Kinh tế Việt Nam hội nhập kinh tế khu vực và thế giới

Mục lục Lời mở đầu Trong điều kiện khu vực hoá và toàn cầu hoá đời sống kinh tế thế giới của thế kỷ 21, không một quốc gia nào có thể phát triển nền kinh tế của mình mà không tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế và khu vực. Điều đó không ngoại trừ đối với Việt Nam, để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng nền kinh tế, Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định về sự cần thiết cũng như làm rõ thêm về nội dung và tiến trình hội nhập. Nghị quyết đại hội nhấn mạnh phải "xây dựng một nền kinh tế

doc50 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1412 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kinh tế Việt Nam hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mở, hội nhập khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả". Điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực vừa hội nhập toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta và các đối tác. Chủ động tham gia thương mại thế giới tại các diễn đàn, các tổ chức, các định chế quốc tế một cách có chọn lọc với những bước đi thích hợp. Tuy nhiên để có thể mở rộng quy mô và nâng cao năng lực hội nhập, vấn đề quan trọng là cần có sự xem xét, nhìn nhận quá trình hội nhập của ta trong thời gian qua. Xuất phát từ nhận thức trên đây cũng như vai trò to lớn của kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập nên em đã chọn đề tài "Kinh tế Việt Nam hội nhập kinh tế khu vực và thế giới". Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa lớn đối với bản thân em nhằm củng cố và nâng cao lý luận vận dụng một cách linh hoạt sáng tạo những kiến thức đã học vào thực tiễn. Thu hoạch thực tập tốt nghiệp gồm có 3 chương: Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về hội nhập kinh tế quốc tế Chương II: Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường Đại học Ngoại Thương, đặc biệt là cô giáo Đặng Thị Nhàn người trực tiếp hướng dẫn em và tập thể cán bộ công ty xuất nhập khẩu Đà Nẵng chi nhánh Hà Nội đã tận tình giúp đỡ em trong thời gian thực tập và hoàn thành bản thu hoạch này . Do hạn chế về khả năng bản thân và khả năng nghiên cứu, bản thu hoạch này chắc chắn không tránh khỏi những thiết xót, em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo và giúp đỡ của các thầy cô giáo cùng toàn thể các bạn để đề tài này được hoàn thiện. Chương I Những vấn đề lý luận cơ bản về hội nhập kinh tế quốc tế I. Khái niệm, đặc điểm, hình thức của hội nhập 1. Khái niệm Trong thời gian gần đây, việc nhìn nhận nguồn gốc bản chất của vấn đề hội nhập cùng với những tác động của nó cũng không phải là đã có sự thống nhất, thậm chí đôi khi còn trái ngược nhau. Hiện nay có nhiều khái niệm đề cập tới vấn đề này, trong đó có một khái niệm dễ hiểu hơn cả: "Hội nhập kinh tế quốc tế là việc phát triển kinh tế không những chỉ dựa vào nhu cầu bên trong mà còn phải căn cứ vào nhu cầu thị trường thế giới, sản xuất sản phẩm và dịch vụ phù hợp với yêu cầu và chuẩn mực của thị trường quốc tế dẫn đến xu thế gắn bó phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, giữa các nền kinh tế thông qua thực hiện phân công lao động quốc tế dựa trên những thế mạnh của từng nền kinh tế dân tộc". 2. Đặc điểm a) Hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với quá trình tự do hoá Hội nhập kinh tế quốc tế có nhiều mức độ, nhiều tầng nấc và nó gắn liền với mức độ của tự do hoá. Trong kỷ nguyên toàn cầu hoá hội nhập quốc tế càng sâu thì tự do hoá càng rộng. Không một quốc gia nào có thể hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu mà lại có thể không tự do hoá. Cơ sở của sự gắn bó chặt chẽ giữa hội nhập và tự do hoá chính là do sự phát triển sâu sắc của phân công lao động quốc tế với cơ chế thị trường thống nhất đã làm cho các nền kinh tế gắn bó chặt chẽ với nhau. Chỉ có hội nhập mới là con đường hiệu quả để phát huy thế mạnh, lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế và để bổ sung cho điểm yếu của nền kinh tế dân tộc. Trong thực tế đã có nhiều quốc gia thực hiện hội nhập một cách thành công, tận dụng được những ưu thế của hợp tác quốc tế phát huy khai thác được lợi thế so sánh của nền kinh tế dân tộc tạo ra sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế quốc gia. b) Sự gắn bó phụ thuộc lẫn nhau trong nền kinh tế thế giới Sự gắn bó của nền kinh tế toàn cầu vừa là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển bền vững của kinh tế toàn cầu cũng như kinh tế các quốc gia. Mối quan hệ phụ thuộc vào nhau mà nguồn gốc sâu xa của nó là sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, của các nguồn vốn... cùng với sự chuyên môn hoá của lực lượng sản xuất, thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển của kinh tế tri thức tạo nên một thị trường thống nhất trên toàn thế giới. c) Sự giao thoa của các nền kinh tế, các giá trị văn hoá chính trị. Kinh tế càng phát triển thì sự giao thoa, xâm nhập lẫn nhau giữa các nền kinh tế càng gia tăng. Có thể nói ngày nay không có một nền kinh tế thị trường dân tộc thuần khiết. Theo số liệu thống kê đầu tư của nước ngoài vào Mỹ từ năm 1970 đến nay đều có sự gia tăng. Năm 1970 đầu tư nước ngoài chiếm 4% tổng tài sản của Mỹ, năm 1984 là 7,6%, năm 1988 là 37% và năm 1999 là 300 tỷ USD, tăng 50% so với năm trước. Năm 1998 chỉ tính 8 nước thành viên EU (Anh, Đức, Hà Lan, Pháp, Bỉ, Thuỵ Điển, Italia, Ailen) đã đầu tư vào Mỹ với tổng doanh thu 530 tỷ USD. Toyota một hãng lớn của Nhật và thế giới, mức sản xuất ô tô hiện nay ở nước ngoài đúng bằng khối lượng ô tô xuất khẩu được của hãng sản xuất tại Nhật bản. Ngược lại ngành công nghiệp sản xuất ô tô của Mỹ sẽ bị sụp đổ nếu không nhập các linh kiện phụ tùng từ Nhật (nguồn: tạp chí nghiên cứu kinh tế số 6 năm 2000). Hội nhập mang lại điều kiện giao lưu của con người giữa các nền văn hoá, không những con người hiểu nhau hơn mà còn góp phần nâng cao giá trị truyền thống, xoá bỏ những thủ tục phi nhân văn, mở ra điều kiện phát triển cho con người và cho sự chung sống hoà bình của các nền văn hoá trên thế giới. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của kinh tế thị trường... Ngoài ra chúng ta cũng phải nói đến khía cạnh chính trị trong việc tham gia hội nhập xuất phát từ lợi ích khác nhau đôi khi đối lập nhau giữa các chủ thể mà các quốc gia tư bản phát triển đòi hỏi các quốc gia đang phát triển phải mở cửa thị trường phải chấp nhận luật chơi do chính họ đặt ra nhằm loại bỏ những ưu thế, những lợi thế so sánh của các quốc gia đi sau. Trong khi đó họ đặt ra hàng loạt điều kiện cho các nước đang phát triển trong quá trình tiếp xúc thị trường của chính họ. Trên thực tế họ mong muốn tạo lập một mô hình kinh tế, một loạt giá trị chung cho thế giới theo quan điểm của họ. Do đó chúng ta cần phải xem xét giữa lợi ích dân tộc hay là lợi ích về kinh tế. 3. Hình thức hội nhập Khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, các quốc gia chỉ mong muốn là đời sống kinh tế xã hội của mình sẽ luôn được cải thiện và từng bước nâng cao. Trên thực tế thì có nhiều hình thức hội nhập nhưng thể hiện rõ nhất chủ yếu dưới hai hình thức là hợp tác song phương và hợp tác đa phương. Trong thời gian qua chúng ta cũng đã chủ động tham gia hội nhập khá tích cực tại các diễn đàn, các tổ chức quốc tế trong và ngoài nước. Về hợp tác song phương: đáng chú ý là quan hệ của Việt Nam với Nhật Bản, Mỹ … Nhật Bản là bạn hàng thương mại lớn nhất, là nước cung cấp ODA lớn nhất và là một trong ba nhà đầu tư hàng đầu ở Việt Nam. Hiện nay Chính phủ hai nước đã quyết định áp dụng lâu dài thuế suất Tối Huệ Quốc đối với hàng hoá của nhau, tạo điều kiện cho quan hệ kinh tế thương mại hai nước phát triển ổn định. Trong quan hệ với Mỹ, Việt Nam luôn tỏ ra thiện chí. Năm 1994 Mỹ đã xoá bỏ lệnh cấm vận với Việt Nam và tháng 7 vừa qua hiệp định thương mại Việt Mỹ được ký kết góp phần mở ra điều kiện gia tăng quan hệ Việt – Mỹ cũng như quan hệ Việt Nam với thế giới. Về hợp tác đa phương: đa phương có nghĩa là nhiều bên. Hệ thống thương mại đa phương trước hết được hiểu là hệ thống thương mại có nhiều nước cùng tham gia, cùng áp dụng những luật lệ, quy ước chung. Cho đến nay Việt Nam đã tham gia vào những hoạt động của các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu như: Liên hợp quốc (UN), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới(WB) , Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN)… Việt Nam là thành viên của diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC), khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA),… và đang xúc tiến tham gia vào tổ chức thương mại thế giới (WTO). II. Tính tất yếu của việc hội nhập kinh tế quốc tế 1. Sự phát triển cao của lực lượng sản xuất Chúng ta đã biết trong xã hội phong kiến do lực lượng sản xuất và giao thông kém phát triển cho nên sản xuất và trao đổi chỉ được thực hiện trong một phạm vi quy mô nhỏ. Tính tự cung tự cấp của sản xuất là đặc trưng chủ yếu của phương thức sản xuất phong kiến, chưa tạo ra những quan hệ phụ thuộc trong phát triển, chưa có thị trường thế giới. Sau chiến tranh thế giới I các hoạt động kinh tế giữa các quốc gia mang nặng tính chất phụ thuộc một chiều. Các quốc gia kém phát triển thực hiện việc cung cấp nguyên vật liệu cho các quốc gia phát triển cao hơn thường được gọi là các chính quốc. Mỗi chính quốc đều tìm cách tạo lập cho mình một khu vực thuộc địa và thực hiện bảo hộ trong khu vực đó. Do đó trên thực tế sản xuất và trao đổi chưa có tính toàn cầu, thế giới bị chia cắt thành nhiều khu vực thuộc địa và phụ thuộc khác nhau chịu ảnh hưởng của các chính quốc chủ yếu là Anh, Pháp, Hà Lan... Tuy vậy, do sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất cùng với ý thức độc lập đã đưa lại sự phát triển mới dẫn đến sự phân công lao động sản xuất quốc tế, làm cho quá trình sản xuất và tiêu thụ mang tính quốc tế gắn bó phụ thuộc vào nhau. Các quốc gia vốn trước là phụ thuộc, sau khi giành được độc lập đã chủ động tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển đã làm cho thương mại và đầu tư có tính quốc tế, kéo theo đó là quá trình di dân, lao động và giao dịch tài chính phát triển mạnh mẽ vượt biên giới quốc gia. Quan hệ giữa các quốc gia, giữa các nước phát triển và kém phát triển từ đặc trưng phụ thuộc một chiều chuyển dần sang quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Sau chiến tranh thế giới lần thứ II gắn liền với sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Các phát kiến về khoa học nhanh chóng được áp dụng vào sản xuất đã thúc đẩy phân công lao động phát triển lên một bước mới. Trên thực tế quan hệ giữa khoa học công nghệ và sản xuất ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau. Đầu thế kỷ XX phát minh khoa học được ứng dụng trong sản xuất phải mất từ 30 đến 50 năm, nhưng trong thập niên 90 chỉ từ 2 đến 5 năm. Dự báo sau năm 2000 chỉ còn dưới một năm. Dưới sự tác động của khoa học công nghệ các ngành kinh tế truyền thống dần dần nhường bước cho các ngành đại diện cho tiến bộ khoa học kỹ thuật. Sự tăng trưởng của nền kinh tế từ dựa chủ yếu vào nguyên vật liệu và lao động đang chuyển sang dựa chủ yếu vào tri thức. Tri thức trở thành động lực chính của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Hiện nay Mỹ và một số quốc gia phát triển Tây Âu lĩnh vực kinh tế tri thức chiếm khoảng từ 45 - 50% GDP. Đáng chú ý nhất trong những thành tựu của khoa học công nghệ là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu và năng lượng mới, công nghệ hàng không vũ trụ. Sự phát triển của những loại hình công nghệ mới này đã làm ra đời hàng loạt ngành kinh tế mới, làm thay đổi diện mạo của nền kinh tế thế giới. Sự phát triển của lĩnh vực kinh tế tri thức dựa trên các công nghệ có hàm lượng khoa học - kỹ thuật cao đã phá vỡ hàng rào ngăn cách địa giới trong giao dịch của con người trên tất cả các mặt giữa các quốc gia. Do đó các quốc gia dù muốn hay không đều chịu tác động trong quá trình hội nhập, để tồn tại, phát triển trong điều kiện ngày nay không thể không tham gia quá trình hội nhập quốc tế. 2. Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá, nó ra đời cách đây 200 năm. Kinh tế thị trường là một hệ thống kinh tế mở đó là sự tự do luồng đầu tư, hàng hoá từ vùng này sang vùng khác, từ ngành này sang ngành khác thể hiển ở sự biến đổi thường xuyên cơ cấu kinh tế và mở rộng thị trường ra nước ngoài cũng như mở cho những nền kinh tế khác xâm nhập vào kinh tế trong nước. Hội nhập kinh tế quốc tế có sự gắn bó chặt chẽ với sự phát triển của kinh tế thị trường. kinh tế thị trường càng phát triển thì nhu cầu về thị trường nguyên liệu càng trở thành quan trọng, phân công lao động càng sâu sắc. Vì vậy các bộ phận, các thị trường càng gắn bó phụ thuộc chặt chẽ với nhau. Với kinh tế thị trường đã mở ra điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ của sức sản xuất, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, thúc đẩy sự phân công lao động, đồng thời nó điều tiết quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá thông qua sự tác động của các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường phát triển đã mở ra điều kiện cho sự gia tăng xu thế hội nhập kinh tế quốc tế thể hiện trên hai khía cạnh. Thứ nhất kinh tế thị trường mở ra cơ sở điều kiện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho quy mô sản xuất không bó hẹp trong phạm vi của từng quốc gia mà mang tầm quốc tế như vậy là cũng có nghĩa thúc đẩy quá trình phân công lao động quốc tế, gắn các quốc gia vào trong sự ràng buộc của sản xuất và tiêu thụ. Thứ hai kinh tế thị trường phát triển ở các quốc gia đưa lại cơ chế thống nhất cho xử lý các mối quan hệ kinh tế, đó là cơ chế thị trường với sự cùng tồn tại cơ chế thị trường trong các nền kinh tế, phương thức phân bổ các nguồn lực, đến tư liệu sản xuất... Điều này rõ ràng là có ý nghĩa cho thúc đẩy mở rộng đầu tư, giao dịch thương mại và tiếp nhận nguồn lao động... Cho đến nay loài người đã chứng kiến vai trò của kinh tế thị trường trong thúc đẩy sự phát triển sản xuất. Thế giới chưa có quốc gia nào phát triển mà lại không dựa trên nền kinh tế thị trường. Quá trình hình thành, phát triển các nền kinh tế thị trường trên thế giới rất đa dạng, phong phú với nhiều cấp độ, nhiều dạng, nhiều kiểu. Ví dụ mô hình Đức được gọi là mô hình kinh tế thị trường xã hội. Loại mô hình này chú trọng đến tăng trưởng nền kinh tế thị trường gắn liền với việc thực hiện chính sách phúc lợi xã hội, thực hiện công bằng xã hội... Mô hình kinh tế thị trường ở Mỹ, có người còn gọi nó là nền kinh tế thị trường phân tán Nhà nước thông qua các công cụ phát triển bảo đảm cạnh tranh thị trường. Trong mô hình này trách nhiệm cá nhân cao, nhà đầu tư dám mạo hiểm, dòng đầu tư chuyển động linh hoạt tạo ra hiệu năng kinh tế là đặc trưng của mô hình kinh tế thị trường Mỹ. Mô hình kinh tế thị trường Nhật Bản lại coi trọng sự phối hợp hiệp đồng của nhóm, Nhà nước - doanh nghiệp và người tiêu dùng. Trong mô hình này vai trò Nhà nước trong soạn thảo chính sách phát triển kinh tế và điều chỉnh thông qua kế hoạch, pháp luật được chú trọng. Bên cạnh những mô hình kinh tế thị trường nêu trên, vào những thập kỷ sau cùng của thế kỷ XX nhiều quốc gia trước đây vốn từ chối nền kinh tế thị trường thì nay đã thực hiện mở cửa, cải cách, phát triển nền kinh tế thị trường với những nét đặc thù tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế cụ thể. Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường không chỉ ở sự mở rộng quy mô về không gian, về sự xâm nhập ràng buộc lẫn nhau giữa các thị trường mà còn thể hiện ở sự phát triển theo chiều sâu, đó là sự bùng nổ phát triển của thị trường tài chính gắn liền với sự xuất hiện của một loạt công cụ mới trong thanh toán giao dịch. Các thị trường tài chính đan xen vào nhau chặt chẽ tới mức lãi suất cho vay và giá chứng khoán cũng ràng buộc với nhau và lượng vốn tư nhân luân chuyển trên thị trường tài chính lớn hơn tài nguyên của nhiều nước. Thị trường sản phẩm hàng hoá cũng gia tăng mạnh mẽ thể hiện ở quy mô chưa từng có của khối lượng giao dịch thương mại và ở sự phát triển của các dạng giao dịch mới như thương mại dịch vụ và điện tử. Như vậy có thể thấy sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường là cơ sở, là điều kiện trong quá trình hội nhập. Nhìn chung các quốc gia trên thế giới ngày nay đều dựa trên cơ chế thị trường, sử dụng các công cụ, phương tiện của kinh tế thị trường trong hoạt động kinh doanh, đưa lại một không gian rộng lớn, không gian toàn cầu cho các hoạt động sản xuất và lưu chuyển các yếu tố của chính quá trình sản xuất ấy. 3. Thế giới bước vào thời kỳ hoà bình - hợp tác và phát triển Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II giữa phe phát xít (Đức, ý, Nhật) và phe đồng minh (Mỹ, Anh, Pháp). Đây là cuộc chiến tranh giữa các nước tư bản trẻ mới nổi lên và các nước tư bản già, tranh giành chiếm đoạt các thị trường rộng lớn để tiêu thụ hàng hoá và tìm kiếm nguồn nguyên liệu cho mình. Đầu tiên các nước có thương lượng với nhau để mở cửa thị trường nhưng không có kết quả. Cuối cùng đành phải dùng biện pháp chiến tranh để giải quyết mâu thuẫn này. Về thực chất đây cũng là cuộc chiến tranh thương mại. Sau chiến tranh thế giới II, lại hình thành mâu thuẫn mới giữa các quốc gia phát triển, sự hồi phục kinh tế, sự bùng nổ của khoa học kỹ thuật đã thúc đẩy sản xuất gia tăng, do đó lại nảy sinh nhu cầu tiêu thụ hàng hoá và cần nguyên liệu để sản xuất nhưng bị các rào cản biên giới quốc gia ngăn chặn. Sự bảo hộ mậu dịch của các quốc gia đã làm giảm sự lưu thông hàng hoá và tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới. Để giải quyết vấn đề này người ta lại nghĩ đến một cuộc chiến tranh thế giới lần thứ III. Tuy nhiên tình hình trên thế giới có khác trước. Bởi vì trong suốt mấy thập kỷ chạy đua vũ trang, lúc này nhiều nước đã sở hữu vũ khí huỷ diệt, nhất là vũ khí hạt nhân đã dẫn tới hình thành những kho vũ khí huỷ diệt khổng lồ, đe doạ sự tồn vong của cả nhân loại. Các bên đều nhận thấy nếu chiến tranh nổ ra thì sẽ không có người chiến thắng. Đây chính là nguyên nhân thúc đẩy các bên tiến tới các cam kết, thoả thuận trong sự ràng buộc lẫn nhau để cùng nhau chung sống hoà bình. Với sự kết thúc chiến tranh lạnh, sự phân chia thế giới thành hai cực đối lập đã và đang chuyển sang trật tự theo hướng đa cực, thế giới vận động trong xu thế hoà dịu hợp tác và phát triển từ cuối những năm 80 đã mở ra cơ hội trên thực tế thực hiện phối hợp nguồn lực để giải quyết các vấn đề toàn cầu. Trong quá trình phát triển kinh tế thì lại nảy sinh hàng loạt các vấn đề có tính toàn cầu tác động tiêu cực đến cuộc sống của con người: sự ô nhiễm môi trường, gia tăng dân số, sự phá huỷ tầng ôzôn... Nhìn chung các vấn đề toàn cầu đều có quan hệ nhân quả với nhau, cho nên phải có quan điểm tổng thể khi giải quyết và đòi hỏi phải có sự nỗ lực của mọi quốc gia. Các vấn đề toàn cầu là liên quan tới mọi quốc gia, nó tác động trên phạm vi thế giới. Vì lợi ích của nhân loại cũng như của chính mỗi quốc gia, đòi hỏi phải có liên kết sức lực của cả cộng đồng. Bản thân mỗi quốc gia dù có tiềm lực mạnh đến đâu cũng không thể giải quyết mỗi vấn đề liên quan tới toàn thế giới. Đây chính là cơ sở khách quan để thúc đẩy những cố gắng nhằm liên kết sức mạnh cho việc tiến tới thống nhất những quy trình, quy phạm chung cho quá trình phát triển kinh tế. Có thể nói sự phát triển kinh tế trở thành mục tiêu chiến lược của mỗi quốc gia, trong đó hợp tác là cách thức chủ yếu và ổn định là điều cần thiết để phát triển. Với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế dưới tác động của khoa học kỹ thuật và phân công lao động quốc tế càng sâu sắc, các quốc gia ngày một gắn bó, phụ thuộc vào nhau. Sự cạnh tranh diễn ra trong sự ràng buộc xâm nhập lẫn nhau, các quốc gia không thể phát triển nếu đứng tách riêng trong xu thế hội nhập toàn cầu. III. Cơ hội và thách thức đối với các nước trong quá trình hội nhập 1. Cơ hội đối với các nước trong quá trình hội nhập a) Mở ra những điều kiện thuận lợi cho phát triển quan hệ kinh tế quốc tế từ đó tận dụng cơ hội cho phát triển từ thị trường bên ngoài. Đối với nền kinh tế thị trường thì việc tạo lập được một thị trường quy mô cho phát triển kinh tế là điều kiện rất quan trọng. Từ việc khai thông thị trường quốc gia với quốc tế cho phép bổ sung và dần hoàn thiện những mặt yếu của nền kinh tế dân tộc. Một thực tế hiển nhiên là không một quốc gia nào có đủ các điều kiện xây dựng một nền kinh tế nội địa có hiệu quả mà không cần tính đến thị trường bên ngoài, cho dù đó là những quốc gia khổng lồ như Mỹ, liên bang Nga, Trung Quốc... Do đó trong bản thân nội bộ nền kinh tế của từng nước phải xây dựng được một cơ cấu kinh tế hợp lý, gắn sản xuất bên trong với nhu cầu của thị trường quốc tế, đặc biệt chú ý phát triển những ngành có lợi thế xuất khẩu. b) Tạo điều kiện thuận lợi cho các quốc gia chậm phát triển nhanh chóng hình thành một cơ cấu kinh tế - xã hội có hiệu quả, đẩy nhanh, rút ngắn quá trình hiện đại hoá. Trong xu thế nền kinh tế thế giới trở thành một thị trường thống nhất. Ngày nay phân công lao động quốc tế chuyển dịch từ phân công lao động theo chiều dọc sang phân công lao động theo chiều ngang. Trước đây các nước lạc hậu chuyên cung cấp nguyên nhiên liệu, còn các nước phát triển chuyên gia công, chế tạo sản phẩm rồi bán lại cho các quốc gia khác. Hiện nay phân công lao động theo chiều ngang trở thành hình thức phân công quốc tế chủ yếu với nội dung của nó là phân công theo bộ phận cấu thành sản phẩm. Các cơ sở sản xuất khắp nơi trên thế giới tham gia vào sản xuất các bộ phận, chi tiết, linh kiện theo một quy chuẩn, sau đó được lắp ghép với nhau thành sản phẩm hoàn chỉnh. Với hình thức phân công mới, các quốc gia đang phát triển có thể tham gia vào công đoạn nào đó mà đẩy nhanh được tiến trình điều chỉnh kết cấu ngành của nền kinh tế quốc dân theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Với sự phát triển của loại hình phân công lao động quốc dân này, sản xuất trên phạm vi toàn cầu tạo thành một mạng lưới mà trong đó mỗi quốc gia tham dự là một mắt xích. Điều này cũng có nghĩa là hội nhập kinh tế quốc tế đã làm tăng thêm sự phụ thuộc và tác động qua lại lẫn nhau giữa các nền kinh tế, tạo ra cục diện xâm nhập, đan xen, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau. Cũng vì vậy nó có lợi cho các quốc gia, họ có thể phát huy lợi thế, tiết kiệm lao động cho xã hội, tận dụng tốt các nguồn lực cho phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế. c) Các quốc gia tiếp cận được các nguồn vốn, công nghệ kỹ thuật và công nghệ quản lý. Việc mở cửa thị trường làm cho các quan hệ trao đổi buôn bán hàng hoá và dịch vụ gia tăng mạnh mẽ là dòng lưu chuyển của vốn, công nghệ cũng được mở rộng và đẩy nhanh. Tham gia vào trong quá trình hội nhập các quốc gia không chỉ tận dụng được thị trường mà còn có thể thu hút, sử dụng các dòng vốn quốc tế. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với các quốc gia đang phát triển, nơi mà đang rất cần vốn và công nghệ quản lý tiên tiến. Theo thống kê của tổ chức hợp tác và phát triển của Liên Hợp Quốc (UNCT AD) năm 1997 số lượng vốn đầu tư của toàn thế giới, năm 1997 số lượng vốn đầu tư của toàn thế giới là 3.455 tỷ USD thì các nước đang phát triển tiếp nhận được 1.043 tỷ USD vốn đầu tư (30%). (nguồn: thời báo kinh tế Việt Nam số 156 năm 2002. Kéo theo dòng chảy của vốn là kỹ thuật công nghệ sản xuất và quản lý tiên tiến cho phép các quốc gia nâng cao trình độ sản xuất, mở ra điều kiện tiếp tục tham gia mạnh mẽ hơn nữa trong phân công lao động quốc tế cũng do cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải nghiên cứu phát triển công nghệ mới và những công nghệ này lại được lan truyền rộng rãi giữa các quốc gia. Vì vậy có thể thấy hội nhập kinh tế quốc tế vừa là điều kiện, vừa là nhân tố kích thích sự phát triển và lan toả của khoa học công nghệ. d) Được hưởng những ưu đãi về thuế quan, hàng hoá nhanh chóng tiếp cận được thị trường khu vực và thế giới. Hội nhập vào các tổ chức kinh tế toàn cầu cho phép các quốc giathành viên được hưởng những ưu đãi về thuế quan và hàng hoá nhanh chóng tiếp cận được thị trường khu vực và thế giới. Tham gia hội nhập cũng đồng thời đòi hỏi phải mở cửa thị trường, phá bỏ các hàng rào. Như vậy nó đặt ra vấn đề phải nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng năng suất lao động. Yêu cầu này thúc đẩy xu thế cải tổ, hợp lý hoá không chỉ trong lĩnh vực liên quan trực tiếp đến sản xuất mà cả lĩnh vực dịch vụ hành chính. Việc hội nhập vào các tổ chức kinh tế thế giới về thực chất là sự xâm nhập, ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế. Điều này vô hình chung tạo ra cơ chế bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh, tạo cơ sở tin cậy và hợp tác phát triển, ngăn ngừa các xung đột. e) Tiếp nhận những thông tin, tri thức mới Ngày nay với sự phát triển của công nghệ thông tin số người sử dụng Internet ngày một tăng đã làm cho sự ngăn cách không gian và thời gian hầu như không còn ý nghĩa, từ đó thúc đẩy sự hiểu biết, xích lại gần nhau giữa các dân tộc. Với các phương tiện thông tin, giao thông hiện đại con người ở khắp nơi trên thế giới cũng có thể tiếp cận được với những tri thức khoa học tiến bộ của loài người cùng với những nền văn minh ở khắp nơi trên thế giới làm cho nhận thức của con người được nâng cao và vì vậy họ ý thức được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong cộng đồng, từ đó góp phần tác động đến tiến trình phát triển chung. 2. Những thách thức đối với các nước trong quá trình hội nhập a) Hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng thêm tình trạng bất công, làm sâu sắc sự phân hoá giàu nghèo. Hiện nay trên thế giới đang tồn tại nguy cơ là thông qua các tổ chức quốc tế với mục đích tôn chỉ bên ngoài là làm lợi ích chung cho tất cả thế giới, các nước lớn đã bắt đầu cuộc chơi mà ưu thế ngay từ đầu thuộc về kẻ đã mạnh sẵn, các nước lớn đã thao túng cuộc chơi nhằm khuất phục các nước yếu, nhỏ hơn. Do mức độ phát triển khác nhau, khi bị buộc phải chơi chung theo những điều luật mà các tổ chức quốc tế đã định sẵn (WTO, IMF, WB) phần thua thiệt chắc chắn sẽ rơi vào các nước kém phát triển. Theo một thông báo của hội nghị liên hiệp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD), do những hệ luỵ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nên nhóm 48 nước kém phát triển nhất thế giới đã ngày càng bị gạt ra rìa trong thập niên cuối cùng của thế kỷ XX. Tới cuối thế kỷ XX các quốc gia này chiếm 13% dân số thế giới đã bị mất 40% thị phần toàn cầu vốn đã ít ỏi mà họ có được vào những năm 1980, các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu chỉ chiếm 0,5% toàn bộ thương mại thế giới do bị hạn chế bởi cánh cửa chỉ được hé mở và luôn kèm theo những điều kiện quá quắt của thị trường các nước phương Tây. Xét trên nhiều khía cạnh, hiện nay người dân tại 85 quốc gia trên thế giới đang có mức sống thấp hơn một thập niên trước đây. Tổng sản phẩm quốc nội của các nước nghèo nhất với 1/5 dân số trên thế giới nay chỉ bằng 1% GDP toàn cầu. Hội nhập kinh tế quốc tế là đã tạo thêm điều kiện cho những quốc gia giàu có và những thế lực tài chính quốc tế hùng hậu xây dựng những đòn bẩy tác động trực tiếp vào các nền kinh tế và thông qua đó gián tiếp hoặc trực tiếp tác động tới các nền chính trị của các nước khác. Mức độ phân hoá giàu nghèo ở các quốc gia có phần gay gắt hơn. Chính vì thế ở các nước công nghiệp phát triển chỉ với 1,2 tỷ người (bằng 1/5 dân số thế giới) nhưng lại chiếm 86% GDP toàn cầu, 4/5 thị trường xuất khẩu, 1/2 đầu tư trực tiếp nước ngoài và 74% số điện thoại trên thế giới. Tại Montreal, Chủ tịch Fidel Castro của Cuba đã tố cáo trật tự kinh tế thế giới hiện tại làm nước giàu càng giàu thêm, đến mức tổng tài sản của ba người giàu nhất trên thế giới bằng tổng sản phẩm quốc nội của 48 nước nghèo nhất cộng lại.(Nguồn :báo quốc tế số 1 năm 2003). Hội nhập kinh tế quốc tế là nhằm phá bỏ các rào cản thương mại, nhưng người đề xướng ra học thuyết này là những nước giàu có, nhưng chính họ lại là người phản bội và đi ngược lại lý thuyết chủ trương đó. Hoa Kỳ nền kinh tế lớn nhất trên thế giới là nước chủ trương bảo hộ mậu dịch hơn ai hết, bằng chứng là tăng thuế nhập khẩu thép khiến nhiều nước lao đao, sau đó là dự thảo trợ cấp ngành nông nghiệp mà tổng thống Mỹ Bush vừa ký ngày 13/5/2002. Vậy chính Hoa Kỳ là kẻ đã phá vỡ các cam kết tự do hoá thương mại, kẻ đi tiên phong áp dụng chính sách bảo hộ mậu dịch vô lý đối với các nước khác. b) Tỷ lệ thất nghiệp gia tăng Hiện nay, tỷ lệ thất nghiệp ở các nước có chiều hướng gia tăng. ở các nước đang phát triển và các nước công nghiệp giàu có, người lao động bị bóc lột do toàn cầu hoá đem lại, nên việc biểu tình đấu tranh là điều dễ hiểu. Trước hết hội nhập theo kiểu một chiều đối với kẻ mạnh sẽ dẫn đến lợi ích đem lại cho các tập đoàn siêu quốc gia, họ bất chấp lợi ích quốc gia, kể cả quốc gia đó là Mỹ hay Châu Âu. Sự hình thành sát nhập các doanh nghiệp lớn của các nước dẫn đến sự phá sản, đổ vỡ các doanh nghiệp kém thế hơn ở các quốc gia, dẫn đến thất nghiệp gia tăng, đời sống ngày càng bần cùng. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng dẫn đến sự ràng buộc giữa các quốc gia, sự đổ vỡ về kinh tế ở khu vực, quốc gia này cũng sẽ ảnh hưởng đến các quốc gia khác. Khi một nước muốn đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá sang một nước thì đồng thời cũng phải nhập lại hàng của nước đó, điều này cũng sẽ dẫn đến hàng hoá nhập vào bán với giá rẻ, gây khó khăn cho sản xuất ở nội địa nước đó, do đó sự phá sản, đóng cửa doanh nghiệp nội địa do hàng hoá không đủ sức cạnh tranh từ đó sẽ dẫn tới thất nghiệp. Có người đã nói sự kiện các Đảng cực hữu ở Châu Âu (áo, Italia, Pháp...) đang có xu hướng thắng thế trong các cuộc bầu cử vừa qua ở Châu Âu cũng có phần liên quan đến kinh tế thế giới phản ánh sự phản kháng nhằm chống lại toàn cầu hoá, bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích doanh nghiệp đất nước không bị lệ thuộc vào sự chi phối của các tập đoàn siêu quốc gia (phái cực hữu ở Pháp chủ trương rút ra khỏi liên minh Châu Âu). c) Sự phụ thuộc vào các tổ chức kinh tế, tài chính trên thế giới. Hội nhập cùng với việc phát triển kinh tế, mở rộng thị trường tài chính quốc gia, dòng vốn dễ dàng lưu thông hơn trên thế giới. Cũng chính vì thế nên các nền tài chính của nhiều nước dễ bị lệ thuộc, chi phối của các quốc gia mạnh, hoặc dễ bị các tổ chức đầu tư quốc tế hay nước ngoài lũng đoạn. Do đó hình thức "thuộc địa kinh tế" trong tình hình thế giới hiện nay cũng đang có vẻ như ngày một phổ biến. Do đó cần phải xác định một mức độ vừa phải của sự phụ thuộc. Mức độ vừa phải này thể hiện trên hai chỉ tiêu chính là tỷ lệ buôn bán với nước ngoài trong tổng thu nhập quốc gia và tỷ lệ vốn nước ngoài, nhất là vốn ngắn hạn trong tổng số vốn đầu tư phát triển của mỗi quốc gia. Một quốc gia có tỷ lệ ngoại thương cao trong tổng giá trị thu nhập quốc dân thì có nghĩa bao hàm một khả năng bất ổn từ bên ngoài đưa lại, nhưng tỷ lệ ngoại thương cao trong thu nhập nó chứng tỏ khả năng phát triển của quốc gia đó, nhưng sẽ gặp khó khăn trong việc tự điều chỉnh khi có sự bất ổn của nền kinh tế thế giới. Việc thu hút được nhiều vốn là điều kiện rất quan trọng để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhưng nếu phụ thuộc quá nhiều vào các nguồn vốn nước ngoài thì khả năng bất ổn kinh tế._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28640.doc
Tài liệu liên quan