ vốn ra đầu tư và một năm sau, cả vốn lẫn lãi thu được là 1.100.000VNĐ. Vào thời điểm thu vốn và lãi về, chúng ta đem đi mua gạo, và được 1.100.000/2.200 = 500 kg. Trước khi đầu tư, tài sản của chúng ta có giá trị tương đương 500 kg gạo, sau khi đầu tư xong, tài sản thu được tính bằng đơn vị tiền thì cao hơn trước về số lượng, nhưng giá trị thực sự cũng chỉ bằng 500 kg gạo. Chúng ta không có được chút lãi nào. Lãi suất thực sự trong trường hợp này bằng không.
Trường hợp 2: nếu lạm phát trong năm hơn 10%, chẳng hạn 15%.
Giá gạo sau 1 năm sẽ là 2000 + (2000 x 15%) = 2300 VNĐ/kg
Trước đầu tư, với giá gạo 2000VNĐ/kg, chúng ta mua được 500kg gạo với số tài sản là 1.000.000VNĐ. Sau khi đầu tư xong (với lãi suất 10% năm), tài sản thu được (1.100.000 VNĐ) chỉ tương đương với 1.100.000/2.300 = 478,26 kg gạo.
Việc đầu tư đã không những không đem lại giá trị mới hay lợi tức, mà còn chúng ta (hoặc ngân hàng) thiệt mất 21,74kg gạo. Lạm phát cao (15%) đã làm cho lợi tức trở thành số âm. Chính nó là thủ phạm gây ra sự hụt đi về tài sản.
Kết luận về điều này là: lạm phát sẽ làm bay hơi một cách vô hình lãi suất của các loại tài sản mà ngân hàng và nhân dân có được. Nếu trong cùng một đơn vị thời gian:
+ Tỷ lệ lãi suất = Tỷ lệ lạm phát, thì lãi suất thực sự bằng không (Trường hợp 1)
+ Tỷ lệ lãi suất < Tỷ lệ lạm phát, lãi suất thực sự là âm. Lạm phát càng lớn hơn lãi suất bao nhiêu, giá trị thực của lãi suất càng thấp bấy nhiêu. Giá trị của tài sản bị bào mòn dữ dội.
+ Tỷ lệ lãi suất > Tỷ lệ lạm phát, lãi suất thực sự lớn hơn không. Trong trường hợp này, đầu tư hoàn toàn có lợi. Lãi suất càng lớn hơn lạm phát, lợi nhuận thu được càng lớn theo.
Chỉ có tình huống thứ 3 là được chấp nhận. Cho nên khi ngân hàng hoặc nhân dân, đầu tư hoặc cho vay, người ta thường quan tâm đến lạm phát để luôn đảm bảo rằng lãi suất đầu tư phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát, hay nói cách khác, lãi suất đầu tư phải ở mức từ tỷ lệ lạm phát trở lên.
Do mối liên quan giữa lãi suất và lạm phát, người ta chia lãi suất ra làm 2 loại:
+Lãi suất danh nghĩa (Nominal interest rate) hay NIR, là lãi suất của tài sản trên đơn vị tiền tệ. Khi chúng ta đọc những thang lãi suất được niêm yết trên báo chí, tại các ngân hàng, trên ti vi hay các phương tiện truyền thông đậi chúng khác..., chúng ta đã và đang đọc về lãi suất danh nghĩa. Loại này đơn thuần chỉ là số lượng đơn vị tiền thu được từ 100 đơn vị tiền được đem đâu tư trong khoảng thời gian nhất định nào đó của thông báo.
+Lãi suất thực: (Real interest rate) hay RIR là lãi suất được tính theo khối lượng hàng hóa mà người có vốn cho vay nhận được sau một kỳ hạn cho vay.
Khi chúng ta nói đến lãi suất, đôi khi chúng ta quên mất tác dụng của lạm phát và nó cần được gọi 1 cách chính xác hơn là lãi suất thực.
Lãi suất thực đã được chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi dự tính về mức giá, do đó nó phản ánh chính xác hơn chi phí thật của việc vay tiền. Lãi suất thực định nghĩa một cách chính xác hơn bằng phương trình Fisher, mang tên của Irving Fisher, một trong số những chuyên gia kinh tế tiền tệ thế kỷ 20. Phương trình Fisher nói rằng, lãi suất danh nghĩa (NIR) bằng lãi suất thực (RIR) cộng với lạm phát dự tính (p)
NIR =RIR + p
Khi chuyển đổi các vế, chúng ta tìm được lãi suất thực bằng lãi suất danh nghĩa trừ đi mức lạm phát dự tính:
RIR =NIR - p
p cũng có thể là tỷ lệ % của lạm phát trong cùng thời gian hoạt động đầu tư.
III. Chính sách lãi suát tín dụng.
1.Lãi suất trong nền kinh tế thị trường.
1.1. Đặc điểm của lãi suất trong nền kinh tế thị trường.
Chúng ta đã biết rằng cơ chế kinh tế thị trường có những đặc điểm như: (1)Tính tự chủ các chủ thể kinh tế rất cao. (2) Hàng hóa trên thị trường rất phong phú, người mua và người bán gặp nhau ở giá cả của thị trường; (3)Giá cả của hàng hóa được hình thành ngay trên thị trường;(4)- Cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thi trường;(5)- Kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở, đa dạng, phức tạp và được điều hành bởi hệ thống tiền tệ, hệ thống luật pháp của Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức tín dụng là những doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ. Sản phẩm của chúng cũng được trao đổi trên thị trường như mọi hàng hóa khác. Mọi sản phẩm muốn trao đổi đều phải có giá và lãi suất là giá cả của việc mua bán vốn của các tổ chức tín dụng và lãi suất trong nền kinh tế thị trường có những đặc điểm sau:
+ Có tính cạnh tranh cao.
Như mọi loại giá của hàng hóa, lãi suất tín dụng cũng được điều chỉnh theo quan hệ cung - cầu về tiền tệ trên thị trường, theo những mục tiêu kích thích hoặc hạn chế đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau. Các tổ chức tín dụng cũng như bất cứ một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào, đều hướng mục tiêu hoạt động của mình vào việc tìm kiếm lợi nhuận tối đa và do đó có sự cạnh tranh cao độ ở nhiều mặt. Sự cạnh tranh thể hiện ở lãi suất huy động và lãi suất cho vay. hiểu đơn giản là “ giá mua ” và “ giá bán ” của vốn. Khi giá mua tăng, tất yếu giá bán phải tăng để đảm bảo có lợi nhuận. Nhưng có trường hợp các tổ chức tín dụng có thể bán với giá thấp để tranh thủ các khách hàng lớn, có tín nhiệm hoặc để tiếp thị. Các tổ chức tín dụng luôn phải linh hoạt giữa mức cho vay cao nhất để họ thu lợi nhuận tối đa, đồng thời lại phải đảm bảo sao cho khách hàng có thể chấp nhận được. Đôi khi họ có thể bán cao để làm nản lòng những khách hàng thiếu tín nhiệm, hoặc nhằm vào những thuơng vụ có lợi nhuận “ siêu ngạch ”. Đối với lãi suất huy động, các tổ chức tín dụng luôn đặt ra mức lãi suất thấp nhất về phía họ để đảm bảo thu lợi nhuận cao nhưng vẫn phải đảm bảo việc thu hút lớn nhất nguồn vốn có thể huy động. Ngoài mức lãi suất, các tổ chức còn cạnh tranh với nhau bằng các phương thức và cách trả lãi sao cho khách hàng có thể gửi hoặc vay tiền một cách nhanh chóng, thuận lợi nhất. Việc thanh toán theo lãi gộp hay lãi đơn cũng là 1 công cụ cạnh tranh của các tổ chức tài chính.
+Bên cạnh tính cạnh tranh, lãi suất tín dụng trong nền kinh tế thị trường còn có tính tự do.Tính tự do của lãi suất đảm bảo cho sự phản ứng kịp thờcủa tổ chức tín dụng trước sự biến động của cung - cầu vốn trên thị trường.Tính tự do của lãi suất đối lập với những áp đặt mang tính hành chính vào sự hình thành lãi suất, đòi hỏi các tổ chức tín dụng phải được tự chủ trong việc ấn định các mức lãi suất của mình.
+Thứ ba, lãi suất có tính linh hoạt. Trong nền kinh tế hị trường, lãi suất phải có sự thay dổi hàng ngày để phù hợp với diễn biến của thị trường và phù hợp với các đối tượng cho vay.
+Và cuói cùng, lãi suất trong nền kinh tế thị trường phải đảm bảo là lãi suất thực dương, nghĩa là các tổ chức tín dụng phải đảm bảo cho họ và những người cho vay có lãi.
1.2. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất là công cụ của Nhà nước để điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Nó tác động trực tiếp đến hoạt động của các tổ chức tín dụng và toàn bộ nền kinh tế.
Vai trò công cụ điều tiết nền kinh tế của lãi suất được thể hiện ở các mặt sau:
- Làm căn cứ để phân bổ các nguồn lực
Như chúng ta đã biết,để phân bổ và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả, giá cả đóng vai trò cực kỳ quan trọng.
Là một loại giá cả, lãi suất cũng có vai trò quan trọng trong việc phân bổ hiệu quả các nguồn lực của xã hội. Để quyết định đầu tư vào một ngành kinh tế, một dự án hay là một tài sản nào đó chúng ta đều phải quan tâm đến sự chênh lệch giữa giá trị tỷ suất lợi tức thu được từ ngành kinh tế đó, dự án đó hay tài sản đó so với chi phí ban đầu. Điều này có nghĩa là phải xem xét một ngành, một dự án kinh doanh có đem lại lợi nhuận, đảm bảo hiệu quả kinh doanh và đủ để trả khoản tiền lãi của số tiền vay cho chi phí ban đầu hay không. Ngành nào, dự án kinh doanh nào có tỷ suất lợi tức lớn hơn lãi suất thì nguồn lực sẽ được phân bổ tới đó, và đó là sự phân bổ hiệu quả.
Thông qua lãi suất, các doanh nghiệp có thể lựa chọn những ngành sản xuất khác nhau để đầu tư nhằm thu tỷ suất lợi nhuận cao. Như vậy lãi suất là tín hiệu, là một căn cứ để có sự phân bổ hiệu quả các nguồn lực khan hiếm trong xã hội, là yếu tố cần thiết ban đầu trước khi đi đến quyết định đầu tư.
- Tác động tới mức tiêu dùng và tiết kiệm củ dân cư.
Thu nhập của một hộ gia đình thường được chia thành hai bộ phận: tiêu dùng và tiết kiệm. Tỷ lệ phân chia này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như thu nhập, vấn đề hàng lâu bền và tín dụng tiêu dùng, hiệu quả của tiết kiệm trong đó tiền tệ và lãi suất có tác dụng tích cực tới các nhân tố đó.
Khi lãi suất thấp, chi phí tín dụng tiêu dùng thấp, người ta vay nhiều hơn cho việc mua sắm các hàng hoá, nghĩa là tiêu dùng nhiều hơn. Ngược lại, khi lãi suất cao đem lại thu nhập từ khoản tiền để dành nhiều hơn sẽ khuyến khích tiết kiệm, do đó tiết kiệm tăng.
-Thúc đẩy việc quản lý sử dụng vốn trong hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp.
Hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp chịu nhiều ảnh hưởng của nhiều nhân tố như thu nhập, chi phí kỳ vọng trong kinh doanh. Trong đó lãi suất thể hiện chi phí đầu tư là yếu tố quan trọng quyết định đầu tư.
Khi lãi suất ở mức cao, ít khoản đầu tư vào vốn hiện vật sẽ mang lại thu nhập nhiều hơn chi phí lãi trả cho các khoản đi vay, do vậy chi tiêu cho đầu tư giảm , ngược lại khi lãi suất giảm các doanh nghiệp sẽ quyết định đầu tư cho vốn hiện vật nhiều hơn, chi tiêu đầu tư sẽ tăng.
Ngay cả khi một doanh nghiệp có dư thừa vốn và không muốn vay để đầu tư vào vốn hiện vật thì chi tiêu đầu tư vẫn bị ảnh hưởng của lãi suất do doanh nghiệp có thể mua chứng khoán. Lãi suất cao, chi phí cơ hội của một khoản đầu tư sẽ cao, chi tiêu đầu tư giảm do các doanh nghiệp mua chứng khoán sẽ tốt hơn vào đầu tư vốn hiện vật. Khi lãi suất chi phí cơ hội của đầu tư giảm, chi tiêu đầu tư sẽ tăng lên vì đầu tư vào vốn hiện vật rất có thể đem lại thu nhập lớn hơn cho doanh nghiệp so với mua chứng khoán.
Đối với đầu tư hàng dự trữ, chi phí của việc gửi hàng dự trữ là khoản lãi trả cho khoản tiền đáng lẽ thu được do bán nhượng hàng hoá này đi hay khoản vay để mua hàng. Lãi suất làm việc tăng, chi phí biên của việc giữ hàng dự trữ so với lợi ích biên đã giả định trước làm cho đầu tư vào hàng dự trữ giảm.Như vậy lãi suất là nhân tố chủ yếu quyết định đầu tư của các doanh nghiệp vào vốn hiện vật và hàng dự trữ.
- Tác động tới tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu.
Tỷ giá là giá cả tiền tệ của nước này thể hiện bằng đơn vị tiền tệ của nước khác. Tỷ giá do quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối quyết định và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như giá cả, thuế quan, quota, sự ưa thích hàng nội, hàng ngoại, năng suất lao động.... Ngoài ra tỷ giá trong ngắn hạn còn chịu ảnh hưởng của lãi suất: Lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ. Sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ ở đây là sự thay đổi trong lãi suất danh nghĩa. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do tỷ lệ lạm phát dự tính tăng (lãi suất thực không đổi) thì tỷ giá giảm. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do lãi suất thực tế tăng ( tỷ lệ lạm phát không đổi) thì giá đồng tiền trong nước tăng, tỷ giá tăng.Khi lãi suất tiền gửi ngoại tệ tăng, đồng nội tệ sẽ giảm giá (tỷ giá giảm) và ngược lại.
Tỷ giá rất quan trọng trong hoạt động XNK. Nếu lãi suất tăng làm tăng tỷ giá sẽ làm cho hoạt động xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng và ngược lại. Như vậy thông qua tỷ giá hối đoái, lãi suất có ảnh hưởnglớn tới xuất nhập khẩu, xuất khẩu ròng của một quốc gia.
- Là nhân tố quan trọng tham gia kiểm soát lạm phát.
Có nhiều biện pháp khác nhau để kiểm soát lạm phát, trong đó giải pháp về lãi suất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Trong thời kỳ lạm phát, tăng lãi suất sẽ cho phép hệ thống ngân hàng có thể thu hút phần lớn số tiền có nhiều trong lưu thông khiến cho đồng tiền trong lưu thông giảm, cơ số tiền và lượng tiền cung ứng giảm, lạm phát được kiềm chế. Như vậy, lãi suất cũng góp phần chống lạm phát.
Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ lãi suất trong chống lạm phát không thể duy trì lâu dài vì lãi suất tă._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8515.doc