Lá số tiền định của Kim Lăng Thập Nhị Kim Thoa trong Hồng Lâu Mộng

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH CHU CHIÊU LINH LÁ SỐ TIỀN ĐỊNH CỦA KIM LĂNG THẬP NHỊ KIM THOA TRONG HỒNG LÂU MỘNG Chuyên ngành: Văn học nước ngồi Mã số: 60 22 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TRẦN XUÂN ĐỀ Thành phố Hồ Chí Minh – 2007 LỜI CẢM ƠN  Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc PGS. TRẦN XUÂN ĐỀ, người trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tơi trong quá trình thực hiện luận văn.  Tơi xin chân thành cảm ơn

pdf100 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3595 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Lá số tiền định của Kim Lăng Thập Nhị Kim Thoa trong Hồng Lâu Mộng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
: - Các giáo sư đã giảng dạy, - Ban Giám hiệu, Phịng Khoa học Cơng nghệ Sau đại học, Ban Chủ nhiệm khoa Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, - Quý Thầy Cơ khoa Trung Văn Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, - Ban Chủ nhiệm cùng quý Thầy Cơ khoa Ngoại Ngữ Trường Đại học Tơn Đức Thắng, - Gia đình, bạn bè và đồng nghiệp Đã tạo điều kiện giúp đỡ tơi hồn thành luận văn này. CHU CHIÊU LINH TÀO TUYẾT CẦN (1715? – 1763?) CAO NGẠC (1738? – 1815?) MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Tào Tuyết Cần sáng tác Hồng lâu mộng khơng nhằm mục đích tạo dấu ấn riêng trên bức tường của sự lãng quên. Nhưng từ khi tác phẩm ra đời và chịu sự thử thách của thời gian, đến nay kiệt tác này đã chứng tỏ được mình là viên đá nặng nhất trong tịa lâu đài văn học của đất nước Trung Hoa chứ khơng phải là viên đá vơ dụng khơng đủ tài vá trời phải nằm lăn lĩc dưới chân núi Thanh Ngạnh. Cùng với thời gian, việc thưởng thức, đánh giá, tranh luận, viết tiếp cùng các hoạt động dịch thuật … đã khẳng định vị trí và giá trị của danh tác Hồng lâu mộng trên văn đàn thế giới. Phùng Kỳ Dung – nhà hồng học Trung Quốc, đồng thời là chủ biên học san Hồng lâu mộng đã dành cho “tuyệt thế kỳ thư” này lời nhận xét đầy trân trọng: “Hồng lâu mộng là một thiên ly tao khơng vần. Từ khi Hồng lâu mộng ra đời, tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc khơng cịn xuất hiện tác phẩm nào khác cĩ thể vượt qua nĩ. Hồng lâu mộng là một tác phẩm thiên cổ tuyệt bút, tiền bất kiến cổ nhân, hậu bất kiến lai giả” [chuyển dẫn 69, tr.3]. Dịch giả Maria Carnoguska người Slơvakia hết lời ngợi ca tác phẩm: “Hồng lâu mộng là một bộ tiểu thuyết thiên tài, là bản giao hưởng giữa thơ và văn xuơi, là một bộ bách khoa tồn thư vĩ đại tập trung tất cả nền văn hĩa quan trọng vốn cĩ của Trung Quốc, nĩ là một quyển tiểu thuyết chứa đựng thế giới quan và triết lý nhân sinh quan trọng – mà một tác phẩm văn học ở vị trí “đại sư” như thế này khơng cĩ ở bất cứ nơi nào trên thế giới” [chuyển dẫn 69, tr.4]. Nhật Chiêu khẳng định: “Nghệ thuật của Hồng lâu mộng trác tuyệt ở chỗ nĩ tự nhiên như chính đời sống đến mức gần như “phi nghệ thuật”. Hầu như khơng cĩ dấu vết của cơng phu và nhân tạo. Vậy mà hễ chạm vào nĩ là mê: Hồng mê” [13, tr. 175]. Những lời nhận xét đánh giá trên cho thấy Hồng lâu mộng đã vượt qua ranh giới quốc gia, thơng qua dịch thuật lại vượt lên trên chủng loại ngơn ngữ, tiếp theo là vượt qua những khác biệt về tập quán xã hội và mối quan hệ giữa người và người vốn được hình thành theo khu vực địa lý, lịch sử để được người đọc khắp nơi đĩn nhận. Thế nhưng, theo Chu Nhữ Xương – nhà nghiên cứu Hồng lâu mộng thuộc thế hệ Tân hồng học thì: “Hồng lâu mộng khơng phải là một tác phẩm dễ đọc, dễ hiểu” [chuyển dẫn 69, tr.332]. Đây tuyệt đối khơng phải là lời phát biểu khinh suất mà nhận định này xuất phát từ kinh nghiệm thực tế của cả đời ơng khi nghiên cứu Hồng lâu mộng. Theo nhận xét chủ quan của người viết, Hồng lâu mộng khĩ đọc khơng phải chỉ vì phạm vi phản ánh của tác phẩm quá rộng: “Hồng lâu mộng phản ánh kiến trúc thượng tầng từ phong tục, tập quán, đạo đức, giáo dục, văn hĩa, hội họa, y học, ẩm thực, phục trang cho đến các quan điểm triết học, tơn giáo, kinh học, sử học …” [60, tr.82] mà cịn do đặc thù ngơn ngữ và tính dân tộc sâu sắc của tác phẩm. Như chúng ta đã biết “văn chương là nghệ thuật dùng ngơn từ làm phương tiện biểu đạt” [27, tr.10]. Trong khi đĩ, ngơn ngữ lại là kết tinh của văn minh nhân loại. Do đĩ, một tác phẩm viết bằng ngơn ngữ dân tộc nào, tất nhiên nĩ sẽ phản ánh truyền thống, văn hĩa, cách sống, lối suy nghĩ của dân tộc đĩ. Thơng qua Hồng lâu mộng, Tào Tuyết Cần đã chứng tỏ được khả năng khai thác tiềm năng ngơn ngữ, văn hĩa của dân tộc mình. Nhưng cũng chính những hạt nhân văn hĩa đậm đặc trong tác phẩm đã làm hạn chế cái hay của bản dịch. Dịch giả – nhà Hán học người Anh David Hawkes phải thừa nhận trong lời tựa bản dịch tiếng Anh “The story of the stone”: “Nếu như tơi cĩ thể truyền đạt lại phần nào cảm giác thỏa mãn của tơi về bộ tiểu thuyết Trung Hoa này cho độc giả thì thật sống khơng uổng kiếp này”[chuyển dẫn 69, tr.298]. Lời tâm sự chân thành trên cho thấy dịch Hồng lâu mộng là một cơng việc đầy khĩ khăn. Liên hệ đến bản dịch Hồng lâu mộng ở Việt Nam, chúng tơi nhận thấy: Tuy Việt Nam và Trung Quốc cĩ nhiều điểm tương đồng về văn hĩa, ngơn ngữ, văn tự … nhưng từ khi Latinh hĩa tiếng Việt thành cơng, chữ Quốc ngữ ra đời thay thế chữ Hán, chữ Nơm và việc dùng chữ Quốc ngữ để ghi lại tiếng Việt theo nguyên tắc ghi âm, đã ghi lại một cách chính xác, đơn giản, thuận tiện, kinh tế hơn chữ Nơm. Nhưng cũng chính những thuận lợi này đã khiến cho thế hệ trẻ ngày nay gặp khơng ít khĩ khăn khi tìm hiểu văn học cổ nước nhà, càng khĩ khăn hơn khi tiếp xúc với văn học Trung Quốc nĩi chung và Hồng lâu mộng nĩi riêng. Mặt khác, Trung Hoa là một đất nước khơng chỉ nổi tiếng về nền văn hĩa lâu đời, phong phú mà nền văn hĩa ấy cịn hấp dẫn các dân tộc khác ở tính chất thần bí sâu đậm của nĩ. Những câu chuyện về ẩn sĩ tiên nhân, kỳ mơn độn giáp, tiên tri cấm kỵ, xem tướng đốn chữ … luơn là một mạch ngầm tuơn chảy suốt hàng ngàn năm trong đời sống tư tưởng người dân Trung Quốc. Hấp thu tinh hoa văn hĩa truyền thống và chịu sự ảnh hưởng của những tác phẩm ra đời trước, Tào Tuyết Cần đã dệt nên chiếc áo mang màu sắc thần bí để khốc lên kiệt tác Hồng lâu mộng. Nếu khéo léo kéo nĩ xuống, chúng ta dễ dàng nhận ra: “Tào Tuyết Cần khơng phải là người mê tín và Hồng lâu mộng là một tác phẩm rất hiện thực” [65, tr.48]. Chính vì những lí do trên, cùng với việc xuất phát từ gĩc độ người đọc Hồng lâu mộng thơng qua bản dịch, chúng tơi hiểu được những khĩ khăn mà độc giả Việt Nam gặp phải khi thưởng thức danh tác này. Vì thế, chọn đề tài “Lá số tiền định của Kim Lăng thập nhị kim thoa trong Hồng lâu mộng”, chúng tơi mong muốn gĩp phần nhỏ vào quá trình “giải mã” tác phẩm, nhằm giúp người đọc cĩ thể cảm nhận Hồng lâu mộng một cách thấu đáo hơn. Đồng thời, người viết cũng mong muốn thơng qua việc tìm hiểu “tuyệt thế kỳ thư” này để khơi dậy nhiệt tình của bản thân trong việc nghiên cứu rộng hơn và sâu hơn những bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa. 2. Lịch sử vấn đề. Cĩ những tác phẩm văn học thiên tài, kết tinh văn hĩa tinh thần của một đất nước, phơ bày vẻ đẹp của một thứ tiếng, biểu hiện tài hoa của một dân tộc. Chúng chẳng những trở thành niềm đam mê tự hào của dân tộc đĩ mà cịn là chiếc cầu nối đem lại bao nhiêu tình yêu và lịng kính trọng của các dân tộc khác. Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần là một tác phẩm như thế. Cĩ lẽ vì thế mà trong khối lượng đồ sộ tiểu thuyết đời Thanh “Hồng lâu mộng được nghiên cứu đầy đủ nhất, tỉ mỉ nhất” [61, tr.35]. Thế nhưng, ý thức tư tưởng và ý thức xã hội phát triển đến đâu thì sự nghiên cứu và khám phá tác phẩm sẽ phát triển đến đĩ. Cho nên, từ khi ra đời đến nay, cuộc sống và ý nghĩa của Hồng lâu mộng luơn nằm trong thế khả năng, trong sự tiếp thu của người đọc từ mơi trường này sang mơi trường khác, từ thời đại này sang thời đại khác. Chính điều này đã gĩp phần gợi mở và làm phong phú thêm cho bản thân tác phẩm. Mặt khác, người đọc yêu mến Hồng lâu mộng khơng ngừng gia tăng khiến cho những cơng trình nghiên cứu Hồng lâu mộng càng trở nên đồ sộ, phong phú, đa dạng và kỹ lưỡng. Vì thế, chúng tơi khĩ lịng bao quát hết tài liệu đã được cơng bố. Do đĩ, chúng tơi khơng đặt cho mình nhiệm vụ khảo sát hết các cơng trình nghiên cứu về Hồng lâu mộng mà chỉ tổng thuật những vấn đề cĩ liên quan đến đề tài. Lịch sử nghiên cứu, phê bình Hồng lâu mộng bắt đầu ngay từ khi tác phẩm cịn dang dở. Trong quyển “Chi Nghiễn Trai Hồng lâu mộng tập bình”, nhà Hồng học Du Bình Bá đã thu thập được khoảng ba ngàn lời bình. Sau Chi Nghiễn Trai, hoạt động nghiên cứu Hồng lâu mộng ngày càng sơi nổi hình thành nên ngành nghiên cứu gọi là Hồng học. Lịch sử Trung Quốc trải qua mấy nghìn năm nhưng bất cứ cái gì từ khởi thủy đến giờ đều cĩ thể truy tầm được. Lịch sử nghiên cứu Hồng lâu mộng cũng liên tục như thế nên chúng ta cĩ thể tìm về và dõi theo từng chặng đường phát triển của quá trình nghiên cứu Hồng lâu mộng của các học giả Trung Quốc. Sau phái điểm bình Hồng lâu mộng mà đại diện là Chi Nghiễn Trai thì đến nhĩm Cựu Hồng học, tiêu biểu là phái “Sách ẩn”, đại diện là Vương Mộng Nguyễn, Thẩm Bình Am với “Hồng lâu mộng sách ẩn”, Thái Nguyên Bồi với “Thạch đầu ký sách ẩn”. Những nhà Hồng học này cho rằng Hồng lâu mộng viết về người thật, việc thật trong lịch sử nên chỉ cần tìm tịi, khảo chứng được câu chuyện là cĩ thể hiểu được ý nghĩa thực sự của tác phẩm. Trong quyển “Sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc”, Lỗ Tấn đã thống kê cĩ tất cả là ba thuyết được lưu truyền rộng rãi: Thuyết gia sự của Nạp Lan, Thành Đức; thuyết cố sự giữa vua Thanh Thế Tổ và bà Đổng Ngạc Phi; thuyết tình hình chính trị đời Khang Hy [54, tr.309-310]. Chính vì mỗi nhà nghiên cứu đưa ra một nguyên mẫu khác nhau nên khơng chỉ tạo nên sự khiên cưỡng, phụ họa mà cịn cho thấy sự mâu thuẫn giữa các thuyết trên. Đồng thời, thực tiễn cũng khơng thừa nhận những tìm tịi, suy đốn vơ căn cứ của họ. Trào lưu nghiên cứu Hồng lâu mộng sau cuộc vận động Ngũ Tứ đến năm 1954, Hồ Thích với “Hồng lâu mộng khảo chứng”, Du Bình Bá với “Hồng lâu mộng biện” là những đại diện tiêu biểu cho nhĩm Tân hồng học. Tân hồng học ra đời khi chủ nghĩa lịch sử xuyên thấm vào mọi ngành khoa học. Trong thời kỳ này thịnh hành quan niệm tác phẩm văn học dùng để ký thác tâm sự, do đĩ người ta luơn cố tìm hiểu mối quan hệ giữa nhà văn và tác phẩm. Xuất phát từ gĩc độ này, phái Tân hồng học đã phê phán cách nghiên cứu của phái “Sách ẩn”, cho đĩ là phương pháp duy tâm tư sản, họ chủ trương tìm hiểu tác phẩm thơng qua thân thế và cuộc đời riêng của tác giả. Bằng phương pháp khảo chứng họ rút ra kết luận Hồng lâu mộng chính là tự truyện của Tào Tuyết Cần, nhà họ Giả chính là nhà họ Tào, Giả Bảo Ngọc chính là Tào Tuyết Cần. Vào thời điểm ấy, cách nghiên cứu trên là tự nhiên và hợp lý. Tuy vậy, phương pháp này chỉ mới thấy được cái trực tiếp ngẫu nhiên mà chưa thấy được cái gián tiếp tất yếu cĩ ý nghĩa quyết định đến chân giá trị của tác phẩm. Vì vậy, phái Tân hồng học khĩ đi đến những kết luận mang tính khoa học và khơng thấy được sự ảnh hưởng của thời đại, của cuộc sống đối với sự hình thành tác phẩm. Thế nhưng, những khảo chứng của phái Tân hồng học cũng đã đĩng gĩp rất nhiều cho việc tìm hiểu thân thế Tào Tuyết Cần và khẳng định tính hiện thực của tác phẩm. Những hạn chế của Cựu và Tân hồng học là do chịu ảnh hưởng của truyền thống kinh học Nho gia. Đứng trước một tác phẩm văn học ưu tú, người ta thích tìm những vi ngơn đại ngữ nằm ngồi tác phẩm chứ khơng chịu thừa nhận một tác phẩm văn học dựa vào đời sống hằng ngày để viết ra nhưng bản thân nĩ lại bao hàm những giá trị bất hủ. Vào những năm 20 của thế kỷ XX, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác, việc nghiên cứu Hồng lâu mộng đã cĩ những thành tựu đáng kể. Nổi bật là Thái Ngu, Vương Cơn Luân với bài viết phân tích trực tiếp về hình tượng nhân vật Lâm Đại Ngọc, Tiết Bảo Thoa, Vương Hy Phượng, những bài viết trên cho thấy họ đã thâm nhập vào tác phẩm và xem nhân vật là sáng tạo văn học của nhà văn. Thái Ngu chỉ ra rằng “Bi kịch của Lâm Đại Ngọc là do mâu thuẫn giữa tính cách và thời đại” [chuyển dẫn 68, tr.50]. Kết luận trên cho thấy Thái Ngu là người đọc đầu tiên thấu hiểu hình tượng nhân vật Lâm Đại Ngọc. Quan điểm này của ơng được nhiều nhà nghiên cứu sau này kế thừa. Cịn Vương Cơn Luân thì dùng một câu để khái quát sức hấp dẫn của hình tượng nhân vật Vương Hy Phượng: “Hận Phượng Thư, mắng Phượng Thư, khơng thấy Phượng Thư lại nhớ Phượng Thư” [chuyển dẫn 74, tr.41], và bài viết của ơng về nhân vật Vương Hy Phượng đến nay vẫn cịn giá trị tham khảo. Năm 1954, Lý Hy Phàm cho đăng bài “Lâm Đại Ngọc và Tiết Bảo Thoa – hai điển hình đối lập trong Hồng lâu mộng” trên tạp chí Tân quan sát kỳ 23 nhằm phản bác quan điểm “Thoa – Đại hợp nhất” của Du Bình Bá, bài viết nêu: “Lâm Đại Ngọc và Tiết Bảo Thoa là hai tính cách hồn tồn đối lập nhau, thể hiện hai lực lượng xã hội khác nhau, Lâm Đại Ngọc là kẻ phản nghịch trong xã hội phong kiến, theo đuổi lý tưởng sống cao đẹp, yêu cầu được tự do phát triển cá tính do đĩ tạo nên mâu thuẫn với thế lực phong kiến, cuối cùng dẫn đến bi kịch. Cịn Tiết Bảo Thoa là kẻ kiên quyết bảo vệ chế độ phong kiến, cĩ đầy đủ “đức” “tài” như yêu cầu của lễ giáo phong kiến” [chuyển dẫn 68, tr.50]. Đây là những bài viết đầu tiên đánh dấu bước tiến mới trong việc nghiên cứu Hồng lâu mộng. Năm 2000, giới văn học Trung Quốc đã cĩ một hoạt động lớn kỷ niệm 100 ra đời nền văn học mới Trung Quốc (tính từ Lỗ Tấn) và 100 năm dịch thuật văn học Phương Tây tại Trung Quốc, bên cạnh những vấn đề hiện đại đĩ, cĩ hoạt động đánh giá lại Hồng học (theo [29]). Hai thập niên cuối thế kỷ XX, giới nghiên cứu phê bình văn học Trung Quốc trên cơ sở “phản tư”, họ nhận thấy lý luận văn học lạc hậu so với sáng tác văn học, vì thế họ ra sức giới thiệu thành tựu của lý luận và phương pháp nghiên cứu văn học Âu Mỹ cho giới nghiên cứu trong nước. Từ đĩ việc vận dụng phương pháp mới, khám phá tác phẩm dưới gĩc độ văn hĩa, mỹ học, triết học, tâm lý học, chủ nghĩa nữ quyền, chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa cấu trúc, phê bình mới, hiện tượng học, giải thích học … đạt nhiều thành tựu đáng kể. Những phương pháp nghiên cứu này cũng được vận dụng để nghiên cứu Hồng lâu mộng và đã mở ra nhiều cánh cửa, nhiều gĩc độ để người đọc khám phá ra nhiều điều mới mẻ từ bản thân tác phẩm. Trương Thụy Nga và Trần Đức Dụng trong bài “Do nữ tính chủ nghĩa khán “Hồng lâu mộng” phán từ đích Anh dịch”[76] cho rằng Hồng lâu mộng được Tào Tuyết Cần sáng tác trên lập trường, tiêu chuẩn nữ tính. Xuất phát từ quan điểm cơ bản của chủ nghĩa nữ tính là sự bình đẳng giới. Nhưng trong xã hội đương thời, sự phân biệt giới tính, phân biệt đối xử đã dẫn đến sự bất bình đẳng giữa hai giới. Nhận thức được sự bất bình đẳng đĩ, Tào Tuyết Cần lên tiếng ca ngợi và bênh vực nữ giới. Dưới gĩc độ văn hĩa Trương Diễm Bình trong bài “Thí luận Lão Trang tư tưởng đối “Hồng lâu mộng” đích ảnh hưởng” cho rằng văn học cổ đại Trung Quốc chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng Lão Trang và Hồng lâu mộng cũng nằm trong khuynh hướng đĩ. “Bất luận là chủ đề bài “Hảo liễu ca” hay hình tượng nhân vật chính Giả Bảo Ngọc đều chịu ảnh hưởng sâu sắc triết học nhân sinh Lão Tử. Đồng thời quan niệm về sống chết và những mối quan hệ trong luật quy luật phát triển của sự vật cũng ảnh hưởng sâu sắc đến Hồng lâu mộng” [77, tr.87]. Xuất phát từ cội nguồn văn hĩa Trung Quốc, yếu tố văn hĩa âm dương truyền thống Trung Quốc, Vương Phú Bằng phân tích sự chuyển hĩa trong đặc trưng tính cách của Giả Bảo Ngọc và cho đây là nhân vật cĩ đặc trưng “song tính hĩa tính cách”. Tác giả kết luận, “Tào Tuyết Cần tơn sùng văn hĩa nữ tính và phê phán văn hĩa nam tính, đĩ chính là nguyên nhân, là động cơ tư tưởng trực tiếp để sáng tạo nên hình tượng nhân vật này”[72, tr.45]. Nhiều nhà nghiên cứu tiếp tục nghiên cứu tính bi kịch Hồng lâu mộng nhưng dưới gĩc độ văn hĩa như: “Hồng lâu mộng Trung Quốc cổ đại nữ tính chỉnh thể nhân cách bi cục đích tổng kết” [71]; “Cổ đại tiểu thuyết Trung Quốc phụ nữ mệnh vận đích văn hĩa thấu thị”[73]; “Hồng lâu mộng nữ tính quan dữ Minh Thanh nữ tính văn hĩa” [74]… Những bài viết trên đã đưa ra những gợi ý đáng quý cho đề tài của chúng tơi. Ở Việt Nam, những cơng trình nghiên cứu Hồng lâu mộng của Trung Quốc được người đọc biết đến ban đầu chỉ là một bộ phận trong Văn học sử, như: “Sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc” của Lỗ Tấn, “Lịch sử văn học Trung Quốc” của nhĩm tác giả Dư Quan Anh, Tiền Chung Thư, Phạm Ninh, “Trung Quốc văn học sử” của Chương Bồi Hồn, Lạc Ngọc Minh, “Tiểu thuyết sử thoại Trung Quốc” của Trương Quốc Phong, Thái Trọng Lai … Năm 2002, Nguyễn Phố cho ra mắt bạn đọc bản dịch “Mạn đàm về Hồng lâu mộng” của Trương Khánh Thiện và Lưu Vĩnh Lương. Cĩ thể xem đây là bản dịch đầu tiên cơng trình nghiên cứu riêng về Hồng lâu mộng ở Việt Nam. “Mạn đàm về Hồng lâu mộng” đã đưa ra những lời bình luận khá sắc sảo và độc đáo xung quanh thủ pháp nghệ thuật của Tào Tuyết Cần về việc miêu tả, khắc họa tính cách nhân vật. Thập nhị kim thoa được tác giả phân tích dưới nhiều gĩc độ như: “Lâm Đại Ngọc nghe hát” cho ta thấy được ở “Đại Ngọc kết tụ những đặc trưng cĩ sức hấp dẫn của nền văn hĩa Trung Quốc” [56, tr.57], Tiết Bảo Thoa luận về thơ và họa thể hiện “tư tưởng thẩm mỹ và chủ trương nghệ thuật của Tào Tuyết Cần”[56, tr.73]. Tích Xuân và Diệu Ngọc trong bài “Tâm hướng hồng trần và tâm hướng Phật mơn” được phân tích dưới cái nhìn so sánh sắc sảo. “Một phương diện khác trong tính cách Lí Hồn” cho thấy “Tào Tuyết Cần cũng đã miêu tả tính cách của nàng cĩ những khía cạnh khác biệt, khiến cho hình tượng nhân vật này càng phong phú, càng phức tạp, càng hàm súc” [56, tr.143]. Một năm, trước khi Hồng lâu mộng được xuất bản, Nguyễn Đức Vân cho đăng bài: “Giá trị bộ tiểu thuyết Hồng lâu mộng” trên tạp chí văn học số 3 năm 1962. Mục đích của bài viết như tác giả nĩi là: “Giới thiệu nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của bộ kiệt tác ấy, căn cứ theo cơng trình của các nhà nghiên cứu Hồng lâu mộng ở Trung Quốc” [65, tr.46]. Bài viết đi theo hướng đề cao chủ nghĩa hiện thực, tính nhân dân của tác phẩm. Trong đĩ cĩ một mục riêng về nghệ thuật nhưng cịn rất sơ lược. Bẵng đi một thời gian khá lâu, gần đây chúng ta mới được đọc những bài nghiên cứu về Hồng lâu mộng trên các tạp chí như: “Hồng lâu mộng và Chu Dịch” [3]; “Nghệ thuật xây dựng nhân vật chính diện trong Hồng lâu mộng”[4]; “Nhĩm nhân vật điển hình trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc” [5]; “Thể nghiệm mộng ảo của các tác gia cổ đại Trung Quốc”[6]. Trong bài viết này, Trần Lê Bảo nhận định: “ Trong tác phẩm Hồng lâu mộng, tác giả đã dùng mộng ảo làm cơ sở soi chiếu cuộc sống, đem lại toàn bộ nội dung biểu hiện đặt vào khuôn viên của mộng. Mượn hiện thực cuộc sống đan đầy bi kịch để dẫn đến phản tư sâu sắc và phủ định triệt để hiện thực” [6, tr.65]; “Một quan niệm nghệ thuật về con người trong Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần” (2004) của Nguyễn Thị Diệu Linh; “Việc nghiên cứu ảnh hưởng Phật giáo và Đạo giáo trong mấy bộ tiểu thuyết tiêu biểu của Trung Quốc” [14] của Phạm Tú Châu. Đây là những hướng nghiên cứu mới, cĩ chiều sâu, đem đến cho người đọc nhiều kiến giải mới mẻ, thú vị và hấp dẫn. Theo sự quan sát của chúng tơi, hiện nay ở Việt Nam chưa cĩ cơng trình in thành sách nào nghiên cứu riêng về Hồng lâu mộng. Hồng lâu mộng chủ yếu được đề cập đến trong các cơng trình nghiên cứu chung về tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa. Tiêu biểu như: “Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc”[19] của tác giả Trần Xuân Đề; “Để hiểu tám bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc”[56] của Lương Duy Thứ; “Lịch sử văn học Trung Quốc”[46] của Nguyễn Khắc Phi … Các cơng trình trên thường đặt Hồng lâu mộng vào hệ thống chung của tiểu thuyết Minh – Thanh để vạch ra những nét đặc sắc cơ bản về nội dung cũng như nghệ thuật, đồng thời đánh giá cao tính hiện thực của Hồng lâu mộng. Đây là những định hướng tốt cho chúng tơi trong việc thực hiện đề tài. Ngồi ra, cịn cĩ thể kể đến một số luận văn thạc sĩ, luận văn tốt nghiệp chọn Hồng lâu mộng làm đề tài, như: “Nghệ thuật miêu tả tâm lý các nhân vật nữ chính trong Hồng lâu mộng”(1986) của Đinh Phan Cẩm Vân; “Sự tương đồng về thi pháp nhân vật truyện Kiều và Hồng lâu mộng”(1999) của Hà Thanh Vân; “Nghệ thuật tổ chức khơng thời gian trong Hồng lâu mộng”(2002) của Nguyễn Thị Minh Hậu; “Thực và hư trong Hồng lâu mộng”(2003) của Nguyễn Thị Diệu Linh; Luận văn tốt nghiệp“Mộng và thực trong Hồng lâu mộng”(2006) của Phạm Vũ Lan Anh. Những luận văn trên đã đưa ra những gợi ý đáng quý cho đề tài của chúng tơi. 3. Phạm vi nghiên cứu. Theo Tống Kỳ trong “Hồng lâu mộng thức yếu”, Thập nhị kim thoa bao gồm: chính sách, phĩ sách, hựu phĩ sách, tam phĩ sách, tứ phĩ sách. Nếu căn cứ vào tư liệu này, ta thấy Thập nhị Kim thoa gồm sáu mươi nhân vật nữ, cụ thể: Kim lăng thập nhị kim thoa chính sách gồm: Lâm Đại Ngọc, Tiết Bảo Thoa, Giả Nguyên Xuân, Giả Thám Xuân, Sử Tương Vân, Diệu Ngọc, Giả Nghênh Xuân, Giả Tích Xuân, Vương Hy Phượng, Xảo Thư, Lý Hồn, Tần Khả Khanh. Kim lăng thập nhị kim thoa phĩ sách gồm: Hương Lăng, Tiết Bảo Cầm, Hình Tụ Yên, Lý Ỷ, Lý Văn, Bình Nhi, Uyên Ương, Vưu Nhị Thư, Vưu Tam Thư, Trí Năng, Vưu Thị, Hạ Kim Quế. Kim lăng thập nhị kim thoa hựu phĩ sách gồm: Tình Văn, Tập Nhân, Xạ Nguyệt, Tiểu Hồng, Tử Quyên, Oanh Nhi, Kim Xuyến, Ngọc Xuyến, Con Tư, Thu Văn, Tây Tuyết, Bích Ngân. Kim lăng thập nhị kim thoa tam phĩ sách gồm: Phương Quan, Linh Quan, Ngẫu Quan, Nhuỵ Quan, Dược Quan, Đậu Quan, Ngải Quan, Văn Quan, Bảo Quan, Ngọc Quan, Già Quan, Quỳ Quan. Kim lăng thập nhị kim thoa tứ phĩ sách gồm: Thuý Lũ, Xuân Yến, Thái Vân, Thái Hà, Hổ Phách, Bão Cầm, Thư Kỳ, Thị Thư, Nhập Họa, Con Năm Liễu, Tố Vân, Con Ngốc [67, tr.402]. Trong số sáu mươi kim thoa ấy, Tào Tuyết Cần đã trực tiếp đưa ra mười bốn lá số tiền định của mười lăm nhân vật. Những lá số đĩ đề cập đến số phận Kim lăng thập nhị kim thoa chính sách và ba nhân vật cịn lại là Hương Lăng, Tập Nhân và Tình Văn. Thơng qua việc phân tích Lá số tiền định của Kim Lăng thập nhị kim thoa chính sách dưới gĩc nhìn của những phương tiện nghệ thuật, chúng tơi khẳng định lại một lần nữa tài năng sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Tào Tuyết Cần. Đồng thời chứng minh Hồng lâu mộng là một tác phẩm hiện thực chứa đựng tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Văn bản chính mà chúng tơi sử dụng là bộ Hồng lâu mộng, 6 tập, của nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Vũ Bội Hồng và Nguyễn Dỗn Địch dịch theo bản Trung văn “Hồng lâu mộng bát hồi hiệu bản”, do Nhà xuất bản Văn học nhân dân Bắc Kinh xuất bản năm 1958. Ngồi ra, trong một số trường hợp cần thiết, chúng tơi tham khảo thêm quyển “Hồng lâu mộng” của nhà xuất bản Yên Sơn – Bắc Kinh, năm 2004. 4. Phương pháp nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu và khách thể nghiên cứu bao giờ cũng gắn bĩ chặt chẽ với nhau. Phương pháp nghiên cứu khơng phải quyết định bởi sự yêu thích hứng thú của cá nhân chủ thể nghiên cứu mà quyết định bởi đặc trưng bản chất của khách thể nghiên cứu. Do đĩ, trong quá trình thực hiện đề tài, người viết đã lựa chọn và sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp của phương pháp luận nghiên cứu văn học như: Phương pháp khảo sát văn bản. Phương pháp này nhằm đối chiếu kiểm chứng nội dung bản dịch so với nguyên tác để nêu lên những khác biệt, những chỗ khĩ hiểu hoặc những điểm độc đáo của nguyên tác mà bản dịch chưa chuyển tải được. Phương pháp phân tích – tổng hợp. Đây cũng là một phương pháp quan trọng nhằm làm nổi bật các luận điểm được triển khai. Phương pháp so sánh văn học và phương pháp loại hình (đồng đại và lịch đại). Đặt Hồng lâu mộng trong mối quan hệ với những tác phẩm cùng thời và những tác phẩm ra đời trước để thấy được những đổi mới về tư tưởng, nghệ thuật của Tào Tuyết Cần. Phương pháp liên ngành: đặt tác phẩm trong mối quan hệ với lịch sử, xã hội, văn hĩa, triết học, tơn giáo … Vì nhà văn thời cổ thường kiêm nhà sử học, triết học, thư pháp, họa sĩ … Tào Tuyết Cần là người đa tài đa nghệ, giỏi làm thơ, vẽ tranh, cĩ thể diễn kịch đánh đàn, yêu thiên nhiên, thích ngao du sơn thủy … Tất cả những điều ấy được kết tinh trong Hồng lâu mộng. Cho nên, khơng phải ngẫu nhiên mà Hồng lâu mộng lại được mệnh danh là bộ bách khoa về văn hĩa, lịch sử, xã hội … Trung Quốc thế kỷ XVIII. Do đĩ, nghiên cứu tác phẩm cần vay mượn thành quả của các ngành khác để đem đến bộ mặt mới cho việc tìm hiểu và khám phá Hồng lâu mộng. 5. Đĩng gĩp của luận văn. Kế thừa những thành quả nghiên cứu Hồng lâu mộng của người đi trước, luận văn đưa ra một cách nhìn hệ thống về “Lá số tiền định của Kim Lăng thập nhị kim thoa trong Hồng lâu mộng”. Qua đĩ, lý giải những kết cấu và tư duy nghệ thuật đặc sắc của Tào Tuyết Cần. Qua quá trình triển khai đề tài, luận văn gĩp phần làm rõ những giá trị nhân văn, nhân đạo trong quan niệm về người phụ nữ của Tào Tuyết Cần. Đồng thời, thơng qua đặc trưng tính cách của Thập nhị kim thoa luận văn chứng minh nghệ thuật sáng tạo hình tượng nhân vật độc đáo của tác giả. Bên cạnh đĩ, việc phân tích bi kịch của Thập nhị kim thoa, luận văn tái khẳng định số phận bi kịch của họ chính là bi kịch của tính cách, của thời đại, chứ khơng phải do định mệnh đã an bày. 6. Cấu trúc luận văn. Ngồi hai phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn được sắp xếp thành ba chương: Chương 1: Hồng lâu mộng trong bối cảnh tiểu thuyết Minh - Thanh. 1.1. Thời đại hồng kim của tiểu thuyết chương hồi Minh – Thanh. 1.1.1. Hồng lâu mộng – bộ bách khoa về văn hĩa, xã hội Trung Quốc thế kỷ XVIII. 1.1.2. Hồng lâu mộng – sự khởi đầu của tư tưởng và cách viết mới. 1.2. Sự gặp gỡ giữa hai tác giả Tào Tuyết Cần – Cao Ngạc. 1.2.1. Tào Tuyết Cần – sống trong phồn hoa, chết trong luân lạc. 1.2.2. Cao Ngạc – sự tiếp bút tài hoa với những kỳ vọng ước mơ mới mà cũ. Chương 2: Những lá số tiền định của Kim Lăng thập nhị kim thoa. 2.1. “Tiền định” – một quan niệm trong hệ thống triết học Trung Hoa cổ. 2.2. Lá số tiền định dưới gĩc nhìn của những phương tiện nghệ thuật. 2.3. Những ám chỉ trong mười một lá số tiền định. Chương 3: Thập nhị kim thoa trong thế giới hiện thực. 3.1. Thập nhị kim thoa – những nhân cách lý tưởng “song tính đồng thể”. 3.2. Thập nhị kim thoa – bi kịch của tính cách và thời đại. 3.3. Thập nhị kim thoa – quá trình hưng - vong của Tứ đại gia tộc. 3.3.1. Thập nhị kim thoa – sự hưng thịnh của Tứ đại gia tộc. 3.3.2. Thập nhị kim thoa – sự suy vong của Tứ đại gia tộc. Chương 1: HỒNG LÂU MỘNG TRONG BỐI CẢNH TIỂU THUYẾT MINH – THANH Những thể loại văn học nổi lên rồi chìm xuống, nào anh hùng ca, nào sử thi, nào bi kịch … Những đỉnh cao trỗi dậy một thời rồi tàn lụi. Riêng tiểu thuyết đến nay vẫn cịn là “thể loại văn chương duy nhất đang biến chuyển và cịn chưa định hình” [9, tr.21], nĩ vẫn đang “nhịp bước cùng con người thường xuyên và chân thành” [44, tr.10]. Quá trình phát triển của tiểu thuyết nĩi riêng và văn học nĩi chung luơn mang tính kế thừa. Những tác phẩm ra đời sau bao giờ cũng chứa đựng những kinh nghiệm trước đĩ. Hồng lâu mộng, tiểu thuyết hiện thực chủ nghĩa là một tác phẩm như thế và cịn hơn thế nữa vì kỳ thư này vừa là đứa con cuối cùng trong phả hệ tiểu thuyết Minh – Thanh vừa khởi đầu cho thế hệ mới. Thế nhưng, cuộc sống với vơ vàn biến động nên tuy là một tác phẩm vĩ đại nĩ cũng cĩ phần khơng hồn chỉnh. Do đĩ, dù Hồng lâu mộng cĩ mênh mơng như biển cả, dù tiểu thuyết đã ơm trọn vào lịng nĩ bao yếu tố của thời đại, dù tác phẩm đã đánh một dấu son vào lịch sử tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, dù được xem là “quốc bảo” của Trung Hoa thì tác phẩm gây khối cảm cho người đọc khơng phải chỉ bằng những gì mà Tào Tuyết Cần đã hồn tất mỹ mãn mà cịn bằng những gì ơng nhằm tới nhưng chưa đạt được. 1.1. Thời đại hồng kim của tiểu thuyết chương hồi Minh – Thanh. Trung Quốc cổ đại là một trong những chiếc nơi của nền văn minh nhân loại. Từ thời xa xưa, nơi đây đã sản sinh ra những nhà tư tưởng vĩ đại như: Lão Tử, Khổng Tử, Mạnh Tử, Hàn Phi Tử … Tuy vậy, kho tàng triết lý của nhân loại lại nằm trong những tác phẩm văn học nhiều hơn những quyển sách triết. Vì nhà tư tưởng luơn tìm cách hồn tất một hệ thống tư tưởng cụ thể, cịn nhà văn chỉ kể chuyện, câu chuyện lang thang giữa vùng sáng tối của trái tim con người, nĩ khơng khẳng định cũng khơng phủ định. Thế nhưng, câu chuyện ấy vừa nĩi được với số đơng lại vừa nĩi được với từng người. Tuy vậy, mỗi giai đoạn, mỗi thời đại, con người lại cĩ những nhu cầu và thị hiếu thẩm mỹ khác nhau. Vì thế, một thể loại văn học ra đời, phát triển và mất đi, suy cho cùng là do cuộc sống quy định. Thành tựu của văn chương Trung Quốc là một minh chứng hùng hồn nhất cho nguyên lý này. Các đỉnh cao văn chương Trung Quốc thực chất là thành tựu của các thể loại tương ứng với từng thời kỳ lịch sử. Do vậy, ở đây cĩ sự thống nhất giữa thể loại và thời đại tới mức hễ nhắc tới thể loại là người ta nhớ ngay đến thể loại thành cơng bao trùm thời đại. Ngược lại, hễ nĩi tới thời đại nào đĩ, người ta lại nhớ ngay đến thể loại thành cơng nhất, tiêu biểu nhất của thời đại đĩ, như: Hán phú, Đường thi, Tống từ, Nguyên khúc, Minh Thanh tiểu thuyết. Quá trình phát triển liên tục ấy chứng minh sức sống, sức sáng tạo khơng ngừng nghỉ, khơng mệt mỏi của một dân tộc cĩ truyền thống văn hĩa lâu đời. Trong lịch sử phát triển hàng ngàn năm của thể loại tiểu thuyết thì Minh – Thanh xứng đáng được tơn xưng là thời đại hồng kim của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc. Thành tựu của tiểu thuyết giai đoạn này là tiền đề cho sự phát triển của văn học giai đoạn sau. 1.1.1. Hồng lâu mộng – bộ bách khoa về văn hĩa, xã hội Trung Quốc thế kỷ XVIII. Tào Tuyết Cần xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc nhưng cuộc đời dâu bể đã biến một “hào mơn vọng tộc” thành một “tế tộc cơ mơn”. Quá trình biến đổi từ thịnh đến suy, từ thăng đến trầm, từ vinh đến nhục đã thâu tĩm trong cuộc đời Tào Tuyết Cần, để lại cho ơng những dấu ấn khĩ phai. Tào Tuyết Cần đã tiếp thu tất cả những biến thiên của thời đại bằng khả năng phân tích và thấu thị phi thường. Dần dần những tích tụ ấy được ơng chuyển vào ngịi bút và hĩa thân trở lại từ những trang tiểu thuyết. Thơng qua tác phẩm Hồng lâu mộng, người đọc vừa cảm nhận được tâm tư tình cảm của tác giả vừa hình dung được gương mặt thời đại mà ơng đang sống. Do đĩ, giá trị của bộ tiểu thuyết Hồng lâu mộng từ lâu đã vượt qua cái khung văn học đơn thuần. Người Trung Quốc cịn nhắc đến Hồng lâu mộng như một thành tựu văn hĩa bởi tác phẩm cĩ thể coi là một tấm gương phản chiếu ._.và tổng hợp nền văn hĩa vật chất lẫn tinh thần của xã hội Trung Quốc. Khi bước vào làng văn - Balzac - nhà văn vĩ đại của văn học Pháp, người khai sinh ra khuynh hướng văn học hiện thực mang sắc thái phê phán, đã sớm cĩ ý định tập hợp những sáng tác của mình thành một tác phẩm lớn với một đề cương chi tiết gồm các phần: khảo luận phong tục, khảo luận triết học, khảo luận phân tích. Ơng đã vạch ra những nhiệm vụ cụ thể cho bộ sách chung mang tên Tấn trị đời. Với số lượng hơn 90 tác phẩm, 2209 nhân vật, 515 nhân vật tái xuất hiện, đã khiến cho những tác phẩm độc lập ấy kết nối lại với nhau thành một bức tranh chỉnh thể thống nhất về xã hội Pháp thế kỷ XIX. Cịn Tào Tuyết Cần, ngược lại, “Tác giả khéo léo thu hẹp xã hội thượng lưu vương giả thời bấy giờ vào khung cảnh một gia đình quý phái tiêu biểu: Giả phủ” [51, tr.115]. Thế rồi, từ một gia đình, tác giả cho ta thấy“một hiện tượng sinh hoạt xã hội vơ cùng phức tạp nhưng vẫn cĩ mạch lạc thứ tự” [65, tr.49]; “Trong Hồng lâu mộng mọi lĩnh vực của xã hội phong kiến từ pháp lệnh chế độ, đạo đức pháp luật, văn hĩa giáo dục, tơn giáo tín ngưỡng, tư tưởng quan niệm, cho đến phong tục tập quán … đều được Tào Tuyết Cần đề cập đến một cách rộng rãi sâu sắc”[1, tr.665] ; Vì thế “Hồng lâu mộng đã đưa đến cho người đọc những hiểu biết sâu sắc về xã hội và về con người. Nĩ là cuốn bách khoa sinh động về xã hội Trung Quốc phong kiến” [62, tr. 101]; Những nhận định đánh giá này đã được chứng minh rõ nét trong những quyển sách viết về Lịch sử văn học Trung Quốc mà Hồng lâu mộng là một bộ phận. Chẳng hạn, Lương Duy Thứ nhấn mạnh Hồng lâu mộng là “Bức tranh thu nhỏ của xã hội phong kiến Trung Quốc trên bước đường suy tàn”[57, tr.85]. Trong đĩ, tác giả tập trung phân tích mối quan hệ và mâu thuẫn nội tại của xã hội thượng lưu; mâu thuẫn giữa giai cấp quý tộc và quần chúng bị áp bức; Gia đình họ Giả - hình ảnh của một giai cấp thối nát suy tàn và bất lực; Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc - những đứa con phản nghịch và dấu hiệu suy tàn của chế độ; Tam giác tình yêu Giả Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc và Tiết Bảo Thoa khơng phải là tấn tuồng “tình yêu tay ba” mà là bi kịch tình yêu và hơn nhân dưới chế độ phong kiến. Quyển Lịch sử văn học Trung Quốc do Dư Quan Anh chủ biên nhấn mạnh đến tính chất phê phán xã hội phong kiến của Hồng lâu mộng. “Hồng lâu mộng phản ánh một cách phức tạp lắt léo nhiều hiện tượng xã hội quan trọng của thời kỳ lịch sử ấy”[1, tr.663]; “Hồng lâu mộng cịn vạch trần biết bao hiện tượng đen tối của xã hội phong kiến”[1, tr.664]; “Qua việc miêu tả hàng loạt chi tiết sinh hoạt thường ngày, ơng đã khắc họa được cuộc sống thối nát tột cùng của giai cấp thống trị phong kiến, và từ đĩ vạch trần tình trạng mục ruỗng tồn bộ từ gốc đến ngọn của xã hội phong kiến”[1, tr.665]. Tĩm lại, Hồng lâu mộng được mệnh danh là bách khoa về văn hĩa, xã hội Trung Quốc thế kỷ XVIII, vì tác phẩm đã phản ánh xã hội với tầm rộng lớn. Hộ hoa chủ nhân tổng bình Hồng lâu mộng, cĩ đoạn nĩi: “Trong Hồng lâu mộng, nĩi về văn học thì cĩ: Thơ từ, ca phú, văn thư, hý khúc, đối liễn, biến ngạch, tửu lệnh, chuyện vui, khơng lối văn nào là khơng hay. Nĩi kỹ thuật thì cĩ: cầm kỳ thi họa, bĩi tốn, thuốc men, làm nhà, trồng cây, nuơi chim, thả cá, nấu nướng thêu thùa, lớn nhỏ đều đủ. Nĩi về nhân vật thì cĩ: người chính, người tà, người ác, người thiện, người hào cường, người nhu nhược, nữ tướng đời trước, thi nữ ngoại dương, quỷ ma, tiên phật, ni cơ, tăng đạo, cơ đào, gái hát, tơi tớ, trộm cướp, lưu manh, vơ lại, khơng thiếu một hạng nào. Nĩi về sự việc thì cĩ: tiệc tùng, yến ẩm, xa xỉ dâm ơ, quan tham lại nhũng, nghi lễ cung đình, buồn vui suy thịnh, xử án đánh giặc, kinh kệ đàn tràng, bán buơn chạy chọt, việc gì cũng đủ. Thậm chí những việc như: chết bệnh chết non, thuốc độc, tự vẫn, bị giết, trầm mình, nhảy sơng, treo cổ, nuốt vàng, nuốt thuốc, đập đầu, thốt tinh … thảy đều đầy đủ, thật là bao la vạn tượng. Tác giả khơng nghề gì khơng biết và khơng nghề gì khơng tinh”[chuyển dẫn 65, tr.61]. Với ngịi bút sắc bén và trái tim mẫn cảm, Tào Tuyết Cần khơng chỉ tạo nên một bộ bách khoa về văn hĩa, xã hội Trung Quốc trong Hồng lâu mộng mà tác phẩm cịn là bộ bách khoa về trái tim con người. Văn học là lương tâm của xã hội và tâm lý xã hội cũng chính là tâm lý con người. Thế nên, Hồng lâu mộng cũng là câu chuyện về số phận của những cá nhân con người, đĩ cịn là những số phận điển hình cho một giai cấp, một tầng lớp. Điểm mấu chốt chính là chủ nghĩa cảm thương mà tác giả gửi gắm vào nhân vật nữ. Những con người đã nếm trải tất cả những vinh nhục thăng trầm, vui buồn của đời người. Đĩ là những con người biết ước mơ, biết sống cho lý tưởng của đời mình nhưng mơ ước khơng thành nên điều đọng lại trong tác phẩm chính là nỗi buồn, là bi kịch của đời sống nhân loại. Do đĩ, Hồng lâu mộng khơng chỉ phản ánh đơn thuần bộ mặt xã hội mà Tào Tuyết Cần cịn thấu hiểu nĩ trong vơ vàn xáo động của thời đại mà ơng đang sống. Hồng lâu mộng khơng chỉ là bộ bách khoa về văn hĩa, xã hội mà thơng qua bộ bách khoa này, tác phẩm trở thành bản cáo trạng đanh thép, dài dịng và đầy đủ, nhẹ nhàng và sâu sắc đối với xã hội đương thời. Khơng chỉ tố cáo, phê phán, Hồng lâu mộng cịn mang sức mạnh của sự khẳng định và cải tạo xã hội bằng hình ảnh của những con người mới, con người mang tư tưởng dân chủ, dám đấu tranh cho tình yêu tự do, bênh vực lẽ phải và cái đẹp. Đĩ chính là hình ảnh xã hội Trung Quốc trong tương lai mà tác giả đã chạm đến nhưng chưa nắm giữ được. 1.1.2. Hồng lâu mộng – sự khởi đầu của tư tưởng và cách viết mới. Hồng lâu mộng khơng chỉ chiếm một địa vị nhất định trong lịch sử tiểu thuyết mà cịn đĩng gĩp đáng kể vào việc thúc đẩy tiến trình phát triển của lịch sử văn học dân tộc Trung Quốc – đĩ là sự khởi đầu của tư tưởng và cách viết mới. Hồng lâu mộng báo hiệu một sự trở mình giữa tiểu thuyết cổ điển sang tiểu thuyết thời hiện đại. Trên cơ sở kế thừa những thành tựu rực rỡ của tiểu thuyết trường thiên, sự khởi đầu của tư tưởng và cách viết mới của Hồng lâu mộng cĩ thể khái quát ở những điểm cơ bản sau: Đây là sáng tác của một cá nhân, khơng cĩ sự lưu truyền tích tụ các giai thoại từ nhiều đời thành các thoại bản như tiểu thuyết chương hồi khác. Để cĩ được một hình tượng Tơn Ngộ Khơng trong sáng tác của Ngơ Thừa Ân là một quá trình lâu dài. Tam Quốc chí, Thủy hử với những thoại bản tồn tại trong nhân dân từ lâu đời. Trong khi đĩ, sáng tác Hồng lâu mộng trong “lưng vốn” của Tào Tuyết Cần chưa hề tồn tại một thoại bản nào. Chỉ dựa vào tài năng, sự trải nghiệm, vốn văn hĩa, Tào Tuyết Cần đã sáng tác một thiên cổ kỳ thư cho riêng mình, gĩp phần hình thành một “loại hình nhà văn” trong sáng tác và đã soi sáng văn học bằng các sự kiện văn hĩa. Tuy Hồng lâu mộng khơng phải là tác phẩm đầu tiên do cá nhân sáng tác. Vì vị trí đĩ đã được dành cho Kim Bình Mai. Nhưng cĩ thể xem Hồng lâu mộng là sự kế thừa và phát triển những thành tựu của Kim Bình Mai và sự kế thừa ấy khơng đơn thuần chỉ là kỷ xảo nghệ thuật thơng thường mà Hồng lâu mộng chính là kết tinh của sự thăng hoa trong sáng tạo nghệ thuật và tư tưởng mỹ học của Tào Tuyết Cần.“Kim Bình Mai chính là tác phẩm đã xây dựng được những nhân vật mang đặc trưng thời đại, đã miêu tả được những hoạt động tất yếu của nhân vật trong hồn cảnh điển hình của xã hội phong kiến ruỗng nát; là tác phẩm đồ sộ đầu tiên lấy cái chuyện một gia đình làm trung tâm, đề cập đến một mơi trường xã hội rộng lớn, mặt đối mặt với đời sống, thấm đượm mùi vị cuộc đời chứ khơng phải siêu phàm xa lạ như trước kia” [chuyển dẫn 58, tr.59]. So với Kim Bình Mai, Hồng lâu mộng xây dựng được một thế giới l ý tưởng, nhân vật được khắc họa mang nội dung mỹ học sâu sắc. Hồng lâu mộng phê phán tồn bộ kiến trúc thượng tầng xã hội phong kiến và phản ánh sự mâu thuẫn, đối lập giữa tư tưởng dân chủ và phong kiến. Trong khi đĩ Kim Bình Mai chỉ miêu tả những mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp phong kiến. Nếu so sánh với những tác phẩm ra đời trước như Tây sương ký , Mẫu đơn đình, Đào hoa phiến thì kết thúc bi kịch của Hồng lâu mộng đã phá vỡ những hạn chế của tiểu thuyết tài tử giai nhân. Điều này chứng tỏ, tác giả Hồng lâu mộng đã khéo léo thâm nhập vào những tác phẩm ra đời trước và nhận ra những tác phẩm ấy “nghìn bộ đều theo một khuơn sáo”[8, tr.25], “đầy những lời sáo ngữ cũ rích, gán ghép bừa bãi, tồn nĩi chuyện vụt gặp vụt tan”[8, tr.26]. Do đĩ, Tào Tuyết Cần đã mở ra một con đường mới cho tiểu thuyết hiện đại bằng phương pháp sáng tác hiện thực, “căn cứ vào hiện thực”, “ghi chép những sự việc và tình cảm tơi đã trải qua”[8, tr.24], “từ đầu đến cuối đều theo sát sự thực khơng thêm bớt tơ vẽ chút nào, khơng vì chiều lịng người đọc mà xuyên tạc sự thực”[8, tr.25] … với những cách tân đĩ, Tào Tuyết Cần tin chắc tác phẩm của mình sẽ khiến cho người đời đổi tầm con mắt. Đĩ cịn là sự sáng tạo nhân vật trong Hồng lâu mộng: “mỗi con người một diện mạo, sự phong phú về nội hàm tính cách, sự phơi bày đời sống tâm linh” Nhân vật trong Hồng lâu mộng chiếm một dung lượng đồ sộ với hơn bốn trăm nhân vật, nhưng tất cả đều là những con người cĩ thanh cĩ sắc, cĩ da cĩ thịt khơng thể nhầm lẫn. Cĩ rất nhiều nhân vật bước từ đời sống văn học ra đời sống sinh hoạt với những đặc tính riêng như Bảo Ngọc, Đại Ngọc, Tiết Bảo Thoa, Vương Hy Phượng … Tất cả đều minh chứng cho sự đa dạng, muơn màu muơn vẻ của cuộc sống con người, sự “đa nhân cách” với những mặt đối lập cùng tồn tại trong bản thân mỗi nhân vật. Từ đây, con người trong văn học khơng cịn là con người đơn giản, một chiều mà đã là con người sinh động, khĩ đốn, khĩ nắm bắt. Trần Lê Bảo đã chỉ ra nét độc đáo trong cách khắc họa nhân vật chính diện trong Hồng lâu mộng, đĩ là kiểu nhân vật “chính tà kiêm phú” “tức chính và tà cĩ cả trong tính cách mỗi nhân vật”[4, tr.120], nhân vật vừa cĩ cái đáng ghét và đáng yêu. Như Giả Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc, Tình Văn … cho ta thấy ở họ vừa cĩ cái đáng yêu vừa cĩ cái đáng quí , khiến ta vừa yêu vừa kính, trong họ cịn ẩn chứa sức sống sức đấu tranh với những giáo điều của lễ giáo phong kiến đồng thời cũng chưa thể thốt khỏi sự bao bọc của xã hội ấy. Tuy nhân vật cĩ nhiều điểm đối lập thể hiện sự đa nhân cách nhưng tính cách của họ vẫn thống nhất từ đầu đến cuối tác phẩm. Mặc dù bốn mươi hồi sau dưới ngịi bút của Cao Ngạc biểu hiện bề ngồi của Bảo Ngọc, Đại Ngọc, Bảo Thoa nhiều khi trái ngược với lúc đầu nhưng vẫn thể hiện được sự kế tục hợp lí những hồi trước. Nghệ thuật tự sự của Hồng lâu mộng đã cĩ những biến đổi: sự dung hợp giữa tả thực với thi vị hĩa, là một kết cấu mạng lưới hỗn dung nhất thể với sự chuyển biến đổi thay của điểm nhìn tự sự. Và cuối cùng là ngơn ngữ văn học được cá tính hĩa. Từ đĩ, cĩ thể thấy: cá tính, phong cách nghệ thuật của nhà văn và sự sáng tạo của nhà văn trong một thể loại là rất quan trọng. Tất cả đều cấp cho người đọc cái nhìn cuộc sống từ nhiều gĩc độ. Do đĩ, tính hiện thực của văn học được cơ đúc và hình dung cụ thể hơn. Tự hào mình là đất nước của thơ ca, người Trung Hoa thích chen những đoạn thơ vào giữa những lời văn xuơi. Ngay từ thời Đường, ta thấy giữa những đoạn truyền kỳ có sự xuất hiện của một vài đoạn thơ, bài thơ nho nhỏ. Điều đó cũng thật dễ hiểu nếu ta biết về môi trường diễn xướng của truyện kể. Ngoài việc được ấn hành trên giấy, ở Trung Hoa còn một hình thức lưu truyền truyện kể nữa, đó là thông qua những nghệ nhân dân gian. Những đoạn thơ được chen vào giữa những lời kể nhằm mục đích thư giãn giữa những tình tiết gay cấn hồi hộp, lại vừa tạo thêm dáng phong nhã cho câu chuyện. Cũng không phải là chỉ có những truyện giai nhân tài tử mới có đoạn thêm thắt thơ ca vào mà ngay cả những truyện phiêu lưu lịch sử, chí quái, phong tục cũng có thơ như trường hợp của Tây Du Ký, Tam Quốc Chí, Kim Bình Mai … Những bài thơ câu hát này nhiều khi không có ăn nhập gì đến truyện kể nhân vật cả, nhưng cũng có trường hợp thơ ca trở thành phương tiện đắc dụng dùng để miêu tả tâm tình nhân vật. Loại thơ này nếu tách đứng riêng ra một mình, nó khó mà có chỗ đứng trong làng thơ Trung Hoa vốn đã quá nhiều những tuyệt phẩm, nhưng nó lại làm cho câu chuyện trở nên phong phú hấp dẫn hơn. Nó cũng chứng minh cho thấy sức dung nạp lớn của tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa với các thể loại khác như thơ, phú, từ, âm nhạc … Tuy nhiên phải nhận thấy rằng rất nhiều thơ ca, từ, phú trong tiểu thuyết có giá trị nghệ thuật không cao lắm. Bên cạnh đó sức liên kết giữa thơ ca với nội dung chính trong truyện chẳng mấy chặt chẽ. Người ta có thể bỏ đi dễ dàng những đoạn thơ mà vẫn cảm thấy hết được cái phong vị của truyện, không gây ảnh hưởng gì lớn lắm đến nghệ thuật và cốt truyện. Thế nhưng với Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần, có thể nói, thơ ca được đưa vào trong truyện đã trở thành đỉnh cao. Gọi là đỉnh cao vì nó phát huy hết được sức mạnh nghệ thuật của mình. Thơ ca trong tác phẩm Tào Chiêm không phải chỉ là để giữ nhịp thư thái cho giọng truyện nữa mà đã trở thành công cụ đắc lực, gắn chặt với cốt truyện và trở thành một phần không thể thiếu được trong truyện. Hồng lâu mộng là sự chuyển đổi căn bản về tính chất của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, từ tiểu thuyết sử thi đến tiểu thuyết đời thường. Hồng lâu mộng là một minh chứng cho sự thành thục về phương diện sáng tác. Nhân vật ít nhiều khơng cịn là nhân vật hành động mà đã cĩ sự trăn trở, đắn đo, day dứt, suy tư khơng ngừng về cuộc sống và số phận con người. Tác phẩm đã chú ý đến sự mơ tả những diễn biến tinh tế trong nội tâm nhân vật, cĩ cách nhìn nhận con người khơng những ở chiều ý thức mà cịn trong cả tiềm thức và vơ thức. Tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc đạt đến đỉnh cao với Hồng lâu mộng báo hiệu một yêu cầu mới trong thị hiếu cơng chúng: ấy là lúc người nghe đang chuyển hĩa thành người đọc – họ muốn đọc được những điều nhà văn khơng nĩi, họ muốn được nhìn thấy nhân vật trong những thế giới sâu kín mà nhà văn khơng miêu tả, và muốn theo dõi khơng chỉ một tuyến cốt truyện hoặc vài ba tuyến cốt truyện song song theo đường thẳng mà là những cốt truyện đan bện, chồng chéo, đĩ mới là hình ảnh của cuộc đời thật hay chí ít cũng giúp họ hình dung cuộc đời thật từ nhiều điểm nhìn [25. tr.1720]. Như một sự cơ đúc những giá trị đặc sắc mà tuyệt thế kỳ thư Hồng lâu mộng đã tạo được sự khởi đầu của tư tưởng và cách viết mới. 1.2. Sự gặp gỡ giữa hai tác giả Tào Tuyết Cần – Cao Ngạc. Truyện kể Genji là viên ngọc quí của văn học Nhật Bản, Hồng lâu mộng là đỉnh cao của tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc. Cả hai tác phẩm đều là tiểu thuyết đồ sộ của phương Đơng và cĩ vị trí xứng đáng trong văn học thế giới. Do nội dung phong phú, nên cả hai tác phẩm đã hình thành “Hồng học” và “Genji học” rất sơi nổi. Điều đáng ngạc nhiên là hai tác phẩm này cĩ nhiều chỗ tương đồng rất thú vị. Truyện Genji gồm 54 quyển, Murasaki Sikibu chỉ viết cĩ 44 quyển, cịn 10 quyển sau do con gái bà viết. Tào Tuyết Cần viết Hồng lâu mộng 80 hồi, 40 hồi sau do Cao Ngạc viết tiếp. Phần viết tiếp khơng hay bằng nguyên tác. Nhưng ở gĩc độ người tiếp nhận, cĩ thể nĩi, Cao Ngạc chính là tri âm, tri kỉ của Tào Tuyết Cần. 1.2.1. Tào Tuyết Cần – sống trong phồn hoa, chết trong luân lạc. Tào Tuyết Cần (1715? – 1763?) tên Triêm, tự Mộng Nguyễn, hiệu Tuyết Cần, Cần Phố, Cần Khê. Quê ở Liêu Dương, tổ tiên vốn là người Hán, thời kỳ Nỗ Nhĩ Cáp Xích, ơng tổ đời thứ năm của Tào Tuyết Cần là Tào Tích Viễn đã nhập tịch Mãn Châu. Nhà họ Tào bắt đầu hưng thịnh vào những năm Khang Hy (1662 – 1722). Những tài liệu ít ỏi tìm được về thân thế Tào Tuyết Cần cho ta biết ơng xuất thân trong một gia đình quý tộc thậm chí cịn giàu sang, danh giá và cĩ quan hệ mật thiết với nhà vua hơn cả gia tộc họ Giả được miêu tả trong Hồng lâu mộng. Tào Tuyết Cần từ bé đã được sống trong một gia đình quyền thế và giàu sang bậc nhất. Nhà họ Tào khơng chỉ là gia đình “bách niên vọng tộc” mà cịn là nhà “thi thư mơn đệ”. Trong cảnh đầy tớ hàng đàn, sống đời cao sang, tuổi thơ Tào Tuyết Cần khơng chỉ được tận hưởng vinh hoa phú quý chốn trần gian mà cịn được hấp thu nền văn học phong phú. Kể từ ngày mở mắt chào đời, Tào Tuyết Cần đã được hun đúc trong bầu khơng khí văn chương và ơng cũng chính là người kế thừa chân chính truyền thống văn học của gia đình. Ơng nội - Tào Dần - là một nhà văn xuất sắc ở vùng Giang Ninh, cĩ trình độ học vấn rất sâu, đồng thời là người lưu giữ sách cĩ tiếng thời đĩ. Ơng chính là tác giả của bộ “Luyện đình thi sao” và là người được vua Khang Hy tín nhiệm giao cho việc tập hợp và biên soạn, in ấn bộ “Tồn Đường thi”. Tào Tuyết Cần tuy khơng được ơng nội trực tiếp dạy dỗ nhưng hình ảnh người ơng chiếm một vị trí quan trọng trong cuộc đời ơng. Vì chính ơng nội đã gieo hạt giống văn học vào vào tâm linh hãy cịn bé bỏng của ơng. Song sự hưng thịnh của gia tộc chỉ kéo dài đến năm ơng mười ba tuổi. Khi vua Khang Hy chết, Ung Chính lên ngơi đã bắt đầu thanh lọc những người thân tín của vua cha. Những năm đầu thời Ung Chính gia đình Tào Tuyết Cần bị kết tội tham ơ, cách chức và bị tịch biên gia sản. Đây đương nhiên là một cú sốc lớn đối với cậu cơng tử quen sống cảnh vinh hoa phú quý Tào Tuyết Cần. Tuy nhiên, dời về Bắc Kinh, gia tộc vẫn cịn giữ được một ít nhà cửa và điền sản. Đến đầu thời Càn Long, do một biến cố chưa rõ nguyên nhân, nhà họ Tào lại phải trải qua một cơn gia biến khác, khiến cho con em trong họ bị hạ xuống mức thấp nhất trong xã hội. Cảnh sống túng bẫn bất đắc chí của Tào Tuyết Cần cịn được ghi nhận đến những năm cuối đời. Cái chết của ơng cũng thấm đẫm chất thê lương, chết vì đau khổ sau khi đứa con trai, cũng là đứa con độc nhất lìa đời, để lại một người vợ nghèo và tám mươi hồi Thạch đầu ký cịn dang dở. Nhiều nghiên cứu khẳng định rằng nếu bản thân khơng phải là con người xuất thân từ một “bách niên vọng tộc” thì Tào Tuyết Cần chắc chắn khơng thể cĩ những trang viết sinh động và tinh vi đến như vậy về cuộc sống trong phủ Giả, từ việc khái quát khơng khí chung đến việc đi sâu vào những chi tiết nhỏ nhặt nhất; càng khơng thể cĩ những trình bày uyên thâm đến mức tạo nên một “bách khoa tồn thư” về văn hĩa truyền thống Trung Quốc trong tác phẩm. Điều này tự bản thân người đọc cĩ lẽ cũng phần nào nhận thấy khi so sánh tám mươi hồi đầu do Tào Tuyết Cần viết với bốn mươi hồi sau do Cao Ngạc viết (dù về kết cấu chung, Cao Ngạc được đánh giá là đã tỏ ra rất trung thành với ý đồ nghệ thuật ban đầu của Tào Tuyết Cần). Tất nhiên, điều quan trọng ở đây khơng chỉ là những trải nghiệm thực tế của Tào Tuyết Cần được diễn tả theo một cách thức nào đĩ lên trang giấy, mà cịn là những chân lý được tác giả rút ra từ những trải nghiệm đĩ. Và đây mới chính là nơi thể hiện rõ nét nhất quan niệm của riêng tác giả, thứ quan niệm vừa mang tính chất kinh nghiệm nhân sinh vừa mang tính triết lý, cũng là một thứ quan niệm độc đáo khơng thể bị trùng lặp với một tác giả nào khác, tương tự như Hồng lâu mộng khơng thể bị nhầm lẫn với một tiểu thuyết nào khác. Tào Tuyết Cần khơng phải là loại nhà văn “trước tác đẳng thân”. Tác phẩm duy nhất ơng để lại cho đời là “Thạch đầu ký” với tám mươi hồi cịn dang dở. Cĩ thể khẳng định rằng Tào Tuyết Cần sáng tác trước hết là để giải tỏa chính nỗi lịng tích tụ bao tâm sự cứ ngày một chồng chất. Điều này hồn tồn phù hợp với những thổ lộ về quá trình sáng tác “mười năm đọc bộ sách này ở trong hiên Điệu hồng, thêm bớt năm lần” [10, tập 1, tr.27] cùng những câu thơ đề của chính tác giả: “Đầy trang những truyện hoang đường / Tràn trề nước mắt bao nhường chua cay”[10, tập 1, tr.27]. Thậm chí cĩ ý kiến cho rằng “Cĩ lẽ trong lịch sử Trung Quốc, ngoại trừ Tư Mã Thiên viết Sử Ký, thì khơng cịn ai giống Tào Tuyết Cần đã đốc hết tình cảm sâu xa và tâm huyết của mình vào việc trước tác” [27, tr.742] Điều này cĩ lí do riêng của nĩ. Khí chất con người Tào Tuyết Cần là thơng minh và nhạy cảm. Những tài liệu cịn lại cho biết ngay cả khi rơi vào cảnh túng quẫn nhất Tào Tuyết Cần “vẫn thường uống rượu giải sầu và nhìn bọn người dung tục bằng con mắt khinh bỉ” [8, Lời giới thiệu]. Trong xã hội nhiều thăng trầm, khơng ít gia tộc rơi vào cảnh như nhà họ Tào, khơng ít cơng tử danh gia vọng tộc rơi vào hồn cảnh của Tào Tuyết Cần nhưng để lại cho đời chỉ cĩ một bộ Hồng lâu mộng mà thơi. Cĩ thể nĩi, chính bản tính vừa thâm trầm, vừa nhạy cảm trong con người Tào Tuyết Cần đã giúp ơng vượt qua những vịng xốy thăng trầm vinh nhục của thời cuộc. “Sống trong phồn hoa, chết trong luân lạc” là sự khái quát cuộc đời và số phận Tào Tuyết Cần, một cuộc đời niên thiếu sống trong tột đỉnh giàu sang phú quý nhưng đến cuối đời lại sống cảnh “đám cỏ lều tranh, giường tre bếp đất” [10, tập 1,tr. 20], “cả nhà rau cháo, rượu thường mua chịu” [10, tập 1, tr. 7]. Tào Tuyết Cần đã đem tồn bộ tâm huyết đời mình hiến dâng cho Hồng lâu mộng và vào đêm trừ tịch ơng đã mang theo cõi lịng đầy bi phẫn và ý chí chưa được toại nguyện của mình về với cõi Đại hoang. 1.2.2. Cao Ngạc – sự tiếp bút tài hoa với những kỳ vọng ước mơ mới mà cũ. Người sáng tác văn chương luơn cố gắng tìm tịi những đề tài mới, những cách thể hiện sáng tạo sao cho khơng bị xem là bắt chước, phụ họa. Sự sao chép, trùng lắp về đề tài được xem là điều tối kỵ trong sáng tác văn chương nghệ thuật. Thế nhưng, ở thời Trung đại, con người lúc ấy chưa cĩ khái niệm về bản quyền tác giả và họ xem việc viết tiếp hay chỉnh sửa tác phẩm của người khác là một việc bình thường và nếu cĩ hứng thú với những tác phẩm đã xuất hiện trước đĩ, họ cĩ thể bắt tay vào sáng tạo thêm cho tác phẩm hồn chỉnh theo mong muốn của chính họ. Thế nên, người đọc giai đoạn này cịn cĩ thể là người đồng sáng tác với tác giả trên chính văn bản chứ khơng phải chỉ đồng sáng tác trong quá trình tiếp nhận tác phẩm. Do đĩ, ngày nay cĩ rất nhiều tác phẩm xa xưa được lưu truyền dưới nhiều dị bản. Cĩ trường hợp tác phẩm chưa hồn thành thì tác giả đã qua đời, cĩ người vì quá yêu tác phẩm ấy nên đã dụng cơng sáng tác thêm cho hồn chỉnh. Trường hợp này cĩ thể kể đến truyện Genji của Nhật Bản và Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần. Và cả hai sau đĩ khơng chỉ trở thành tuyệt tác của đất nước mình, của quê hương mình mà cịn là một tác phẩm cĩ giá trị của nhân loại. Nhưng so với Truyện Genji, Hồng lâu mộng cĩ hơn bốn mươi bộ sách viết tiếp, hơn hai mươi bộ phỏng tác. Chính vì thế, việc viết tiếp Hồng lâu mộng của Cao Ngạc được đánh giá là hành động dũng cảm vì: “Viết nối một tác phẩm chưa hồn thành – lại là một tác phẩm bất hủ, - rõ ràng là một cơng trình hết sức khĩ khăn, nếu khơng nĩi là nguy hiểm” [33, tr.209]. Cao Ngạc đã dụng tâm nghiên cứu tỉ mỉ nguyên ý của Tào Tuyết Cần và đã viết tiếp cho phù hợp. “Vì thế, trong khi tất cả các bản viết nối khác đều bị quên lãng thì bản của Cao tiên sinh lại được vinh dự đứng chung với nguyên tác lưu lại đời sau” [33, tr.209]. Điều này chứng tỏ Cao Ngạc cũng là một văn tài xuất chúng. Cao Ngạc (1738? – 1815?), tên chữ là Lan Thự, Vân Sĩ. Vì ơng đặc biệt yêu thích tác phẩm Hồng lâu mộng nên lấy biệt hiệu là “Hồng lâu ngoại sử”. Quê hương của Cao Ngạc ở Thiết Lĩnh (nay thuộc Liêu Ninh), những năm đầu nhà Thanh tổ tiên ơng sống tại Bắc Kinh. Thuở nhỏ ơng thích đi du ngoạn cảnh đẹp của quê hương. Ơng là người chăm học, thuộc lịng kinh sử, giỏi văn bát cổ, thi, từ, tiểu thuyết, hí khúc, hội họa … Chăm học nên Cao Ngạc chọn cho mình con đường tiến thân bằng khoa cử. Thời Càn Long năm thứ 53 ơng thi đỗ cử nhân, năm thứ 60 (1795) đỗ tiến sĩ. Năm Gia Khánh thứ 6 (1801), Cao Ngạc làm chủ khảo trong cuộc thi Hương. Năm thứ 14, ơng làm Giám sát ngự sử ở Giang Nam. Năm thứ 18 ơng lên chức Hình khoa cấp sự trung. Cao Ngạc được xem là người tiết tháo, làm việc cẩn thận, cĩ tài năng nhưng về già phải sống cảnh thanh bần. Cao Ngạc làm quan dưới hai triều Càn Long – Gia Khánh, trải qua lắm hoạn nạn trên con đường hoạn lộ. Ơng viết thêm bốn mươi hồi sau cho “Thạch đầu ký” căn cứ trên nền tảng ý tưởng, văn phong của Tào Tuyết Cần. Tác phẩm hồn thành, Cao Ngạc đổi tên “Thạch đầu ký” thành “Hồng lâu mộng”. Giới nghiên cứu nhận định bốn mươi hồi sau của Cao Ngạc khơng thể sánh với tám mươi hồi đầu của Tào Tuyết Cần về mặt nội dung và tư tưởng nghệ thuật. Nhưng đĩng gĩp to lớn của Cao Ngạc là đã tiếp tục được tuyến ẩn dụ ám chỉ của Tào Tuyết Cần, về đại thể đã hồn thành được kết cấu bi kịch của tồn tác phẩm, khiến cho câu chuyện trở nên hồn chỉnh, nhờ thế Hồng lâu mộng nhanh chĩng được lưu truyền rộng rãi. Đối với một số tình tiết quan trọng như sự suy sụp của nhà họ Giả, những tai ương liên tiếp xảy đến và cuối cùng nhà họ Giả bị tịch biên gia sản, Đại Ngọc chết, Bảo Ngọc đi tu, kết thúc cuộc tình duyên đầy bi kịch đã được Cao Ngạc tiếp nhận từ chính sáng tác của Tào Tuyết Cần và tiếp nối một cách tài hoa. Việc xử lý những chi tiết nghệ thuật ấy thể hiện được dụng tâm nghệ thuật của Tào Tuyết Cần, cĩ sự thống nhất với những hồi trước, tạo nên khơng khí bi kịch đậm đặc trong những hồi cuối, tạo nên sự cảm thương u uất đến nghẹn ngào. Ở một vài đoạn thể hiện được bút pháp miêu tả sinh động của Cao Ngạc như chi tiết liên quan đến Hạ Kim Quế; Giả Chính làm quan; Đại Ngọc đốt khăn lụa và tập thơ; chi tiết Tập Nhân lấy chồng … Tuy nhiên thiếu sĩt nghiêm trọng của Cao Ngạc là về cơ bản ơng đã khơng kế thừa được tinh thần nguyên tác khi kết thúc tác phẩm bằng việc để Giả Bảo Ngọc thi đậu cử nhân, nhà họ Giả được trung hưng, lan quế đua thơm … Kết thúc ấy rõ ràng đã khơng kế thừa được nguyên ý của Tào Tuyết Cần và chưa thốt khỏi mơ típ kết cục “đại đồn viên” trong truyền thống văn học Trung Quốc. Nhưng cho dù cịn nhiều hạn chế nhưng bốn mươi hồi sau do Cao Ngạc viết vẫn hơn hẳn những phần viết tiếp của các tác giả khác. Do đĩ mới cĩ thể kết hợp với tám mươi hồi đầu của Tào Tuyết Cần và lưu truyền cho đến ngày nay. Thế nên, cĩ thể nĩi, bốn mươi hồi cuối của Hồng lâu mộng chính là một sự tiếp nối tài hoa với những kỳ vọng, ước mơ mới mà cũ của tiến sĩ Cao Ngạc, khiến cho tác phẩm trở thành một “thiên cổ kỳ thư” trong hơn ba trăm tác phẩm chương hồi thuộc hai triều Minh – Thanh. Chương 2: NHỮNG LÁ SỐ TIỀN ĐỊNH CỦA KIM LĂNG THẬP NHỊ KIM THOA Người xưa tin rằng bên cạnh cuộc sống hiện hữu của con người cịn cĩ một thế giới khác song song tồn tại. Thế giới ấy bao gồm các vị thần cĩ khả năng chi phối và điều khiển mọi hoạt động của con người trên thế gian, thậm chí sắp đặt mọi việc và an bày số phận con người. Quan niệm ấy tuy đã được khoa học hiện đại bác bỏ nhưng sức ảnh hưởng của nĩ vẫn cịn tồn tại dai dẳng trong tâm thức con người. Bằng tác phẩm văn học, Tào Tuyết Cần phủ định thuyết thiên mệnh, tiền định một cách sâu sắc và tinh tế hơn. Tác giả sáng tạo nên thế giới Thái hư Ảo Cảnh, nơi cất giữ quyển sổ vơ tri, dự báo số phận bi kịch của biết bao cơ gái. Thế giới ấy, những lá số tiền định ấy tạo nên một cảnh tượng giả nhằm tránh thảm họa văn tự ngục và hồn cảnh chính trị đầy bất trắc. Điều này chứng tỏ thế giới hư ảo được sinh ra từ chính sự xung đột của bi kịch nhân sinh trong cuộc đời thực. Vì “nếu thế giới hiện thực cĩ thể dung hịa và nuơi dưỡng nhân tính con người thì thế giới hư ảo kia sẽ khơng cịn lí do tồn tại nữa” [38, tr.90]. Cho nên, khơng cĩ lý do gì để ta cho rằng việc sáng tạo nên những “lá số tiền định” là sự phản ánh những hạn chế trong nhân sinh quan của tác giả. Ngược lại, tác giả mượn hình thức thơ ca để tái hiện số phận bạc mệnh của các nhân vật chính, biểu hiện sự thịnh suy của Tứ đại gia tộc Giả, Sử, Vương, Tiết, dự báo sự sụp đổ tất yếu của gia tộc này, đồng thời đề cập đến quá trình phát triển của tồn bộ câu chuyện, khái quát cao độ về cuộc sống xã hội phong kiến đương thời. Vì thế, “Mặc dù Hồng lâu mộng từ đầu đến cuối luơn bao trùm một nỗi thương cảm và tâm trạng bi đát đối với định mệnh nhưng cũng từ đầu đến cuối khơng hề buơng bỏ khát vọng vươn tới một lý tưởng đẹp” [31, tr.761]. “Giá trị chính của tác phẩm là thể hiện nhiệt tình của tác giả đối với nhân sinh (…) là nhiệt tình của con người yêu đời nhưng chán ghét trần tục”. [20, tr.142]. 2.1. “Tiền định” – một quan niệm trong hệ thống triết học Trung Hoa cổ. 2.1.1. Xã hội Trung Quốc từ thời Ân Thương đến thời Tây Chu, thế giới quan thần thoại, mê tín và tơn giáo duy tâm với các biểu tượng về Thiên mệnh, về ý chí của Thượng đế và quỷ thần – những lực lượng tinh thần tối cao, chi phối và quyết định sự biến hố của vũ trụ và đời sống xã hội đã trở thành hình thái ý thức chiếm địa vị thống trị thời bấy giờ. Đĩ cĩ thể do khởi nguyên của văn hĩa Trung Hoa là văn hĩa nơng nghiệp. Thiên thời địa lợi tốt xấu cĩ liên quan trực tiếp đến việc được mùa hay mất mùa. Điều này đồng nghĩa với việc điều kiện tự nhiên cĩ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con người. Từ việc khơng giải thích được những hiện tượng thiên biến vạn hĩa trong thiên nhiên, con người đã sáng tạo ra một vị thần cĩ sức mạnh siêu nhiên, siêu tự nhiên cĩ khả năng chi phối và quyết định tất cả mọi vấn đề kể cả cuộc sống và sự sống của con người. Ban đầu, Thiên mệnh chỉ cĩ quan hệ với một mình Thiên tử. Chỉ cĩ vua mới được tế trời, nghe mệnh lệnh của Thượng đế. Khi các quan hệ xã hội phức tạp hơn và cũng để cĩ thực quyền hơn, “mệnh” được quy thành quyền thống trị của một họ. Dần dần “mệnh” mở rộng ra nhiều phạm vi, nhiều đối tượng. Mệnh dần dần cĩ ý nghĩa là “mệnh vận”. Quá trình mở rộng phạm vi chi phối của “mệnh” là quá trình mở rộng phạm vi chi phối của thần chí thượng, trừu tượng. Điều này chứng tỏ giai cấp thống trị dùng vũ khí tơn giáo này ngày càng một tinh vi hơn. Khổng Tử – người sáng lập ra Nho giáo cho rằng người ta khơng thể cưỡng lại mệnh “chữa được bệnh chứ khơng chữa được mệnh”. Khổng Tử nhấn mạnh: “Khơng biết mệnh, khơng phải là quân tử” (Bất tri mệnh, vơ dĩ quân tử giả). Trong quá trình tu dưỡng, ơng coi việc biết “m._.. Các người xem, những người này đã lâu khơng ở một chỗ, hơm nay đơng đủ …”[10, tập 6, tr.126]. Vừa nĩi đến đĩ, ngoảnh lại thấy cịn mấy người khơng cĩ mặt. Khi chơi tửu lệnh, Uyên Ương nĩi đến câu: “Chim én dắt con”, [10, tập 6, tr.131] Phượng Thư tiếp lời: “Chim con thì chim con, nhưng bay mất một ít rồi”[10, tập 6, tr.131]. Nghe thế “mọi người lườm chị ta một cái. Phượng Thư liền im lặng” [10, tập 6, tr.131] Hành động, lời nĩi, việc làm của Phượng Thư khiến ta khơng cịn nhận ra đây là người đã từng cĩ một thời mà tiếng nĩi của nàng như quân lệnh, cách trêu chọc mọi người của nàng đã làm những ai tham gia đều phải cười nghiêng, cười ngửa. A hồn khắp các phịng khi nghe mợ hai Liễn kể chuyện liền bỏ tất cả những việc đang làm để chạy đến nghe. Hình ảnh ấy giờ đây đã trở thành quá khứ. Trước mắt ta bây giờ là một Phượng Thư khác, nhỏ bé, e dè, khép nép, sợ sệt, những biểu hiện trái hẳn với tính cách vốn cĩ của nàng và thể hiện sự thiếu bản lĩnh, kém thích nghi với hồn cảnh của Phượng Thư và đĩ cũng chính là nỗi đau lớn nhất của đời nàng. Số phận những người con gái trong phủ Giả từ tiểu thư cho đến a hồn khơng những gắn liền với vận mệnh của gia tộc mà cịn gắn bĩ mật thiết với Giả Bảo Ngọc. Nên khi những người con gái ấy lần lượt ra đi thì người đau khổ nhất sẽ là chàng. Trong ngày sinh nhật Bảo Thoa, Lý Hồn gieo được cái tửu lệnh gọi là “mười hai thoa vàng”. Bốn tiếng ấy gợi cho Bảo Ngọc nhớ lại giấc mộng năm xưa và giờ đây chàng mới thật sự hiểu và thấm thía ý nghĩa của từng lá số tiền định trước kia và nhìn lại gia đình mình thấy cảnh chia ly tan tác, mỗi kẻ một nơi, mỗi người một ngã, bất giác chợt buồn “anh ta cố nín khơng được, nước mắt muốn rơi xuống, nhưng sợ người ta nhìn thấy”. Bảo Ngọc giả vờ sốt và xin ra ngồi. Bước chân vơ định đã đưa chàng trở lại chốn xưa – khu vườn Đại quan, một thời rộn tiếng cười tươi vui hạnh phúc. Nơi ấy giờ đây chỉ cịn “cỏ hoa khơ héo, đầy vẻ thê lương, màu sắc các đình đài phai nhạt đã lâu”[10, tập 1, tr.136]. Cảnh vật thê lương, lịng người sầu não, nỗi buồn nhân thế nhuộm màu ảm đạm lên khắp nơi mà ngày xưa từng rộn rã tiếng cười nĩi, đàn ca, ngâm thơ, vịnh cảnh. Trong ngày sinh nhật Bảo Thoa nhưng mỗi người đuổi theo một tâm trạng, suy nghĩ của riêng mình, họ tham gia một cách miễn cưỡng nên bên ngồi lộ vẻ khơng vui, trong lịng thì ốn trách. Hình phu nhân, Vưu thị, Tích Xuân thì nghĩ rằng gia nghiệp đã suy tàn mà cịn tổ chức sinh nhật cho Bảo Thoa là Giả mẫu thiên vị. Cịn thái độ của Uyên Ương, a hồn thân tín của Giả mẫu cũng khác. Khi Giả mẫu muốn chơi tửu lệnh, Bảo Ngọc đi gọi Uyên Ương đến, nàng nĩi: “Ơng trẻ ơi, để chúng tơi uống chén rượu cho khoan khối, tội gì lại đến quấy thế?”[10, tập 6, tr.128]. Câu nĩi tỏ thái độ khĩ chịu, khơng muốn đến giúp vui. Ta thấy trong ngày vui nhưng ngay cả thái độ vui gượng mà mọi người cũng khơng thể hiện được. Nỗi bi ai, sầu thảm khơng thể ẩn giấu trong lịng mà hiện cả trên gương mặt mọi người. Chính khơng khí khơng trọn vẹn niềm vui đã khiến mọi người cảm nhận sâu sắc hơn hồn cảnh suy tàn của gia đình. Gọi là ngày vui nhưng thực ra là nơi để mọi người trút cạn nỗi niềm đau khổ, ốn giận của mình. 3.3.2.2. Sinh nhật Bảo Thoa, Giả mẫu định mượn tiếng cười điệu hát xua tan u ám trong lịng mọi người nhưng bất thành. Nỗi buồn ấy tích tụ lại và càng về cuối tác phẩm khơng khí bi kịch càng như đám mây đen che kín bầu trời vinh hoa của phủ Giả. Cuối cùng đám mây đen ấy hĩa thành trận phong ba rửa sạch vẻ hào nhống bên ngoải, để lộ ra vẻ nhếch nhác, hoảng loạn, tan tác khơng thể cứu vãn được. Tất cả những điều ấy được thể hiện rõ nét trong lần tổ chức tang lễ Giả mẫu. Người Trung Quốc rất coi trọng cái chết của con người. Vì vậy từ rất sớm đã xuất hiện những nghi lễ phức tạp và nghiêm ngặt biểu thị sự thương tiếc đối với người mất và sự cầu phúc cho người chết về thế giới bên kia. Hồng lâu mộng miêu tả nhiều tang lễ. Trong đĩ, đám tang Tần Thị và Giả Mẫu là cĩ sắc thái trái ngược nhau. Trên kia chúng tơi đã phân tích khung cảnh xa hoa, lãng phí trong đám tang Tần Thị. Cịn đây là tang lễ của người cĩ địa vị cao nhất ở hai phủ Vinh, Ninh là Sử thái quân – Giả mẫu. Thế nhưng khi bà từ giã nhân thế ở tuổi tám mươi ba để trở về “Ngũ đài sơn” thì việc tang lễ được lo liệu như thế nào? Với địa vị và thân phận cao quý của Giả mẫu, tang lễ phải được cử hành long trọng và tơn nghiêm, đúng theo lễ chế. Thế nhưng thực tế hồn tồn trái ngược, việc cử hành tang lễ khơng được chu đáo và thiếu tơn nghiêm, kém phần trọng thể, hồn tồn khơng tương xứng với danh phận và địa vị của bà. Đĩ là vì gia cảnh của nhà họ Giả khơng cịn như xưa, thế lực và uy quyền khơng cịn nữa. Sau khi Nguyên phi mất, họ Giả như bị mất đi điểm tựa vững chắc, cơ ngơi đồ sộ bị lục sốt, bị tịch biên, niêm phong, kinh tế gia đình gặp nhiều khốn khĩ, thiếu trước hụt sau, lo đằng này thì hỏng đằng kia. Những nơ bộc, a hồn trong gia đình cũng khơng cịn tơn kính chủ nhà, thậm chí thay đổi hẳn thái độ, khiến cho phủ Giả giờ đây như một đống cát rời rạc khơng ai lãnh đạo và chỉ huy. Giả mẫu mất vào lúc gia đình đang trên đà đổ nát, sự đãi ngộ và quan tâm của triều đình phong kiến mà đại diện là Hồng đế cũng khác xưa. Nhưng vì những hồi sau là do Cao Ngạc chấp bút nên mới cĩ việc vua ban ơn thưởng cho một ngàn lạng bạc và sai bộ lễ làm chủ tế. Con trưởng là Giả Xá khơng cĩ ở nhà, nên việc gia đình được giao lại cho Giả Chính nhưng ơng ta lại là người hay câu nệ, khơng dám chuyên quyền nhưng quan trọng là do Giả Chính khơng cĩ tài quản lý. Bên cạnh đĩ, Giả Chính và Vương phu nhân khơng như Giả Trân lúc lo tang lễ cho Tần thị là “cĩ bao nhiêu làm hết bấy nhiêu thì thơi”. Một phần là do gia đình lo sợ nếu tổ chức linh đình quá, triều đình sẽ nghi ngờ nhà họ Giả cịn cất giấu tài sản riêng nên chủ trương “đám tang thà buồn thương hơn là bày biện linh đình” [10, tập 6, tr.168] và họ cũng cần để lại một ít tiền để đưa linh cữu Giả mẫu về Nam. Trong khi đĩ, Hình phu nhân cho rằng Phượng Thư ăn tiêu rộng rãi, Giả Liễn hay giở trị ma nên cố nắm chặt lấy tiền bạc khơng chịu chi. Vì thế xảy ra cảnh “làm rạp bên ngồi cần phải chi mấy trăm bạc, mà cũng chưa cĩ đồng nào” [10, tập 6, tr.170]. Trong khi đĩ việc tiếp đãi những người đến viếng cũng khơng được chu đáo “đến ngày thứ ba rồi mà trong nhà cịn rối beng”, “được thức ăn thì thiếu cơm” [10, tập 6, tr.170]. Mời hịa thượng đọc kinh sám hối, điếu tế cúng cơm liên tiếp khơng ngớt nhưng rút cuộc vì chi tiêu dè sẻn quá nên khơng ai chịu hăng hái, chẳng qua chỉ làm qua loa cho xong việc. Đĩ là những việc bên ngồi, cần phải cĩ tiền bạc mới cĩ thể lo chu tất. Thế cịn phương diện tình cảm, sự tiếc thương, đau buồn được thể hiện như thế nào? Đầu tiên là Giả Hồn, “hai mắt cứ y như là khỉ sống, hết liếc bên này lại liếc bên kia. Tuy là gào khĩc ở đây, nhưng khi thấy các mợ các cơ đến, anh ta ở trong màn tang cứ liếc mắt nhìn trộm”[10, tập 6, tr.178]. Bên cạnh đĩ, Giả Bảo Ngọc nhìn Tương Vân, “thấy cơ ta ăn mặc đồ trắng, son phấn khơng xoa, mà so với lúc chưa đi lấy chồng cịn đẹp hơn nhiều”, nhân đĩ lại nghĩ đến Đại Ngọc, cảm thấy trong lịng chua xĩt, nước mắt trào ra, nhân tiện cĩ việc tang Giả mẫu nên khĩc to lên. Ai cũng nghĩ anh ta nghĩ đến Giả mẫu thương yêu cho nên đau buồn mà khĩc, khơng biết rằng anh chàng cĩ nỗi đau xĩt riêng. Tương Vân cũng thế, nghĩ đến ngày thường được Giả mẫu thương yêu, rồi cảm thấy số mình khổ sở, vừa lấy được người chồng tài mạo song tồn, tính tình hịa nhã, khơng ngờ mắc phải chứng bệnh oan nghiệt, chỉ cịn chờ từng ngày thơi nên càng thêm đau xĩt, khĩc mãi đến nửa đêm. Trong tang lễ Giả mẫu mặc dù theo lời Giả Chính tiếc thương là chủ yếu nhưng điểm qua một vài gương mặt, ta nhận thấy mỗi người theo đuổi một mục đích riêng, mỗi người mang một tâm sự riêng, nỗi đau riêng và nhân tang lễ Giả mẫu, họ đều khĩc than thảm thiết nhưng đĩ khơng xuất phát từ lịng thương xĩt người đã khuất. Họ chỉ nhân đấy mà khĩc than cho niềm đau riêng của chính mình. Tất cả những cảnh tượng ấy gĩp phần tạo nên vẻ hỗn độn bát nháo trong những ngày diễn ra tang lễ. Tình cảnh như thế, Vương Hy Phượng dù tài giỏi thế nào cũng khơng thể lo liệu cho chu tồn được. Khi khơng cĩ tiền trong tay thì việc chứng tỏ tài năng và uy quyền như khi ở phủ Ninh là khơng thể thực hiện. Cho dù Uyên Ương khĩc lĩc quỳ xin Phượng Thư “lo liệu cho cĩ bề thế một tí”, “để cụ khi chết vẫn cịn được mát mặt một chút”[10, tập 6, tr.168]. Phượng Thư cũng muốn chứng tỏ cho mọi thấy tài năng quán xuyến việc nhà của mình và Giả mẫu qua đời cũng chính là dịp để nàng trổ tài. Chính Phượng Thư cũng nghĩ : “Việc nhà đây vốn do mình coi, bọn người nhà đều là chân tay mình. Mặc dù người mình khơng được khỏe nhưng khơng đến nỗi để người ta chê bai. Thế nào cũng cịn lo liệu chu tất hơn khi ở phủ Ninh”[10, tập 1, tr.167]. Thế nhưng vào cuộc rồi mới nhận thấy tình hình hiện tại khơng đơn giản như nàng nghĩ, Vương Hy Phượng lâm vào tình cảnh dở khĩc dở cười. Trên thì bị Vương phu nhân, Hình phu nhân quở trách, cho là nàng khơng hết lịng lo liệu, dưới thì bị kẻ ăn người ở trong nhà khinh thường khơng cịn tơn trọng, nể sợ. Lời nĩi của nàng vì thế cũng khơng cịn giá trị. Ngay cả Uyên Ương cũng trách Phượng Thư: “Mợ ta trước kia làm việc lanh lợi và chu đáo biết dường nào, sao nay bị lúng ta lúng túng như thế! Mình xem ba bốn hơm nay, mợ ấy cứ lẩm ca lẩm cẩm, thật là phụ lịng thương yêu của cụ bà”[10, tập 6, tr.172]. Phượng Thư mất hết uy phong là do nhà họ Giả đã thật sự suy sụp, khơng cịn gì, hiện tại người thì thiếu, tiền thì khơng nên khơng thể tổ chức linh đình chu đáo như đám tang Tần thị được. Khơng cĩ tiền, khơng cĩ quyền, nàng khơng thể hành động quyết liệt như trước kia nên chỉ biết kêu gào van xin. Thế mà cịn bị a hồn mượn thế Vương phu nhân, Hình phu nhân đến mắng ngược trở lại. Đĩ cịn do Phượng thư khơng được Vương phu nhân ủng hộ, bênh vực như trước kia nên bọn người làm thừa giĩ bẻ măng, trở mặt với nàng. Cĩ a hồn đã chạy đến trước mặt Phượng Thư dày vị: “Mợ Hai ở đây à? Chẳng trách bà Cả nĩi: trong nhà nhiều người mà trơng nom khơng xiết, mợ Hai thì tránh đi cho khỏe rồi!" [10, tập 6, tr.180]. Nghe câu nĩi ấy Phượng Thư cố gắng nén nỗi bực tức, nhưng nước mắt cứ trào ra, cuối cùng khơng chịu đựng được nữa hộc máu tươi, ngã ra đất. Phủ Giả giờ đây như ngọn đèn đã cạn dầu, chỉ cịn le lĩi vài tia sáng yếu ớt. Thế nên tang lễ Giả mẫu chỉ được lo liệu sơ sài, qua loa, thiếu trước hụt sau. Ngày đưa tang, xe để các bà các cơ ngồi cũng khơng cĩ đủ, đành phải đi thuê, đi mượn. Tục ngữ cĩ câu “Phước bất trùng lai, họa vơ đơn chí”. Trong hồn cảnh khốn khĩ như thế mà gia tộc họ Giả cịn bị con nuơi Chu Thụy là Hà Tam dẫn bọn cướp đến khuân sạch số tài sản cịn lại. Qua chi tiết ấy, ta thấy gia đình họ Giả thật sự khơng thể cứu vãn nổi, bọn người hầu cũng đứng lên chống lại chủ nhà, chúng khơng những phản kháng mà cịn thừa giĩ bẻ măng, nhân lúc họ Giả suy yếu chúng đến cướp sạch số của cải cịn sĩt lại. Trong Hồng lâu mộng, qua việc miêu tả cảnh long trọng xa hoa của đám tang Tần thị và sự sơ sài, thiếu thốn trong tang lễ Giả mẫu, Tào Tuyết Cần, Cao Ngạc đã cho ta thấy được quá trình phát triển từ thịnh đến suy của một gia tộc. Đồng thời qua đĩ tác giả gián tiếp miêu tả số phận bi kịch của Vương Hy Phượng. Sự vinh nhục trong cuộc đời nàng gắn liền với quá trình phát triển của phủ Giả. Nhờ thế lực họ Giả mà Phượng Thư chứng tỏ được tài năng của mình, khi họ Giả thất thế thì tài năng của nàng cũng khơng cĩ đất để phát huy. Từ đĩ Phượng Thư như biến đổi hẳn trở thành một con người hồn tồn khác, cơ thể bạc nhược, tinh thần suy sụp, nĩi cũng khơng ra hơi, chỉ cịn biết van xin mọi người: “Các bà các thím thương tơi với”[10, tập 6, tr.136] Câu tục ngữ mà Lý Hồn dẫn ra rất phù hợp với hồn cảnh của Phương Thư: “Hoa mẫu đơn dầu đẹp, tồn nhờ lá xanh nâng niu”[10, tập 6, tr.176]. Nếu Hy Phượng khơng cịn uy thế, tiền tài để trấn áp những người cần nhờ vả thì họ sẽ xa lánh nàng, lúc ấy Phượng Thư trở nên lẻ loi, cơ độc. Khi thế lực nhà họ Giả khơng cịn thì tài năng của nàng cũng khơng thể phát huy, địa vị của nàng quản gia trẻ tuổi nơi phủ Giả đã mất hết tác dụng. Hy Phượng giờ đây cũng giống như Bảo Ngọc khi bị mất viên ngọc thơng linh, chỉ cĩ xác mà khơng cĩ hồn, ngây ngây dại dại, trở thành người vơ dụng. Cảnh suy vong của gia tộc họ Giả ở bốn mươi hồi sau của Hồng lâu mộng là do Cao Ngạc chấp bút. Cao Ngạc là một ơng quan đang trên đường hanh thơng, với cái nhìn hơi khác, ơng đã khơng hồn tồn trung thành với dự thảo của Tào Tuyết Cần nhưng về cơ bản hai tác giả của Hồng lâu mộng vẫn cĩ cùng cảm quan chung đối với xã hội phong kiến quý tộc Trung Hoa. Vì thế đoạn kết miêu tả khá thành cơng khơng khí suy tàn của Tứ đại gia tộc. KẾT LUẬN Mỗi nền văn học đều cĩ hạt nhân văn hĩa của nĩ. Hồng lâu mộng sở dĩ cĩ thể đạt tới đỉnh cao như vậy là vì nĩ đã thực hiện tốt sứ mệnh vận dụng yếu tố văn hĩa để phản ánh hiện thực. Hiện thực cuộc sống cĩ quá nhiều hiện tượng khiến cho con người khơng giải thích được. Vì thế, con người luơn băn khoăn về vấn đề nguồn gốc của mọi vật cũng như số phận của chính mình. Những vấn đề này, những giải đáp khoa học hay triết học chưa đủ thỏa mãn con người. Trong tình hình đĩ, họ tìm thấy trong tơn giáo lời giải đáp cĩ thể khơng chính xác nhưng lại cĩ sức hấp dẫn, thuyết phục bởi tính huyền bí, tính logic tư biện của nĩ. Vì thế, Tào Tuyết Cần đã mượn triết lý Nho, Đạo, Phật để hịa chung vào chỉnh thể Hồng lâu mộng. Nếu nĩi tư tưởng nhà Nho là âm điệu chính cố kết do phím đàn tạo ra thì tư tưởng Đạo gia và Phật giáo là hịa âm nhẹ nhàng luơn phát ra. Do đĩ muốn nắm được tính khuynh hướng của Hồng lâu mộng khơng phải là việc đơn giản, vì bản thân tác phẩm bao hàm nhiều yếu tố phức tạp, đa dạng và chịu sự chi phối của nhiều hiện tượng xã hội nhưng lại tập trung và hịa hợp với nhau, khơng thể chia tách, trong một chỉnh thể nghệ thuật. Thế nhưng, tác phẩm vẫn thực tốt sứ mệnh của mình là thanh lọc con người, đưa con người lên bậc cao hơn trong đời sống tinh thần, thấm vào tâm hồn con người một cách bí ẩn, lắng sâu. Cĩ nhiều con đường khác nhau để tiếp cận tác phẩm Hồng lâu mộng, cũng cĩ nhiều tiêu chí để chúng ta đưa ra soi chiếu tác phẩm. “Lá số tiền định của Kim Lăng thập nhị kim thoa” chỉ là một trong những con đường đĩ. Do vậy, chúng tơi khơng hy vọng những kết luận chúng tơi đưa ra cĩ thể bao quát hết giá trị Hồng lâu mộng. Song theo chúng tơi, đây là một hướng đi cĩ thể giúp chúng ta khám phá được phần nào nét độc đáo và vẻ đẹp của Hồng lâu mộng. Đọc Hồng lâu mộng, chúng ta dễ dàng nhận ra, Tào Tuyết Cần khơng phải chỉ là người quan sát mà cịn là người tham gia vào mọi biến động, len lỏi vào những tầng sâu của xã hội phong kiến bằng tất cả những nhận thức sắc sảo cộng với một trái tim nhạy cảm. Vì thế, Hồng lâu mộng được tác giả viết khơng phải chỉ bằng vốn văn hĩa mà cịn bằng vốn sống, bằng sự trải nghiệm bản thân. Đề tài “Lá số tiền định của thập nhị Kim thoa trong Hồng lâu mộng” đã gĩp phần giải mã những bí ẩn của lá số dưới gĩc nhìn của những phương tiện nghệ thuật, một mặt khẳng định tài năng sáng tạo của Tào Tuyết Cần mặt khác giúp cho người đọc cĩ thể hiểu tác phẩm một cách thấu đáo hơn. Lá số tiền định được tác giả xây dựng bằng cách vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố văn hĩa, ngơn ngữ ... Những lá số ấy đã miêu tả nhân vật dưới nhiều gĩc nhìn khác nhau, cĩ thể là một sự kiện, tình tiết quan trọng trong cuộc đời nhân vật; đặc điểm dung mạo, tính cách đặc trưng của nhân vật; ám chỉ số phận nhân vật. Cĩ thể nĩi, lá số tiền định chính là bản tĩm tắt cuộc đời Thập nhị kim thoa nhưng vì cách thể hiện hơ ứng ám thị khiến cho người đọc như hiểu như khơng. Do đĩ cĩ thể thấy bản thân lá số tiền định đã mang tính phức tạp và độc đáo, khiến cho bản dịch rất khĩ chuyển tải được những nét độc đáo, đặc sắc của lá số. Vì thế, khi giải mã lá số dưới những gĩc nhìn của những phương tiện nghệ thuật càng khiến cho chúng ta khâm phục tài năng và sự sáng tạo độc đáo của Tào Tuyết Cần. Bên cạnh đĩ, việc phân tích số phận bi kịch của Thập nhị kim thoa trong thế giới hiện thực, cho thấy Tào Tuyết Cần ngồi việc cảm thụ hiện thực cuộc sống sắc sảo cịn thể hiện những suy ngẫm lý tính cĩ tính chất tồn diện và sâu sắc về vũ trụ và nhân sinh. Tào Tuyết Cần đã nghệ thuật hĩa những suy ngẫm khơ khan của mình, tạo thành một kiểu đặc sắc nghệ thuật “Hồng lâu thị mộng nguyên phi mộng”. Từ thế giới mộng tác giả đã dẫn dắt người đọc đến thế giới thực : thế giới của những người con gái tài hoa, thanh cao, trong sạch nhưng chịu chung số phận bi kịch. Bi kịch trong Hồng lâu mộng khác với bi kịch Hy Lạp cổ đại. Trong bi kịch Hy Lạp, cuộc đấu tranh của con người là các lực lượng siêu nhiên, đại diện cho số mệnh và cĩ quyền sinh sát con người. Cịn bi kịch trong Hồng lâu mộng, đại diện là Kim lăng thập nhị kim thoa chính là bi kịch của tính cách và thời đại. Chính thời đại thối nát đã bĩp nghẹt ước mơ và lẽ sống chính đáng của con người. Thập nhị kim thoa, mỗi người một tính cách, một hồn cảnh nhưng tất cả đều nhận thức sự phi lí của chế độ tơng pháp phong kiến. Mỗi người cĩ một cách phản kháng khác nhau đối với xã hội ấy nhưng cuối cùng vẫn chưa giành được chiến thắng. Điều này cĩ thể lí giải bằng nguyên nhân xã hội. Hồng lâu mộng ra đời vào lúc xã hội Trung Quốc đã xuất hiện những mầm mống của chủ nghĩa tư bản nhưng lực lượng mới chưa đủ mạnh. Bên cạnh đĩ, dưới sự thống trị của đế chế Mãn Thanh, triều đại ngoại tộc này rất cĩ ý thức làm sống lại chủ nghĩa phong kiến Trung Hoa vốn cĩ từ hai mặt cơ cấu xã hội và ý thức hệ, kìm hãm mọi mầm mống chuyển hĩa, kéo dài thời kỳ trung đại. Do đĩ, Tào Tuyết Cần lẫn Cao Ngạc vẫn chưa đủ cơ sở để xây dựng nên hình ảnh xã hội và con người tương lai. Vì vậy, đành để nhân vật kết thúc số phận trong bi kịch và kéo theo sự suy tàn của cả gia tộc, cả thời đại. Người viết vẫn chưa triển khai hết những ý tưởng của mình trong luận văn này. Vì thế, đề tài “Lá số tiền định của thập nhị Kim thoa trong Hồng lâu mộng” cĩ thể được mở rộng theo những hướng sau: Ngơn ngữ nghệ thuật, hệ thống các biểu tượng mang tính chất tiên tri, những dự cảm khơng lành của nhân vật trong Hồng lâu mộng. Nghiên cứu “Lá số tiền định” trong lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc nĩi chung và lịch sử tiểu thuyết Minh – Thanh nĩi riêng. Nghiên cứu “lá số tiền định” trong mối quan hệ với vấn đề tơn giáo trong Hồng lâu mộng. Chúng tơi hy vọng cĩ thể tiếp tục tìm hiểu đề tài này với những hướng nghiên cứu trên trong một tương lai khơng xa. TÀI LIỆU THAM KHẢO I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT 1. Dư Quan Anh chủ biên (1997), Lịch sử văn học Trung Quốc, tập 3, Nxb Văn học Hà Nội. 2. Lại Nguyên Ân, Bùi Văn Trọng Cường (2005), Từ điển Việt Nam từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX, Nxb ĐHQG Hà Nội. 3. Trần Lê Bảo (1996), “Hồng lâu mộng và chu dịch”, Tạp chí Văn hố dân gian, số 1. 4. Trần Lê Bảo (2002), “Nghệ thuật xây dựng nhân vật chính diện trong Hồng lâu mộng”, Tạp chí Văn hĩa nghệ thuật, số 3. 5. Trần Lê Bảo (2004), “Nhĩm nhân vật điển hình trong tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 9. 6. Trần Lê Bảo (2006), “Thể nghiệm mộng ảo của các tác gia cổ đại Trung Quốc”, Nghiên cứu Trung Quốc, số 4. 7. Phan Văn Các chủ biên (2001), Từ điển Hán Việt hiện đại, Nxb Giáo Dục. 8. Phan Văn Các (1995), “Lời giới thiệu Hồng lâu mộng”, Hồng lâu mộng, tập 1, Nxb Văn học. 9. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn Du. 10. Tào Tuyết Cần (1989), Hồng lâu mộng, 6 tập, Nxb Văn Nghệ Tp. Hồ Chí Minh. 11. Phạm Tú Châu (2000), “Vài nét về nghiên cứu tiểu thuyết Minh Thanh ở Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc, số 3. 12. Phạm Tú Châu (1992), “Việc nghiên cứu ảnh hưởng Phật giáo và Đạo giáo trong mấy bộ tiểu thuyết tiêu biểu của Trung Quốc”, Tạp chí văn học, số 4. 13. Nhật Chiêu (2003), Những câu chuyện văn chương phương Đơng, Nxb Giáo Dục. 14. Trương Chính (1998), Bình giảng ngụ ngơn Trung Quốc, Nxb Giáo Dục. 15. Dỗn Chính (1994), Đại cương lịch sử triết học phương Đơng cổ đại, Nxb Giáo Dục. 16. Đồn Trung Cịn (1992), Phật học từ điển, quyển 3, Nxb Tp. HCM. 17. Đường Đắc Dương chủ biên (2003), Cội nguồn văn hĩa Trung Quốc, Nxb Hội Nhà Văn. 18. Đặng Anh Đào (1992), “Nguồn gốc và tiền đề của tiểu thuyết”, Tạp chí văn học, số 6. 19. Lâm Hán Đạt (2001), Lịch sử Trung Quốc 5000 năm, Nxb Trẻ. 20. Trần Xuân Đề (1998), Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo Dục. 21. Lâm Ngữ Đường (1994), Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa, Nxb Văn Hĩa. 22. Lâm Ngữ Đường (2001), Trung Hoa đất nước con người, Nxb Văn hĩa Thơng tin. 23. Nhiều tác giả (2000), Khái yếu lịch sử văn học Trung Quốc, tập 2, Nxb Thế Giới. 24. Nhiều tác giả (1997), Lịch sử văn học Trung Quốc, tập 2, Nxb Giáo Dục. 25. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới Hà Nội. 26. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên (1997), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG Hà Nội. 27. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lí luận văn học – vấn đề và suy ngẫm, Nxb Giáo Dục. 28. Nguyễn Hùng Hậu (2004), Triết lý trong văn hĩa phương Đơng, Nxb Đại Học Sư Phạm. 29. Hồ Sĩ Hiệp (2001), Văn học Trung Quốc năm 2000, Tạp chí văn học (2). 30. Nguyễn Xuân Hịa (1998), Ảnh hưởng của tiểu thuyết cổ Trung Quốc đến tiểu thuyết cổ Việt Nam, Nxb Thuận Hĩa. 31. Chương Bồi Hồn, Lạc Ngọc Minh (2000), Trung Quốc văn học sử, tập 3, Nxb Phụ Nữ. 32. Từ Tập Huy chủ biên (2000), Những mẫu chuyện lịch sử nổi tiếng Trung Quốc – 10 đại văn hào Trung Quốc, Nxb Thanh Niên. 33. Nguyễn Huy Khánh (1991), Khảo luận tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa, Nxb Văn Học. 34. Khrapchenko (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội. 35. Konrat (1997), Phương Đơng và phương Tây, Nxb Giáo Dục. 36. Đinh Trọng Lạc (1999), 99 phương tiện và biện php tu từ tiếng Việt, Nxb Giáo Dục. 37. Dỗn Hiệp Lí chủ biên (2001), Từ điển văn hố cổ truyền Trung Hoa, Nxb Văn hố thơng tin Hà Nội. 38. Nguyễn Thị Diệu Linh (2003), Thực – hư trong Hồng lâu mộng, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư Phạm Hà Nội. 39. Lixêvích (2000), Tư tưởng văn học cổ Trung Quốc, Nxb Đại học Sư phạm Tp. HCM 40. Phương Lựu (1981), “Vài nét về lý luận văn học, mỹ học cổ điển Trung Quốc”, Tạp chí văn học, số 6. 41. Phương Lựu (1996), Văn hĩa văn học Trung Quốc cùng một số liên hệ ở Việt Nam, Nxb Hà Nội. 42. Phương Lựu (1989), Tinh hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo Dục. 43. Vương Tuệ Mẫn, (2002), 100 danh nhân cĩ ảnh hưởng đến lịch sử Trung Quốc, Nxb Văn hĩa Thơng tin. 44. Milankundera (1998), Nghệ thuật tiểu thuyết, Nxb Đà Nẵng. 45. Nãrađa Mahã Thera (2007), Đức Phật và Phật pháp, Nxb Phương Đơng. 46. Phạm Xuân Nguyên, (1991), Phân tích tâm lý trong tiểu thuyết, Tạp chí văn học, số 2. 47. Nguyễn Khắc Phi (1998), Thơ văn cổ Trung Hoa, mảnh đất quen mà lạ, Nxb Giáo Dục. 48. Nguyễn Khắc Phi, Lưu Đức Trung, Trần Lê Bảo (2002), Lịch sử văn học Trung Quốc, tập 2, Nxb Đại Học Sư Phạm. 49. Trương Quốc Phong, Thái Trọng Lai (2001), Tiểu thuyết sử thoại các thời đại Trung Quốc, Nxb Văn nghệ Tp. HCM. 50. Vu Đại Quang (1996), 100 nhân vật ảnh hưởng lịch sử Trung Quốc, Nxb Trẻ. 51. Vương Hồng Sển (1993), Thú xem truyện Tàu, Nxb.Tp.HCM. 52. Trần Đình Sử (2003), Thi pháp Truyện Kiều, Nxb Giáo Dục Hà Nội. 53. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 54. Lỗ Tấn (1996), Sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, Nxb Văn Hĩa. 55. Khâu Chấn Thanh, Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo Dục. 56. Trương Khánh Thiện, Lưu Vĩnh Lương (2002), Mạn đàm về Hồng lâu mộng, Nxb Thuận Hĩa. 57. Lương Duy Thứ (1990), Để hiểu tám bộ tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, Nxb KHXH và Nxb Mũi Cà Mau. 58. Lương Duy Thứ (1989), “Kim Bình Mai một tác phẩm hiện thực phê phán cĩ giá trị”, Tạp chí văn học, số 3 59. Cung Kim Tiến biên soạn (2002), Từ điển triết học, Nxb Văn hĩa Thơng tin, Hà Nội. 60. Lê Huy Tiêu (2005), Cảm nhận mới về văn hĩa – văn học Trung Quốc, Nxb ĐHQG Hà Nội. 61. Lê Huy Tiêu (2003), “Xu hướng nghiên cứu văn học cổ điển Trung Quốc ở thế kỷ mới”, Tạp chí Văn học, số 10. 62. Vũ Anh Tuấn dịch (2006), 101 Vẻ đẹp văn chương Việt Nam và thế giới, Nxb Văn hĩa Thơng tin. 63. Lao Tử, Thịnh Lê chủ biên (2001), Từ điển Nho, Phật, Đạo, Nxb Văn Học. 64. Trương Lập Văn chủ biên (2003), Thiên, Nxb Khoa Học Xã Hội. 65. Nguyễn Đức Vân (1962), “Giá trị bộ tiểu thuyết Hồng lâu mộng”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 3. 66. Hà Thanh Vân (1999), Sự tương đồng về thi pháp nhân vật Truyện Kiều và Hồng lâu mộng, Trường Đại học KHXH & NV. II. TÀI LIỆU TIẾNG TRUNG 67. 曹雪芹著 (2004), 红楼梦, 北京燕山出版社(上册,下册). 68. 董晔(2003),“20 世纪林袋玉研究综述”,河南教育学院学报(哲学社 会科学版),第二期第 22 卷。 69. 刘士聪主编 (2004),红楼梦翻译研究论集, 南开大学出版社. 70. 宋淇(2000),红楼梦识药,中国书店。 71. 苏萍 (1998),红楼梦中国古代女性整体人格悲局的总结,第 1 期第 19 卷。 72. 王富鹏 (2000),“论贾宝玉的双姓化性格特征及其实质”,商丘师专 学报,第 16 卷第 1期。 73. 谢真元(1997), 古代小说中国妇女命运的文化透视,重庆师范学报哲社 版,第 1期。 74. 薛海燕 (2000),红楼梦女性观与明青女性文化,红楼梦学刊,第 2 辑。 75. 姚晓菲(2003),“20 世纪王熙凤研究综述”,河南教育学院学报(哲学 社会科学版),第二期第 22 卷。 76. 张瑞娥, 陈德用(2003),“由女性主义看“红楼梦”判词的英译”山东外语 教学,第 6期。 77. 张艳萍(2005),“试论老庄思想对 “红楼梦”的影响“,北京科技大 学学报,第 21卷第 1期。 78. 周汝唱著 (2005), 周汝唱梦解红楼, 漓江出版社. 79. 朱一玄编(2004),红楼梦资料汇编,南开大学出版社。 PHỤ LỤC NGUYÊN TÁC VÀ PHIÊN ÂM LÁ SỐ TIỀN ĐỊNH CỦA KIM LĂNG THẬP NHỊ KIM THOA CHÍNH SÁCH 1. Lá số thứ nhất: 可叹停机德,堪怜咏絮才。 玉带林中挂, 金簪雪里埋。 Khả thán đình cơ đức, kham liên vịnh nhứ (tử) tài. Ngọc đái lâm trung quải, kim trâm tuyết lí mai. 2. Lá số thứ hai: 二十年来辨是非, 榴花开处照宫闱。 三春怎及初春景, 虎兕相逢大梦归。 Nhị thập niên lai biện thị phi, lựu hoa khai xứ chiếu cung vi. Tam xuân chẩm cực sơ xuân cảnh, hổ tỉ tương phùng đại mộng quy. 3. Lá số thứ ba: 才自精明志自高, 生于末世运偏消。 清明涕送江边望, 千里东风一梦遥。 Tài tự tinh minh chí tự cao, sinh vu mạt thế vận thiên tiêu. Thanh minh thế tống giang biên vọng, thiên lý đơng phong nhất mộng dao. 4. Lá số thứ tư: 富贵又何为, 襁褓之间父母违。 展眼吊斜晖, 湘江水逝楚云飞。 Phú quý hựu hà vi, cưỡng bảo chi gian phụ mẫu vi. Triển nhãn điếu tà huy, Tương giang thuỷ thức Sở vân phi. 5. Lá số thứ năm: 欲洁何曾洁, 云空未必空。 可怜金玉质, 终陷淖泥中。 Dục khiết hà tằng khiết, vân khơng vị tất khơng. Khả liên kim ngọc chất, chung hãm náo nê trung. 6. Lá số thứ sáu: 子系中山狼, 得志便猖狂。 金闺花柳质, 一载赴黄梁。 Tử hệ Trung Sơn lang, đắc chí tiện xương cuồng. Kim khuê hoa liễu chất, nhất đới phĩ hồng lương. 7. Lá số thứ bảy: 勘破三春景不长, 缁衣顿改青衣妆。 可怜绣户侯门女, 独卧青灯古佛旁。 Khám phá tam xuân cảnh bất trường, tri y đốn cải thanh y trang. Khả liên tú hộ hầu mơn nữ, độc ngọa thanh đăng cổ phật bàng. 8. Lá số thứ tám: 凡鸟偏从末世来, 都知爱慕此生才。 一从二令三人木, 哭向金陵事更哀。 Phàm điểu thiên tịng mạt thế lai, đơ tri ái mộ thử sinh tài. Nhất tịng nhị lệnh tam nhân mộc, khốc hướng Kim Lăng sự cánh ai. 9. Lá số thứ chín: 势败休云贵, 家亡莫论亲。 偶因济刘氏, 巧得遇恩人。 Thế bại hưu vân quý, gia vong mạc luận thân. Ngẫu nhân tề Lưu thị, xảo đắc ngộ ân nhân. 10. Lá số thứ mười: 桃李春风结子完, 到头谁似一盆兰。 如冰水好空相妒, 枉与他人作笑谈。 Đào lý xuân phong kết tử hồn, đáo đầu thuỳ tự nhất bồn lan? Như băng thuỷ hảo khơng tương đố, uổng dữ tha nhân tác tiếu đàm. 11. Lá số thứ mười một: 情天情海幻情身, 情既相逢必主淫。 漫言不肖皆荣出, 造衅开端实在宁。 Tình thiên tình hải huyễn tình thân, tình ký tương phùng tất chủ dâm; Mạc ngơn bất tiếu giai Vinh xuất, tạo hấn khai đoan thực tại Ninh. ẢNH TƯ LIỆU NHÀ KỶ NIỆM TÀO TUYẾT CẦN DIỆP HƯƠNG THƠN NHÀ KỲ HẠ Bài thơ trên tường – tương truyền là của Ngạc Tỷ đề tặng Tào Tuyết Cần NGUYÊN BẢO THẠCH KIM LĂNG THẬP NHỊ KIM THOA CHÍNH SÁCH LÂM ĐẠI NGỌC TIẾT BẢO THOA GIẢ NGUYÊN XUÂN GIẢ THÁM XUÂN SỬ TƯƠNG VÂN DIỆU NGỌC GIẢ TÍCH XUÂN GIẢ NGHÊNH XUÂN VƯƠNG HY PHƯỢNG TẦN KHẢ KHANH GIẢ XẢO THƯ LÝ HỒN PHỤ LỤC NGUYÊN TÁC VÀ PHIÊN ÂM LÁ SỐ TIỀN ĐỊNH CỦA KIM LĂNG THẬP NHỊ KIM THOA CHÍNH SÁCH 1. Lá số thứ nhất: 可叹停机德,堪怜咏絮才。 玉带林中挂, 金簪雪里埋。 Khả thán đình cơ đức, kham liên vịnh nhứ (tử) tài. Ngọc đái lâm trung quải, kim trâm tuyết lí mai. 2. Lá số thứ hai: 二十年来辨是非, 榴花开处照宫闱。 三春怎及初春景, 虎兕相逢大梦归。 Nhị thập niên lai biện thị phi, lựu hoa khai xứ chiếu cung vi. Tam xuân chẩm cực sơ xuân cảnh, hổ tỉ tương phùng đại mộng quy. 3. Lá số thứ ba: 才自精明志自高, 生于末世运偏消。 清明涕送江边望, 千里东风一梦遥。 Tài tự tinh minh chí tự cao, sinh vu mạt thế vận thiên tiêu. Thanh minh thế tống giang biên vọng, thiên lý đơng phong nhất mộng dao. 4. Lá số thứ tư: 富贵又何为, 襁褓之间父母违。 展眼吊斜晖, 湘江水逝楚云飞。 Phú quý hựu hà vi, cưỡng bảo chi gian phụ mẫu vi. Triển nhãn điếu tà huy, Tương giang thuỷ thức Sở vân phi. 5. Lá số thứ năm: 欲洁何曾洁, 云空未必空。 可怜金玉质, 终陷淖泥中。 Dục khiết hà tằng khiết, vân khơng vị tất khơng. Khả liên kim ngọc chất, chung hãm náo nê trung. 6. Lá số thứ sáu: 子系中山狼, 得志便猖狂。 金闺花柳质, 一载赴黄梁。 Tử hệ Trung Sơn lang, đắc chí tiện xương cuồng. Kim khuê hoa liễu chất, nhất đới phĩ hồng lương. 7. Lá số thứ bảy: 勘破三春景不长, 缁衣顿改青衣妆。 可怜绣户侯门女, 独卧青灯古佛旁。 Khám phá tam xuân cảnh bất trường, tri y đốn cải thanh y trang. Khả liên tú hộ hầu mơn nữ, độc ngọa thanh đăng cổ phật bàng. 8. Lá số thứ tám: 凡鸟偏从末世来, 都知爱慕此生才。 一从二令三人木, 哭向金陵事更哀。 Phàm điểu thiên tịng mạt thế lai, đơ tri ái mộ thử sinh tài. Nhất tịng nhị lệnh tam nhân mộc, khốc hướng Kim Lăng sự cánh ai. 9. Lá số thứ chín: 势败休云贵, 家亡莫论亲。 偶因济刘氏, 巧得遇恩人。 Thế bại hưu vân quý, gia vong mạc luận thân. Ngẫu nhân tề Lưu thị, xảo đắc ngộ ân nhân. 10. Lá số thứ mười: 桃李春风结子完, 到头谁似一盆兰。 如冰水好空相妒, 枉与他人作笑谈。 Đào lý xuân phong kết tử hồn, đáo đầu thuỳ tự nhất bồn lan? Như băng thuỷ hảo khơng tương đố, uổng dữ tha nhân tác tiếu đàm. 11. Lá số thứ mười một: 情天情海幻情身, 情既相逢必主淫。 漫言不肖皆荣出, 造衅开端实在宁。 Tình thiên tình hải huyễn tình thân, tình ký tương phùng tất chủ dâm; Mạc ngơn bất tiếu giai Vinh xuất, tạo hấn khai đoan thực tại Ninh. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA7204.pdf
Tài liệu liên quan