Lãi suất & chính sách lãi suất

Lời mở đầu L ãi suất không chỉ là một phạm trù kinh tế mang tính chất tổng hợp, đa dạng và phức tạp mà đây còn là một trong những công của chính sách tiền tệ, rất nhạy cảm và có ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự phát triển và ổn định kinh tế của một quốc gia. Lãi suất hợp lý sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển và ngược lại. Sau hơn mười năm đổi mới, chính sách lãi suất của Việt Nam đã góp phần thực hiện tốt các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia đồng thời

doc29 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1542 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Lãi suất & chính sách lãi suất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được đổi mới mạnh mẽ, thận trọng và từng bước phù hợp với từng giai đoạn. Tuy nhiên, vẫn còn có những tồn tại, hạn chế trong chính sách lãi suất. Thực tiễn khách quan đòi hỏi phải có một sự đổi mới sâu rộng trong việc sử dụng công cụ lãi suất cho phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện thực hiện của thị trường tiền tệ trong nước. Vì thế, xây dựng một chính sách lãi suất hiệu quả trên cơ sở phù hợp với tiến trình hội nhập của đất nước vừa đảm bảo sự định hướng của Nhà nước đang là bài toán đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách. Do đó có thể thấy, nghiên cứu về chính sách lãi suất và định hướng đổi mới và hoàn thiện lãi suất có ý nghĩa thực tiễn cao. Trong khuôn khổ một đề án, em xin trình bày những vấn đề chung nhất về lãi suất và chính sách lãi suất đồng thời phân tích chính sách lãi suất Việt Nam thời gian qua ,nhận rõ xu thế phát triển của chính sách lãi suất, từ đó đưa ra đề xuất góp phần hoàn thiện chính sách lãi suất. Do còn hạn chế về trình độ cũng như về kiến thức thực tế nên đề án của em còn nhiều sai sót. Em rất mong sẽ nhận được sự chỉ bảo, góp ý của các thày cô giáo, đặc biệt là thày giáo Đàm Viết Huệ để bài viết này hoàn chỉnh hơn. Phần i Lý luận chung về lãi suất và chính sách lãi suất 1. Lãi suất trong cơ chế thị trường. 1.1. Lãi suất và một số loại lãi suất. 1.1.1. Khái niệm. Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất là một trong những biến số kinh tế vĩ mô được quan tâm và theo dõi chặt chẽ. Trong kinh doanh, hiện tượng thừa thiếu vốn tạm thời thường xuyên xảy ra đối với các chủ thể kinh tế. Với tư cách trung gian tài chính, hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng ra đời thu hút mọi khoản tiền nhàn rỗi, cung ứng cho nền kinh tế dưới nhiều hình thức, đẩy mạnh quá trình vận động, luân chuyển của đồng tiền, góp phần điều hoà và phân bổ hợp lý nguồn vốn trong nền kinh tế. Khi nghiên cứu về tư bản, Mác đã kết luận: lãi suất cũng là phần giá trị thặng dư được tạo ra do kết quả bóc lột lao động làm thuê và bị bọn tư bản - chủ ngân hàng chiếm đoạt. Vì thế, lãi suất là giá cả của một số tiền vay. Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ của Keynes lại cho rằng: lãi suất chính là sự trả công cho số tiền vay, là phần thưởng cho "sở thích chi tiêu tư bản ". Lãi suất do đó còn được gọi là công trả cho sự chia li với của cải tiền tệ. Còn Samuelson, đại diện cho trường phái trọng tiền đứng trên giác độ chi phí, coi lãi suất là chi phí cơ hội của việc giữ tiền. Cho dù lãi suất được hiểu theo khái niệm nào thì về bản chất, lãi suất là tỷ lệ % của phần tăng thêm so với phần vốn vay ban đầu, là giá cả của quyền được sử dụng vốn vay trong một thời gian nhất định mà người sử dụng trả cho người sở hữu nó. 1.1.2. Phânloại lãi suất. 1.1.2.1. Căn cứ vào thời hạn tín dụng: có 3 loại. - Lãi suất tín dụng ngắn hạn: áp dụng đối với các khoản tín dụng có thời hạn dưới 1 năm. - Lãi suất tín dụng trung hạn: áp dụng với các khoản tín dụng có thời hạn từ 1 năm tới 3 hoặc 5 năm, tuỳ theo quy định của từng nước. - Lãi suất tín dụng dài hạn: áp dụng với các khoản tín dụng dài hạn, thời hạn trên 5 năm. 1.1.2.2. Căn cứ vào giá trị thực của lãi suất. - Lãi suất danh nghĩa: Là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ tại thời điểm nghiên cứu. - Lãi suất thực: là lãi suất đã được điều chỉnh theo những biến đổi của lạm phát. ir = in - pe Vì được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi vì lạm phát nên lãi suất thực phản ánh một cách chính xác chi phí của quan hệ tín dụng. 1.1.2.3. Căn cứ vào sự ổn định của lãi suất. - Lãi suất cố định: là lãi suất được áp dụng cố định trong suốt thời hạn vay. - Lãi suất thả nổi là lãi suất có thể thay đổi lên xuống, có thể báo trước hoặc không báo trước. 1.1.2.4. Căn cứ vào phương pháp tính. - Lãi suất đơn: là lãi suất tính một lần trên số vốn gốc cho suốt kỳ hạn vay. I = n *i *Co Trong đó : I: Số tiền lãi. n : số thời kỳ gửi vốn. i : lãi suất Co: vốn gốc Hình thức lãi suất này thường áp dụng cho các khoản tín dụng ngắn hạn và việc trả nợ được thực hiện một lần khi đến hạn. - Lãi suất kép : là mức lãi suất có tính đến giá trị đầu tư lại của lợi tức thu được trong khoảng thời gian sử dụng tiền vay C = Co (1 + i )n Trong đó : C: Số tiền thu được theo lãi gộp sau n kỳ Co: Số vốn gốc i: Lãi suất n: Số thời kỳ gửi vốn - Lãi suất hoàn vốn: là lãi suất cân bằng giá trị hiện tại của tiền thu nhập nhận được trong tương lai theo một công cụ nợ với giá trị hôm này của công cụ đó. 1.1.2.5. Căn cứ vào loại hình tín dụng : Lãi suất được chia làm 4 loại. - Lãi suất tín dụng thương mại: áp dụng trong quan hệ mua bán chịu giữa các doanh nghiệp Lstdtm = 100% Giá của hàng hoá bán chịu – giá cả hàng hoá bán trả ngay ____________________________________________________________________________ Giá cả hàng hoá bán chịu - Lãi suất tín dụng ngân hàng : áp dụng trong quan hệ giữa ngân hàng với công chúng và doanh nghiệp trong việc thu hút tiền gửi và cho vay trong hoạt động tái cấp vốn của NHTW đối với các NHTM và trong quan hệ giữa các ngân hàng với nhau trên thị trường liên ngân hàng. Trong khái niệm lãi suất tín dụng ngân hàng người ta phân biệt: + Lãi suất tiền gửi + Lãi suất chiết khấu + Lãi suất tái chiết khấu + Lãi suất liên ngân hàng + Lãi suất cơ bản -Lãi suất tín dụng nhà nước: áp dụng khi Nhà nước đi vay của các chủ thể khác nhau trong xã hội dưới hình thức phát hành tín phiếu hoặc trái phiếu. Loại lãi suất này có thể do Nhà nước ấn định căn cứ vào lãi suất tiền gửi tiết kiệm ngân hàng, và các yếu tố khác như sự biến động của lạm phát, nhu cầu cấp thiết về vốn của Nhà nước… hoặc được hình thành thông qua hoạt động đấu thầu tín phiếu, trái phiếu Nhà nước. -Lãi suất tín dụng tiêu dùng: áp dụng khi doanh nghiệp cho người tiêu dùng vay phục vụ cho nhu cầu cá nhân. Mức lãi suất tín dụng tiêu dùng này thường cao hơn lãi suất tín dụng ngân hàng và lãi suất tín dụng Nhà nước. 1.2. Vai trò của lãi suất trong cơ chế thị trường. Lãi suất có vai trò và ảnh hưởng to lớn tới sự phát triển và ổn định kinh tế của một quốc gia. Lãi suất hợp lý sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển và ngược lại. Vì thế, việc hoạch định chính sách lãi suất phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định, đảm bảo lãi suất thoả mãn các yêu cầu mà nền kinh tế đặt ra. Trong nền kinh tế thị trường, người đi vay cũng như người cho vay có thể là các doanh nghiệp, các cá nhân, hộ gia đình, chính phủ hoặc người nước ngoài. Đối với người đi vay, lãi suất tạo nên chi phí, làm giảm lợi nhuận của người vay. Còn với người cho vay, lãi suất chính là thu nhập của họ. Vì thế lãi suất đóng vai trò to lớn trong các quyết định của các chủ thể kinh tế. Thông qua những quyết định của các chủ thể kinh tế, lãi suất ảnh hưởng đến sự phát triển cũng như cơ cấu kinh tế của một quốc gia. Trước hết, lãi suất là công cụ được sử dụng nhằm phân phối hiệu quả và hợp lý các nguồn lực trong nền kinh tế. Bởi lãi suất chính là phần thu nhập cho những khoản tiền tiết kiệm hoặc cho vay để đáp ứng vốn cho nền kinh tế. Khi đầu tư vào một ngành hoặc một dự án nào đó, chúng ta đều phải quan tâm đến lợi tức thu được so với chi phí ban đầu , làm sao để thu được lợi nhuận . Có thể nói lãi suất là tín hiệu, là căn cứ cho sự phân bố hiệu quả các nguồn lực khan hiếm trong xã hội. Thông qua lãi suất, các doanh nghiệp và các cá nhân, các tác nhân trong nền kinh tế có thể đưa ra những phương án đầu tư tối ưu nhất. ở góc độ vĩ mô, lãi suất trở thành công cụ điều tiết nền kinh tế. Lãi suất thị trường do quan hệ cung cầu trên thị trường tiền tệ ấn định. Đến lượt nó, lãi suất tác động trở lại đối với hành vi tiêu dùng, đầu tư, từ đó tác động lên tổng cầu. Khi cung tiền tệ tăng lên, lãi suất cân bằng trong vĩ mô giảm xuống, giá trái phiếu tăng lên do giá trị hiện tại của thu nhập tương lai có giá trị hơn gây ra hiệu ứng của cải và làm dịch chuyển hàm tiêu dùng lên trên. Tiêu dùng sẽ tăng ở mỗi mức thu nhập. Tín dụng tiêu dùng tăng lên do khả năng tín dụng và khả năng trả nợ vay tín dụng tăng lên. Đầu tư, kể cả đầu tư bản và vốn cố định vốn luân chuyển hàng tồn kho đều có mối liên hệ mật thiết tới lãi suất. Khi giá của tư liệu sản xuất cho một dự án tăng, nghĩa là lợi nhuận dự tính giảm xuống, đầu tư giảm xuống và ngược lại. Như vậy có thể nói một sự thay đổi của lãi suất sẽ tác động tới các yếu tố của tổng cầu, thông qua đó động tổng cầu và các biến số kinh tế vĩ mô quan trọng khác. Trong giai đoạn đang phát triển của nền kinh tế lãi suất có xu hướng tăng do cung cầu quỹ cho vay tăng. Ngược lại, giai đoạn suy thoái, lãi suất có xu hướng giảm xuống. Rõ ràng chính sách lãi suất phù hợp là cần thiết cho sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế. 2. Nguyên tắc hình thành lãi suất. 2.1. Nguyên tắc bảo toàn vốn. Lãi suất được coi là giá cả của quyền sử dụng vốn trong một thời hạn nhất định mà người sử dụng trả cho người sở hữu nó. Nếu như lãi suất đối với người đi vay là một khoản chi phí thì lãi suất tạo nên thu nhập đối với người cho vay. Tuy nhiên, trong nền kinh tế, người vay. Lợi ích thực tế mà người cho vay được hưởng là lãi suất thực. Nghiên cứu và tìm hiểu về lãi suất, nhà Kinh tế học I.Fisher đã chỉ ra được mối quan hệ giữa lãi suất và lạm phát. ln = ir + pe Trong đó: ln : lãi suất thực tế in : lãi suất danh nghĩa pe : lạm phát dự tính Vì thế bảo toàn vốn là nguyên tắc đầu tiên khi hình thành lãi suất nhằm bảo đảm quyền lợi của người cho vay. Có nghĩa lãi suất danh nghĩa phải ít nhất bằng tỷ lệ lạm phát dự tính(in ³ pe). Sự bảo đảm này cho phép người cho vay có thể bù đắp được sự biến động rủi ro về giá mà lạm phát gây ra, bảo toàn vốn kinh doanh cho vay. 2.2. Nguyên tắc bảo đảm tỷ lệ khuyến khích về thu nhập hợp lý cho người gửi tiền và các tổ chức tín dụng. Khi đem tiền cho vay, người cho vay không chỉ kỳ vọng khoản vốn của mình được bảo toàn mà còn phải sinh lời. Phần thực tế mà người cho vay được hưởng này là lãi suất thực. Nguyên tắc này đòi hỏi ir > 0. Điều này chính là lãi suất danh nghĩa mà người cho vay nhận được phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát. Việc đảm bảo có lãi là hợp lý vì nó phù hợp lợi ích người gửi tiền. Đối với người gửi tiền lãi suất thực là thu nhập, là sự trả công cho họ cho sự tạm xa rời của cải của họ. Đối với các tổ chức tín dụng cho vay, lãi suất thực này đảm bảo lợi tích cho người gửi tiền, trang trải các chi phí nghiệp vụ, bù đắp những rủi ro trong hoạt động tín dụng thương mại và lợi nhuận ngân hàng. Do đó:Lạm phát < lãi suất tiền gửi < lãi suất cho vay. 2.3. Lãi suất phải đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Nguyên tắc này hình thành trên cơ sở coi lãi suất là đòn bẩykinh tế. Điều kiện của nguyên tắc này là : tỷ lệ lạm phát < lãi suất tiền gửi < lãi suất cho vay < tỷ suất lợi nhuân bình quân của nền kinh tế Điều kiện lãi suất cho vay < tỷ suất lợi nhuận bình quân chỉ ra lãi suất cho vay của ngân hàng phải nhỏ hơn mức lợi nhuận bình quân của các ngành sản xuất vật chất trong nền kinh tế. Có như vậy mới bảo đảm các tổ chức kinh tế sau khi thu được lợi nhuận từ sản xuất kinh doanh, ngoài việc trả nợ ngân hàng sẽ còn lại một khoản lợi nhuận đảm bảo cho tái mở rộng sản xuất. Ngoài ra, lãi suất có thời hạn vay mượn càng dài thì càng cao do có mức độ rủi ro cao hơn. Đây là những nguyên tắc cơ bản để xác định mức lãi suất hợp lý. vai 3. Một số quan điểm hình thành chính sách lãi suất. 3.1. Quan điểm của trường phải cổ điển. Có nhiều quan điểm khác về chính sách lãi suất. Trường phái cổ điển với các đại biểu là NW Senior, Bond, Baweck, Masshall cho rằng lãi suất là yếu tố tự động bình quân theo quy luật cung cầu vốn - tiền tệ trên thị trường thông qua cơ chế điều chỉnh của NHTW và hệ thống NHTM . Trên cơ sở này, mức cầu tiền tệ trong nền kinh tế trong các thời kỳ khác nhau sẽ được thoả mãn một cách tự nhiên. Khi nền kinh tế tăng trưởng cao, dự trữ của NHTM đã được huy động hết cho đầu tư trong khi nền kinh tế vẫn còn cầu về tín dụng cao, NHTW sẽ cung cấp tiền cho hệ thống NHTM một lượng tiền cung ứng cần thiết cho nền kinh tế theo sự vận hành của quy luật tối đa hoá lợi nhuận. Các chủ thể kinh tế thoát khỏi tình trạng kẹt vốn cho đầu tư. Sự gia tăng của mức cần tiền được nguồn tiền tự nhiên đáp ứng sẽ không gây sức ép đối với lãi suất tín dụng vì ngân hàng sẽ không phải quá hao tổn sức lự c cho việc huy động tiền gửi cho đầu tư trung và dài hạn. Hạn chế của lý thuyết cổ điển là đã coi lãi suất như là nhân tố tạo ra sự cân bằng giữa nhu cầu đầu tư và tiết kiệm, là giá cả đơn thuần của đầu tư và coi nhẹ vai trò điều tiết của Nhà nước. Lý thuyết lãi suất có xu hướng bình quân tự nhiên của trường phái tự do cổ điển có ảnh hưởng tới nhiều nước phương Tây vào thế kỷ 19. 3.2. Quan điểm của trường phái Keynes. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 M.Keynes đã phê phán quan điểm của trường phái “lãi suất tự động bình quân” và chủ trương Nhà nước phải tham gia điều tiết lãi suất và tăng chi tiêu chính phủ khi cần thiết vào các chương trình mà nền kinh tế tư nhân không thể đảm nhận để kích thích sự tăng trưởng một cách liên tục. Trường phái này cho rằng, hạ lãi suất tín dụng luôn là đòn bẩy cho sự phát triển. Keynes lập luận : thay vì gia tăng huy động vốn bằng biện pháp thu hút ký thác, NHTW có thể làm gia tăng khối lượng tiền tệ để cung ứng cho đầu tư trong những thời kỳ mà mức cầu tiền tệ tăng cao bằng cách phát hành thêm giấy bạc hoặc giảm dự trữ bắt buộc đối với NHTM. Tổng khối lượng tiền tệ gia tăng sẽ làm giảm sức ép của mức cầu tiền tệ cho đầu tư và làm giảm lãi suất tín dụng. Lãi suất hạ làm “hiệu quả của tư bản” sẽ được nâng cao kích thích các doanh nghiệp, mở rộng đầu tư (trung và dài hạn) tạo sức bật cho tăng trưởng kinh tế. Tư tưởng của Keynes ảnh hưởng tới nền kinh tế Châu Âu và Bắc Mỹ cho đến thập niên 80. Những năm 80 đến đầu những năm 90 là thời kỳ thoái bộ của học thuyết hạ lãi suất của Keynes. Lượng cung tiền tệ dư thừa đã dẫn tới tình trạng lạm phát giá cả. Lúc đó lãi suất thấp không còn ý nghĩa trong huy động tiết kiệm và kích thích đầu tư. Tư tưởng này đã quá đề cao vai trò của Nhà nước mà coi nhẹ tính thị trường của lãi suất khiến cho lãi suất chưa thật sự linh hoạt. 3.3. Quan điểm trường phái chính hiện đại. Những năm 60-70 của thế kỷ 20, hình thành nên “kinh tế học truờng phái chính hiện đại” và giữ vai trò thống trị ở Mỹ và Tây Âu đến nay. Đại diện tiêu biểu cho trường phái này là Samuelson. Trong nền kinh tế hỗn hợp, một mức lãi suất tín dụng thực (sau khi đã trừ đi tỉ lệ lạm phát) thấp là đầu mốc của quá trình tăng trưởng kinh tế, kích thích đầu tư, vai trò đòn bẩy kinh tế của lãi suất được đề cao. Tuy nhiên Nhà nước phải kiểm tra lượng cung tiền tệ thông qua ấn định dự trữ và phát hành để tạo thành một hỗ trợ vững chắc cho chính sách lãi suất thấp có hiệu quả. 4. Vấn đề tự do hoá lãi suất. 4.1. Tự do hoá lãi suất là gì? Tự do hoá lãi suất là một bộ phận cơ bản của tự do hoá tài chính. ở đây, lãi suất được tự do biến động, phản ứng theo các lực lượng cung – cầu vốn trên thị trường, mức tiết kiệm thu nhập, chi tiêu cá nhân và những nhân tố khác, loại bỏ những áp đặt hành chính lên sự hình thành lãi suất, cho phép các ngân hàng tự chủ trong ấn định các mức lãi suất của mình. Khi đó NHTW tác động vào lãi suất chủ yếu dựa trên các công cụ kiểm soát tiền tệ gián tiếp ảnh hưởng như nghiệp vụ thị trường mở, tái chiết khấu, hợp đồng mua lại và một phần dựa vào áp đặt tỷ lệ dự trữ bắt buộc. 4.2. Tính tất yếu của tự do hoá lãi suất. . Tự do hoá tài chính mà hạt nhân là tự do hoá lãi suất đang ngày càng tỏ rõ những ưu điểm của nó. Trước hết, khi lãi suất được tự do hoá theo cung cầu về vốn, nó làm cho nguồn vốn trong nền kinh tế được phân bố hợp lý và hiệu quả. Tự do hoá lãi suất đem lại khả năng phân bổ nguồn vốn tín dụng khan hiếm cho hàng ngàn người vay cạnh tranh nhau, đáp ứng đúng thị hiếu của họ, đồng thời đảm bảo thu hút tiền gửi của hàng triệu người gửi với chi phí hợp lý, phù hợp với mục tiêu của cả ngân hàng và khách hàng gửi tiền. Điều này sẽ không thể có được trong điều kiện lãi suất bị kiểm soát trực tiếp. Bởi cũng giống như nhiều hình thức kiểm soát kinh tế khác trong hệ thống XHCN, kiểm soát lãi suất không có lợi cho cạnh tranh. Các tổ chức tín dụng kém hiệu quả có thể được bảo vệ từ sức ép tự do cạnh tranh. Mặc khác, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức là khó khăn lớn gắn với kiểm soát lãi suất. Cả hai loại rủi ro này đều có xu hướng nâng lãi suất lên và tăng rủi ro tín dụng. Lựa chọn đối nghịch chỉ ra khả năng kiểm soát lãi suất sẽ hấp dẫn nhiều doanh nghiệp chấp nhận rủi ro; nhiều doanh nghiệp lành mạnh sẽ bị loại ra khỏi thị trường tín dụng do không sẵn sàng trả mức lãi suất cao như các doanh nghiệp đang khó khăn rủi ro đạo đức phát sinh khi cơ chế kiểm tra giám sát yếu các hoạt động cho vay của ngân hàng, trong trường hợp người vay ngận được sự bảo trợ ngầm từ Chính phủ. Do đó, lãi suất tự do sẽ kích thích cho tăng trưởng tài chính, cải tiến và thay đổi cơ cấu mà Chính Phủ hoặc không thể quản lý hoặc chậm thu kết quả. Mặt khác, một vấn đề đặt ra là hiện nay các doanh nghiệp đòi hỏi hạ lãi suất trong khi ngân hàng muốn duy trì lãi suất hiện tại.Tự do hoá lãi suất sẽ làm lãi suất sẽ biến động linh hoạt theo sự phản ứng của thị trường tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh. Giảm thiểu những tranh luận xã hội trong giới tài chính khi xem xét tính hợp lý hay bất hợp lý của lãi suất áp đặt đồng thời buộc NHTW thay đổi tư duy làm việc chuyển sang sử dụng các công cụ điều hành gián tiếp. Hơn nữa, trong xu thế phát triển chung Toàn cầu hoá và Quốc tế hoá của nhân loại, Việt Nam không thể đặt mình ngoài cuộc. Trong quá trình này hội nhập và phát triển kinh tế mà điển hình là toàn cầu hoá tài chính, chiếm vai trò chủ đạo. Sự phát triển vượt bậc của khoa học, công nghệ hiện đại, sự nỗ lực hết mình của các quốc gia trẻ trong cạnh tranh và thu hút vốn tăng làm cho luồng vốn quốc tế vận động mạnh mẽ linh hoạt từ nước này qua nước khác tự do hơn. Điều này cho phép nhiều quốc gia trẻ có thể tận dụng được nguồn vốn quốc tế, trình độ tiên tiến của các nước đi trước cho quá trình phát triển kinh tế – xã hội của mình. Đây là cơ hội lớn cho mỗi quốc gia nhưng đồng thời tự do hoá tài chính đem lại nhiều vấn đề đáng quan tâm khác như : khả năng xói mòn và suy giảm hiệu quả của việc thực thi Chính sách tiền tệ thông qua các công cụ điều hành trực tiếp.Vì thế sử dụng các công cụ tiền tệ gián tiếp đã và đang được Chính phủ các nước sử dụng như là công cụ định hướng thị trường và tiến tới tự do hoá tài chính. Bên cạnh đó, tự do hoá cho phép hệ thống ngân hàng tự chủ hơn, dẫn tới lãi suất tiền gửi và tiền vay cao hơn. Những thay đổi do tự do hoá tài chính tác động tới các doanh nghiệp và hộ gia đình khiến họ thay đổi hành vi tiết kiệm và đầu tư của mình theo hướng có lợi cho tăng trưởng kinh tế. Tăng lãi suất tiền gửi sẽ làm tăng tỷ lệ tiết kiệm nội địa, thay thế cho nguồn vốn vay nước ngoài tài trợ cho đầu tư. Nguồn tiết kiệm nội địa này được truyền tải thông qua hệ thống Tài chính – Ngân hàng chính thức. Tiết kiệm trong nước tăng lên và mức lãi suất cao hơn dẫn tới mở rộng đầu tư và tăng hiệu quả đầu tư. Như vậy, tự do hoá không chỉ là vấn đề mang tính thời đại mà còn là tất yếu. Tự do hoá lãi suất là cần thiết cho bất cứ quốc gia nào mong muốn phát triển nền kinh tế của nước mình một cách lành mạnh. 4.3. Các loại hình tự do hoá lãi suất. Trong cơ chế tự do hoá lãi suất, nếu Nhà nước hoàn toàn không can thiệp đến hệ thống lãi suất thị trường thì đó là cơ chế lãi suất tự do hoá hoàn toàn( thả nổi hoàn toàn). Nếu Nhà nước có tham gia can thiệp gián tiếp theo một định hướng xác định thì đó được coi là cơ chế tự do hoá có sự điều tiết. 4.4. Kinh nghiệm một số nước đi trước và một số tác động tiêu cực của Tự do hoá lãi suất. Từ thập niên 70, xu hướng chung của thế giới là bãi bỏ lãi suất ấn định có tính chất hành chính để chuyển sang lãi suất thả nổi. Nhiều nước phát triển và đang phát triển đã từng bước thực hiện các bước để Tự do hoá lãi suất hệ thống tài chính. Thực thế cho thấy kiểm soát lãi suất đã làm giảm vai trò trung gian tài chính, hình thành và phát triển nhanh các thị trường tài chính phi chính thức và các tổ chức phi ngân hàng làm cho các nguồn taì chính không được chuyển tải tới các hoạt động có hiệu quả nhất. Tự do hoá tài chính, đặc biệt là tự do hoá lãi suất là bước đi quan trọng góp phần huy động nguồn lực thông qua hệ thống tài chính chính thức, nâng cao hiệu quả của hệ thống tài chính, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Quá trình này chịu tác động bởi nhiều yếu tố, phụ thuộc vào điểm xuất phát và hoàn cảnh quốc tế của mỗi nước trong từng giai đoạn. Xem xét quá trình này ở Malaysia, từ 1981 nước này đã cho phép các ngân hàng thương mại tự xác định mức lãi suất cơ bản của mình dựa trên cơ sở chi phí thực tế. Nhưng ngay sau đó NHTW Malaysia đã nhận thấy trong điều kiện thị trường tiền tệ chưa thực sự phát triển quyết định trên có thể dẫn tới khả năng cạnh tranh quá mức giữa các ngân hàng, đe doạ sự an toàn của hệ thống ngân hàng thương mại. Năm 1987, Malaysia đã chuyển sang điều hành lãi suất theo hướng vừa đảm bảo sự phối hợp chỉ đạo của NHTW, vừa đảm bảo quyền tự chủ trong một khuôn khổ nhất định cho các ngân hàng thương mại. Nhờ đó lãi suất được quản lý theo sự biến động linh hoạt của thị trường, vừa đảm bảo an toàn cho sự hoạt động của hệ thống ngân hàng. Nhật Bản, bên cạnh lãi suất có tính chất định hướng là lãi suất chiết khấu, NHTW Nhật đã áp dụng một số lãi suất có sự điều tiết được xây dựng trên cơ sở lãi suất chiết khấu và lãi suất cơ bản trở thành sàn lãi suất cho vay nhằm bảo đảm an toàn cho hệ thống. Ngoài ra, một số loại lãi suất khác như lãi suất thị trường liên ngân hàng, lãi suất thị trường mở được xác định tự do tuỳ thuộc cung cầu về vốn trên thị trường. Một số nước khác như Anh, Mỹ lãi suất được điều hành theo cơ chế tự do hoá hoàn toàn. Lãi suất công bố hoàn toàn dựa trên cung cầu về vốn trên thị trường tiền tệ, đặc biệt là chú trọng lãi suất chào hàng trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng như LIBOR, SIBOR, PIBOR... Những nước này, thị trường tài chính tiền tệ rất phát triển. Một sự biến động nào trên thị trường tài chính tiền tệ cũng có thể đưa NHTW can thiệp với đầy đủ các công cụ và chế tài sắc bén Bên cạnh những khả năng tích cực do tự do hoá lãi suất mang lại, một số quốc gia bên con đường tự do hoá tài chính gặp phải một số nguy cơ. Chẳng hạn như ở Argentina, Chi Lê, Urugoay lãi suất thực đã tăng lên ở mức rất cao. Sự tăng lên này không những không khuyến khích đầu tư, làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn dẫn tới sự phá sản hàng loạt doanh nghiệp, khủng hoảng hệ thống tài chính và bất ổn vĩ mô. Trong điều kiện thị trường tài chính còn kém phát triển, tự do hoá lãi suất có thể khuyến khích NHTM, đặc biệt là các NHTM CP chấp nhận những khoản cho vay có rủi ro cao. Đồng thời loại bỏ kiểm soát đối với cán cân vốn trong bối cảnh kinh tế bất ổn làm cho lãi suất tăng lên và gây ra khả năng phá giá đồng bản tệ, từ đó làm các luồng vốn quốc tế đổ vào nhiều làm tăng áp lực lạm phát, giảm hiệu quả của chính sách tiền tệ. Tóm lại, những tác động bên trong và bên ngoài đòi hỏi tự do hoá lãi suất phải thận trọng. Tự do hoá lãi suất phải được tiến hành từng bước, gắn liền với đổi mới toàn bộ nền kinh tế và tự do trong các lĩnh vực khác, đồng thời củng cố hành lang pháp lý, nâng cao trình độ quản lý nền kinh tế. Phần II. thực trạng Về lãi suất ở Việt Nam 1. Thực trạng thị trường vốn – tiền tệ. Việt Nam với số dân gần 80 triệu hứa hẹn một tiềm lực vốn lớn. Tuy nhiên, mặc dù tiềm lực vốn trong dân có nhiều nhưng vốn huy động cho phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam, đặc biệt là vốn cho đầu tư trung và dài hạn còn là một vấn đề lớn. Theo báo cáo của tổng cục thống kê và Bộ kế hoạch và đầu tư, tỷ lệ người gửi tiền ở nước ta năm 1998 chiếm 17% dân số. Vẫn còn bộ phận lớn vốn còn nằm lại trong dân cư tồn tại dưới các hình thức phi kinh tế dưới dạng vàng, ngoại tệ dự trữ: 44%, đất đai và nhà ở: 20%. Chỉ có khoảng 19% tổng nguồn vốn trong dân cư được đầu tư và mang tính tự phát kinh tế hộ gia đình. Điều này cho thấy sức hút của các NHTM và các TCTD chưa đủ mạnh. Những năm gần đây, yêu cầu của quá trình CNH – HĐH đòi hỏi một nguồn vốn lớn. Xuất phát từ nhu cầu đó, Nhà nước đã mở rộng các hình thức huy động vốn trong dân cư thông qua hàng loạt các hình thức tiết kiệm ngắn hạn và dài hạn với lãi suất tương đối phù hợp với sự biến động của thị trường cùng với sự tăng cường hoạt động của các thị trường tiền tệ. Nhờ đó tốc độ dù mức độ huy động vốn thông qua hoạt động của hệ thống NH & TCTD có tăng lên. Tuy nhiên nhìn chung, vốn vẫn còn ứ đọng trong dân cư với số lượng lớn dưới hình thức phi kinh tế. Thị trường tài chính tiền tệ còn thật sự chưa phát triển. Thị trường liên ngân hàng ra đời từ 1993 nhưng hoạt động một cách yếu ớt và thiếu hiệu quả. Đặc biệt kể từ 1996 đến nay, tình trạng sử dụng vốn tín dụng lẫn nhau giữa các TCTD hầu như không đáng kể. Mặt khác, các giao dịch phần lớn mang tính một chiều và hình thành nên hai nhóm khách hàng chủ yếu: các ngân hàng cho vay là các NHTMQD và các ngân hàng đi vay là các ngân hàng nước ngoài và các NHTMCP. Kèm theo đó lãi suất cũng chỉ được công bố một chiều nên thị trường thiếu tính chuyên nghiệp. Kinh doanh vốn ở một số NHTM chưa mang tính thị trường, độ nhạy của lãi suất đối với thị trường tiền tệ liên ngân hàng còn rất thấp. Thị trường mở và thị trường chứng khoán mới chỉ đi vào hoạt động được hơn một năm. Nhìn chung trên thị trường mở, các TCTD vẫn chưa tham gia thường xuyên vào các phiên giao dịch mà chủ yếu là các NHTMQD do có nhiều lợi thế hơn nhờ vay được với giá rẻ so với các NHTMCP. Hàng hoá trên thị trường mở vẫn còn chưa phong phú, chỉ dừng lại tập trung ở tín phiếu NHTW và tín phiếu KBNN. Giao dịch trên thị trường chứng khoán mặc đã có những biểu hiện sôi động hơn kể từ phiên giao dịch đầu tiên song nhìn chung khối lượng giao dịch vẫn nhỏ. Một vấn đề không thể bỏ qua khi nhắc tới đặc điểm thị trường tài chính Việt Nam chính là tính không đồng nhất. Lãi suất có sự phân biệt khá rõ xuất phát từ tình trạng nhu cầu tín dụng khác nhau giữa các vùng khác nhau. Những đặc điểm trên đây có vai trò khá quan trọng đối với NHNN trong quá trình thực hiện vai trò quản lý vĩ mô, thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, trong đó có chính sách lãi suất. 2. Chính sách lãi suất ở Việt Nam. 2.1. Chính sách lãi suất Việt Nam từ sau đổi mới đến nửa đầu năm 2000. Việt Nam hiện nay đang trên con đường thị trường hoá và hướng ngoại nền kinh tế. Tốc độ và sự thành công trong các chính sách kinh tế phục vụ tăng trưởng phụ thuộc quan trọng vào sự điều tiết và cân đối vĩ mô của chính phủ. Để điều tiết và định hướng nền kinh tế, Nhà nước không thể không nắm lâý công cụ lãi suất và kiểm soát lượng cung tiền tệ. Những chính sách khác nhau được đưa ra vào những thời điểm khác nhau đã có những tác động to lớn tới nền kinh tế. Chính sách lãi suất của Nhà nước ta mười năm qua đã được đổi mới mạnh mẽ, thận trọng và từng bước phù hợp với từng giai đoạn. Đánh giá lại quá trình đổi mới chính sách lãi suất thời gian qua là để giúp chúng ta hình dung rõ nét những thành công và hạn chế, từ đó rút ra được những kinh nghiệm cho một chính sách lãi suất mới thích hợp hơn trong tương lai. Có thể nói, trước 1986, nước ta thực sự chưa tồn tại một chính sách lãi suất theo đúng nghĩa. Một biểu lãi suất đư ợc quy định rất chi tiết theo quyết định 85/QĐ-NH(10.1982) được cố định trong nhiều năm là kết quả của việc áp dụng gần như nguyên mẫu mô hình cũ của Liên Xô. Thậm chí, có nhiều loại cho vay với mức lãi suất giống hệt Liên Xô. Điều này dường như hết sức vô lý song lại rất logic trong điều kiện kinh tế Việt Nam lúc bấy giờ. Giai đoạn 1986-1989, chính sách lãi suất có những bước đột phá đầu tiên với quyết định 125/QĐ- NH trên cơ sở sửa đổi và thay thế một số mức lãi suất đã tạo ra sự thay đổi căn bản trong tư tưởng chỉ đạo điều hành chính sách lãi suất của Việt Nam. Lãi suất được công nhận như là một công cụ điều tiết vĩ mô và kiểm soát lạm phát. Tuy nhiên, nguyên tắc hình thành lãi suất bị vi phạm nghiêm trọng, đẩy lãi suất thời kỳ này luôn trong trạng thái âm. Biểu lãi suất được quy định quá chi tiết, tỷ mỉ, gây khó khăn phức tạp cho việc thực hiện. Thực tế, chính sách lãi suất trong giai đoạn này ở tình trạng chung là: cả người gửi tiền, ngân hàng và doanh nghiệp đều lỗ. Những khoản lỗ này được Nhà nước bù đắp cho ngành Ngân hàng và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bằng hai hình thức : phát hành tiền và vay nợ nước ngoài càng làm cho tình trạng khó khăn hơn. Từ tháng 10.1986 đến tháng 7.1987, mặc dù NHTW đã ba lần điều chỉnh lãi suất nhưng chính sách lãi suất vẫn chưa thực sự là một công cụ hữu hiệu của chính sách tiền tệ. Tháng 3.1989, quyết định số 39/HĐBT đã công nhận những nguyên tắc hình thành lãi suất, chủ động chuyển lãi suất âm qua lãi suất dương. Để thu hút tiền thừa trong lưu thông, kiềm chế lạm phát, tránh bao cấp qua lãi suất ngân hàng, NHTW đã nâng lãi suất huy động lên mức rất cao trong một thời gian ngắn( lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn là 9%/ tháng,kỳ 3 tháng là 12%/ tháng). Từ 1992 trở đi, lãi suất thực sự bước sang giai đoạn mới. Quyết định ngày 1.6.1992 do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành đã đảm bảo cho lãi suất thực tế dương, lãi suất cho vay không thấp hơn lãi suất tiền gửi. Có thể nói, việc chuyển từ lãi suất âm qua lãi suất dương có tác dụng quan trọng, xoá bỏ tình trạng bao cấp tín dụng trước đây, tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại thực sự chuyển sang kinh doanh có hiệu quả, có chiến lược huy động vốn mạnh mẽ với phương châm ‘ ngân hàng đi vay để cho vay’ , đa dạng hoá các hình thức huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế. Năm 1994, NHNN chủ trương hạ lãi suất nhưng không thực hiện được. Giai đoạn này, NHNN vừa áp dụng lãi suất trần ( cho vay) vừa áp dụng lãi suất thoả thuận. Trần lãi suất cho vay đối doanh nghiệp nhà nước là 1,8%/ tháng, đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là 2,1%/ tháng. Trường hợp ngân hàng không huy động đủ vốn cho vay theo lãi suất quy định phải phát hành kỳ phiếu với lãi suất cao hơn thì được áp dụng lãi suất thoả thuận. Lãi suất huy động có t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0797.doc
Tài liệu liên quan