Ký hoàng phủ ngọc tường

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH --------------------------------- LÊ THỊ HỒNG MINH KÝ HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG Chuyên ngành : VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số : 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THÀNH THI Thành phố Hồ Chí Minh - 2006 MỤC LỤC Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................1 2. Giới hạn đề tài và phạm vi nghiên cứu ..........

pdf171 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2799 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Ký hoàng phủ ngọc tường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.................................................2 3. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................3 4. Đóng góp của luận văn ....................................................................................6 5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................7 6. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... . 7 Chương 1: Hoàng Phủ Ngọc Tường và ký Việt Nam hiện đại 1.1 Hoàng Phủ Ngọc Tường - con người và sự nghiệp . .......................................8 1.2 Ký Hoàng Phủ Ngọc Tường trong tiến trình ký của văn học Việt Nam hiện đại .................................................................................................................13 1.2.1 Khái quát về thể “ký” .......................................................................13 1.2.2 Đặc điểm ký Hoàng Phủ Ngọc Tường ..............................................17 1.2.3 Vị trí ký Hoàng Phủ Ngọc Tường trong tiến trình ký của văn học Việt Nam hiện đại ....................................................................................24 Chương 2: Cảm hứng chủ đạo của ký Hoàng Phủ Ngọc Tường 2.1 Cảm hứng thiên nhiên ..................................................................................32 2.1.1 Một thiên nhiên tươi đẹp với nhiều dáng vẻ phong phú khác nhau . 33 2.1.2 Một thiên nhiên đầy khắc nghiệt, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh và con người ............................................................................................42 2.2 Cảm hứng văn hoá - lịch sử ..........................................................................45 2.2.1 Luôn hướng đến chiều sâu văn hóa ................................................. 46 2.2.2 Những khám phá mới về lịch sử ...................................................... 55 2.3 Cảm hứng trữ tình công dân .........................................................................60 2.3.1 Ca ngợi con người Việt Nam trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm 60 2.3.2 Ca ngợi con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước ...................................................................................................64 2.3.3 Ca ngợi sự lựa chọn thái độ sống đúng đắn của người trí thức Việt Nam trước những bước ngoặc của lịch sử . ................................................ 67 2.4 Cảm hứng phê phán và cảm hứng thời sự ...................................................71 2.4.1 Phê phán tội ác diệt chủng và diệt môi trường sống của kẻ thù xâm lược ....................................................................................................71 2.4.2 Trăn trở với những vấn đề thời sự nóng hổi đáng báo động .............75 Chương 3: Phương thức biểu hiện của ký Hoàng Phủ Ngọc Tường 3.1 Nghệ thuật xây dựng nhân vật .................................................................... 81 3.1.1 Sự tự biểu hiện của cái Tôi trữ tình ...................................................81 3.1.2 Thế giới nhân vật phong phú, sinh động ...........................................86 3.2 Nghệ thuật xây dựng kết cấu .......................................................................90 3.2.1 Kết cấu “phi cốt truyện” .................................................................. 90 3.2.2 Kết cấu theo trường liên tưởng ..........................................................96 3.3 Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ và giọng điệu .............................................101 3.3.1 Ngôn ngữ .........................................................................................101 3.3.2 Giọng điệu ... ....................................................................................113 3.4 Cách ứng xử nghệ thuật đối với từng tiểu loại ...........................................118 3.4.1 Với bút ký .........................................................................................118 3.4.2 Với tùy bút ..................................................................................... . 121 3.4.3 Sự xâm nhập giữa hai thể loại ........................................................ 124 KẾT LUẬN ............................................................................................ 127 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 131 PHỤ LỤC ............................................................................................... 139 1 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 1.1 Ký là một bộ phận hợp thành của hầu hết các nền văn học hiện đại. Được xem là một thể loại rất cơ động, linh hoạt, nhạy bén, ký ngày càng khẳng định vị trí quan trọng của mình trong việc phản ánh hiện thực của đời sống con người và xã hội ở cái thế trực tiếp và tươi mới nhất, đồng thời vẫn giữ được những giá trị nghệ thuật cơ bản của một tác phẩm văn học. Bằng vốn sống, sự hiểu biết và tài năng sáng tạo, các nhà văn viết ký thực sự đã khẳng định vai trò không thể thiếu của mình trong việc góp phần xây dựng một nền văn học hoàn chỉnh. 1.2 Trong những gương mặt viết ký tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, Hoàng Phủ Ngọc Tường (HPNT) nổi lên như một hiện tượng đáng chú ý với một phong cách viết vừa trữ tình, lãng mạn vừa thâm trầm, triết lí rất độc đáo, tài hoa. Vốn được sinh ra và lớn lên ở Huế - một trong những trung tâm văn hóa lâu đời của đất nước, do đó, hơn ai hết, HPNT rất am hiểu về thiên nhiên, lịch sử, văn hóa và con người nơi đây. Bởi vậy, những trang viết của ông luôn được gắn với vùng đất Huế vừa thẩm mỹ vừa ruột thịt. Bên cạnh đó, với vốn kiến thức uyên bác, phong phú trên nhiều lĩnh vực có được bằng sự tích lũy kiến thức qua những chuyến điền dã đến mọi miền của Tổ quốc, từ rừng hồi Lạng Sơn đến tận đất Mũi Cà Mau…, HPNT đã sáng tạo được những trang ký vừa chuyển tải được những vấn đề thời sự nóng hổi, đáng quan tâm đang diễn ra trong cuộc sống vừa thể hiện cái nhìn của một con người luôn muốn tìm hiểu, khám phá sự kiện ở chiều sâu của nó. 2 Chính vì thế, những tác phẩm ký HPNT thực sự đã khẳng định giá trị của mình theo thời gian, gây được sự chú ý cho công chúng gần xa và những nhà phê bình, nghiên cứu văn học . Từ năm 2003, ký HPNT đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình Văn 12 thí điểm phân ban ở cả 2 bộ sách (bộ 1 do Trần Đình Sử chủ biên; bộ 2 do Phan Trọng Luận chủ biên) với tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông”. Đây là một sự ghi nhận đáng kể vị trí của ký HPNT đối với nền văn học nước nhà. 1.3 Là một người giảng dạy văn học, lại vốn có sự yêu thích về bản chất phản ánh “người thật, việc thật” của thể ký và niềm say mê về truyền thống văn hóa xứ Huế, tôi đã tìm đến những trang ký của HPNT. Bởi tôi mong rằng, qua những trang ký đầy “ánh lửa” đó, tôi phần nào cảm nhận được những truyền thống văn hóa - lịch sử đặc sắc của xứ Huế, của dân tộc, mở rộng tầm nhìn của mình đến mọi miền của Tổ quốc, đặc biệt là về mảnh đất miền Trung đầy thương đau và khói lửa trong chiến tranh. Hơn thế nữa, việc nghiên cứu ký HPNT sẽ trang bị cho tôi những kiến thức cần thiết và bổ ích trong việc giảng dạy tác phẩm ký của ông ở THPT. Đó chính là những lý do tôi muốn đi sâu vào những tác phẩm ký của nhà văn HPNT để khám phá những giá trị tiềm ẩn, cũng như muốn khẳng định sự đóng góp của ông đối với nền văn học nước nhà. Mặt khác, nếu thành công, tôi xem như đây là một kỷ niệm trân trọng dành cho ông. 2. Giới hạn đề tài và phạm vi nghiên cứu: 2.1. Giới hạn của đề tài: Có thể nói, văn chương HPNT thực sự là một mảnh đất còn đang bỏ ngỏ. Do thời gian có hạn, luận văn chỉ tập trung vào việc tìm hiểu, phân tích tác phẩm 3 nhằm rút ra những đặc điểm chủ yếu của ký HPNT trong sự nghiệp sáng tác của ông trên hai phương diện nội dung cảm hứng và phương thức biểu hiện. 2.2. Phạm vi nghiên cứu: Trong luận văn này, người viết tập trung khảo sát các tác phẩm ký của HPNT, chủ yếu là bút ký và tùy bút, được tuyển chọn trong tập 2 và 3 của “Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường” (trọn bộ 4 tập) do Nhà xuất bản Trẻ TP Hồ Chí Minh phát hành năm 2002. Tổng số là 80 tác phẩm. Tuy nhiên, để bao quát hơn, chúng tôi tham khảo thêm các tác phẩm của HPNT đã được in riêng: “Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu”, “Rất nhiều ánh lửa”, “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, “Bản di chúc của cỏ lau”, “Hoa trái quanh tôi”, “Huế di tích và con người”, “Ngọn núi ảo ảnh”, “Trong mắt tôi”, “Rượu hồng đào chưa nhắm đã say”, Tập 1 “Tuyển tập HPNT” (tuyển chọn những bài Nhàn đàm), “Trịnh Công Sơn và cây đàn lya của hoàng tử bé”… 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ: Có thể xem HPNT là một hiện tượng văn học miền Trung và rộng hơn là văn học cả nước sau năm 1975. Các tác phẩm của ông tạo nên một sức hấp dẫn riêng, đặc biệt là đối với những người đã từng gắn bó với Huế. Những năm gần đây, các bài phê bình, bình luận tác phẩm HPNT đã được đăng nhiều trên các báo, tạp chí trong và cả ngoài nước. Ngoại trừ những bài viết bình bàn về thơ (vì không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài) thì chúng tôi có trong tay những bài viết sau liên quan ít nhiều đến nội dung đề tài cần khảo sát: Bước vào văn đàn Việt Nam không bao lâu, HPNT đã nhanh chóng tạo dựng một chỗ đứng vững chắc cho mình với những tập bút ký giàu giá trị nội dung và nghệ thuật. Và có lẽ, theo chúng tôi, Nguyễn Tuân là người đầu tiên có một cái nhìn rất bao quát nhưng đầy chính xác về giá trị của ký HPNT: “Ký 4 HPNT có rất nhiều ánh lửa” [99, tr. 3]. Còn Trần Đình Sử thì nhìn nhận một cách cụ thể hơn: “Bút ký của HPNT là một cuộc đi tìm cội nguồn, một sự phát hiện bề dày văn hóa và lịch sử của các hiện tượng đời sống… Văn anh giàu những tư liệu lấy từ sử sách, tri thức khoa học, huyền thoại và ký ức cá nhân làm cho hình tượng lóe lên những ánh sáng bất ngờ” [77, tr.298]. Phạm Xuân Nguyên khi đưa HPNT vào “Chân dung văn học Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên sau 1975” đã đánh giá: “Bất cứ viết về cái gì và viết về nơi đâu, tôi thầm nghĩ, HPNT chỉ đặt bút xuống trang viết khi đã tìm được mạch liên tưởng của nơi này với nơi kia, hôm nay và ngàn xưa, nhất thời và muôn thuở và khi đã quyết được với mình là từ những trang viết đó khả dĩ có được một chút gì đấy còn lại với người, với đời cho dù sự kiện đã vĩnh viễn bị vùi lấp trong dòng thời gian”, bởi vậy mà “Ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường là từ thực tế thoát ra khỏi thực tế, sau khi đã ngoảnh vào lịch sử văn hóa hiện trở ra đời” [64, tr.76-78]. Không chỉ thế, Nguyễn Đăng Mạnh còn đưa HPNT vào bộ sưu tập 90 chân dung nhà văn Việt Nam hiện đại trong “Tác giả Văn học Việt Nam” (Tập II) cùng với những nhận xét đáng quý: “Trong số không nhiều nhà văn đã dành gần như toàn bộ lao động nghệ thuật của mình cho thể ký hiện nay, Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cây bút đặc sắc” và chính “sự nhạy bén trong việc nắm bắt hiện thực cuộc sống và nhanh chóng lẩy ra những vấn đề đáng quan tâm, đáng bình luận là một nguồn gốc tạo nên thành công ở các trang kí của nhà văn” [51, tr.38]. Một trong những yếu tố của ký HPNT mà các nhà phê bình hay đề cập đến là cảnh sắc thiên nhiên. Lê Xuân Việt trong bài “Cảnh sắc thiên nhiên trong bút ký HPNT”, có viết: “Với HPNT, cảnh sắc thiên nhiên Huế in rõ bản sắc, bút pháp trong sáng tác của anh. Anh viết về sông Hương, Bạch Mã, về “thành phố vườn” của Huế với những liên tưởng phong phú, đa dạng mang dấu ấn của một cây bút tài hoa trong hư cấu, sáng tạo hình tượng đầy tính nghệ thuật ít lẫn với những người viết khác” [126, tr.80]. Lê Đức Dục thì nhấn mạnh: “Thiên 5 nhiên vốn có mặt trong mỗi số phận con người, nhưng thiên nhiên hóa thân thành máu thịt đời người, trở thành ám ảnh khôn nguôi đối với Hoàng Phủ Ngọc Tường” và “Đọc những bút ký của anh, ta luôn bắt gặp một HPNT luôn hiền kính như con chiên trước một đấng tối cao là chim muông - hoa lá - đất trời gọi tên là thiên nhiên” [17, tr.96-97]. Còn Lê Thị Hường thì tinh tế, cụ thể hơn: “Là thi sĩ của thiên nhiên, HPNT nhạy cảm với cỏ, hoa, ngàn thông, chim sẻ. Trong thơ anh xuất hiện nhiều hình ảnh hoa dại, cỏ gai, chim trời… như là biểu tượng của thiên nhiên trong trẻo, thuần khiết. Là thi sĩ của thiên nhiên, những trang ký của HPNT mang đến cho người đọc những miền không gian xanh thẳm, ẩn chìm những vết trầm tích văn hóa từ thiên nhiên” [42, tr.69]. Một khía cạnh khác mà các nhà nghiên cứu, phê bình cũng hay chú ý, đó là chất Huế, văn hóa Huế trong các tác phẩm HPNT. Hoàng Ngọc Hiến khi viết “Ký và tiểu luận (et-xe)” đã phát hiện rằng “trong Hoa trái quanh tôi của HPNT, vườn An Hiên được chiêm ngưỡng bằng những suy tư về “bản sắc Huế”, về quan niệm triết học Con người - Thiên nhiên và rộng hơn nữa, về vị thế của con người trong vũ trụ…” [32, tr.19]. Đặng Nhật Minh thì nhìn nhận: “Cái làm nên giá trị văn chương của HPNT theo tôi nghĩ, lại không nằm trong những kiến thức văn hóa uyên thâm ấy, mà nằm trong cái chất Huế của con người anh” [56, tr.65]. Trần Thùy Mai khi đặt vấn đề “Ký văn hóa của HPNT” đã nhấn mạnh: “Huế trong ký văn hóa của HPNT không giới hạn ở những thành quách, lăng mộ, sông núi, hay những chuyện vua chúa hậu phi chép dài dài trong những sách sử” mà “điều anh quan tâm là con người, và với sự hiểu biết khoa học của mình anh đã dựng lại diện mạo tâm hồn của Huế xưa, điều mà không một nhà Huế học nào làm được” [50, tr.56]. Bên cạnh đó, vốn kiến thức uyên bác, sâu rộng về các vấn đề của đời sống xã hội của nhà văn - cái mạch ngầm tạo nên sức sống, sức hấp dẫn cho các tác phẩm HPNT cũng được các nhà phê bình, nhà văn đặc biệt nhấn mạnh. “Đọc 6 Ngọn núi ảo ảnh của HPNT”, Hoàng Cát đã nhận định: “HPNT có một phong cách viết bút ký văn học của riêng mình. Thế mạnh của ông là tri thức văn học, triết học, lịch sử, địa lý… sâu và rộng, gần như đụng đến vấn đề gì, ở thời điểm nào và ở đâu thì ông vẫn có thể tung hoành thoải mái ngòi bút được” [12, tr.69]. Còn Nguyên Ngọc khi “Đọc HPNT” thì nhận xét: “HPNT là người thường hay suy nghĩ về lịch sử. Và những mô tả của anh, cố gắng thật tỉnh táo, bao giờ cũng được “chống đỡ” bởi những suy nghiệm sâu xa và ẩn ngầm về lịch sử; chính vì vậy mà những mô tả ấy thật khách quan nhưng không hề hời hợt” [63, tr.11]. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cũng nhấn mạnh: “Anh là một nhà văn hóa hành văn vô cùng độc đáo, một cuốn từ điển sống về Huế, và đôi khi như một triết gia uyên thâm lãng tử”, “Đọc anh, ta không chỉ thâu nhận đời sống, lịch sử, triết học, kinh tế hay chính trị mà còn cảm nhận được cả một tình yêu lớn đối với con người, dân tộc và cách mạng” [85, tr.65]. Ngay cả Đặng Tiến, một Việt kiều sống ở Paris, sau khi “Đọc tuyển tập HPNT” cũng đã đánh giá: “Đặc điểm trong tác phẩm HPNT là chất trí tuệ, dựa trên vốn kiến thức sâu rộng về địa lý, lịch sử, văn học kết hợp với lý luận sắc bén, được phô diễn trong hành văn súc tích, say đắm và hào hoa. Tình cảm dành cho đất nước, quê hương, bè bạn, thiên nhiên và nhân đạo vượt ra khỏi khuôn sáo văn chương, trở thành sinh lực lay chuyển tâm tư người đọc” [95, tr.8]. Có thể nói, với sự thông tuệ kiến thức đời sống, lịch sử, văn hóa cổ kim Đông - Tây, HPNT đã ngày càng khẳng định vị trí của mình bằng một phong cách ký rất độc đáo, rất riêng. Lê Viết Thọ “Trong miền hoài niệm” của mình đã ngẫm thấy: “Ngòi bút của nhà văn đẫm đầy chất thơ, chất trữ tình sâu lắng làm cho bài bút ký như trở thành một essai (tiểu luận) với những trang sâu sắc triết luận, miêu tả nghệ thuật tinh tế, một lượng tri thức, liên tưởng và một kiến văn phong phú” [90, tr.62]. Rồi Đặng Hiển, người giới thiệu tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông” trong Ngữ văn 12, Tập 2, Ban KHTN, khi trình bày 7 những đặc điểm cơ bản của phong cách nghệ thuật HPNT cũng đã nhấn mạnh: “Những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của ông (HPNT) là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa khách quan và chủ quan, giữa trữ tình và chính luận, sử thi hóa cảm hứng lịch sử và khám phá chiều sâu văn hóa của đối tượng” [47, tr.37]. Bởi vậy, “Trang văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường tuy không nhiều nhưng là những trang rực lửa, một cây bút xuất sắc của miền Trung xứ Huế” - Trần Mạnh Thường đã đi đến kết luận như vậy khi giới thiệu ông trong “Từ điển tác gia văn học Việt Nam thế kỷ XX” [94, tr.279]. Nhìn chung, những tài liệu đã được tiếp cận dù chưa phải là những công trình nghiên cứu kỹ lưỡng, toàn diện về HPNT và sáng tác của ông nhưng ít nhiều cũng đã chạm vào những vấn đề mà luận văn đặt ra. Chúng tôi xin ghi nhận tất cả các ý kiến trên và xem đó như những gợi ý quý báu để đi sâu vào việc tìm hiểu vấn đề, từ đó rút ra những đặc điểm chủ yếu của ký HPNT. 4. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN: - Luận văn tập trung tìm hiểu các tác phẩm thuộc thể loại ký (chủ yếu là bút ký và tùy bút) trong sự nghiệp sáng tác của HPNT để có một cái nhìn bao quát trên hai phương diện nội dung cảm hứng và phương thức biểu hiện. - Hy vọng góp thêm tiếng nói khẳng định giá trị những trang ký “rất nhiều ánh lửa” của HPNT, sự đóng góp của ông đối với bộ phận văn học ký Việt Nam nói riêng cũng như văn học đương đại Việt Nam nói chung. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Trong luận văn này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: 5.1 Phương pháp nghiên cứu loại hình: ở đây là thể loại ký, chủ yếu là bút ký và tùy bút để làm cơ sở lý luận vững chắc nghiên cứu ký HPNT. 8 5.2 Phương pháp lịch sử: nhằm tìm hiểu những dấu ấn lịch sử của thời đại được ghi nhận trong các tác phẩm, là nguồn tư liệu quý giá để nhà văn có thể viết về những “người thật, việc thật” - một đặc trưng cơ bản của thể ký. 5.3 Phương pháp hệ thống - cấu trúc: người viết khảo sát ký HPNT trên tinh thần kết hợp các yếu tố tương đồng về nội dung, nghệ thuật, đồng thời xem xét chúng trong mối quan hệ chặt chẽ với các hệ thống khác như văn hóa, lịch sử, nghệ thuật, triết học… để từ đó rút ra nhận định đánh giá tác phẩm. 5.4 Phương pháp so sánh: đặt nhà văn trong mối quan hệ đồng đại và lịch đại để vấn đề được xem xét, đánh giá khách quan hơn. 5.5 Phương pháp phân tích - tổng hợp: được sử dụng trong quá trình khảo sát các tác phẩm ký của HPNT để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu, tìm hiểu. 6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN: Ngoài phần Mở đầu trình bày những vấn đề mang tính trường quy, trọng tâm luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Hoàng Phủ Ngọc Tường và ký Việt Nam hiện đại Chương 2: Cảm hứng chủ đạo của ký Hoàng Phủ Ngọc Tường Chương 3: Phương thức biểu hiện của ký Hoàng Phủ Ngọc Tường Cuối cùng là Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục. 9 Chương 1: HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG VÀ KÝ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI 1.1 Hoàng Phủ Ngọc Tường - Con người và sự nghiệp 1.1.1 Con người Nhà văn HPNT sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937 tại thành phố Huế. Ông người làng Bích Khê, xã Triệu Phong, huyện Triệu Hải, tỉnh Quảng Trị. Hiện nay, ông đang sinh sống tại Huế cùng với người bạn đời của mình là nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ - một trong những gương mặt tiêu biểu của làng thơ nữ Việt Nam hiện đại. Từ lúc còn nhỏ đến hết bậc Trung học, HPNT đều học tại Huế. Suốt những năm học ở cấp II và cấp III, ông học ở Trường Trung học phổ thông Quốc học. Đến khi học Đại học, ông chuyển vào Sài Gòn. Từ năm 1957 đến năm 1960, HPNT là một trong những sinh viên đầu tiên của ban Việt Hán Đại học Sư Phạm Sài Gòn khoá I. Sau đó, ông về dạy các môn Văn và Triết tại trường Quốc học Huế từ năm 1960 đến 1966. Trong thời gian này, ông tiếp tục hoàn thành tấm bằng cử nhân thứ hai của mình tại khoa Triết Đại học Văn khoa Huế (1964). Trong những năm sống dưới chế độ Mỹ Diệm, từ những ngày còn đi học (1963), HPNT đã hăng hái tham gia phong trào đấu tranh đòi hòa bình và thống nhất Tổ quốc của học sinh sinh viên và trí thức Huế. Ông đã từng làm Tổng thư ký Hội Sinh viên Huế, từng bị Diệm bắt giam rồi được thả tự do sau đó nhân vụ đảo chánh tháng 11/1963 của quân đội Sài Gòn. 10 Từ năm 1964 đến 1966, ông tham gia vào phong trào chống Mỹ Nguỵ của Phật tử Huế, từng làm Chủ tịch lực lượng giáo chức tranh đấu Huế. Cũng trong thời gian này, ông được bầu làm Tổng thư ký toà soạn báo “Sinh viên Huế”, báo “Dân” và tạp chí “Việt Nam, Việt Nam” của phong trào Huế. Từ năm 1966 đến 1975, ông lên hoạt động ở chiến khu, hoạt động ở vùng rừng núi thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế, tham gia trực tiếp vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và tiếp tục làm báo “Cờ giải phóng” của Thành uỷ Huế. Từ năm 1968 đến 1975, ông được giữ các chức vụ sau: Tổng thư ký Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình thành phố Huế, Tổng thư ký hội Văn học nghệ thuật khu Trị Thiên Huế, ủy viên ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh Quảng Trị kiêm Trưởng ty văn hóa thông tin tỉnh Quảng Trị của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, HPNT vừa sáng tác vừa tham gia công tác quản lý tại các Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế và Quảng Trị với những chức danh: Chủ tịch hội Văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, sau đó là Tổng biên tập tạp chí Cửa Việt. Ông được công nhận là Hội viên hội nhà văn Việt Nam năm 1975. Và là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1998, trong chuyến công tác về văn hóa Huế ở Đại học Duy Tân, Đà Nẵng, nhà văn không may bị tai biến mạch máu não. Ông được chuyển vào nằm ở bệnh viện Đa khoa Đà Nẵng ba tháng (hai tháng hôn mê). Người thân và bạn bè của ông có lúc tưởng chừng như đã mất hết hy vọng. Thế rồi, ông đã qua khỏi được hiểm nguy và được chuyển về bệnh viện Huế. Trong dịp này, Đảng và Nhà nước quyết định tặng thưởng cho nhà văn Huân chương Độc lập hạng 3. Và đại diện Hội nhà văn Việt Nam thay mặt Đảng 11 và Nhà nước mang Huân chương từ Thủ đô Hà Nội vào trao cho ông tại bệnh viện Huế đúng ngày sinh nhật của ông (09/09/1998). Từ đó đến nay, với sự giúp đỡ đầy nhiệt tình của các y bác sĩ và bạn bè trong và ngoài nước, cùng với sự nỗ lực của bản thân, sức khỏe của ông đã được hồi phục rất nhiều. Hiện nay, HPNT vẫn luôn luôn đến với độc giả cả nước bằng sự nỗ lực vượt qua bệnh tật và bằng những áng văn chương sâu thẳm. 1.1.2 Sự nghiệp Tóm tắt về đời văn của nhà văn HPNT, nhạc sĩ Trần Hoàn đã dùng 7 chữ T: có Tầm, có Tình, có Tài, có Thực Tiễn và luôn Trung Thực với chính mình và với nhân dân của mình. Tuy rất thích làm thơ, xem thơ như là một sự trải nghiệm nỗi lòng của mình, và là một nhà thơ có phong cách độc đáo, nhưng HPNT lại đạt được nhiều thành công ở mảng văn xuôi hơn, nhất là ở thể bút ký. Không chỉ thế, với vốn kiến thức uyên bác về tất cả các lĩnh vực văn học, triết học, lịch sử, địa lý…, ký HPNT vừa giàu chất trí tuệ, triết học, vừa mang đậm chất thơ. Bởi vậy, ông được xem là một cây bút ký uyên bác, độc đáo, tài hoa. Ông viết văn, làm báo ngay từ những năm còn đi học (khoảng những năm 60 của thế kỷ XX), khi đang tham gia tích cực vào phong trào đấu tranh đòi hòa bình và thống nhất Tổ quốc của học sinh sinh viên. Năm 1959, truyện ngắn “Chuyện một người đi qua sa mạc” viết từ phong trào trên đã báo hiệu sự có mặt của ông trên văn đàn. Tuy nhiên, phải đến năm 1971, khi Nhà xuất bản Văn nghệ giải phóng cho in tập truyện ký “Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu” thì tên tuổi HPNT mới được công chúng cả nước biết đến và nhà văn coi đây là tác phẩm “khai sinh” cho sự nghiệp văn học của mình. 12 Đối với HPNT, có lẽ, ngòi bút của ông hầu như chỉ dành riêng cho đất nước và con người Việt Nam. Ta có thể bắt gặp mọi miền của Tổ quốc trong những trang ký nồng nàn tình yêu quê hương, đất nước và con người của ông. Đề tài ký của HPNT thực sự rộng lớn, đi từ rừng hồi Lạng Sơn đến tận mảnh đất mũi Cà Mau, từ Nguyễn Trãi đến công chúa Diana, nhưng có lẽ những bài viết về Huế hay Thuận Hóa và hai tỉnh tình nghĩa giáp ranh Quảng Trị, Quảng Nam là những trang ký hàm súc nhất. Là một người được sinh ra và lớn lên tại thành phố Huế - từng là kinh đô của nước ta, một trung tâm văn hóa có bề dày lịch sử, nhà văn HPNT chịu ảnh hưởng rất nhiều của văn hóa và con người xứ Huế. Do đó, ông dành phần lớn những trang viết của mình để nói về thiên nhiên, con người xứ Huế cũng như những truyền thống văn hóa đặc sắc của chốn kinh kì xa xưa. Bởi vậy, Trần Mạnh Thường đã nhận xét: “Nếu nhà văn Tô Hoài biết từng ngõ ngách của phố phường và nếp sống sinh hoạt của làng xã Hà Nội, còn Sơn Nam - nhà văn Nam Bộ thì biết hết căn tơ kẽ tóc của đất trời con người Sài Gòn - Bến Nghé thì nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường “trầm cả tâm hồn mình trong khuôn mặt cuộc đời cùng với đất trời sông nước của Huế”” [94, tr.279]. Và ông thực sự là “một cuốn từ điển sống về Huế” (Nguyễn Trọng Tạo) [85, tr.64]. Với bản chất của một tâm hồn Huế thâm trầm, sâu lắng, nhà văn HPNT cứ lặng lẽ viết ra những dòng chữ bình dị nhất, nhưng đồng thời cũng là tâm huyết nhất trong trái tim một nhà văn đầy tài năng. Có khi ông còn tự ví mình như một con dế hát nỉ non trong ngôi nhà của nỗi buồn. Nhưng đấy không phải là nỗi buồn tan vữa mà chính là một nỗi buồn lớn đầy tính nhân văn, mang theo khát vọng của con người. Đó như là một “nỗi buồn sáng trong” khiến cho tâm hồn con người trở nên thanh cao, tốt đẹp hơn. 13 Có lẽ vì thế mà văn chương HPNT ngự trị trong lòng người đọc như một sự chia sẻ, đồng cảm sâu sắc. Đọc văn ông, chúng ta không chỉ thâu nhận đời sống, lịch sử, văn hóa, triết học, kinh tế hay chính trị mà còn cảm nhận được cả một tình yêu lớn đối với con người, dân tộc và cách mạng. Ngay cả những năm lâm trọng bệnh, với sự giúp đỡ của những người thân, HPNT vẫn sáng tác, viết báo và cho xuất bản nhiều cuốn sách có giá trị. Ông thật sự là một tấm gương sáng về sự lao động nghệ thuật không mệt mỏi. Tất cả những điều đó đã làm cho HPNT trở thành “một nhà văn tầm cỡ, một nhân vật lịch sử của văn hóa Huế cuối thế kỷ XX và còn ảnh hưởng sâu sắc tới nhiều thế hệ sau” (Nguyễn Trọng Tạo) [85, tr.66]. Các tác phẩm đã xuất bản: * Các tập bút ký 1. Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu (1971). 2. Rất nhiều ánh lửa (1979). 3. Ai đã đặt tên cho dòng sông (1984). 4. Bản di chúc của cỏ lau (truyện ký - 1991). 5. Hoa trái quanh tôi (1995). 6. Huế di tích và con người (1995). 7. Ngọn núi ảo ảnh (1999). 8. Trong mắt tôi (2001). 9. Rượu hồng đào chưa nhắm đã say (truyện ký - 2001). * Nhàn đàm 1. Nhàn đàm (1997). 14 2. Người ham chơi (1998). 3. Miền gái đẹp (2001). * Thơ 1. Những dấu chân qua thành phố (1976). 2. Người hái phù dung (1995). Còn rất nhiều tác phẩm khác được đăng rải rác trên các báo và tạp chí trong và ngoài nước. Năm 2002, Nhà xuất bản Trẻ và công ty văn hóa Phương Nam đã xuất bản bộ “Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường” gồm 4 tập dày dặn và sang trọng, tuyển chọn những tác phẩm đặc sắc (cả về văn và thơ) mà ông đã sáng tác từ trước đến nay. Sang năm 2004, Nhà xuất bản Trẻ tiếp tục cho in tập bút ký “Trịnh Công Sơn và cây đàn Lya của hoàng tử bé” - tác phẩm tập hợp những bài viết về cố nhạc sỹ Trịnh Công Sơn. Đây có thể xem như một kỷ niệm đáng quý và đáng trân trọng mà tác giả muốn dành cho người bạn thân đã quá cố của mình. Cũng cần phải kể đến những giải thưởng văn học mà ông đã đạt được: - Giải văn học Bông sen trắng lần thứ nhất của Hội văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên. - Giải thưởng văn xuôi của Hội nhà văn Việt Nam trao cho tập bút ký “Rất nhiều ánh lửa” - 1980. - Giải thưởng văn học của ủy ban liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam trao cho tập bút ký “Ngọn núi ảo ảnh” - 2000. - Giải thưởng văn xuôi của Hội nhà văn Việt Nam cho tập “Miền gái đẹp” - 2002. 15 Đây là sự ghi nhận tài năng cũng như những đóng góp quý báu của HPNT đối với nền văn học nước nhà. 1.2 Ký Hoàng Phủ Ngọc Tường trong tiến trình ký của văn học Việt Nam hiện đại 1.2.1 Khái quát về thể “ký” Được xem là một thể loại văn học trung gian, nằm giữa báo chí và văn học, bộ phận văn học thể ký ngày càng phát huy tính năng động, linh hoạt của mình trước mọi biến động của xã hội nhằm góp phần tạo nên bộ mặt đa dạng, phong phú của đời sống văn học. Theo những nhà biên soạn “Từ điển thuật ngữ Văn học”, ký là thể loại văn học có đặc điểm là “tôn trọng sự thật khách quan của cuộc sống, không hư cấu” và “Nhà văn viết ký luôn chú ý đảm bảo cho tính xác thực của hiện thực đời sống được phản ánh trong tác phẩm” [30, tr.137]. Còn các tác giả của “Từ điển Tiếng Việt” thì cho rằng, ký là loại “thể văn tự sự có tính chất thời sự, trung thành với hiện thực đến mức cao nhất” [68, tr.501]. Đây là những khái quát rất cụ thể về đặc trưng cơ bản của thể loại này. Với quan điểm là tôn trọng sự thật khách quan của cuộc sống, ký được xem như là một thứ vũ khí nhẹ, có khả năng cơ động lớn, ứng chiến kịp thời, phản ánh được trực tiếp những biến cố thời sự, những vấn đề nóng bỏng đang được đặt ra trong cuộc sống. Nó là một thể loại bao trùm nhiều “thể” hoặc “tiểu loại” khác nhau: bút ký, hồi ký, du ký, ký chính luận, ký sự, phóng sự, tùy bút, tạp văn, tản văn (ét - xe)…vv.. Tùy theo tính chất của từng “thể” hay “tiểu loại” mà cảm hứng trữ tình của người tự thuật (thường đứng ở ngôi thứ ba trong tác phẩm - nhân vật Tôi) có 16 nhiều sắc độ khác nhau. Từ phóng sự mang nhiều tính khách quan qua du ký, bút ký, hồi ký đến tùy bút ngày càng mang đậm tính chủ quan. Đặc trưng cơ bản nhất của ký là trần thuật “người thật, việc thật” đã xảy ra. Đó là sự trần thuật một cách xác thực. Tuy nhiên, người tự thuật luôn tìm cách thoát khỏi “tình trạng quanh quẩn” giữa những người thật, việc thật đó để mở rộng “hoàn cảnh văn học đến những chân trời xa xôi khác” (Hoàng Phủ Ngọc Tường) [120, tr.175] bằng cảm xúc, tưởng tượng, liên tưởng, hồi ức… Đây chính là sự hư cấu của tác phẩm ký. Và hư cấu có thể được quyền sử dụng rộng rãi trong tác phẩm ký ở những “t._.hành phần không thật xác định” như nội tâm của nhân vật, những cảnh sắc thiên nhiên trong cảm xúc trữ tình của nhân vật và cả những nhân vật phụ xuất hiện trong tác phẩm. Như vậy, dù ở dạng này hay dạng khác, hư cấu vẫn tồn tại trong ký như một phẩm chất mỹ học. Nhờ đó, tác phẩm ký vừa đảm bảo sứ mệnh thông tin của mình, vừa có thể đạt được những yêu cầu giá trị nghệ thuật khác của một tác phẩm văn học như tính khái quát, tính hoành tráng, tính hình tượng… gây xúc động sâu xa tâm hồn người đọc. Chính đây là điểm phân biệt ký văn học (được diễn đạt bằng một văn bản “đa nghĩa”, chỉ cần chân thực, phải mang tính thẩm mĩ) với ký báo chí (được diễn đạt bằng một văn bản “đơn nghĩa”, phải tuyệt đối xác thực, kịp thời thông tin rành rọt, khách quan). Để có được một bài ký hay “có thể tái hiện được sự thật chân chính” (Pôlêvôi) [49, tr.426], đòi hỏi người viết ký phải có nguồn kiến thức uyên bác trực tiếp từ những quan sát, những trải nghiệm trong cuộc sống thực tại. Nói như Hoàng Phủ Ngọc Tường, phải “tai nghe, mắt thấy, tay sờ”, “không đi đến tận thực tế thì không thể viết được, mà cũng đừng nên viết” [120, tr.177]. Bằng bản lĩnh và tài năng, nhà văn sẽ “nhào nặn” vốn kiến thức có được từ những chuyến đi thực tế đó để không chỉ đem đến cho người đọc những khoái cảm mỹ học mà 17 còn gây những “khoái thú thuần trí tuệ” (Hoàng Ngọc Hiến) [32, tr.11] qua việc cung cấp những tri thức giúp người đọc mở rộng vốn kiến thức của mình về các lĩnh vực của đời sống xã hội, nó như “một quả táo Niu - tơn rơi xuống tâm hồn người đọc” (Hoàng Phủ Ngọc Tường) [120, tr.171]. Trong lịch sử văn học nhân loại, ký ra đời từ rất sớm. Nhưng phải đến thế kỷ XVII, đặc biệt là từ thế kỷ XIX, khi đời sống các dân tộc ngày càng phát được nâng cao, khi kỹ nghệ in ấn và báo chí phát triển, văn học xé rào thâm nhập vào các lĩnh vực hoạt động tinh thần khác của xã hội và nhà văn có ý thức tham gia vào các cuộc đấu tranh xã hội, ký mới thực sự phát triển. ở Việt Nam, ký xuất hiện khá sớm. Các tác phẩm ký khá nổi tiếng xuất hiện trong thời kỳ đầu có “Thanh hư động ký” (Nguyễn Phi Khanh, 1384), “Lam Sơn thực lục” (Nguyễn Trãi), “Ô Châu cận lục” (Dương Văn An), “Bắc Sứ thông lục” (Lê Quý Đôn), “Nam triều công nghiệp diễn chí” (Nguyễn Khoa Chiêm), “Trần Khiêm Đường niên phả lục” (Trần Tiến, 1764), “Thượng kinh ký sự” (Lê Hữu Trác, 1783), “Hoàng Lê nhất thống chí” (Ngô gia văn phái, giữa thế kỷ XVIII), “Vũ Trung tùy bút” (Phạm Đình Hổ, cuối thế kỷ XVIII) … Sang những năm đầu thế kỷ XX, xuất hiện những tác phẩm thuộc thể loại du kí như “Chuyến đi Bắc kỳ năm ất Hợi” của Trương Vĩnh Ký, “Pháp du hành trình nhật ký” của Phạm Quỳnh… Đến những năm 20, trong văn học cách mạng, thể ký cách mạng cũng bắt đầu xuất hiện với những sáng tác của Nguyễn ái Quốc như tập “Truyện và kí”. Đặc biệt, giai đoạn 30 - 45 là sự nở rộ của thể loại phóng sự, Tam Lang với “Tôi kéo xe”, Ngô Tất Tố với “Việc làng”, “Tập án cái đinh”, Vũ Trọng Phụng với “Cạm bẫy người”, “Cơm thầy cơm cô”, “Kỹ nghệ lấy Tây”, “Lục xì”… Trong giai đoạn này, tùy bút cũng bắt đầu phát triển. Nguyễn Tuân được xem là một bậc thầy của thể tùy bút với “Tùy bút I”, “Tùy 18 bút II”, “Người lái đò sông Đà”, Ngoài ra, còn có Thạch Lam với “Hà Nội - 36 phố phường”, Xuân Diệu với “Trường ca”… Sau cách mạng tháng Tám, trong giai đoạn 30 năm chống Mỹ cứu nước và đất nước bị chia cắt, ký phát triển mạnh mẽ. Các tác giả như muốn tái hiện lại cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc, tinh thần chiến đấu kiên cường của quân và dân ta cũng như bày tỏ những tình cảm tha thiết, đằm thắm đối với quê hương, đất nước. Tiêu biểu là các tác phẩm: “Truyện và kí sự” của Trần Đăng, “ở rừng” của Nam Cao, “Kí sự Cao Lạng” của Nguyễn Huy Tưởng, “Người mẹ cầm súng” của Nguyễn Thi, “Những ngày nổi giận” của Chế Lan Viên, “Đường chúng ta đi” của Nguyễn Trung Thành, “Họ sống và chiến đấu” của Nguyễn Khải, “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi” của Nguyễn Tuân, “Thương nhớ 12” của Vũ Bằng, “Đường lớn” của Bùi Hiển, “Rất nhiều ánh lửa” của Hoàng Phủ Ngọc Tường ..vv… Sau ngày đất nước thống nhất và nhất là những năm bước vào thời kỳ đổi mới, các chủ đề của ký ngày càng đa dạng phong phú hơn, ngoài chủ đề về sự khẳng định bản lĩnh sống của dân tộc, các tác giả chuyên về ký, đặc biệt là bút ký và tùy bút còn hướng ngòi bút của mình đến việc ghi nhận thực tại cuộc sống ngày càng cụ thể, nhân bản, đậm tính dân tộc hơn đồng thời còn thể hiện cái Tôi của tác giả ngày càng rõ nét, sâu sắc và phong phú hơn. Tiêu biểu có Hoàng Phủ Ngọc Tường với “Hoa trái quanh tôi”, “Ngọn núi ảo ảnh”… Ngoài ra, còn có “Làng giáo có gì vui” của Hoàng Minh Tường, “Người đàn bà quỳ” của Trần Khắc, “Lời khai của bị can” của Trần Huy Quang, “Chuyện làng ngày ấy” của Võ Văn Trực, tạp văn Nguyễn Khải… Đặc biệt, vào những thập niên cuối của thế kỷ XX, nở rộ thể hồi ký văn học mang đậm yếu tố tự truyện, như: “Cát bụi chân ai” của Tô Hoài, “Một giọt nắng nhạt” của Nguyễn Khải, Nhật ký Nguyễn Ngọc Tấn, Hồi Ký Đặng Thai 19 Mai, “Từ rừng U Minh lên Cần Thơ” của Sơn Nam… Những hồi ký này đều có giá trị văn học, thu hút sự chú ý của người đọc đã chứng tỏ cái thế mạnh của tác phẩm ký: “Ký đáp ứng yêu cầu nào đó của nghệ thuật và tự khẳng định ký không phải là thừa so với truyện ngắn, cũng không phải là thiếu so với tiểu thuyết” (Hoàng Phủ Ngọc Tường) [120, tr.166]. Có thể nói, ký là một hình thức nghệ thuật biểu hiện của cuộc sống trong trạng thái trôi chảy vận động và đã phát huy được sức mạnh của thể loại vào những khúc quanh, bước ngoặc của lịch sử. Trải qua quá trình phát triển lâu dài, ký ngày càng khẳng định vị trí quan trọng, không thể thiếu được của mình trong một nền văn học hoàn chỉnh. Và những nhà văn viết ký luôn có sự phấn đấu bền bĩ không ngừng để sáng tạo ra những tác phẩm có sức sống lâu bền trong đời sống văn học. 1.2.2 Đặc điểm ký Hoàng Phủ Ngọc Tường Đối với HPNT, từ mong muốn chứng minh khả năng đảm nhận nhiều chức năng của văn học ký cũng như muốn thể nghiệm năng lực của mình mà ký HPNT là sự phức hợp của nhiều thể loại văn học. Điều này thể hiện ở khả năng phối hợp nhiều thể loại rất điệu nghệ của HPNT trong từng tác phẩm. Trong trọn bộ “Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường” thì tập 2 được xem là sự tập hợp những tác phẩm bút ký văn học viết về chiến tranh. Còn tập 3, theo sự phân loại của HPNT thì đây là tập ký phê bình, và theo người tuyển chọn thì đó là “phần nối dài của tập 2, được dành cho những bút ký thiên về chính luận, biên khảo và bút ký nhân vật” (Trần Thức) [120, tr.5]. Trước hết, có thể nói, mỗi tác phẩm của HPNT là một phức thể của nhiều tiểu loại ký (bút ký, tùy bút, hồi ký, ký sự, truyện ký, ét - xe …). Nhưng có lẽ, bút ký và tùy bút là hai tiểu loại mang phong cách chủ đạo ở hầu hết các tác phẩm của ông. Cả hai tiểu loại thuộc loại ký trữ tình, cho nên chất cảm xúc trữ tình 20 chiếm một vị trí quan trọng. Bởi loại ký này chủ yếu thể hiện những cảm xúc và suy nghĩ chủ quan của nhà văn trước những sự kiện của đời sống khách quan, hoặc xen kẽ kết hợp giữa việc biểu hiện, bình luận, suy tưởng với miêu tả, kể chuyện. Theo các tác giả biên soạn “Từ điển Văn học” (Bộ mới), bút ký là “thể trung gian giữa ký sự và tùy bút” thuộc “nhóm thể tài ký nhằm ghi lại sự việc, con người, cảnh vật… mà nhà văn mắt thấy, tai nghe, thường là trong một chuyến đi, một lần tìm hiểu nào đó” [124, tr.173]. Trong bút ký, tuy có những nhận xét, suy nghĩ, liên tưởng của tác giả nhưng ít phóng túng triền miên như thể tùy bút mà tập trung thể hiện một tư tưởng chủ đạo nhất định. Sức hấp dẫn của và thuyết phục của bút ký tùy thuộc vào tài năng, trình độ quan sát, nghiên cứu, khả năng biểu đạt của tác giả đối với các sự kiện được đề cập nhằm “phát hiện những khía cạnh nổi bật, những ý tưởng mới mẻ và sâu sắc” [22, tr.429]. Có thể nói, làm nổi bật giá trị nhận thức là ý nghĩa hàng đầu của thể loại. Với ký HPNT, chúng ta có thể kể đến những tác phẩm mang đậm phong cách của bút ký như Đất Mũi, Miếng trầu đỏ, Đứa con phù sa… Bằng cái tôi trữ tình vừa quan sát vừa cảm nghĩ, thông qua việc tái hiện những vấn đề phong phú, phức tạp trong đời sống xã hội và những nhân vật chọn lọc, tiêu biểu được minh chứng bằng những tư liệu chính xác, cụ thể và những mẩu chuyện kể có thật, nhà văn bày tỏ chính kiến của mình về những vấn đề đã trình bày. Chẳng hạn, trong tác phẩm “Đất Mũi”, qua chuyến đi thực tế về Cà Mau, được tận mắt chứng kiến những đổi thay trong cuộc sống của bà con vùng Mũi và được nghe kể lại những chiến tích anh hùng trong thời kỳ đánh giặc Mỹ của dân quân nơi đây …, HPNT đã bày tỏ sự ngưỡng mộ, khâm phục của mình đối với “những con người ở mỏm đất cực Nam này”. Trong suốt hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ, họ đã “ đứng trụ giữa bùn cát và giông bão, đã nắm lấy luật biển dâu để đưa lịch 21 sử đi tới những cứu cánh đã quyết tâm”. Để khi rời khỏi đất Mũi, với tấm lòng “trĩu nặng ơn đất ơn người”, nhà văn đã có “một cử chỉ thật thành kính không ai hay biết, đưa tay lên trán, ngã mũ, lặng lẽ chào khu rừng nước mặn cố cựu đứng kiễng chân trên đất mặn”. Cũng viết về Cà Mau trong những ngày chống Mỹ, nhưng Nguyễn Tuân trong “Vẫn cái tiếng dội Cà Mau ấy” có cách xử lí thông tin sự kiện và bộc lộ cảm xúc khác với HPNT. Tuy chưa từng đến Cà Mau nhưng ông đã dựa vào thông tin trên báo, đài để đưa ra những số liệu cụ thể, chính xác về sự thiệt hại của quân Mỹ ở Cà Mau. Xen vào đó là những đối chiếu, liên tưởng về các địa danh ở Bạc Liêu với vùng đất căn cứ xưa của Hoàng Hoa Thám trên miền Bắc, hay những câu chuyện về ông Đại giết cọp, ông Hùng giết sấu… qua đó, nhà văn muốn nhấn mạnh một điều rằng chính sự dũng cảm, nghĩa khí, hảo hớn của con người nơi đó đã “tạo thanh, tạo hình” cho “Cà Mau! Cái Cấm! Cái Nước! Cái Cùng”. Tự nhận mình là người có tâm trạng sống trong cảnh “một chốn hai quê”, Nguyễn Tuân luôn khắc khoải, mơ tưởng đến ngày Mỹ cút về nước, đất nước hòa bình thống nhất để có thể dùng mìn của miền Nam phục vụ cho chiến dịch mở đường miền núi trên miền Bắc, để được nhanh chóng vào thăm Cà Mau cũng như để cho những chuyến tàu của người Cà Mau có thể đến được bãi biển Sa Vĩ Móng Cái. Đối với Nguyễn Tuân, sự cách trở không gian chỉ làm cho lòng ông lại “đùng đùng gió lên nỗi nhớ thương vòi vọi” những bờ cát cực Nam và “những con người thân thích ruột rà” ở cái chốn “cuối trời cuối đất” ấy. Bên cạnh bút ký, HPNT cũng tạo cho mình một phong cách viết tùy bút với những nét đặc sắc riêng bằng những trang viết giàu liên tưởng và giàu kiến thức. Được xem là “một thể loại văn xuôi phái sinh từ thể loại ký, gần với bút ký, nhưng cách viết tự do và tùy hứng nhiều hơn” [124, tr.1888], tùy bút là một thể ký khó sáng tác nhất trong các thể ký văn học. Nó đòi hỏi người viết phải có bản lĩnh riêng với những cách cảm nghĩ sâu sắc, độc đáo về cuộc đời. Cách phát 22 hiện, đề cập và lí giải vấn đề luôn phải có sự sáng tạo, mới mẻ. Đây là một “thể giàu chất trữ tình nhất trong các loại ký” bởi “bản ngã của của nhà văn được thể hiện trong tùy bút gần như trong thơ trữ tình” [124, tr.1888]. Nhà văn thường kết hợp, xen kẽ việc miêu tả đối tượng khách quan với việc bộc lộ cảm xúc chủ quan. Phải nói rằng những nhận xét, bình giá, bàn luận và liên tưởng của tác giả có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Và giá trị của tùy bút là ở những suy nghĩ thâm trầm sâu sắc rút ra từ những sự việc tưởng như riêng tư, bình thường. Có thể kể đến những tùy bút đặc sắc của HPNT như: Ai đã đặt tên cho dòng sông, Hoa trái quanh tôi, Sử thi buồn, Mùa xuân thay áo trên cây… ở những tác phẩm này, HPNT viết với cảm hứng trữ tình nồng hậu đan xen với yếu tố chính luận và triết lí bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh và tràn đầy chất thơ. Chẳng hạn, trong tác phẩm “Hoa trái quanh tôi”, với mục đích giải bày mối quan hệ gắn bó, khắng khít giữa con người và cây cỏ trong đời sống tinh thần người Huế, HPNT đã dẫn giải bằng những yếu tố mang tính triết lí về mối tương quan giữa con người và cây cỏ trong truyền thống triết lý phương Đông nói chung cũng như trong tâm thức người Huế nói riêng, từ đó, ông đi đến một triết lí thể hiện bản sắc văn hóa xứ sở “Người Huế lập vườn, trước hết như là nơi cư ngụ của tâm hồn mình giữa thế gian, ước mong sẽ là chút di sản tinh thần để đời cho con cháu”. Với tấm lòng của một người Huế yêu mến thiên nhiên tha thiết, ông không chỉ để tâm hồn mình từng bước hòa điệu cùng bản nhạc giao hưởng của cây cỏ trong vườn An Hiên vào bốn mùa quanh năm, mà còn hồi tưởng lại lịch sử hình thành và phát triển của kinh đô Huế trong suốt hơn 350 năm xây dựng để có được mô hình “thành phố vườn” như bây giờ. Từ đáy lòng mình, ông nghiệm ra một điều rằng “mỗi con người quanh tôi, trĩu nặng một nỗi lòng thương cây nhớ cội, và nét điềm tĩnh của mảnh đất mà họ đang cày cuốc và gieo hạt”. 23 Tất nhiên sự phân định hai thể bút ký và tùy bút như trên chỉ mang tính chất tương đối. Bởi có nhiều tác phẩm tuy mang phong cách của bút ký nhưng ở một số đoạn lại hiện diện phong cách của tùy bút, chẳng hạn Đánh giặc trên hàng rào điện tử, Chế ngự cát, Hành lang của người và gió, Đất nước… ngược lại, có những tác phẩm là tùy bút nhưng lại đan xen với bút ký, chẳng hạn Ngọn núi ảo ảnh, Côn Sơn, Đêm chong đèn nhớ lại, Rừng hồi… (Điều này chúng tôi sẽ trình bày rõ hơn ở phần 3.4.3 ). Ngoài hai tiểu loại chính là bút ký và tùy bút, trong tập 2 và 3 của “Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường”, còn có nhiều tác phẩm nghiêng về thể ký sự, như Chế ngự cát, Đánh giặc trên hàng rào điện tử, Vành đai trong lửa… Nhà văn vẫn bám theo những sự kiện người thật, việc thật nhưng những yếu tố liên tưởng, nghị luận không nhiều hơn sự kiện. Nhiều bài nghiêng về thể truyện kí, như Bản di chúc của cỏ lau, Như con sông từ nguồn ra biển… Tác giả dựa trên cơ sở người thật việc thật để tái hiện lại cuộc đời và sự nghiệp của con người có tiếng tăm, có công trạng đối với xã hội, lịch sử, đồng thời bày tỏ những suy nghĩ chủ quan của mình về con người đó. Nhiều bài nghiêng về thể hồi ký, như Đứa con phù sa, Đêm chong đèn nhớ lại… Khi viết về những con người, sự kiện của hôm nay mà ông luôn có sự hồi tưởng, suy nghĩ về những con người, sự kiện đã xảy ra trong lịch sử, tạo nên sự liên hệ gắn bó giữa quá khứ và hiện tại. Và còn những tác phẩm nghiêng về thể tản văn (ét - xe). Đây là một “thể loại ký đặc biệt nhưng chưa được ý thức đầy đủ” (Hoàng Ngọc Hiến) [32, tr.16]. Trong tản văn, những gì được biểu hiện đều mang đậm dấu ấn cảm nhận, cảm nghĩ của nhà văn. Có thể nói, chính lối tư duy phóng khoáng, luôn tạo được những điều bất ngờ, thú vị dù không chuyên về một lĩnh vực nào của tác giả đã tạo nên sự độc đáo cho tiểu loại này. Với HPNT, người đọc đã từng biết đến những tản văn của ông qua một mục nhỏ trên báo Thanh Niên có tên gọi là 24 “Nhàn đàm”. Theo thời gian, tản văn của HPNT đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của rất nhiều độc giả. Bằng sự kết hợp những ưu thế vốn có của mình khi viết ký với chất tài hoa, lãng tử của một hồn thơ bay bổng, HPNT đã sáng tạo được những tác phẩm vừa sâu sắc, hàm súc, vừa đẹp đẽ, bay bổng. Tuy các tản văn của ông chủ yếu tập trung ở những tập nhàn đàm nhưng trong “Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường” (tập 2 và 3), chúng ta cũng bắt gặp những tản văn đặc sắc như Côn Sơn, Lý chuồn chuồn, Chuyện nhà Nguyễn, Những cuốn sách tôi đã đọc hồi còn bé… (hầu hết tập trung ở tập 3). Có khi, ta còn thấy bóng dáng của tản văn lẫn trong những trang ký dài hơi của nhà văn như Đời rừng, Ngọn núi ảo ảnh, Hoa trái quanh tôi… Bên cạnh đặc điểm sự phức thể của nhiều tiểu loại ký, ký HPNT còn mang dấu ấn của các thể loại văn học khác như thơ, truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết… Chất thơ thể hiện ở sự khéo léo trong việc xâu chuỗi thông tin sự kiện đến nỗi, nếu là người đọc vô tâm sẽ bị cuốn hút vào cách biểu diễn ngôn từ và ý tưởng triết lí đã tan hòa thành tâm hồn như đọc một bài thơ dài. Ví như những đoạn văn sau: “Chính trong những giờ phút bồng bềnh giữa cõi thức và cõi thơ ấy, tôi đã nhận ra cái âm hưởng sâu thẳm cả Huế trên mỗi trang truyện Kiều: dòng sông đáy nước in trời và những nội cỏ thơm, nắng vàng khói biếc, nỗi u hoài của dương liễu và sắc đẹp nồng nàn của hoa trà mi, những mùa thu quan san, những vầng trăng thắm thiết… Một trăm năm mươi năm (rồi nửa ba trăm năm sau), nhà thơ đã qua đời, mà vẫn trời ấy, vẫn đất ấy, cỏ hoa vẫn y nguyên quanh chỗ tôi ngồi” (Ai đã đặt tên cho dòng sông); “Và tất cả thành phố bằng kiến trúc Châu ÂÂ u đó đắm mình trong một không gian huyền nhiệm kiểu phương Đông, với thiên nhiên đầy hoa rừng mùa Xuân, nắng rực rỡ màu Hè, và sương khói mộng ảo mùa thu; nơi đó cây và đá sạch như vô nhiễm, mây trời và tiếng suối reo khẽ đánh động trong tâm linh giấc mộng tiền thân, tuồng như con người đã quên đi từ lâu” (Ngọn núi ảo ảnh)... tất cả chúng khi đọc đều mang âm 25 hưởng trầm bổng, du dương như một đoạn thơ, bài thơ. Còn có nhiều tác phẩm khi đọc, người đọc có cảm giác như đang đọc một truyện ngắn, ví dụ Như con sông từ nguồn ra biển, Rất nhiều ánh lửa, “Diễm xưa” của tôi… Các tác phẩm này có cốt truyện tương đối hoàn chỉnh nhưng câu chuyện diễn ra chỉ giới hạn ở một vài nhân vật và trong một khoảng thời gian, không gian nhất định. Như trong tác phẩm “Như con sông từ nguồn ra biển”, tác giả chỉ tái hiện lại một đoạn đời của Giao từ những ngày còn dạy học ở Blao với tâm trạng cô đơn, bế tắc, không tự xác định được mục đích sống của cuộc đời mình cho tới khi giác ngộ được lí tưởng cách mạng; kết cấu tác phẩm khá đơn giản, chủ yếu xoay quanh những cuộc đối thoại của Giao và nhân vật Tôi, giữa Tôi và Bê, trong đó đan xen cả những hồi ức, liên tưởng của Tôi nhưng chúng chỉ chiếm một dung lượng nhỏ. Ngoài ra, còn có những tác phẩm mang dáng dấp của một truyện dài. Cũng là những tác phẩm có cốt truyện tương đối hoàn chỉnh nhưng các nhân vật, sự kiện được tái hiện trong mối quan hệ chồng chéo, phức tạp như quan hệ đối nghịch của hai nhóm nhân vật ở hai chiến tuyến khác nhau, một bên đại diện cho cách mạng còn một bên là phản cách mạng như trong “Hành lang của người và gió”, “Đất Mũi”; có khi chỉ là một nhân vật nhưng số phận, tính cách, cuộc đời của nhân vật được tác giả khắc họa một cách hoàn chỉnh, như Bình trong “Bản di chúc của cỏ lau”. Và còn có những tác phẩm mang dáng dấp của một tiểu thuyết, ví dụ: Vành đai trong lửa, Đánh giặc trên hàng rào điện tử … Với dung lượng tương đối lớn, các tác phẩm tái hiện lại nhiều sự kiện, vấn đề ở nhiều khoảng không gian, thời gian khác nhau với số lượng nhân vật rất đông đảo. Ngay như nhà văn Nguyên Ngọc đã từng xem tác phẩm “Vành đai trong lửa” là “một thứ tiểu thuyết độc đáo” bởi “hình như từ trước đến nay chưa có được cuốn tiểu thuyết nào viết về cuộc chiến đấu ở cái vùng nông thôn Điện Bàn 26 kỳ lạ ấy hiện thực, phong phú, sinh động đến thế, sấu sắc và hiển hiện đến thế, “tiểu thuyết” đến thế” [63, tr.10]. Qua đó, chúng ta có thể thấy được rằng, ký HPNT có khả năng đảm nhận nhiều chức năng, bởi nó là sự hòa điệu một cách nhuần nhuyễn giữa rất nhiều yếu tố thể loại. Mỗi tác phẩm ký của ông đều thể hiện sự thống nhất của một phong cách thể loại: sự phức thể của nhiều tiểu loại ký và các thể loại văn học khác. Đây là một sự khám phá mới và thể nghiệm thành công của HPNT đối với thể loại ký văn học. Khi viết thể loại này, ông đã bộc lộ một sự phối hợp tuyệt vời giữa tư duy lý luận, logic của ký với tư duy phóng khoáng, lãng mạn của thơ trữ tình siêu thực (vốn là tư chất riêng của nhà văn), mà trong đó chất trữ tình chiếm vị trí quan trọng tạo nên linh hồn cho tác phẩm. Do vậy, có thể gọi ký HPNT là một dạng ký trữ tình - chính luận. Với Nguyễn Tuân thì khác, bởi cái chất tài hoa tài tử và sở thích, thói quen tìm cách nói mới lạ, không giống ai, luôn mong muốn “phải chứng tỏ cho được cái tài hoa, uyên bác hơn đời của mình” (Nguyễn Đăng Mạnh) [53, tr.147] mà trong sự nghiệp sáng tác cả trước và sau cách mạng, Nguyễn Tuân đã tự tìm đến thể tài tùy bút như một tất yếu. Trước cách mạng, người đọc đã từng biết Nguyễn Tuân với Tùy bút 1, Tùy bút 2, Vang bóng một thời, Một chuyến đi, Chiếc lư đồng mắt cua, Thiếu quê hương… Có thể nói, đây là loại tùy bút trữ tình tâm trạng, thể hiện cái Tôi rất ngông của con người đề cao lối sống vị kỷ, chỉ thích hưởng lạc, đề cao mọi thứ chủ nghĩa mà bao trùm là chủ nghĩa độc đáo. Chính nó đã dẫn đến lối sống lập dị trong sáng tác thể hiện ở lối ăn nói bất chấp nội dung ý nghĩa nghiêm túc, tha hồ phóng bút để tạo ra những gì kỳ lạ, oái oăm, cầu kỳ, rắc rối, để cuối cùng cho ra đời những tác phẩm “yêu ngôn” với những hình tượng thần bí, kỳ quái. Nhưng sau cách mạng, cái ngông của ông không còn lý do để tồn tại nữa, ông đã tìm ra con đường giải thoát cho cuộc sống 27 và nghệ thuật của mình. Bởi vậy mà từ Lột xác, Đường vui, Tình chiến dịch đến Sông Đà, Ký chống Mỹ…, người đọc có thể cảm nhận được giọng văn tin yêu, đôn hậu, hồ hởi của con người đang chứng kiến được sự đổi thay của đất nước trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, tùy bút của Nguyễn Tuân trong giai đoạn này là dạng tùy bút hiện thực pha bút ký. Tuy nhiên, dù viết ở dạng cảm hứng nào thì tùy bút của ông trước và sau cách mạng luôn mang tính chất truyện. Nói như Nguyễn Đăng Mạnh “Nghĩa là có dùng nhiều đến trí tưởng tượng để dựng cảnh, dựng truyện và mô tả tâm lý, khắc họa tính cách nhân vật đến một chừng mực nào đấy” [53, tr.155]. Hiện thực trong tác phẩm tùy bút của Nguyễn Tuân đều mang nhiều yếu tố truyện, đồng thời, cũng mang đậm chất ký, nghĩa là ghi chép sự thật và thông tin thời sự, chính xác. Đó là “một thứ tùy bút pha du kí, kí sự hay phóng sự điều tra” [53, tr.156]. Chính vì vậy, tùy bút Nguyễn Tuân luôn hấp dẫn người đọc ở lối hành văn, dẫn truyện biến hóa linh hoạt, lượng thông tin phong phú, hình tượng chồng chất đa dạng. 1.2.3 Vị trí ký Hoàng Phủ Ngọc Tường trong tiến trình ký của văn học Việt Nam hiện đại Kể từ “Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu” (1971) cho đến nay, với các tập bút ký đã được xuất bản trong hơn ba mươi năm cầm bút, HPNT đã thể hiện sự tìm tòi đáng kể của mình trong lĩnh vực bút ký, tùy bút. Bằng ý thức và trách nhiệm của một nhà văn, với mong muốn tái hiện lại một cách chân thực sự đa dạng, muôn màu, muôn vẻ của đất nước và con người Việt Nam, ông đã dành trọn sự nghiệp văn xuôi của mình cho thể loai bút ký. Trọn bộ “Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường” gồm 4 tập (có dung lượng là 1600 trang) thì riêng tập 2 và 3 (với dung lượng là 1259 trang) đã dành cho bút ký, còn tập 1 tuy tuyển những bài nhàn đàm những thực chất đó cũng là những bút ký ngắn (còn gọi là 28 bút ký mi-ni). Điều này đã chứng tỏ được sự say mê tìm tòi sáng tạo của nhà văn đối với thể loại văn học mang tính chất thời sự này Trong sáng tạo nghệ thuật, điều quan trọng làm nên sắc diện cho một nhà văn chính là việc khẳng định phong cách riêng của mình: “Nhà văn chỉ có thể nói một lời mới mẻ khi anh ta có được tiếng nói riêng của mình. Vì tiếng nói đó càng mạnh bao nhiêu, cá tính sáng tạo của nhà nghệ sĩ hiện thực càng rõ nét bao nhiêu thì cống hiến của anh ta vào nghệ thuật càng lớn bấy nhiêu” [43, tr.220]. Vậy thì điều gì đã làm nên bản sắc riêng của ký HPNT, trong khi trước đó đã có một Vũ Bằng nức tiếng với những “Miếng ngon Hà Nội” và một nỗi niềm “Thương nhớ 12”, một Nguyễn Trung Thành nổi tiếng với “Đường chúng ta đi” tràn đầy cảm hứng sử thi, anh hùng, lãng mạn và trữ tình, đặc biệt còn có một Nguyễn Tuân với tài năng độc đáo của mình đã đóng một dấu triện riêng đỏ thắm trên văn đàn ký Việt Nam hiện đại? ý thức được điều đó, HPNT đã tìm lấy cho mình một lối đi riêng để không dẫm lên bước chân của người đi trước. Nhà văn thường khai thác những cái gì thuộc về chiều sâu “tâm hồn” (người viết nhấn mạnh) của sự kiện. Tất nhiên, không ai phủ nhận tính chất thời sự nóng hổi trong phản ánh hiện thực của thể ký. Nhưng với HPNT, đó là hiện thực đã lắng lại từ lịch sử cuộc sống, từ chính bản thân nhà văn qua những gì mà ông gắn bó, trải nghiệm. Chẳng hạn, khi dựng lại truyền thống anh hùng, bất khuất của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, HPNT không tập trung tái hiện lại không khí hào hùng, bi tráng của thế trận “chiến tranh nhân dân” như những trang ký của Trần Đăng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Khải, Vũ Kỳ Lân… mà cố gắng đi tìm, lí giải và phản ánh cái đã làm nên sức mạnh đó của dân tộc. Rất giản dị, đó là tình yêu mảnh đất, căn nhà, nơi mình sinh ra và lớn lên và những người ruột thịt mà mình gắn bó sâu nặng trong cả cuộc đời. Tình yêu ấy đã trở thành máu thịt, rất đỗi thiêng liêng và thành kính trong tâm hồn mỗi người. Bởi thế, 29 khi bị xúc phạm, nó sẽ hóa thành ngọn lửa đấu tranh cho đến hơi thở cuối cùng. Chỉ có thể lí giải bằng tình yêu đó, người đọc mới có thể hiểu vì sao giữa chốn rừng xanh núi thẳm, khi lâm vào tình cảnh bị cắt đứt liên lạc hoàn toàn với hậu phương và tính mạng bị đe doạ bởi cái đói và cái rét, các chiến sĩ biệt động ở trại Cây Thị vẫn tỉnh táo và gay gắt tự đấu tranh với chính mình để “không ăn cắp bò của giáo sĩ” vì một lẽ đơn giản: bảo vệ nhân cách của người chiến sĩ cách mạng trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào như lời Bác Hồ đã dạy (Bản di chúc của cỏ lau). Và cũng chính vì tình yêu sâu sắc và mạnh mẽ đó mà hơn một vạn dân ba xã vùng Mũi đã bồng bế nhau vào rừng “cất lấy từng giọt mồ hôi nước mặn đầm lầy thành nước uống để tự nuôi sống và đánh giặc” để trụ vững được giữa đám lầy rừng đước suốt 13 năm chống lại chiến dịch “Sóng tình thương” của giặc cho đến ngày chiến thắng (Đất Mũi). Như vậy, qua những trang ký của HPNT, người đọc nhận ra rằng Tổ quốc không còn là một khái niệm gì trừu tượng, chung chung nữa mà Tổ quốc chính là máu xương của nhân dân đã ngã xuống, là ngọn lửa nhân cách ấp ủ và bền bĩ trong mỗi mảnh đời cụ thể. Tổ quốc đối với HPNT còn là thiên nhiên tươi đẹp và hùng vĩ, là người mẹ lớn nuôi dưỡng và chở che những con đất Việt ưu tú, đầy dũng cảm của mình. Qua những trang viết của ông, người đọc càng có cơ hội mở rộng tầm nhìn, sự hiểu biết của mình về vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên trong suốt chiều dài đất nước, đặc biệt là về thiên nhiên Huế. Từ những trang viết về rừng hồi Lạng Sơn, rừng tùng A Sao đến rừng đước ở tận đất mũi Cà Mau mà tuổi đời của rừng ngang tầm với “một thành phố văn hoá lâu đời” (Đời rừng), hay khi tác giả đang dõi theo “cuộc biến ảo của Xuân, Hạ, Thu, Đông qua bộ lịch vĩnh hằng của tự nhiên trên cây cỏ” (Mùa xuân thay áo trên cây), người đọc không chỉ cảm nhận được những bức tranh thiên nhiên tươi đẹp làm thoả mãn thị giác, những 30 thông tin nghiên cứu khoa học chính xác bổ sung tri thức cho trí tuệ, mà hơn thế nữa, họ còn ngộ ra những điều thiêng liêng thuộc về tâm linh sâu thẳm “Thiên nhiên Việt Nam cũng có sức sống dẻo dai như con người Việt Nam” (Đời rừng). Bởi vậy, ký HPNT không chỉ là những trang viết giàu có về tri thức mà còn ám gợi bởi những thôi thúc của nội tâm sâu sắc. Vì thế mà Lê Thị Hường đã nhận xét: “Là thi sĩ của thiên nhiên, những trang ký của HPNT mang đến cho người đọc những miền không gian xanh thẳm, ẩn chìm những vết trầm tích văn hóa từ thiên nhiên” [42, tr.69]. Khi chọn ký làm mảnh đất để ký thác tâm hồn mình, hơn ai hết, HPNT ý thức được rằng phẩm chất đạo đức của một nhà viết ký là phải tôn trọng sự thật của cuộc sống. Đó không chỉ là yêu cầu có tính nguyên tắc mà còn là điều căn cốt làm nên sức hấp dẫn, thuyết phục của một bài ký. Chính ông đã từng nói: “những gì có ý nghĩa mà anh nói đến thì không chỉ là có lí, mà còn phải có thực, tất cả phải được đảm bảo bằng thực chứng” (Một vài suy nghĩ về thể ký). Người viết ký phải luôn luôn tự đặt mình trước những kỷ luật hết sức khắc khe: phong phú trong tư liệu, chính xác trong hiểu biết. HPNT đã cần mẫn gom nhặt từng chi tiết, sự kiện, thổi vào đó một đời sống nội tâm phong phú để làm lóe sáng “sức mạnh vĩnh cửu của các sự kiện được lưu giữ trong cõi thực, vốn là bản gốc của tác phẩm” (Một vài suy nghĩ về thể ký). Bên cạnh đó, nhà văn rất quan tâm đến việc lựa chọn và thể hiện các chi tiết nghệ thuật có sức mạnh thanh lọc tâm hồn con người. Đây được xem là một trong những thế mạnh của nhà văn. Như chi tiết Hoàng - người chiến sĩ biệt động thành, trong một cố gắng cuối cùng trước khi chết, đã lục tìm cuốn sổ ghi chép quen thuộc của mình và cố viết nhanh lên đó lời vĩnh biệt đồng đội bằng chính máu của mình “TO QUOC MUON NAM CAC DONG CHI TIEN LEN!”, “Ngón tay trỏ của Hoàng vẫn chìa ra trên trang giấy theo cái dáng đang viết tiếp, đầu ngón tay có vết máu đã khô trên dòng chữ không kịp đánh dấu” (Bản di chúc của cỏ lau); hay chi tiết mẹ cô La, một bà mẹ 31 Huế suốt đời chằm nón bài thơ nuôi con lớn lên, đã trốn khỏi trại tập trung, tất tả chạy về làng, tìm đến chỗ miệng hầm mà bà biết chắc rằng con gái mình, sau nhiều ngày đói khát vẫn còn ở dưới hầm, giữa trảng cát bát ngát và suốt ngày chỉ có tiếng máy bay chiêu hồi, để chỉ ngồi xuống và nói với con một điều gan ruột, tưởng như nói với mặt cát quạnh hiu: “Con phải cố gắng chịu đựng, có chết cũng phải cho tiết sạch, giá trong, con đừng nghe bọn hắn mà ra chiêu hồi, con mà làm nhục ông cha thì thà con giết mạ đi, con nghe không, mạ lạy con” (Vành đai trong lửa). Có thể nói, đó là những chi tiết đắt giá, đã chuyển tải được trọn vẹn ý nghĩa vốn có của sự kiện, góp phần làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Sự gạn lọc, lựa chọn các chi tiết trong quá trình tái hiện sự kiện, con người đã chứng minh cho quan điểm mới mẻ của nhà văn, rằng “hư cấu là sự bớt đi” (Một vài suy nghĩ về thể ký). Sự tồn tại, phát triển của đất nước, dân tộc trong thời đại mới là mảnh đất màu mỡ những cũng nhiều gai góc cho ký bước chân vào tìm hiểu, khám ._.hán trên tinh thần xây dựng, HPNT đã cập nhật những vấn đề thời sự nóng hổi cần đáng lên tiếng báo động để xã hội được “thiết kế trở lại trên ấm no, công bằng và nhân phẩm”. Điều này đã thể hiện tính thời sự cập nhật của những trang ký HPNT cũng như tấm lòng của nhà văn đối với đất nước, nhân dân trong thời kỳ đổi mới. 3. Về phương diện nghệ thuật, có thể nói, HPNT đã khẳng định được phong cách riêng của mình qua cách xây dựng nhân vật, tổ chức kết cấu, thể hiện ngôn ngữ, giọng điệu và cách ứng xử nghệ thuật đối với từng thể ký. Với tư chất của con người có cá tính phóng khoáng, tự do, rất nghệ sĩ, HPNT luôn đứng ở vị trí là người kể chuyện trực tiếp trong tác phẩm để có thể dễ dàng bày tỏ những suy ngẫm, chiêm nghiệm sâu sắc, thấm thía về lẽ đời. Đồng thời, bằng sự tái hiện những nét đẹp độc đáo thuộc về tính cách, tài năng, nhân vật trong ký HPNT hiện lên vừa gần gũi, bình dị nhưng lại vẫn toát ra những nét khí khái riêng, mang tư chất của con người Việt Nam trong thời đại mới. Không chỉ thế, với cách tổ chức tác phẩm theo kết cấu “phi cốt truyện” và kết cấu trường liên tưởng cùng với sự vận dụng linh hoạt các yếu tố lịch sử, yếu tố dân gian, truyền thống dân tộc đan xen với những huyền thoại, HPNT càng có cơ hội bộc lộ cá tính vừa trữ tình, phóng khoáng vừa logic, trí tuệ cũng như vốn kiến thức uyên bác của mình về các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngôn ngữ ký HPNT cũng thể hiện một nét đẹp độc đáo riêng. Đó không chỉ là một ngôn ngữ đầy chất thơ, giàu cảm xúc, mang đậm tính triết lí, nghiệm suy đã tạo nên sự tầng bậc về ý nghĩa, sức lan truyền cảm xúc của ngôn từ, mà đó còn là một ngôn ngữ rành mạch, chính xác, khúc triết của tư duy khoa học, làm tăng sức thuyết phục của những “khoái thú thuần trí tuệ” ở người đọc. Bên cạnh đó, giọng điệu sử thi huyền thoại và giọng điệu trò chuyện trầm tư, trữ tình 149 trong ký HPNT cũng góp phần thể hiện những suy tư, chiêm nghiệm, giãi bày rất thâm trầm, sâu sắc của tâm hồn con người luôn trăn trở, khắc khoải với những lẽ đời, những triết lí nhân sinh trong cuộc sống. Và bằng kinh nghiệm của sự từng trải, HPNT đã cố gắng tạo ra những đột phá mới lạ trong cách ứng xử nghệ thuật đối với từng tiểu loại bút ký, tùy bút. Có thể nói, chính sự kết hợp khéo léo, hài hòa giữa yếu tố trữ tình và chính luận, chủ quan và khách quan mà HPNT luôn đem lại sự mới lạ, độc đáo cho từng tác phẩm bút ký, tùy bút và cả những tác phẩm hòa trộn cả hai phong cách tiểu loại. 4. Trên cơ sở tiếp nối kinh nghiệm của những người đi trước, HPNT đã tạo cho ký của mình một phong cách riêng, một hơi thở mới. Có lẽ, do cá tính thích trầm tư, suy ngẫm mà ký HPNT thiên về khám phá những mạch ngầm của cuộc sống từ trong lịch sử, văn hóa hơn là những gay gắt trong cuộc sống thường nhật. Bởi vậy, ký của ông rất nhẹ nhàng, chứa đựng nhiều thông tin, giàu chất văn hóa, mang những rung cảm sâu sắc của tâm hồn con người đối với cuộc đời và đậm chất nhân văn. Đây có thể xem là một nét độc đáo đã tạo nên “bản sắc” về nội dung cảm hứng trong những sáng tác của ông. Hơn thế nữa, sự có mặt của ký HPNT trong văn học dân tộc còn là một đóng góp rất lớn về mặt thể loại với nhiều phương thức biểu hiện nghệ thuật mới lạ, góp phần làm tăng sức phát triển của văn học. Với những trang ký giàu giá trị nội dung và nghệ thuật như vậy, HPNT đã trở thành một trong số không nhiều những nhà văn viết ký hiện nay mà tác phẩm luôn gây được sự chú ý, hấp dẫn đối với người đọc nói chung và giới phê bình nói riêng. 5. Nhà văn lớn là một nhà văn có tài năng, đóng góp cho nền văn học nước nhà những tác phẩm văn học có giá trị, có sức sống lâu bền. Bằng những trang ký tràn đầy “ánh lửa” của mình, HPNT đã thực sự tạo được một chỗ đứng 150 xứng đáng, vững chắc trong làng ký Việt Nam hiện đại cũng như trong nền văn học nước nhà. Với mong muốn được góp phần tìm hiểu ký HPNT trên phương diện nội dung cảm hứng và phương thức biểu hiện nghệ thuật, chúng tôi đã mạnh dạn đi vào vùng đất “chưa được khai phá” nhằm khẳng định giá trị của ký HPNT trong quá trình phát triển của ký Việt Nam đương đại. Từ đó, có thể hướng đến nghiên cứu, phát hiện những yếu tố đặc thù trong phong cách nghệ thuật của HPNT trên cơ sở quan niệm phong cách là tổng hợp các đặc điểm mang tính độc đáo, xuyên suốt nội dung và hình thức tác phẩm cũng như trong sự khảo sát, đối chiếu phong cách ký HPNT với phong cách ký của những nhà văn khác trong mối quan hệ đồng đại, lịch đại. Hướng nghiên cứu này có thể đánh giá những thành tựu đầy sáng tạo của nhà văn để qua đó nhìn thấy những vấn đề lớn đặt ra trong sự phát triển văn học của một giai đoạn. Bởi vậy, dù chưa đầy đủ, nhưng chúng tôi hy vọng luận văn sẽ góp một phần nhỏ trong việc tìm hiểu sự nghiệp văn chương của HPNT, một “cây bút xuất sắc của miền Trung xứ Huế” (Trần Mạnh Thường). 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phan Thuận An (2001), “Từ yến tiệc Hoàng cung đến nét tinh tế trong món ăn Huế”, Tạp chí Sông Hương, (150), tr.85-88. 2. Bảo Anh (2002), “Những trang viết từ than đá dồn nén”, Quảng Nam chủ nhật, (31), tr.8. 3. Tạ Duy Anh (2001), Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí, Nhà xuất bản Thanh Niên, Hà Nội. 4. Lại Nguyên Ân (1992), 150 Thuật ngữ văn học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội. 5. Đỗ Bang, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Lê Văn Hảo, Phan Thuận An, Mai Khắc Ưng (1983), Nguyễn Huệ - Phú Xuân, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế. 6. Vũ Bằng (1990), Miếng ngon Hà Nội, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội. 7. Vũ Bằng (2000), Thương nhớ mười hai, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội. 8. Đặng Việt Bích (1996), “Huế - một cái nhìn khái lược về văn hóa”, Tạp chí Sông Hương, (12). 9. Phan Thanh Bình (1994), “Sự gợi tưởng trong tác phẩm điêu khắc của Điềm Phùng Thị”, Tạp chí Sông Hương, (5). 10. Nguyễn Văn Bổng (1981), “Văn xuôi 79”, Tạp chí văn nghệ, (19), tr.2. 11. Nguyễn Văn Bổng, Tô Nhuận Vỹ, Thanh Quế, Cao Duy Thảo (1998), Văn miền Trung thế kỷ XX (Tập 1), Nhà xuất bản Đà Nẵng, Đà Nẵng. 12. Hoàng Cát (2000), “Đọc Ngọn núi ảo ảnh của Hoàng Phủ Ngọc Tường”, Tạp chí Cửa Việt, (70), tr.68-71. 13. Nguyễn Minh Chương (1963), “Mấy suy nghĩ về vấn đề điển hỡnh trong thể ký”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (6). 14. Ngô Thị Kim Cúc (2002), “Hoàng Phủ Ngọc Tường - người say mê Tổ quốc”, Thanh Niên chủ nhật, (146), tr.10. 15. Lê Cung (2001), Phong trào đô thị Huế trong kháng chiến chống Mỹ, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế. 16. Lê Đức Dục (1998), “Dừng lại và đi tiếp anh Tường ơi”, Kiến thức ngày nay. 152 17. Lê Đức Dục (2000), “Hoàng Phủ Ngọc Tường - người lễ độ với thiên nhiên”, Tạp chí Cửa Việt, (65), tr.95-98. 18. Đinh Xuân Dũng (2004), Văn học, văn hóa tiếp nhận và suy nghĩ, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 19. Đức Dũng (1996), Các thể kí báo chí, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, Hà Nội. 20. Phạm Xuân Dũng (2002), “Người ham chơi nói thật”, Kiến thức ngày nay, (390), tr.41-43. 21. Trần Thanh Đạm, Hoàng Nhân (1991), Tuyển tập thơ văn Huế - Bình Trị Thiên, Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh. 22. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX: những vấn đề lịch sử và lí luận văn học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 23. Bùi Minh Đức (2004), Từ điển tiếng Huế, Nhà xuất bản Văn học, Trung tâm nghiên cứu quốc học. 24. Hà Minh Đức (chủ biên) (1980), Kí viết về chiến tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. 25. Hà Minh Đức (1985), Tác phẩm văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội. 26. Hà Minh Đức (chủ biên) (1998), Lí luận văn học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 27. Hồ Văn Đức (2001), “Một số đặc điểm thể loại tùy bút Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám”, Tạp chí Nha Trang, (69). 28. Văn Giá (2000), Vũ Bằng bên trời thương nhớ, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, Hà Nội. 29. Hồ Thế Hà (2002), “Thông điệp thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường”, Tạp chí Sông Hương, (161), tr.61-64. 30. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (1997), Từ điển thuật ngữ văn học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội. 31. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1995), Lí luận văn học - vấn đề và suy nghĩ, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 32. Hoàng Ngọc Hiến (1998), Năm bài giảng về thể loại: kí, bi kịch, trường ca, anh hùng ca, tiểu thuyết; Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 33. Ngô Minh Hiền (2004), “Văn hóa qua cái nhìn lịch sử trong văn xuôi Hoàng Phủ Ngọc Tường”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (3). 153 34. Nguyễn Duy Hiền, Lê Văn Thuyên (1999), Phú Xuân - Huế: từ đô thị cổ đến hiện đại, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế. 35. Nguyễn Văn Hoa, Phạm Hồng Việt (sưu tầm và nghiên cứu) (1997), Hiểu thêm về lịch sử qua các hồi ký, kí sự, tùy bút, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 36. Nguyễn Văn Hoa (2003), “Phải chăng sau Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường thì tác giả coi như giang hồ gác kiếm?”, Tạp chí Sông Hương, (168), tr.123-125. 37. Tô Hoài, Chế Lan Viên, Trần Cư, Vũ Đức Phúc (1966), “Trao đổi ý kiến về thể ký và vấn đề viết về người thật việc thật”, Tạp chí Văn học, (8). 38. Tô Hoài (1977), Sổ tay viết văn, Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Hà Nội. 39. Nguyễn Xuân Hoàng (2003), “Hoàng Phủ Ngọc Tường trong mắt tôi”, Kiến thức ngày nay, (450), tr.3-5. 40. Trần Hoàng (2006), “Một giờ trò chuyện cùng nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường”, Tạp chí Giáo dục và thời đại, (45), tr 12. 41. Lê Thị Hường (2000), “Dòng sông, bóng núi, địa linh và lời đồng vọng Huế”, Tạp chí Cửa Việt, (71), tr.68-71. 42. Lê Thị Hường (2002), “Xin được nói về Hoàng Phủ Ngọc Tường như một thi sĩ của thiên nhiên”, Tạp chí Sông Hương, (161), tr.68-72. 43. M.B. Khrapchenco (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học, Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Hà Nội. 44. Tôn Thất Dương Kỵ, Lê Văn Hảo, Nguyễn Văn Bổng, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Đoàn Minh Tuấn (1974), Trên đất mới: tâp văn xuôi và thơ của nhiều tác giả trong và ngoài nước viết về vùng Quảng Trị giải phóng, Nhà xuất bản Văn nghệ giải phóng. 45. Thủy Lê (1998), “Người hái phù dung được nhiều ánh lửa”, Tạp chí Tia sáng, (161). 46. Tạ Ngọc Liễn (2002), “Văn, kí, chí, lục”, Tạp chí Văn nghệ trẻ, (5). 47. Phan Trọng Luận (chủ biên) (2003), Ngữ văn 12 (Tập 2), Sách giáo khoa thí điểm, Ban Khoa học tự nhiên, Bộ 2, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 48. Phan Trọng Luận (chủ biên) (2003), Ngữ văn 12 (Tập 2), Sách giáo khoa thí điểm, Ban Khoa học xã hội và nhân văn, Bộ 2, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 154 49. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam (chủ biên) (1997), Lí luận văn học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 50. Trần Thùy Mai (2002), “Ký văn hóa của Hoàng Phủ Ngọc Tường”, Tạp chí Sông Hương, (161), tr.56-57. 51. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) (1992), Tác giả văn học Việt Nam (Tập 2), Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 52. Nguyễn Đăng Mạnh (2002), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội. 53. Nguyễn Đăng Mạnh (2003), Nhà văn Việt Nam hiện đại - chân dung và phong cách, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội. 54. J. K. Melvil (1997), Các con đường của triết học phương Tây hiện đại, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 55. Tôn Thảo Miên (tuyển và giới thiệu) (1998), Nguyễn Tuân - về tác gia và tác phẩm, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 56. Đặng Nhật Minh (2002), “Hoàng Phủ Ngọc Tường - một tâm hồn Huế”, Tạp chí Tia Sáng, (6), tr.47-65. 57. Ngô Minh (2002), “Vài suy nghĩ về Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường”, Tạp chí Sông Hương, (161), tr.65-68. 58. Ngô Minh (2003), “Những điều tôi học được từ văn chương Hoàng Phủ Ngọc Tường”, Tạp chí Cửa Việt, (108). 59. Ngô Minh (2005), “Hoàng Phủ Ngọc Tường - đau đáu nỗi lòng”, Báo Thừa Thiên Huế Xuân 2005. 60. Lê Trà My (2003), “Về việc giảng dạy thể ký và ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong chương trình Văn trung học phổ thông”, Tạp chí Giáo dục và thời đại, (49), tr.28-29. 61. Lê Trà My (2003), “Một dòng chảy của tản văn đương đại”, Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ, (2), tr21-23. 62. Dạ Ngân (2002), “Hoàng Phủ Ngọc Tường nỗi niềm của lửa”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (5), tr.20-21. 63. Nguyên Ngọc (2001), “Đọc Hoàng Phủ Ngọc Tường”, Rượu hồng đào chưa nhắm đã say , tr.4-16. 64. Phạm Xuân Nguyên (1989), “Ký Hoàng Phủ Ngọc Tường”, Chân dung văn học Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên sau 1975, tr. 75-78. 155 65. Hoàng Sĩ Nguyên (2001), “Đọc Nhàn đàm của Hoàng Phủ Ngọc Tường”, Tạp chí Sông Hương, (147), tr.78-81. 66. Vĩnh Nguyên (2003), “Ông Tường”, Tạp chí Cửa Việt, (103). 67. Vương Trí Nhàn (1997), “Nguyễn Tuân và thể tùy bút”, Tạp chí văn học, (6). 68. Hoàng Phê (chủ biên) (1998), Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà Nẵng. 69. Nguyễn Khắc Phê (2002), “Giải thưởng lớn cho Hoàng Phủ Ngọc Tường”, Tuổi Trẻ chủ nhật, (18), tr.7. 70. Phạm Phú Phong (1986), “Ai đã đặt tên cho dòng sông - Nghĩ về chặng đường sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường”, Tạp chí Sông Hương, (20). 71. Phạm Phú Phong (2002), “Hoàng Phủ Ngọc Tường - Người kể chuyện cổ tích chiến tranh”, Tạp chí Sông Hương, (161), tr.58-60. 72. Ngô Văn Phú, Phong Vũ, Nguyễn Phan Hách (1999), Nhà văn Việt Nam thế kỉ XX, Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội. 73. Nguyễn Phúc (2004), Văn học: sáng tạo và thẩm định, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội. 74. Huỳnh Như Phương (1994), “Những ánh lửa của lòng yêu nước”, Những tín hiệu mới, tr.52-62. 75. G.N. Pôpêlốp (chủ biên) (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 76. Trần Đức Anh Sơn (2004), Huế - Triều Nguyễn: một cái nhìn, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế. 77. Trần Đình Sử (1987), “Ai đã đặt tên cho dòng sông - Bút ký sử thi của Hoàng Phủ Ngọc Tường”, Tạp chí Văn nghệ, (7). 78. Trần Đình Sử (1996), Lí luận và phê bình văn học, Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội. 79. Trần Đình Sử (1998), “Vai trò sáng tạo văn hóa của văn học”, Tạp chí Văn học, (6). 80. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học Trung đại Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 81. Trần Đình Sử (2001), Thi pháp Truyện Kiều, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 156 82. Trần Đình Sử (chủ biên) (2003), Ngữ văn 12 (Tập 1), Sách giáo khoa thí điểm, Ban Khoa học tự nhiên, Bộ 1, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 83. Trần Đình Sử (chủ biên) (2003), Ngữ văn 12 (Tập 1), Sách giáo khoa thí điểm, Ban Khoa học xã hội và nhân văn, Bộ 1, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 84. Trần Hữu Tá (2000), Nhìn lại một chặng đường văn học, Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh. 85. Nguyễn Trọng Tạo (2002), “Lễ hội riêng của Hoàng Phủ Ngọc Tường”, Tạp chí Cửa Việt, (93). 86. Nguyễn Trọng Tạo (2002), “Từ A đến Z với Hoàng Phủ Ngọc Tường”, Tạp chí Sông Hương, (161), tr.52-55. 87. Ngô Thảo (1981), “Từ một số sáng tác văn xuôi được giải thưởng 1978 - 1979”, Tạp chí văn nghệ, (41). 88. Thanh Thảo (2002), “Hoàng Phủ Ngọc Tường - người hái phù du”, Tạp chí Sông Hương, (158), tr.65-67. 89. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Trẻ, TP Hồ Chí Minh. 90. Lê Viết Thọ (2000), “Trong miền hoài niệm”, Tạp chí Sông Hương, tr.62- 63. 91. Hoàng Trung Thông, Phong Lê, Vũ Tuấn Anh (biên soạn) (1979), Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước, Nhà xuất bản khoa học xã hội, ủy ban KHXH Việt Nam, Viện Văn học. 92. Nguyễn Khắc Thuần, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Quang Uyển, Huỳnh Kim, Phạm Phú Hạt, Hoàng Sơn (1998), Gò nổi đất học, Nhà xuất bản Đà Nẵng. 93. Trần Thức (chủ biên) (2005), Viết trên đường tranh đấu: tuyển tập thơ văn yêu nước của tuổi trẻ Huế trong phong trào đô thị 1954 - 1975, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế. 94. Trần Mạnh Thường (2003), Từ điển tác gia văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội. 95. Đặng Tiến (2002), “Đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường”, Tạp chí Diễn đàn Paris, (123), tr.1-2. 96. Ngọc Trai (1981), “Lửa của Hoàng Phủ Ngọc Tường”, Tạp chí Văn nghệ, (19), tr.4. 157 97. Lê Quang Trang, Trần Bảo Hưng (1995), Thai nghén tác phẩm: những mẩu chuyện về quá trình hình thành một số tác phẩm truyện ngắn, tùy bút trong văn học Việt Nam hiện đại, Nhà xuất bản Hội nhà văn. 98. Trung tâm nghiên cứu Quốc học (2002), Bản sắc dân tộc trong văn hóa văn nghệ, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội. 99. Nguyễn Tuân (1980), “Ký Hoàng Phủ Ngọc Tường có rất nhiều ánh lửa”, Tạp chí Văn nghệ, (25), tr.3. 100. Nguyễn Tuân (1996), Tuyển tập Nguyễn Tuân (Tập 1, Lữ Huy Nguyên tuyển), Nhà xuất bản Văn học. 101. Nguyễn Tuân (1996), Tuyển tập Nguyễn Tuân (Tập 2, Lữ Huy Nguyên tuyển), Nhà xuất bản văn học. 102. Nguyễn Tuân (1996), Tuyển tập Nguyễn Tuân (Tập 3, Lữ Huy Nguyên tuyển), Nhà xuất bản Văn học. 103. Hoàng Phủ Ngọc Tường (1971), Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu, Nhà xuất bản Văn nghệ Giải phóng. 104. Hoàng Phủ Ngọc Tường (1976), Những dấu chân qua thành phố, Nhà xuất bản Văn nghệ giải phóng. 105. Hoàng Phủ Ngọc Tường (1979), Rất nhiều ánh lửa, Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Hà Nội. 106. Hoàng Phủ Ngọc Tường (1984), Ai đã đặt tên cho dòng sông, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế. 107. Hoàng Phủ Ngọc Tường (1984), Bản di chúc của cỏ lau, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế. 108. Hoàng Phủ Ngọc Tường (1987), Bài thơ thôn Vĩ: thơ viết về Huế trước 1945, Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh. 109. Hoàng Phủ Ngọc Tường (1992), Người hái phù dung, Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội. 110. Hoàng Phủ Ngọc Tường (1995), Huế, di tích và con người, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế. 111. Hoàng Phủ Ngọc Tường (1995), Hoa trái quanh tôi, Nhà xuất bản Trẻ, TP Hồ Chí Minh. 112. Hoàng Phủ Ngọc Tường (1997), Nhàn đàm, Nhà xuất bản Trẻ, TP Hồ Chí Minh. 158 113. Hoàng Phủ Ngọc Tường (1998), Người ham chơi, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế. 114. Hoàng Phủ Ngọc Tường (1999), Ngọn núi ảo ảnh, Nhà xuất bản Thanh niên. 115. Hoàng Phủ Ngọc Tường (2001), Miền gái đẹp, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế. 116. Hoàng Phủ Ngọc Tường (2001), Trong mắt tôi, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế. 117. Hoàng Phủ Ngọc Tường (2001), Rượu hồng đào chưa nhắm đã say, Nhà xuất bản Đà Nẵng. 118. Hoàng Phủ Ngọc Tường (2002), Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường (Tập 1) (Trần Thức tuyển chọn) , Nhà xuất bản Trẻ, TP Hồ Chí Minh. 119. Hoàng Phủ Ngọc Tường (2002), Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường (Tập 2) (Trần Thức tuyển chọn) , Nhà xuất bản Trẻ, TP Hồ Chí Minh. 120. Hoàng Phủ Ngọc Tường (2002), Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường (Tập 3) (Trần Thức tuyển chọn) , Nhà xuất bản Trẻ, TP Hồ Chí Minh. 121. Hoàng Phủ Ngọc Tường (2002), Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường (Tập 4) (Trần Thức tuyển chọn), Nhà xuất bản Trẻ, TP Hồ Chí Minh. 122. Hoàng Phủ Ngọc Tường (2004), Trịnh Công Sơn và cây đàn lya của hoàng tử bé, Nhà xuất bản Trẻ, TP Hồ chí Minh. 123. Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Trần Thiết, Phan Thị Thanh Nhàn (1985), Tại sao Tổ quốc lại là mẹ, Nhà xuất bản Phụ nữ. 124. Bằng Việt, Đỗ Đức Hiểu (chủ biên) (2005), Từ điển văn học (Bộ mới), Nhà xuất bản Thế giới. 125. Lê Xuân Việt (1981), Nghệ thuật viết ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong “Rất nhiều ánh lửa”, Tạp chí văn học, (4), tr.143-145. 126. Lê Xuân Việt (1999), “Cảnh sắc thiên nhiên trong ký Hoàng Phủ Ngọc Tường”, Tạp chí Cửa Việt, (60), tr.80-85. 127. Trần Quốc Vượng (1994), “Bản sắc văn hóa dân tộc qua sắc thái Huế”, Tạp chí Sông Hương, (5). 128. Nguyễn Đắc Xuân (1997), Cố đô Huế: bí ẩn và khám phá, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế. 159 PHỤ LỤC Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường (tháng 01/2006) 160 Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường và người thực hiện luận văn (tháng 01/2006) 161 Những tác phẩm của HPNT được KHẢO SÁT trong luận văn * Tập 2 - “Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường” 1. Như con sông từ nguồn ra biển 2. Châu thổ ngàn năm 3. Chế ngự cát 4. Rất nhiều ánh lửa 5. Rừng nước mặn 6. Đất Mũi 7. Miếng trầu đỏ 8. Đánh giặc trên hàng rào điện tử 9. Còn mãi đến bây giờ 10. Ai về châu xưa 11. Rừng hồi 12. Ai đã đặt tên cho dòng sông? 13. Đời rừng 14. Hoa trái quanh tôi 15. Cồn Cỏ ngày thường 16. Đứa con phù sa 17. Vành đai trong lửa 18. Bản di chúc của cỏ lau 19. Đêm chong đèn nhớ lại 20. Sử thi buồn 21. Tiếc rừng 22. Tuyệt tình cốc 23. “Dệt gấm” với thủy quân lục chiến ở Cửa Việt 24. Ngọn núi ảo ảnh 25. “Diễm xưa” của tôi 26. Côn Sơn 27. Mùa Xuân thay áo trên cây 28. Rừng cười 29. Lý chuồn chuồn 30. Người Mỹ trở lại 31. Hành lang của người và gió * Tập 3 - “Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường” 32. Trung tâm thành Châu Hóa 33. Tính cách Huế 34. Đôi điều về văn hóa Huế 35. Mấy đặc trưng của “văn hóa ăn” vùng Huế 36. Chuyện nhà Nguyễn 37. Lý tưởng anh hùng trong thơ Việt Nam thời Nguyễn sơ 38. Báo động về môi trường Huế dưới góc nhìn văn hóa 39. “Thành phố lịch sử” một cơ may cứu vãn Huế 162 40. Trường Thanh niên tiền tuyến và thế hệ Giải phóng quân Huế đầu tiên 41. Đất nước 42. Làng quê văn hiến 43. Rượu Hồng Đào chưa nhắm đã say 44. Qua bài thơ “Vịnh Tam Tài” của Trần Cao Vân thử tìm quẻ Nhân trong Kinh Dịch 45. Những cuốn sách tôi đã đọc hồi còn bé 46. Một thời làm báo 47. Một vài suy nghĩ về thể ký 48. Mượn đá để ngồi 49. Nguyễn Trãi trước ngã ba thời đại 50. Thầy Đào Duy Từ 51. Nguyễn Huệ với chiến lược con người 52. Chim huyền hạc 53. Tay chơi 54. Thăm mộ Nguyễn Công Trứ 55. Nhân Euro 2000, lại nghĩ về một nhà thơ cổ 56. “Từ thụ yếu quy” - cuốn sách hàng đầu về chống tham nhũng ở thế kỷ 19 57. Thành kính tưởng niệm Trần Cao Vân 58. Thảo Am Nguyễn Khoa Vy 59. Ưng Bình Thúc Giạ Thị 60. Tống biệt Lưu Nguyễn về Trời 61. Đứa con không quên lời mẹ dặn 62. Phùng Quán lạy dưa 63. Cảm nhận thơ Ngô Kha 64. “7 chữ cái” Điềm Phùng Thị 65. Hành tinh yêu thương của Hoàng tử Bé 66. Mùa thu lá bay 67. Nơi không có hoa hồng 68. Người uống rượu - một cuộc rượu vô tiền khoáng hậu của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn 69. Bùi Giáng trong tôi 70. Nhớ hoài 71. Về chiếc panh-xô và khẩu súng của Trường 72. Lang thang với Trần Quốc Vượng 163 73. Không gian 74. Vẻ trầm mặc của đất đá 75. Đà Lạt - Noel 1965 và Đinh Cường 76. Lâm Triết và cõi mộng du 77. Đồng dao Nguyễn Trọng Tạo 78. Đốt lò hương giở phím đồng ngày xưa 79. Khái niệm Lê Minh Ngọc 80. Tưởng niệm Diana Phân loại tác phẩm theo các kiểu cốt truyện ∗ Kiểu cốt truyện tâm lí: có 13 tác phẩm 1. Hoa trái quanh tôi 2. Rừng nước mặn 3. Ai đã đặt tên cho dòng sông 4. Châu thổ ngàn năm 5. Đời rừng 6. Ngọn núi ảo ảnh 7. “Diễm xưa” của tôi 8. Lý chuồn chuồn 9. Mùa Xuân thay áo trên cây 10. Hành lang của người và gió 11. Đất nước 12. Những cuốn sách tôi đã đọc hồi còn bé 13. Một vài suy nghĩ về thể ký ∗ Kiểu cốt truyện chỉ là sự tập hợp một hệ thống sự kiện dưới một chủ đề nào đó: có 15 tác phẩm. 1. Vành đai trong lửa 2. Đánh giặc trên hàng rào điện tử 3. Rừng cười 4. Tiếc rừng 5. Trung tâm thành Châu Hóa 6. Tính cách Huế 7. Đôi điều về văn hóa Huế 8. Lý tưởng anh hùng trong thơ Việt Nam thời Nguyễn Sơ 9. Báo động về môi trường Huế dưới góc nhìn văn hóa 10. “Thành phố lịch sử” - một cơ may cứu vãn Huế 164 11. Chuyện nhà Nguyễn 12. Mấy đặc trưng của “văn hóa ăn” vùng Huế 13. Trường Thanh niên Tiền tuyến và thế hệ Giải phóng quân Huế đầu tiên 14. Làng quê văn hiến 15. Một thời làm báo ∗ Kiểu cốt truyện xoay quanh một vấn đề đáng chú ý hay một nhân vật có tiếng tăm trong xã hội, trong đó đan xen không ít những suy nghĩ, liên tưởng của nhà văn: có 47 tác phẩm 1. Chế ngự cát 2. Đất Mũi 3. Còn mãi đến bây giờ 4. Ai về châu xưa 5. Rừng hồi 6. Cồn Cỏ ngày thường 7. Đứa con phù sa 8. Đêm chong đèn nhớ lại 9. Sử thi buồn 10. Tuyệt tình cốc 11. “Dệt gấm” với Thủy quân lục chiến ở Cửa Việt 12. Côn Sơn 13. Qua bài thơ “Vịnh Tam Tài” của Trần Cao Vân thử tìm quẻ Nhân trong Kinh Dịch 14. Một thời làm báo 15. Mượn đá để ngồi 16. Nguyễn Trãi trước ngã ba thời đại 17. Thầy Đào Duy Từ 18. Nguyễn Huệ với chiến lược con người 19. Chim huyền hạc 20. Tay chơi 21. Thăm mộ Nguyễn Công Trứ 22. Nhân Euro 2000, lại nghĩ về một nhà thơ cổ 23. “ Từ thụ yếu quy” - cuốn sách hàng đầu về chống tham nhũng ở thế kỷ 19 165 24. Thành kính tưởng niệm Trần Cao Vân 25. Thảo Am Nguyễn Khoa Vy 26. Ưng Bình Thúc Giạ Thị 27. Tống biệt Lưu Nguyễn về Trời 28. Đứa con không quên lời mẹ dặn 29. Phùng Quán lạy dưa 30. Cảm nhận thơ Ngô Kha 31. “7 chữ cái” Điềm Phùng Thị 32. Hành tinh yêu thương của Hoàng tử Bé 33. Mùa thu lá bay 34. Nơi không có hoa hồng 35. Người uống rượu - một cuộc uống rượu vô tiền khoáng hậu của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn 36. Bùi Giáng trong tôi 37. Nhớ hoài 38. Về chiếc panh-xô và khẩu súng của Trường 39. Lang thang với Trần Quốc Vượng 40. Không gian 41. Vẻ trầm mặc của đất đá 42. Đà Lạt - Noel 1965 và Đinh Cường 43. Lâm Triết và cõi mộng du 44. Đồng dao Nguyễn Trọng Tạo 45. Đốt lò hương giở phím đồng ngày xưa 46. Khái niệm Lê Minh Ngọc 47. Tưởng niệm Diana ∗ Kiểu cốt truyện tương đối hoàn chỉnh : có 5 tác phẩm 1. Bản di chúc của cỏ lau 2. Rất nhiều ánh lửa 3. Như con sông từ nguồn ra biển 4. Miếng trầu đỏ 5. Người Mỹ trở lại 1 Trò chuyện cùng nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường Khi tiến hành làm đề tài này, tôi đã rất hứng thú nghĩ rằng mình sẽ nhanh chóng ra Huế gặp nhà văn để trao đổi trực tiếp về các vấn đề liên quan đến đề tài, và nhân dịp đó đi tham quan những danh lam thắng cảnh nổi tiếng của mảnh đất kinh kì mà tôi chưa từng được đặt chân đến. Nhưng rồi, vì bận công việc nhà trường, gia đình và lo tìm tài liệu cho đề tài, mãi đến tháng 01/ 2006, tôi mới tranh thủ thu xếp đi Huế được. Trước khi đi, tôi có gọi điện thoại cho nhà văn để xin phép một cuộc hẹn và ông đã rất vui mừng khi biết kế hoạch của tôi. Vừa đến Huế lúc 9 giờ sáng, thì đến 3 giờ chiều, tôi đã được cô Lâm Thị Mỹ Dạ đón tiếp nồng nhiệt tại nhà riêng của họ, một căn nhà xinh đẹp nằm trong con hẻm nhỏ gần chùa Từ Đàm trên đường Phan Bội Châu. Vừa vào nhà, cô đã nói ngay với tôi: “Bác Tường đã trông cháu từ hôm qua khi cháu gọi điện báo tin sẽ ra đây” và rồi cô đưa tôi lên lầu 2 để gặp nhà văn. Sau những lời thăm hỏi sức khỏe, chúng tôi đi vào vấn đề chính: NTHLV: Vì sao bác lại gắn nghiệp văn của mình với thể ký? NV HPNT (chậm rãi): Bác nghĩ rằng chỉ có thể ký mới đảm bảo được sự trung thực của việc tái hiện sự kiện, con người. Làm sao mình viết mà người ta đọc cảm thấy như có một thân phận của họ trong đó, đây chính là bản chất phản ánh “người thật, việc thật” của thể ký. Để có được điều này, đòi hỏi người viết ký phải đi thực tế rất nhiều. Và cái gian khổ của họ cũng là ở đó. NTHLV: Bác đã chọn cho mình một phong cách viết ký như thế nào? NV HPNT: Bác đã thử thể ký trong nhiều thể loại văn học khác. Bởi vậy mà ký của bác có sự hiện diện của nhiều thể loại văn học, như chất thơ thay thế cho thơ, hay có những tác phẩm đọc có cảm giác như là một truyện ngắn, một truyện dài, và cả như một tiểu thuyết… 2 NTHLV: Bác quan niệm như thế nào về thể bút ký, tùy bút? NV HPNT: Theo bác, tùy bút là một cách viết mà trong đó người ta phải dùng lí trí để cầm nắm lấy thực tế. Cái Tôi của nhà văn trong tùy bút là cái Tôi của lí trí, phân tích sự vật. Còn trong bút ký, nhà văn sử dụng cái Tôi của bản lĩnh mỹ học vừa cảm xúc vừa quan sát, cảm nghĩ. Bởi vậy mà trong các tác phẩm bút ký, bác hay sử dụng những câu như: Tôi nghĩ rằng…, Tôi thấy rằng… vv.. Thông qua đó, bác muốn bày tỏ chính kiến, quan điểm của mình đối với các vấn đề được trình bày. Bởi vậy mà trách nhiệm của người viết bút ký rất lớn, họ phải gánh vác mọi sự kiện sẽ xảy ra trong tác phẩm. NTHLV: Vậy đối với những tác phẩm hòa trộn cả hai phong cách bút ký và tùy bút, bác có cách ứng xử như thế nào? NV HPNT: Đối với những tác phẩm thuộc dạng này, thì cách đặt vấn đề, nhập đề của bác bao giờ cũng là tùy bút, còn khi đi vào đề tài chính mà mình miêu tả thì lại là bút ký và phần luận thì sẽ trở lại với tùy bút. Tuy nhiên, không phải tất cả tác phẩm nào bác cũng đều đi theo một cách viết như vậy… NTHLV: Vì sao trong các tác phẩm của mình bác hay viết về những người trí thức trong cuộc kháng chiến chống Mỹ trường kỳ của dân tộc? NV HPNT: Lúc nào bác cũng cảm thấy rằng mình có nghĩa vụ chưa làm đối với họ, và bác cảm thấy có lỗi với họ, bởi so với họ, bác là người may mắn được sống sót. NTHLV: Nhân vật trong ký của bác có đặc điểm gì? NV HPNT: Ký của bác có người chứ không có nhân vật. Nếu có chỉ là bác ấn vào để đọc xong, người đọc cảm thấy ghi nhớ nhân vật. Có khi vài 3 ba người có thật hợp lại thành một nhân vật, có khi là nhân vật được hư cấu nhưng chỉ là nhân vật phụ. Với âm hưởng chậm rãi, từ từ (điều này cũng giống như nhịp điệu bút ký của ông), HPNT thong thả trao đổi với tôi về nhiều vấn đề nổi bật trong tác phẩm của ông. Ông nói mà không hề biết mệt mỏi. Đã vậy, lâu lâu, ông lại nhắc cô Mỹ Dạ thay nước trà gừng mới để tôi uống cho ấm người. Nói chuyện gần được hai tiếng, tôi ngại ông mệt nên xin phép ra về. Ông tần ngần như không muốn kết thúc câu chuyện. Nhưng khi nghe tôi nói hôm sau lại đến thì ông vui vẻ hẳn và ân cần bảo: “Cháu không phải ngại gì cả. Bởi cháu đã đi từ Nha Trang ra tận đây để thăm bác là điều rất đáng quý”. Trên đường về, nghĩ tới thái độ tiếp đón nồng nhiệt, chu đáo của hai vợ chồng nhà văn mà tôi cảm thấy ấm lòng, quên đi cả cái rét tháng giêng ở Huế vốn dĩ làm tôi tê tái từ khi bước xuống tàu. Sáng hôm sau, tôi lại đến thăm nhà văn thì được cô Mỹ Dạ báo tin là ông đã bị viêm một bên phổi. Điều này khiến tôi rất ray rứt cảm thấy như đó là lỗi của mình. Nhưng cô Dạ liền gạt ngay ý nghĩ đó của tôi, cô ngồi tâm sự với tôi nhiều điều về gia đình, công việc, con cái …rồi cô còn nhiệt tình lục tìm cho tôi một số tài liệu nói về ký HPNT… Tất cả những điều đó đã ghi đậm trong tôi một ấn tượng sâu sắc không thể nào quên được trong quá trình làm luận văn của mình. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA7119.pdf