Kinh tế tư nhân Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Mục lục Lời nói đầu I. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế ở Việt Nam, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nói chung và thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân và sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất nói riêng đã được khuyến khích phát triển. Do vậy, chỉ trong vòng hơn 10 năm, khu vực kinh tế tư nhân đã khẳng định vai trò quan trọng của mình trong phát triển kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân đã phát triển rộng khắp trong cả nước, góp phần quan trọng vào phát

doc122 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1515 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kinh tế tư nhân Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
triển kinh tế, huy động các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng tích luỹ, góp phần giữ vững ổn định chính trị – xã hội. Nhưng sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân trong nước là quá trình diễn ra rất chậm chạp. Điều này một phần do môi trường kinh doanh và chính sách kinh tế vẫn tiếp tục có thiên hướng ưu ái hơn đối với khu vực kinh tế nhà nước. Trong một vài năm gần đây, Việt Nam đã có sự nỗ lực đáng kể nhằm hoàn thiện môi trường pháp lý và kinh doanh cho khu vực kinh tế tư nhân, do đó đã góp phần thúc đẩy phát triển khu vực tư nhân trong nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy khu vực kinh tế tư nhân của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém: phần lớn có quy mô nhỏ, vốn ít, công nghệ sản xuất lạc hậu, trình độ quản lý yếu kém, hiệu quả và sức cạnh tranh yếu, ít đầu tư vào lĩnh vực sản xuất... Do vậy, việc nghiên cứu thực trạng kinh tế tư nhân để tìm ra những giải pháp phát triển khu vực này là một vấn đề cấp thiết. Vì thế, tôi đã chọn đề tài “Kinh tế tư nhân Việt Nam: Thực trạng và giải pháp” cho luận văn cao học của tôi. II. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu của đề tài Mục tiêu: Xem xét thực trạng phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, trên cơ sở đó kiến nghị các biện pháp sửa đổi chính sách nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh định hướng thị trường, từ đó thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam. Phạm vi: Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam có thể được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, đề tài giới hạn phân tích thực trạng của khu vực kinh tế tư nhân ở các khía cạnh như số lượng doanh nghiệp, số vốn đăng ký và thực hiện, vai trò và những đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế và tình hình các cơ sở sản xuất, kinh doanh tư nhân nói chung. Ngoài ra, những số liệu và những phân tích, đánh giá trong đề tài về khu vực kinh tế tư nhân được giới hạn đối với các doanh nghiệp trong nước trừ bộ phận kinh tế phi nông nghiệp ngoài quốc doanh. Khu vực này bao gồm các hộ sản xuất kinh doanh cá thể, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và không bao gồm bộ phận kinh tế nông nghiệp ngoài quốc doanh. III. Phương pháp nghiên cứu Luận văn vận dụng các phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lê nin và các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh vv... dựa trên các nguồn tài liệu thu thập được về kinh tế tư nhân. IV. Tình hình nghiên cứu Phát triển kinh tế tư nhân là một vấn đề nổi cộm trong quá trình chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam. Trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, mô hình kinh tế xoá bỏ kinh tế tư nhân, cá thể, tập thể hoá mọi hoạt động kinh tế đã đưa đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội từ cuối những năm 70. Do vậy, trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, việc đề cao vai trò của kinh tế tư nhân được đặc biệt quan tâm. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về kinh tế tư nhân dưới dạng đề tài nghiên cứu khoa học, luận án, bài báo... Ví dụ như: MPDF, 1997: Khu vực kinh tế tư nhân mới nổi lên và sự nghiệp công nghiệp hoá ở Việt Nam. GS. Trần Ngọc Hiên: “Chính sách phát triển thành phần kinh tế tư bản tư nhân theo định hướng XHCN (đến năm 2010)”. Hà Nội, tháng 1 năm 1999. TS. Trần Tiến Cường: “Phân tích sự tác động qua lại giữa cải cách doanh nghiệp nhà nước và phát triển kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam”. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2000. Nguyễn Văn Hưởng: “Phân tích các chính sách và biện pháp hỗ trợ đầu tư theo luật khuyến khích đầu tư trong nước đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh”. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tháng 2 năm 2001. CIEM-JIBIC: Kỷ yếu Hội thảo "Sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân: rào cản pháp lý và giải pháp”, tháng 2 năm 2001. Trần Ngọc Bút: “Phát triển kinh tế tư nhân định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2002. Những bài viết này đề cập tới nhiều khía cạnh khác nhau trong phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc nghiên cứu sâu và cập nhật về thực trạng phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam cùng với những so sánh và bài học kinh nghiệm từ các nền kinh tế chuyển đổi vẫn luôn luôn cần thiết và mang tính thời sự đối với phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài cho luận văn cao học của mình là “Kinh tế tư nhân Việt Nam: thực trạng và giải pháp”. V. Dự kiến đóng góp Trên cơ sở những bài học kinh nghiệm về phát triển kinh tế tư nhân ở các nền kinh tế chuyển đổi và những phân tích, đánh giá về thực trạng khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam, luận văn sẽ trình bày quan điểm về phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam và kiến nghị một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế này, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. VI. Nội dung đề tài Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, luận văn được bố cục trong 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế tư nhân Trong chương này, luận văn sẽ tập trung trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế tư nhân. Cụ thể là: vấn đề lý luận về sở hữu, khái niệm và vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường và kinh nghiệm phát triển kinh tế tư nhân ở các nền kinh tế chuyển đổi là Hungary và Trung Quốc. Chương 2: Thực trạng kinh tế tư nhân trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam Trong chương này, luận văn phân tích thực trạng kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Trong đó, luận văn trình bày tiến trình chính sách đối với phát triển kinh tế tư nhân, phân tích và đánh giá tình hình phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Chương 3: Một số kiến nghị về phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay Trong chương này, luận văn trình bày bối cảnh phát triển khu vực kinh tế tư nhân, nêu những quan điểm về phát triển khu vực này, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp kiến nghị nhằm thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam. Chương 1 Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế tư nhân Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường Một số vấn đề lý luận về sở hữu trong nền kinh tế chuyển đổi Hầu hết các nước chuyển đổi đều nằm trong số các nước đang phát triển. Đặc điểm của các nước đang phát triển có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình chuyển đổi nền kinh tế. Những nước đang phát triển có những đặc điểm chung sau đây: (i) mức sống thấp, được biểu thị cả về lượng và về chất dưới các hình thức: thu nhập thấp, chất lượng nhà ở thấp, sức khoẻ cộng đồng kém, giáo dục kém, tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh cao, tuổi thọ và thâm niên lao động không cao; (ii) năng suất thấp so với các nước phát triển; (iii) tốc độ tăng trưởng dân số cao, trung bình 2,1%/năm so với gần 0,7%/năm của các nước phát triển, và gánh nặng người ăn theo với gần 50% dân số là trẻ em dưới 15 tuổi; (iv) mức thất nghiệp và bán thất nghiệp cao và ngày càng cao; (v) lệ thuộc nhiều vào sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu hàng sơ chế; và (vi) sự thống trị, sự lệ thuộc, và tính dễ bị tổn thương trong các quan hệ quốc tế. Bên cạnh những đặc điểm chung của các nước đang phát triển, các nước chuyển đổi còn thừa hưởng những “di sản” của hệ thống kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao gồm: (i) cân đối vĩ mô được kiểm soát trực tiếp; (ii) điều phối thông qua kế hoạch; (iii) sở hữu tư nhân bị hạn chế; và (iv) giá cả bị bóp méo. Qua một thời gian chuyển đổi sang cơ chế thị trường, những di sản của kinh tế kế hoạch hoá tập trung vẫn còn được thể hiện qua một số điểm. Chẳng hạn như, sự hiện diện của một hệ thống tài chính kém phát triển, một khu vực doanh nghiệp nhà nước lớn và kém hiệu quả, hệ thống pháp lý chưa hình thành đầy đủ, các thể chế thị trường còn thiếu và yếu, độc quyền là tình trạng phổ biến, và nhà nước vẫn đóng vai trò độc tôn. Để rút ngắn khoảng cách giàu – nghèo với các nước phát triển, nâng cao mức sống dân cư, các nước chuyển đổi phải giải quyết nhiều vấn đề cùng lúc. Đối với những nước này, từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường đòi hỏi phải giải quyết vấn đề sở hữu, ổn định hoá và tự do hoá nền kinh tế, thiết lập thể chế thị trường, hình thành và vận hành các công cụ chính sách vĩ mô, và cải cách hành chính. Những vấn đề này được tiến hành đan xen lẫn nhau, có tác động qua lại lẫn nhau, do đó phải được đặt trong một khung khổ cải cách chung. Khái niệm chế độ sở hữu được dùng phổ biến như là một trong những tiền đề của kinh tế học xã hội chủ nghĩa. Mặc dù nội hàm của nó vẫn chưa có được sự nhất trí trong giới học thuật, có thể hiểu chế độ sở hữu trên hai mặt. Thứ nhất, theo nghĩa hẹp, chế độ sở hữu nhằm chỉ hình thức chiếm hữu về tư liệu sản xuất. Về cơ bản, tồn tại hai hình thức chiếm hữu tư liệu sản xuất là: (i) chế độ tư hữu, và (ii) chế độ công hữu. Thứ hai, hiểu theo nghĩa rộng, chế độ sở hữu chỉ sự chiếm hữu, sử dụng, xử lý tư liệu sản xuất và sự phân chia lợi ích, tài sản. Theo nghĩa này, hình thức sở hữu cơ bản bao gồm: quốc doanh, tập thể, cá thể, tư doanh, đầu tư nước ngoài, và liên doanh. Sự khác biệt lớn nhất giữa hệ thống kế hoạch hoá tập trung và kinh tế thị trường về mặt sở hữu đó là mức độ phổ biến của sở hữu nhà nước hay quốc doanh. Trong hệ thống kế hoạch hoá tập trung, ưu thế tuyệt đối thuộc về sở hữu toàn dân (hay sở hữu nhà nước) và sở hữu tập thể. Khái niệm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể xuất hiện từ năm 1937, được Stalin tổng kết từ chế độ kinh tế và cơ cấu chế độ sở hữu trong “thời kỳ cộng sản thời chiến” mà Liên Xô thực hiện những năm sau cách mạng tháng Mười. Theo khái niệm này, sở hữu toàn dân là hình thức cao của chế độ công hữu. Trong khi đó, sở hữu tập thể là hình thức thấp của chế độ công hữu, là bước quá độ để đi lên hình thức sở hữu toàn dân. Có thể thấy được sự khác biệt giữa mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế thị trường trong mô phỏng dưới đây, trong đó khởi đầu của những khác biệt giữa hai hệ thống bắt nguồn từ sở hữu. Mô hình kế hoạch hoá tập trung Sở hữu nhà nước và tựa nhà nước Điều phối hành chính chiếm ưu thế Hạn chế ngân sách “mềm”; kém nhạy cảm đối với giá cả; mặc cả về kế hoạch; chạy theo số lượng Nền kinh tế thiếu hụt; thị trường của người bán; thiếu lao động; bán thất nghiệp Mô hình kinh tế thị trường Sở hữu tư nhân thống trị Điếu phối thị trường chiếm ưu thế Hạn chế ngân sách “cứng”; nhạy cảm đối với giá cả Không có tình trạng thiếu hụt triền miên; thị trường của người mua; luôn có thất nghiệp; biến động theo chu kỳ Nguồn: Trích Kornai (2000) Sở hữu nhà nước cũng tồn tại trong nền kinh tế thị trường. Vấn đề nằm ở mức độ phổ biến của hình thức này. Ở các nước phát triển, hình thức sở hữu nhà nước rất phổ biến trong những năm 30, 40, và 50 của thế kỷ 20. Ở các nước này, sở hữu nhà nước, gắn với sự can thiệp của nhà nước vào thị trường, được coi là một phương thuốc cho những thất bại của thị trường, là những hiện tượng được cho là rất phổ biến trong thời kỳ này. Còn ở các nước đang phát triển, hình thức sở hữu nhà nước phổ biến từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Ở những nước này, ưu thế của sở hữu nhà nước được lý giải bởi hai lý do. Thứ nhất, các doanh nghiệp nhà nước (quốc doanh) đảm bảo cho sự “độc lập về kinh tế” của những nước này. Điều này đặc biệt quan trọng bởi hầu hết các nước đang phát triển mới giành được độc lập từ các nước phát triển sau chiến tranh thế giới thứ hai qua con đường bạo lực hoặc chính trị. Thứ hai, sở hữu nhà nước giúp cho các nước đang phát triển thực hiện các kế hoạch phát triển của mình. Những đả phá đầu tiên đối với sở hữu nhà nước trong lý thuyết kinh tế được bắt đầu từ những công trình nghiên cứu của Hayek và Friedman những năm 50 của thế kỷ 20. Nhưng những lý thuyết chỉ trích sở hữu nhà nước này không thu được những động lực cần thiết cho đến tận những năm 60 và 70. Một công trình nghiên cứu của Alchian (1965) đã chỉ ra rằng các doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà nước vốn dĩ luôn kém hiệu quả hơn các doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân. Chính phủ của các nước phát triển và đang phát triển bắt đầu lo lắng về sự lãng phí và thất bại của các doanh nghiệp nhà nước. Trên thực tế, đã nổi lên ba quan điểm về doanh nghiệp nhà nước. Quan điểm thứ nhất cho rằng cạnh tranh trên thị trường sản phẩm là nhân tố chủ chốt quyết định hiệu quả của doanh nghiệp chứ không phải sở hữu. Quan điểm thứ hai tập trung vào sở hữu và cho rằng nhà nước sử dụng các doanh nghiệp nhà nước cho các mục tiêu khác ngoài mục tiêu tối đa hoá lợi ích của xã hội. Và điều này sẽ dẫn đến những tác động tiêu cực đối với hoạt động của doanh nghiệp. Quan điểm thứ ba cho rằng bất kể mục tiêu của chính phủ là gì thì các doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân vẫn sẽ thành công hơn các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước trong việc xử lý các vấn đề liên quan đến quản trị công ty. Bảng 1. So sánh tỷ trọng khu vực nhà nước trong nền kinh tế: kế hoạch hoá và thị trường Các nước kinh tế kế hoạch hoá Năm Tỷ trọng khu vực nhà nước (%) Bungari 1970 99,7 Cubaa 1988 95,9 Tiệp khắc 1988 99,3 Đông Đức 1988 96,4 Hungary 1988 92,9 Balan 1988 81,2 Rumani 1980 95,5 Việt Nam 1987 71,4 Nam Tưb 1987 86,5 Các nước kinh tế thị trường Áo 1978-79 14,5 Pháp 1982 16,5 Hy lạp 1979 6,1 Italia 1982 14,0 Tây ban nha 1979 4,1 Anh 1978 11,1 Mỹ 1983 1,3 Tây Đức 1982 10,7 Nguồn: Kornai (1992), lấy từ nguồn do P. Mihályi tập hợp trên cơ sở niên giám thống kê của Hội đồng tương trợ kinh tế (CMEA) cho các nước kinh tế kế hoạch hoá. Số liệu về các nước kinh tế thị trường lấy từ B.. Milanovic. Ghi chú: Tỷ trọng khu vực nhà nước được tính theo thu nhập quốc dân đối với các nước kinh tế kế hoạch hoá và tính theo GDP đối với các nước kinh tế thị trường. Đối với các nước kinh tế kế hoạch hoá số liệu được tính bao gồm cả các hợp tác xã và sản lượng ròng trên đất vườn của các hộ gia đình. Số liệu trên không phản ánh đúng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân bởi tính gộp sản lượng vườn của xã viên nhưng không tính đến hoạt động kinh tế phi chính thức. a Trên cơ sở GDP giá 1972 b Chỉ riêng khu vực nhà nước Trong hệ thống kế hoạch hoá tập trung, sự triệt tiêu sở hữu tư nhân là mục tiêu cơ bản hàng đầu mang tính ý thức hệ. Tuy nhiên, các hình thức sở hữu tư nhân tồn tại dưới hình thức hộ kinh tế gia đình và kinh tế phi chính thức (kinh tế ngầm). Khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, một trong những nội dung quan trọng mà các nước chuyển đổi phải thực hiện là xây dựng khu vực kinh tế tư nhân mạnh, đảm nhận chức năng sản xuất và kinh doanh của nền kinh tế. Để làm được điều này, vấn đề sở hữu và cải cách doanh nghiệp nhà nước được đặt ra như những mục tiêu hàng đầu. Những bước tiến đầu tiên của các nước chuyển đổi thường là hình thành khu vực kinh tế tư nhân trong nước, kết hợp với việc kêu gọi tư nhân từ nước ngoài đầu tư. Trong điều kiện này, pháp luật về doanh nghiệp thường được xem như là những quy chuẩn. Thường thì các nước chuyển đổi bắt đầu với việc ban hành cơ sở pháp lý cho sự gia nhập thị trường trong nước của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, bởi ngoài yếu tố nó còn có ý nghĩa chính trị: nó thể hiện sự mở cửa của quốc gia đó đối với thế giới. Song song với đó là pháp luật về doanh nghiệp trong nước với các hình thức phổ biến như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần hay công ty hợp danh. Kết hợp với đó là việc cải cách doanh nghiệp nhà nước, lĩnh vực mà các nước chuyển đổi có sự khác nhau khá lớn về phương pháp luận, phạm vi, và tốc độ của cải cách. Khái niệm kinh tế tư nhân Hiện nay, đối với thuật ngữ “khu vực tư nhân” tồn tại một số cách hiểu khác nhau tuỳ theo quan điểm và cách nhìn nhận về sở hữu. Do vậy, trong thực tế các cách hiểu đó thường chỉ mang tính chất tương đối và không thống nhất. Ở Việt Nam, theo cách hiểu rộng nhất thì khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế nhà nước (hay còn gọi là khu vực quốc doanh) là hai bộ phận cấu thành nền kinh tế. Như vậy, tư nhân bao gồm cả các doanh nghiệp trong nước, lẫn doanh nghiệp có vốn nước ngoài dưới dạng liên doanh hay 100% vốn nước ngoài. Đồng thời, cách hiểu này cũng đưa đến một hệ quả là khu vực tư nhân bao gồm cả các cơ sở sản xuất nông nghiệp (như hợp tác xã nông nghiệp, nuôi trồng và khai thác thuỷ hải sản chẳng hạn) và các doanh nghiệp phi nông nghiệp. Tuy nhiên, ở Việt Nam, nhiều người không dồng ý với định nghĩa rộng này vì trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và trong các công ty cổ phần mới được cổ phần hoá có sự tham gia góp vốn của các doanh nghiệp nhà nước, và khi thống kê kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các công ty cổ phần có cổ đông là doanh nghiệp nhà nước, người ta không thể tách bạch được phần của doanh nghiệp nhà nước là bao nhiêu. Cách hiểu thứ hai về kinh tế tư nhân dựa trên việc chia nền kinh tế thành 3 khu vực là khu vực nhà nước (quốc doanh), khu vực ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Định nghĩa này đã đưa khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ra khỏi “khu vực ngoài quốc doanh”, coi khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là một khu vực riêng. Theo đó, khu vực ngoài quốc doanh chỉ bao gồm các chủ thể kinh doanh trong nước, nhưng vẫn gồm cả các chủ thể sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp. Như vậy, các cách hiểu về các thuật ngữ “khu vực quốc doanh”, “khu vực ngoài quốc doanh” và “khu vực tư nhân” đều mang tính ước lệ. Trong đề tài này, thuật ngữ “khu vực kinh tế tư nhân” được hiểu hẹp hơn nữa, bao gồm các doanh nghiệp trong nước trừ bộ phận kinh tế phi nông nghiệp ngoài quốc doanh. Khu vực này bao gồm các hộ sản xuất kinh doanh cá thể, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và không bao gồm bộ phận kinh tế nông nghiệp ngoài quốc doanh, kể cả lâm nghiệp, thuỷ sản, làm muối (bộ phận này gồm các cá nhân, hộ gia đình và hợp tác xã phi nông nghiệp và hợp tác xã nông nghiệp tham gia sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối, nuôi trồng và khai thác thuỷ, hải sản). Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường Trong một nền kinh tế thị trường, sự tăng trưởng và phát triển của khu vực tư nhân và sự phát triển của cộng đồng gắn liền với nhau trong một mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Sự tăng trưởng và phát triển của khu vực tư nhân sẽ đem lại thu nhập cao hơn, y tế và giáo dục tốt hơn cho người dân trong cộng đồng. Mặt khác, đối với các doanh nghiệp, thu nhập cao hơn có nghĩa là thị trường rộng lớn hơn. Sức khoẻ và giáo dục tốt hơn thì lực lượng lao động có năng suất cao hơn và năng suất cao hơn sẽ đem lại nhiều lợi nhuận hơn. Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường được thể hiện trên nhiều khía cạnh của đời sống xã hội như phát triển kinh tế, phát triển xã hội và quản lý khu vực công. a. Đối với phát triển kinh tế Mục tiêu kinh tế của phát triển là nhằm tạo cho người dân có mức thu nhập cao hơn thông qua sự tăng trưởng nhanh trong tổng sản phẩm quốc nội. Trong nền kinh tế thị trường, điều này có thể đạt được cùng với nỗ lực của khu vực công và khu vực tư nhân. Thứ nhất, một trong những đóng góp quan trọng của khu vực tư nhân đối với phát triển kinh tế là khả năng huy động vốn cho việc sản xuất các hàng hoá và dịch vụ. Nguồn vốn là yếu tố đầu vào cần thiết cho quá trình sản xuất. Trong một nền kinh tế đang phát triển, nguồn vốn rất khan hiếm, và đặc biệt đối với các nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam thì nguồn vốn càng khan hiếm hơn khi các tổ chức tài chính chưa phát triển và không có khả năng huy động tiền tiết kiệm từ dân cư, cũng như hạn chế của ngân sách trong việc phân bổ vốn cho đầu tư. Do đó, khả năng huy động vốn của khu vực kinh tế tư nhân trở nên rất quan trọng. Nếu các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân được đặt trong một môi trường kinh doanh bình đẳng và được tạo cơ hội thuận lợi thì các chủ doanh nghiệp có thể tự tin mạo hiểm với khoản tiền tiết kiệm quý giá của bản thân họ, thậm chí của họ hàng và bạn bè họ để theo đuổi mục tiêu lợi nhuận. Môi trường kinh doanh bình đẳng sẽ khiến các chủ doanh nghiệp cảm thấy có thể kiểm soát ở mức độ nào đó các hoạt động và số phận kinh doanh của họ. Tuy nhiên, do hệ thống tài chính kém phát triển nên các khoản tiền tiết kiệm có thể trở thành vốn sẵn có của các doanh nghiệp nhưng lại tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau nằm ngoài các thể chế tài chính chính thức. Thứ hai, phát triển kinh tế tư nhân góp phần tạo ra các cơ hội việc làm. Một kết quả của việc huy động và hình thành vốn của các doanh nghiệp tư nhân là tạo ra các cơ hội việc làm cho các thành viên khác trong cộng đồng. Việc làm sẽ mang lại thu nhập cho những người lao động và nâng cao mức sống của gia đình họ. Nhìn chung, chủ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân khác với các nhà quản lý ở các doanh nghiệp nhà nước ở chỗ họ có quyền quyết định lớn hơn trong việc thuê mướn lao đông (số lượng, kỹ năng cần thiết của người lao động). Vì vậy, không những các doanh nhân hoàn toàn có thể tăng số lượng lao động làm thuê theo ý họ mà còn có thể nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng nguồn nhân lực trong cộng đồng. Thứ ba, phát triển kinh tế tư nhân góp phần ứng dụng và quảng bá công nghệ. Một yếu tố quan trọng để tạo được hiệu quả trong sản xuất là công nghệ phù hợp. Thực tế cho thấy, bản chất không bao giờ tự hài lòng của các chủ doanh nghiệp thúc đẩy họ tìm kiếm các công nghệ phù hợp hơn cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp. Sự phù hợp về công nghệ không phải lúc nào cũng hàm ý là công nghệ tiên tiến nhất mà ở đây là công nghệ phù hợp với những điều kiện của quá trình sản xuất xét về mặt cấu thành chi phí và các nguyên vật liệu đầu vào sẵn có. Nếu đem so sánh với các doanh nghiệp nhà nước thì rõ ràng các chủ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân phải đối mặt trực tiếp với những chi phí thực tế về sản xuất, lao động, vốn, nguyên vật liệu. Quá trình tìm kiếm công nghệ phù hợp của một doanh nghiệp góp phần vào việc phân bố một cách có hiệu quả nguồn lực khan hiếm trong nền kinh tế. Thứ tư, phát triển kinh tế tư nhân góp phần tạo nguồn thu thuế cho chính phủ. Thông qua hệ thống thuế, các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả sẽ đóng góp vào tăng nguồn thu cho ngân sách. Các khoản đóng góp này giúp duy trì bộ máy hoạt động của chính phủ cũng như là nguồn quan trọng để xây dựng phần lớn các cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội cần thiết. Để đảm bảo vững chắc nguồn thu này, điều quan trọng là cơ cấu thuế, quy trình thu thuế, quá trình kiểm toán cần được phát triển phù hợp sao cho việc trốn thuế và các tác nhân xấu ảnh hưởng tới sự tăng trưởng và hiệu quả được tối thiểu hoá. b. Đối với phát triển xã hội Xét về tổng thể, mục tiêu của phát triển xã hội là tạo nên sự công bằng về cơ hội cho tất cả các thành viên trong xã hội bất kể vị thế kinh tế và xã hội của họ thông qua các dự án xã hội. Những dự án này bao gồm giáo dục và đào tạo, sức khoẻ, nhà ở, trợ giúp cho sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ,.... Về trách nhiệm xã hội, nhiều công ty thuộc khu vực kinh tế tư nhân xem trách nhiệm xã hội như là trách nhiệm của họ, hành động với tư cách như những công dân tốt trong xã hội, nhằm bảo đảm rằng những mối quan tâm của xã hội như môi trường, an toàn của khách hàng, an toàn của người lao động sẽ được đề cập, quan tâm một cách thích đáng trong kế hoạch kinh doanh và trong quá trình hoạt động. Tại một số quốc gia, các doanh nghiệp tư nhân thường tuân thủ tốt hơn theo những quy định về mặt môi trường so với các doanh nghiệp nhà nước. Về việc thực hiện các dự án xã hội, ở nhiều quốc gia cho thấy một thực tế là các dự án xã hội thành công thường là các dự án do các tổ chức phi chính phủ thuộc khu vực tư nhân thực hiện, chứ không phải là các dự án do các cơ quan thuộc chính phủ trực tiếp thực hiện. Chẳng hạn như ở Philippine, các dự án cho các doanh nghiệp nhỏ vay vốn do các cơ quan thuộc chính phủ thực hiện có tỷ lệ hoàn trả rất thấp, trong khi đó tỷ lệ hoàn trả này lại tăng lên đáng kể khi chúng được giao cho các tổ chức phi chính phủ của khu vực tư nhân quản lý thực hiện thông qua các hợp đồng. Lý do là khi các tổ chức thuộc chính phủ tổ chức thực hiện thì những người vay vốn thường có ấn tượng rằng họ không thực sự cần thiết phải hoàn trả lại những khoản vốn này vì đây là tiền chính phủ, mà tiền của chính phủ là tiền của mọi người. Tuy nhiên, vấn đề lại hoàn toàn khác khi việc thực hiện dự án do các tổ chức phi chính phủ thuộc khu vực tư nhân thực hiện, người vay cảm thấy mục đích thực sự của dự án và phải đảm bảo chắc chắn rằng những khoản vay của họ sẽ được hoàn trả. Hơn nữa, người đi vay có thể có cảm giác nghĩa vụ do các tổ chức phi chính phủ tạo ra cho họ, những cảm giác mà những nhân viên thuộc chính phủ có thể đã không chỉ rõ cho những người vay thấy. c. Đối với quản lý khu vực công Mặc dù khu vực tư nhân và khu vực công cộng đều có vai trò riêng trong nền kinh tế thị trường, tuy nhiên có rất nhiều công cụ nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động cung cấp dịch vụ công cộng có nguồn gốc ban đầu từ khu vực tư nhân. Tại những quốc gia có sự phối hợp giữa khu vực tư nhân và khu vực công cộng trong việc xây dựng kế hoạch, chính sách phát triển, các viên chức chính phủ thừa nhận rằng các đồng nghiệp ở khu vực tư nhân đã tạo ra những suy nghĩ khách quan, tiến bộ, mới mẻ hơn khi giải quyết các vấn đề. Về mặt bản chất, các viên chức chính phủ thường có xu hướng tương đối thụ động và bảo thủ hơn so với các đồng nghiệp năng động, sáng tạo và cầu tiến hơn ở khu vực tư nhân vốn đã quen với môi trường cạnh tranh bên ngoài. Xét trên một giác độ nào đó tương tự như kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp, nhờ làm việc cùng nhau nên những chính sách và kế hoạch tạo ra sẽ mang tính thực tế và tập trung hơn. Ở phần lớn các nền kinh tế thị trường, doanh nhân thường được mời vào một vị trí tạm thời ở khu vực công, từ đó họ có thể có cơ hội chuyển tải phương pháp làm việc, cách suy nghĩ cho các nhân viên chính phủ. Một trong những khó khăn mà các nhà kế hoạch và hoạch định chính sách trong nền kinh tế thị trường gặp phải là việc dự báo tác động và kết quả của các chính sách vì họ phải dựa trên các phản ứng của khu vực tư nhân đối với các chính sách này. Bằng cách đưa khu vực tư nhân tham gia một cách chủ động vào quá trình hoạch định và xây dựng chính sách, vấn đề khó khăn này sẽ được tối thiểu hoá. Nhờ có sự tham gia của các đại diện khu vực kinh tế tư nhân, chúng ta có thể hình dung được tác động có thể có của một chính sách nhất định xét dưới giác độ phản ứng của khu vực doanh nghiệp. Khu vực tư nhân có thể cung cấp những chỉ dẫn trong việc lựa chọn chính sách, và cũng nhờ có khu vực này mà chính sách mang tính kịp thời và cập nhật hơn. Tham gia của khu vực tư nhân vào việc xây dựng chính sách và giám sát thực hiện cũng đảm bảo việc đạt được các mục tiêu của chính sách đề ra. Việc tham gia hiệu quả của khu vực tư nhân trong việc xây dựng chính sách đòi hỏi khu vực tư nhân phải được tổ chức sao cho những vấn đề cần phải có chính sách mới hay cần phải có sự thay đổi chính sách có thể được thảo luận một cách tự do, độc lập ở khu vực tư nhân và họ có quyền tự do bầu cử cho những người đại diện của họ vào các cơ quan xây dựng chính sách. Sự thành công trong việc tham gia của khu vực tư nhân phụ thuộc vào việc các tổ chức tư nhân này được tổ chức hiệu quả và vững chắc như thế nào. Kinh nghiệm ở các nước cho thấy trình độ giáo dục của chủ doanh nghiệp và quy mô doanh nghiệp không phải là những nhân tố quan trọng đảm bảo tham gia có hiệu quả với tư cách là một đối tác của chính phủ trong hoạt động kế hoạch, xây dựng chính sách và giám sát thực hiện. Một nhân tố quan trọng khác là sự sẵn sàng của các viên chức chính phủ trong việc chia sẻ trách nhiệm với khu vực tư nhân trong quá trình ra quyết định và cung cấp những thông tin cần thiết cho quá trình này. Chính phủ phải thể hiện sự sẵn sàng của mình cho khu vực tư nhân thấy và từ đó các tổ chức của khu vực tư nhân có thể chuẩn bị tinh thần và nhiệt tình tham gia với tư cách như những đối tác ngang bằng trong quá trình hoạch định chính sách. Phát triển kinh tế tư nhân ở một số nền kinh tế chuyển đổi Kinh nghiệm của Hungary Hungary là nước đầu tiên ở Trung Âu thực hiện cải cách kinh tế và chính trị, tiên phong trong số các nước XHCN thực hiện công cuộc cải cách sang nền kinh tế thị trường. Về mặt lịch sử, Hungary đã thực hiện những bước đi đầu tiên trong việc tự do hoá chính sách kinh tế của mình bằng việc đưa ra một “cơ chế kinh tế mới” với nhiều lần thử nghiệm cải cách vào năm 1953, 1956 và 1968. Hungary cũng là nước đầu tiên trong khối Đông Âu thực hiện tư nhân hoá trên cơ sở thị trường (kể cả các khu vực mang tính chiến lược như năng lượng và ngân hàng). Những cải cách khu vực công (y tế, giáo dục) cũng đã bắt đầu được thực hiện. Hai thành quả quan trọng trong thời kỳ chuyển đổi luôn được nhắc tới ở Hungarry là: tư nhân hoá và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Chiến lược tư nhân hoá ở Hungary là bán tài sản của Nhà nước theo nguyên tắc thị trường. Trong giai đoạn 1990-1991 chỉ có 10% tổng số tài sản nhà nước được tư nhân hoá; trong giai đoạn 1992-1994 là hơn 40%. Năm 1989, thị phần của khu vực tư nhân tính theo GDP chỉ chiếm 18%, nhưng tốc độ tư nhân hoá tăng dần lên, đến cuối năm 1993 khu vực kinh tế tư nhân đóng góp 50% GDP và đến cuối năm 1997 là 80%. Và đến cuối những năm 90, quá trình tư nhân hoá coi như đã hoàn thành: tài sản của nhà nước chỉ còn chưa đến 20%, chủ yếu là trong ngành công nghiệp mang tính chiến lược. Chuyển đổi thể chế ở Hungary đã phải trả một giá khá đắt, nhưng đổi lại cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch quan trọng: 62% là dịch vụ, 28% là công nghiệp; 5% là nông nghiệp và phần còn lại là công nghiệp xây dựng. Các ngành mới hình thành như sản xuất ô tô, điện tử..., còn các ngành truyền thống như chế biến thực phẩm thì tiếp tục phát triển. Tư nhân hoá doanh nghiệp nhà nước là yếu tố quan trọng nhất trong chuyển đổi thể chế do nó tạo ra cơ sở vật chất cho kinh tế thị trường, đồng thời tạo ra sự thay đổi tư duy về sở hữu (chuyển từ sở hữu nhà nước sang sở hữu cá nhân). Nhờ có sự thống nhất giữa nhà nước và dân chúng nên quá trình tư nhân hoá ở Hungary diễn ra thuận lợi, không có xung đột gay gắt và kéo theo các chuyển đổi hoà bình khác trong xã hội. Trong số các nước Đông Âu, Hungari là nước thực hiện._. quá trình chuyển đổi sở hữu nhanh và toàn diện hơn cả. Trước năm 1990, hầu hết các phương tiện sản xuất đều nằm trong tay Chính phủ: có 1.850 doanh nghiệp nhà nước với tổng giá trị ghi trên sổ sách vào khoảng 20-25 tỷ USD (khoảng 3000 tỷ HUF theo tỷ giá hiện nay). Năm 1989 -1990, lĩnh vực kinh tế tư nhân của Hungary chỉ đóng góp 10-15% GDP, hiện nay lĩnh vực này đóng góp 70-75% GDP. Tỷ lệ này tương đương với các nước trong Liên minh Châu Âu. Tuy nhiên, quá trình tư nhân hoá ở Hungary không diễn ra đều đặn. Đầu thập kỷ 1990, Hungary đã tiến hành tư nhân hoá những cơ sở kinh doanh nhỏ, sau đó mới tiến hành tư nhân hoá các doanh nghiệp lớn của nhà nước. Kinh nghiệm tư nhân hoá những doanh nghiệp nhỏ đã giúp cho việc tư nhân hoá những doanh nghiệp lớn suôn sẻ. Quá trình chuẩn bị tư nhân hoá những doanh nghiệp lớn được thực hiện tốt do đã lựa chọn được đối tượng có đủ khả năng vật chất để tiếp tục duy trì hoạt động có hiệu quả trên cơ sở đổi mới công nghệ. Việc tư nhân hoá các doanh nghiệp nhà nước lớn được thực hiện từ 1993-1996 (đã tư nhân hoá các doanh nghiệp lớn, ngân hàng, doanh nghiệp ngành năng lượng...). Tư nhân hoá ở Hungary được thực hiện đại trà từ năm 1993 đến 1997. Năm 1994, do có bầu cử và một số thay đổi cơ cấu chính trị nên quá trình tư nhân hoá chậm lại. Đỉnh cao của quá trình tư nhân hoá là năm 1995: 1/3 số doanh nghiệp được tư nhân hoá trong năm 1995, kể cả các ngành chiến lược như điện, năng lượng,.. Chính phủ Hungary đã xây dựng cơ sở pháp lý cho việc tư nhân hoá bằng việc ban hành một số luật. Luật Công ty đảm bảo cơ sở cho các công ty cổ phần và các loại hình công ty khác hoạt động. Năm 1995, Hungary ban hành Luật tư nhân hoá, Luật tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Toàn bộ doanh nghiệp nhà nước của Hungary đều được chuyển sang hoạt động theo Luật công ty trước khi tư nhân hoá. Đồng thời, Công ty Tư nhân hoá và Quản lý Tài sản Nhà nước được thành lập với mục đích đảm bảo môi trường minh bạch cho quá trình tư nhân hoá. Trong những năm đầu thập niên 90, việc quản lý nhà nước đối với tài sản của nhà nước lỏng lẻo, làm thất thoát nhiều tài sản của nhà nước. Từ năm 1992, Nhà nước quy định trong luật những tài sản mình sẽ nắm giữ lâu dài, những doanh nghiệp sẽ tư nhân hoá và những doanh nghiệp không tư nhân hoá trong tương lai gần, những doanh nghiệp Nhà nước sẽ nắm giữ cổ phiếu vàng. Ngoài ra, trong Luật tư nhân hoá còn quy định rõ những quyết định nào của doanh nghiệp phải có ý kiến của chủ sở hữu cổ phiếu vàng Cổ phiếu vàng do nhà nước nắm giữ có một số quyền đặc biệt trong biểu quyết tăng, giảm vốn, thay đổi ngành, nghề kinh doanh, chuyển đổi hình thức pháp lý, chỉ định thành viên Ban giám đốc. , thí dụ như những thay đổi định hướng hoạt động... Từ năm 1992 đến năm 1995, các quy định của Nhà nước đã thay đổi nhiều lần. Nội dung điều chỉnh chủ yếu là những doanh nghiệp Nhà nước cần duy trì mức sở hữu 50%, 60% hay 100%. Đến năm 1995 đã định nghĩa chính xác doanh nghiệp không tư nhân hoá bao gồm một số công ty dịch vụ công cộng, chiến lược hoặc quốc phòng. Hiện nay đã xác định Nhà nước sẽ nắm giữ cổ phần lâu dài trong các công ty điện lực (duy trì mức sở hữu quá bán 51%), công ty bán buôn, bán lẻ dược phẩm, công ty thép và sẽ duy trì lâu dài sở hữu nhà nước trong 3 doanh nghiệp thuộc ngành năng lượng, 3 doanh nghiệp Hàng không, 27 nông trường, 19 lâm trường, 24 doanh nghiệp giao thông liên tỉnh và 1 ngân hàng. Các hình thức tư nhân hoá ở Hungary được quy định rõ trong Luật Tư nhân hoá. Cụ thể là: - Đấu thầu công khai là hình thức chủ yếu được áp dụng. Hơn 90% tài sản nhà nước được tư nhân hoá thông qua đấu thầu công khai. Nhờ đó đã đạt được tính chất minh bạch rõ ràng. Trên thực tế, việc tư nhân hoá những công ty lớn được thực hiện thông qua hình thức đấu thầu để lựa chọn đối tác đầu tư. - Thông báo bán công khai: các điều kiện bán được thông báo để người mua quan tâm biết. - Bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán: một phần nhỏ doanh nghiệp áp dụng hình thức này. Một thành quả lớn là có doanh nghiệp được đưa ra bán trên thị trường chứng khoán London và Nĩu Ước. Khi mới bắt đầu tư nhân hoá thông qua thị trường chứng khoán (1995), các tổ chức môi giới hưởng tỷ lệ 5 -10% hoa hồng, đến năm 1999 tỷ lệ này giảm xuống còn 1 - 1,5%. - Bán cho nhà đầu tư chiến lược: hình thức này áp dụng đối với những doanh nghiệp có tầm quan trọng về quốc phòng hoặc chính trị đặc biệt hoặc có nguy cơ sẽ có đối thủ cạnh tranh mua lại nhằm mục đích thôn tính, chiếm lĩnh thị trường. Chỉ có 1 - 2 trường hợp thông qua mời thầu (an ninh, quốc phòng). - Bán gọn, bán trả góp, khoán, cho thuê lâu dài đối với các nhà quản lý và tập thể cán bộ công nhân viên doanh nghiệp đối với một số doanh nghiệp nhỏ: hình thức này không thành công nên không phổ biến. Hungari không áp dụng hình thức cho không tài sản, trừ trường hợp di chuyển tài sản từ trung ương cho chính quyền địa phương. Hungary không dùng phiếu chứng nhận (voucher) như ở các nước Tiệp Khắc, Ba Lan là đúng đắn vì đây chỉ là biện pháp phân chia lại tài sản của nhà nước, không phải là hình thức tư nhân hoá mang lại hiệu quả. Ý đồ của các nhà chính trị ở Hungary là chuyển tài sản vào tay những người có vốn và tiếp tục sử dụng tài sản đó vào sản xuất kinh doanh. - Phiếu đền bù: chủ yếu được phát hành cho những người bị thiệt hại trong thời kỳ xã hội chủ nghĩa, được lấy từ khoản thu do tư nhân hoá. Trong Luật tư nhân hoá quy định các đối tượng không được phép tham gia mua cổ phần, nhưng về cơ bản không hạn chế đối tượng mua cổ phần. Do quá khứ thời kỳ XHCN trước đây nên không có tư sản tư nhân nội địa để tham gia mua tài sản này. Do người Hungary nghèo nên chỉ tham gia những lĩnh vực yêu cầu ít vốn như thương nghiệp bán lẻ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Không những thế, những doanh nghiệp này chỉ có khả năng tồn tại chứ không thể đổi mới công nghệ do thiếu vốn. Hungary không có chiến lược quá ưu đãi cho người mua nội địa thông qua phiếu đền bù và tín dụng ngân hàng. Kinh nghiệm cho thấy các nhà đầu tư nhận ưu đãi lớn khi tư nhân hoá thì cũng không đủ vốn đầu tư tiếp để phát triển sản xuất và cuối cùng sẽ dẫn đến phá sản hoặc phải bán lại cho nhà đầu tư khác để thu chênh lệch. Hungary có các chương trình cổ phần hoá cho người lao động nhưng thực ra quy mô không lớn vì tư nhân hoá nhằm mục tiêu hiệu quả và chọn đối tượng có vốn nhiều nhất. Theo Luật tư nhân hoá có cơ cấu ưu đãi đối với đối tượng người lao động trong công ty: được mua không quá 15% tổng số cổ phiếu (có cách tính riêng), tính trên đầu người lao động thì cổ phiếu được mua bằng 5 lần lương hàng năm nhưng mức ưu đãi không quá 50% giá mua. Đối với cán bộ quản lý, thu nhập từ quản lý doanh nghiệp thường không đủ để họ tham gia đấu thầu. Không những thế, cán bộ lãnh đạo của doanh nghiệp thường thay đổi trong vòng 5 năm. Do không có tư nhân trong nước đủ lớn để mua lại doanh nghiệp nhà nước nên đối tượng mua các doanh nghiệp nhà nước lớn hầu hết là người nước ngoài. Doanh nghiệp lớn cần lượng vốn lớn để đầu tư đổi mới trang thiết bị và chỉ có người nước ngoài mới có đủ điều kiện, do đó Hungary khuyến khích người nước ngoài tham gia cổ phần hoá. Hạn chế đối với người nước ngoài tham gia mua doanh nghiệp không đáng kể. Trong một số trường hợp, sức cạnh tranh nhà đầu tư nước ngoài bị thua kém; đó là các trường hợp cho phép người tham gia đấu thầu được thanh toán bằng phiếu đền bù nhằm tạo thế lợi cho người nội địa. Đây chính là hạn chế đối với người nước ngoài. Hạn chế quan trọng nhất đối với người nước ngoài là sở hữu đất. Kinh nghiệm cho thấy, hạn chế mua cổ phiếu đối với người nước ngoài chỉ có tác dụng lúc ban đầu. Những ưu đãi đối với các nhà đầu tư nội địa sẽ được chuyển sang cho người nước ngoài với giá cao hơn. Về mặt trị giá, khoảng 60-62% tài sản DNNN được cổ phần hoá cho người nước ngoài. Sản xuất của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 30% GDP. Trong lĩnh vực năng lượng khí đốt, sở hữu nước ngoài chiếm đa số; trong ngành chế biến đường, bánh ngọt, thịt và viễn thông - chiếm 3/4; trong Công ty dầu khí thì 25% sở hữu nhà nước còn 75% do quỹ đầu tư nước ngoài nắm giữ; bảo hiểm, ngân hàng cũng là ngành có nhiều sở hữu nước ngoài. Trong ngân hàng, nhà nước chỉ giữ 1 cổ phiếu vàng. Tuy nhiên, trong quá trình tư nhân hoá ở Hungary nổi lên một vấn đề quan trọng là nợ lẫn nhau giữa các doanh nghiệp nhà nước và nợ ngân hàng rất lớn. Cuối những năm 80 xuất khẩu sang Liên xô giảm đột ngột, thương mại được tự do hoá. Các doanh nghiệp vừa bị mất thị trường khối SEV, vừa bị mất thị trường nội địa. Doanh nghiệp buộc phải vay ngân hàng với bất kỳ giá nào, trong khi đó ngân hàng còn chưa có kinh nghiệm đánh giá khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Từ đó bắt đầu hình thành dây chuyền nợ lẫn nhau và nợ ngân hàng. Trên sổ sách, ngân hàng lãi rất lớn, ngân sách thu thuế trên cơ sở lãi của ngân hàng nhưng thực tế thì ngân hàng không thu được khoản lãi đó. Nhu cầu thay đổi cơ cấu phát sinh và đòi hỏi phải phát hành thêm tiền với khối lượng lớn. Nhờ có luật phá sản Hungari đã tránh được lạm phát phi mã từ sức ép phát hành tiền. Quốc hội Hungary đã ban hành Luật phá sản từ trước, nhưng năm 1992 thì sửa đổi, bổ sung thêm. Theo Luật phá sản cũ, doanh nghiệp không bị phá sản nếu chủ nợ không yêu cầu toà án tiến hành các thủ tục phá sản. Luật phá sản mới của Hungary được coi là một trong những luật phá sản nghiêm khắc nhất. Nếu quá thời hạn thanh toán 90 ngày mà doanh nghiệp vẫn không trả được nợ thì toà án có quyền tự tiến hành thủ tục phá sản. Luật này đã có tác động lớn tới việc tư nhân hoá sau này. Trong khoảng thời gian 1992-1995 hàng ngàn doanh nghiệp nhà nước bị phá sản trước khi tư nhân hoá, trên thị trường chỉ còn tồn tại những doanh nghiệp có khả năng hoạt động được đem ra tư nhân hoá. Các doanh nghiệp đưa ra tư nhân hoá đã được các nhà đầu tư nước ngoài chấp nhận và mua hàng loạt. Nhà nước không trực tiếp can thiệp giải quyết nợ của các doanh nghiệp mà xử lý nợ ngân hàng của doanh nghiệp. Thông qua giải quyết nợ ngân hàng thì nợ của doanh nghiệp cũng được giải quyết. Nhà nước đã phát hành trái phiếu ghi nợ dài hạn 20 năm theo lãi suất thị trường đối với ngân hàng. Đã sử dụng khoản tiền khoảng 1000 tỉ Ft ( khoảng 10% GDP) cho mục đích này. Một phần trong số tiền này được thu lại nhờ tư nhân hoá cho người nước ngoài. Nhờ quá trình tư nhân hoá trên cơ sở thị trường, công cuộc cải cách kinh tế ở Hungary đã thành công và hiệu quả, cụ thể là: - Trong số 1850 doanh nghiệp nhà nước trước đây thì 17% đã phá sản, 5% đã giải thể, 78% tư nhân hoá. Do sự thay đổi cơ cấu kinh tế nên 25% doanh nghiệp không có khả năng tồn tại. 64% tư nhân hoá cho các chủ sở hữu nước ngoài thu bằng ngoại tệ, 19% tư nhân hoá cho tư sản nội địa bằng tiền mặt và 5% bằng phiếu đền bù, còn lại là tín dụng ngân hàng. - Xét về tài sản thì tổng cộng có 46% tài sản đã tư nhân hoá, 43% tài sản không có ý định tư nhân hoá, 9% diện tích đất đai trong sở hữu nhà nước hiện nay chưa thể tư nhân hoá, 2% thiết bị phương tiện chưa tư nhân hoá. - Xét theo ngành thì gần 100% doanh nghiệp nhà nước trong ngành công nghiệp và thương mại, 80% trong ngành cung cấp năng lượng và 80% trong ngành ngân hàng đã được tư nhân hoá. Sản xuất điện đã được tư nhân hoá, mặc dù đây là ngành sản xuất mang tính chiến lược của nền kinh tế quốc dân vì nếu không tư nhân hoá thì không có vốn để đầu tư phát triển tiếp được. Vào giữa thập kỷ 1990, việc tư nhân hoá các doanh nghiệp ngành năng lượng diễn ra mạnh mẽ và sau khi tư nhân hoá, nhà nước chỉ còn giữ lại 15% doanh nghiệp không tư nhân hoá. - Tư nhân hoá đã có tác động mạnh mẽ là nhiều nguồn đầu tư xuất hiện sau tư nhân hoá, cụ thể là có 26 tỷ USD đã đầu tư vào sản xuất trực tiếp, trong đó 40% đầu tư qua tư nhân hoá. - Mất mát tài sản qua tư nhân hoá được đánh giá vào khoảng 50%. - Thu nhập từ tư nhân hoá là 14 tỷ USD, trong đó 70% được đưa vào ngân sách nhà nước; góp phần giải quyết vấn đề thâm hụt ngân sách; 8 - 10% đền bù chính trị; 8 - 10% để bù đắp chi phí cho quá trình tư nhân hoá (cho bộ máy làm việc, chuyên viên,...); 1-1,5 % trả tiền hoa hồng môi giới chứng khoán (nếu bán cổ phiếu qua thị trường chứng khoán); 5-8% đưa vào phục hồi sản xuất của doanh nghiệp để nâng cao sức cạnh tranh. Kinh nghiệm của Trung Quốc Việt Nam và Trung Quốc đang trong quá trình thực hiện công cuộc cải cách toàn diện nền kinh tế, chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường; thực hiện chính sách mở cửa với nhiều đặc điểm phát triển và vấn đề tương tự nhau; đang trong giai đoạn phát triển thị trường, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý. Với lợi thế là nước tiến hành cải cách sau, Việt Nam có cơ hội để học tập và tận dụng những bài học thành công và không thành công của Trung Quốc, tránh những tác động tiêu cực có thể nảy sinh trong quá trình chuyển đổi. a. Quá trình phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở Trung Quốc Sau ngày thành lập nước, Trung Quốc đã nhanh chóng hình thành nên một khu vực kinh tế nhà nước lớn mạnh với sự giúp đỡ của Liên Xô cũ. Vào năm 1949, doanh nghiệp tư nhân chiếm 63,3% sản lượng công nghiệp nhưng đến năm 1952, tỷ lệ này đã nhanh chóng giảm xuống còn 39%. Trong thời gian đó, chính phủ đã kiểm soát khu vực tư nhân thông quan biện pháp quốc hữu hoá. Đến năm 1952, 56% sản phẩm đầu ra của khu vực tư nhân là theo đặt hàng của nhà nước hay được tiêu thụ thông qua nhà nước. Bên cạnh đó, một vài doanh nghiệp tư nhân cũng đã chuyển sang hình thức công tư hợp doanh. Năm 1952, sản lượng của khu vực tư nhân chiếm 5,7% tổng sản lượng quốc dân. Năm 1953, trong Đường lối chung cho thời kỳ quá độ, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đưa ra một lịch trình hoàn thành việc cải tạo xã hội chủ nghĩa các doanh nghiệp tư nhân và hộ thủ công trong vòng 15 năm. Vào lúc đó, lịch trình trên là rất khả thi và đã nhanh chóng được đẩy mạnh, nhưng cũng đã nhanh chóng kết thúc vào năm 1956. Sau Đại nhảy vọt, chính quyền trung ương lại mở cánh cửa cho các doanh nghiệp cá thể quy mô nhỏ, bao gồm cả hộ thủ công, nhưng doanh nghiệp tư nhân vẫn chưa được xem xét đến (cho tới tận năm 1988). Tuy nhiên tất cả đã phải đóng cửa khi Cách mạng văn hoá bùng nổ năm 1966. Kinh tế tư nhân không tồn tại trong giai đoạn từ 1966 đến 1979. Sau những cải cách ở khu vực nông thôn cuối năm 1978, khu vực tư nhân đã lại xuất hiện. Tuy nhiên, cuộc cải cách này, cũng như hầu hết những cải cách gần đây tại Trung Quốc, không hẳn đã được nhìn nhận trước một cách thấu đáo mà đúng hơn là được thực hiện dưới áp lực về kinh tế và những tác động mang tính lịch sử khác. Ở khu vực nông thôn, kinh tế tư nhân cũng đã phát triển mạnh sau những cải cách thể chế mà trong đó cơ chế khoán theo hợp đồng được thực hiện. Những thay đổi này đã tạo ra động lực khuyến khích nông dân làm ăn và sản lượng nông nghiệp theo đó cũng tăng lên. Đồng thời với sự phát triển nhanh chóng đó, nhiều hộ gia đình ở nông thôn đã trở nên giàu có. Tuy nhiên, ngay từ giai đoạn đầu của cải cách quan trọng này, lao động nông nghiệp đã trở nên dư thừa với mức đáng báo động. Hai yếu tố trên đã kéo các doanh nghiệp tư nhân quay về khu vực nông thôn. Ở các thành phố, sự trỗi dậy của kinh tế tư nhân cũng do áp lực giải quyết nạn thất nghiệp trong thanh niên thành thị đang đè nặng lên vai chính phủ. Cuối những năm 70, đầu 80, hàng triệu thanh niên trước đây đi về các vùng nông thôn trong cách mạng văn hoá nay quay trở lại thành phố. Việc làm cho những thanh niên này thực sự trở thành một gánh nặng cho chính phủ. Chính phủ đã khuyến khích thanh niên tự tạo việc làm bên cạnh việc tìm những công việc chính thức khác. Sau đó, một thành phần đặc biệt đã ra đời: hộ cá thể. Trong những năm 80, hộ cá thể đã phát triển lớn mạnh và nhanh chóng đạt con số 23,05 triệu, chiếm 10% tổng lao động phi nông nghiệp trong toàn quốc. Có được sự lớn mạnh nhanh chóng trên là do: Thứ nhất, cải cách ở khu vực thành thị đã cho ra đời hệ thống hai giá mà nhờ đó rất nhiều nguồn lực được đưa vào thị trường. Được hưởng lợi nhiều nhất là những người dân ở khu vực nông thôn. Lần đầu tiên sau hơn hai mươi năm họ có thể có các nguyên liệu đầu vào quan trọng mặc dù phải trả giá cao hơn. Động lực này đã giúp các hộ cá thể phát triển; Thứ hai, cải cách ở khu vực nông thôn đã mang lại nhiều lợi ích to lớn cho nông dân, cung cấp vốn ban đầu cần thiết cho kinh tế tư nhân ở nông thôn; Cuối cùng, cầu về các hàng hoá thiết yếu như thực phẩm, hàng may mặc, các hàng hoá tiêu dùng khác cũng tăng lên do sức mua của người dân ở cả thành thị và nông thôn đều tăng lên. Cộng thêm việc nguồn cung rất hạn chế do hậu quả của quá trình phát triển dựa trên công nghiệp nặng để lại nên một thị trường rộng lớn đã mở ra cho hộ cá thể phát triển. Sự phát triển của hộ cá thể đầu những năm 1980 đã đặt nền móng vững chắc cho sự xuất hiện chính thức của doanh nghiệp tư nhân năm 1988. Trước năm 1988, rất nhiều hộ cá thể có thể được coi là doanh nghiệp tư nhân nếu xét dưới góc độ lao động. Theo kết quả điều tra của một nhóm nghiên cứu thuộc Hội đồng nhà nước trong 300 làng tiến hành năm 1987, có 0,2% hộ nông dân thuê trên 8 nhân trong năm 1986. Như vậy có thể ước tính rằng cuối năm 1988 đã có khoảng 500.000 hộ cá thể có thể coi là doanh nghiệp tư nhân. Bên cạnh đó còn rất nhiều doanh nghiệp tập thể nhưng thực chất là sở hữu tư nhân. Đó là những “doanh nghiệp đội mũ đỏ” với mục đích núp dưới danh nghĩa tập thể để tránh những ngăn cấm từ phía chính phủ và những phân biệt về mặt tư tưởng hệ. Loại doanh nghiệp này vẫn tiếp tục tồn tại ngay cả khi quá trình tư nhân hoá đang diễn ra mạnh mẽ và rộng khắp. Mặc dù không có số liệu chính thức nhưng hầu hết các doanh nghiệp cấp làng ở Thuận Đức là doanh nghiệp mũ đỏ trước khi chương trình tư nhân hoá được thực hiện năm 1992. Ngoài ra còn có rất nhiều doanh nghiệp tập thể cho tư nhân thuê để hoạt động. Con số này ở Hà Bắc, Thiên Tân, Liêu Ninh và Ninh Hạ năm 1984 là 18,6%, 30%, 40% and 50%. Sau khi trả một khoản tiền thuê, tư nhân có thể điều hành doanh nghiệp như doanh nghiệp của chính mình và có thể tích luỹ được những khoản tiền đáng kể. Dần dần, tỷ lệ tài sản của tập thể trong doanh nghiệp giảm xuống và doanh nghiệp sẽ chuyển thành sở hữu tư nhân. Cuối năm 1989, số lượng doanh nghiệp tư nhân đã đăng ký là 90.600. Sự kiện Thiên An Môn năm 1989 gây ra một bước thụt lùi cho khu vực tư nhân vì sau đó chính quyền đã có nhiều những chính sách mang tính bảo thủ. Số lượng hộ cá thể giảm từ 23,05 triệu cuối năm 1988 xuống 19,41 triệu cuối năm 1989; số lượng doanh nghiệp tư nhân cũng giảm từ 90.600 cuối năm 1989 xuống 88.000 tháng 6 năm 1990. Ở Hà Nam, số lượng doanh nghiệp tư nhân giảm 23% trong thời kỳ 1989 - 1991. Xu hướng này chỉ dừng lại sau chuyến công tác nổi tiếng của Đặng Tiểu Bình xuống phía Nam mà tại đó ông đã kêu gọi tiếp tục các nỗ lực cải cách. Cuối năm 1992, số lượng hộ cá thể và doanh nghiệp tư nhân đã là 26,99 triệu và 139.600. Giai đoạn 1992 - 1994 là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của các doanh nghiệp tư nhân. Trên thực tế, khu vực tư nhân đã thực sự cho doanh nghiệp nhà nước thấy tính hiệu quả của sở hữu tư nhân. b. Tư nhân hoá và sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân Có thể nói thay đổi quan trọng nhất trong nền kinh tế Trung Quốc những năm 90 là việc tư nhân hoá. Theo thống kê, 80% doanh nghiệp do nhà nước sở hữu từ cấp huyện trở xuống đã được tư nhân hoá. Các chương trình tư nhân hoá đều do chính quyền địa phương khởi xướng với lý do quan trọng nhất là số nợ của khu vực nhà nước đang dần lớn lên. Năm 1995, chính quyền trung ương sau nhiều lần khảo sát điều tra đã đưa ra chính sách “nắm lớn, thả nhỏ” theo đó nhà nước chỉ chú trọng vào từ 500 đến 1000 doanh nghiệp lớn và cho thuê hoặc bán các doanh nghiệp nhỏ hơn. Đến năm 1997, 500 doanh nghiệp nhà nước lớn nhất đã nắm giữ 37% tài sản của các doanh nghiệp công nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, nộp 46% tổng số thuế các doanh nghiệp nhà nước phải nộp và chiếm 63% tổng lợi nhuận trong khu vực nhà nước. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ hơn do các chính quyền địa phương nắm giữ lại rất thấp. Năm 1995, chỉ có 24,3% doanh nghiệp trung ương là đội mũ đỏ trong khi đó có tới 72,5% doanh nghiệp địa phương đội mũ đỏ. Từ chính sách “thả nhỏ” đã xuất hiện thuật ngữ “thay đổi sở hữu”. Kể từ năm 1994, thuật ngữ này đã trở nên phổ biến trên toàn đất nước. Nội dung của “thay đổi sở hữu” bao hàm cả khoán và cho thuê, hai biện pháp được sử dụng trước đây, và các biện pháp như bán, chuyển thành công ty do người lao động nắm giữ hay chuyển thành hợp tác xã. Chính sách này đã có tác động trực tiếp tới các doanh nghiệp mũ đỏ. Với quyết tâm loại bỏ hoàn toàn những doanh nghiệp kiểu này, tháng 3 năm 1998 Quốc Vụ Viện đã ban hành một chỉ thị trong đó yêu cầu tất cả các doanh nghiệp mũ đỏ phải “lột mũ” muộn nhất là đến tháng 11 năm 1998. Tuy nhiên, không phải tất cả các địa phương đều có sự chuẩn bị tốt cho việc chuyển đổi sở hữu. Nhiều doanh nghiệp chỉ đơn thuần là thay đổi tên gọi. Điều này đặc biệt đúng đối với doanh nghiệp do người lao động nắm giữ cổ phần. Các doanh nghiệp này vẫn được coi là doanh nghiệp tập thể và chính quyền địa phương vẫn can thiệp vào hoạt động của chúng. Ở đây xuất hiện vấn đề thay đổi chức năng của các cơ quan công quyền. Như vậy, nếu chỉ có tư nhân hoá mà không có sự thay đổi vai trò của cơ quan công quyền thì sẽ là chưa đủ để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế. c. Đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế Trung Quốc Khu vực tư nhân, bao gồm hộ cá thể và doanh nghiệp tư nhân, có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế Trung Quốc. Trước năm 1991, chỉ tính riêng hộ cá thể. Từ năm 1991, tính cả hộ cá thể và các doanh nghiệp tư nhân. Nguồn: Yearbook of China Industrial and Commerce Administrative Management, 1992 - 2001, and The Economic Yearbook of China, 1982 - 2001. * Tỷ lệ phần trăm lao động trong khu vực kinh tế tư nhân trong tổng số lao động phi nông nghiệp. Do có sự phân loại mới từ năm 1995, nên có sự tăng giả tạo từ năm 1996 và không thể so sánh tỷ phần trong năm 1996 và 1997 với các năm trước đó. Trước năm 1991, chỉ tính hộ cá thể; sau năm 1991, tính cả hộ cá thể và doanh nghiệp tư nhân. Nguồn: Yearbook of China Industrial and Commerce Administrative Management, 1992 - 2001, and The Economic Yearbook of China, 1982 - 2001. Từ Hình 1 cho thấy lượng lao động giảm mạnh trong giai đoạn 1989 - 1991 cũng đã tăng trưởng khá nhanh. Đến năm 2000, tổng lao động là 74,7 triệu. Trước năm 1985, sản lượng công nghiệp của khu vực tư nhân chiếm tỷ lệ không đáng kể trong tổng sản lượng công nghiệp mặc dù lao động trong khu vực này đã chiếm khoảng 2% tổng lao động phi nông nghiệp năm 1981. Đến năm 1985 tỷ lệ đó đã là 2%. Và đến năm 1999, lao động phi nông nghiệp chiếm 23,5%, sản lượng công nghiệp chiếm 38,8% (Hình 2). Như vậy là sản lượng công nghiệp của khu vực tư nhân đã tăng với tốc độ chóng mặt trong thời gian 20 năm qua, đạt con số 5.800 tỷ NDT (tính theo giá năm 1995) vào năm 1999. Những con số nói trên cho thấy khu vực tư nhân Trung Quốc đã phát triển thành một thành phần quan trọng trong nền kinh tế Trung Quốc. Tỷ lệ GDP của khu vực phi nhà nước đạt 71% trong đó doanh nghiệp tập thể chiếm 30%. Hơn 40% còn lại do khu vực tư nhân trong nước và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp. Mặc dù đạt được con số như vậy nhưng khu vực tư nhân chỉ được sử dụng lượng tài nguyên rất ít ỏi. Trong giai đoạn 1991 - 1997, đầu tư của khu vực tư nhân chiếm khoảng 15 - 27% nhưng việc vay vốn lại gặp nhiều khó khăn, lượng vốn vay chỉ chiếm khoảng 0,87% tổng vốn các ngân hàng cho vay (trong năm 1997). Rõ ràng là đạt được những bước tiến dài với sự hạn chế về nhiều mặt như tiếp cận vốn, tài nguyên là một đặc điểm nổi bật của khu vực tư nhân Trung Quốc trong những năm 90. d. Một số vấn đề cần tiếp tục được giải quyết trong phát triển kinh tế tư nhân ở Trung Quốc * Về tài chính Có 3 cách để các doanh nghiệp tư nhân tiếp cận các nguồn tài chính: vay phi chính thức, vay từ các ngân hàng, và huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Vay phi chính thức cho đến nay vẫn là kênh huy động vốn chủ yếu cho các doanh nghiệp tư nhân ở Trung Quốc. Kết quả một cuộc khảo sát 500 công ty ở 6 thành phố năm 1999 cho thấy, trong 3 năm gần đây, chỉ có 33% số công ty vay vốn từ ngân hàng. Điều này có nghĩa là rất nhiều công ty dựa vào nguồn vốn phi chính thức để hoạt động kinh doanh và đầu tư tài chính. Vay vốn phi chính thức là cách huy động vốn ưa chuộng nhất đối với các doanh nghiệp tư nhân nhỏ. Ưu điểm quan trọng nhất của nó là thuận lợi và nhanh chóng. Trong những năm tới, vay phi chính thức vẫn sẽ là nguồn tài chính chủ yếu cho các doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, những quy định pháp luật của Trung Quốc trong việc điều chỉnh hoạt động vay mượn phi chính thức hiện lại rất thiếu. Ví dụ, các quỹ tiết kiệm sử dụng luân phiên quy mô nhỏ thì được phép tồn tại, nhưng lớn thì không. Quỹ tiết kiệm quay vòng quy mô lớn thực chất có thể gây ra những vấn đề về tài chính, ổn định xã hội và cần phải có quy định điều chỉnh. Vấn đề chính là chưa xác định được rõ ràng phạm vi “quyền” của quỹ tiết kiệm quay vòng này. Ở Trung quốc, nguồn tín dụng chính thức dành cho doanh nghiệp tư nhân rất hạn chế, dưới 20% tổng vốn cho vay của 4 ngân hàng nhà nước lớn. Mặc dù về mặt văn bản không có sự phân biệt lớn và trong nhiều trường hợp còn khuyến khích cho vay đối với doanh nghiệp tư nhân, nhưng trên thực tế vẫn còn thái độ phân biệt doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Doanh nghiệp nhà nước không trả nợ đúng hạn thì tiền vẫn nằm trong tay nhà nước, còn đối với doanh nghiệp tư nhân thì trong trường hợp này tiền nằm trong tay chủ doanh nghiệp. Do đó ngân hàng cho rằng rủi ro khi cho doanh nghiệp nhà nước vay thấp hơn so với doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất đối với doanh nghiệp tư nhân trong việc tiếp cận các nguồn vốn tín dụng chính thức không phải là sự phân biệt nói trên mà quy mô doanh nghiệp nhỏ và tính phi chính thức. Một điều dễ nhận thấy là sự tiếp cận các khoản vay ngân hàng có liên quan đến quy mô doanh nghiệp. Trong cuộc điều tra 500 doanh nghiệp nói trên, kết quả cho thấy chỉ 17% số doanh nghiệp có 50 lao động hoặc ít hơn có vay vốn ngân hàng, trong khi đó 83% số doanh nghiệp có hơn 500 lao động vay vốn ngân hàng. Một cuộc điều tra khác tiến hành năm 1996 cho kết quả tương tự: năm 1995, khoảng 38% số doanh nghiệp có ít hơn 30 lao động vay tiền từ ngân hàng cho hoạt động kinh doanh và 33% vay vốn đầu tư ban đầu, nhưng toàn bộ các doanh nghiệp nhiều hơn 200 lao động có vay tiền kinh doanh và 50% doanh nghiệp vay vốn đầu tư ban đầu. Xét về mặt kinh tế, hoàn toàn có lý khi ngân hàng không cho doanh nghiệp nhỏ vay. Lý do trước hết là số tiền vay quá nhỏ để ngân hàng có thể kiếm lời từ đó. Hơn nữa, chi phí để ngân hàng thu thập thông tin về doanh nghiệp nhỏ đôi khi lại lớn hơn so với doanh nghiệp lớn. Các công ty lớn ghi chép tài chính tốt hơn và ít làm giả tài liệu vì cần giữ uy tín. Ngược lại, các doanh nghiệp nhỏ thường không ghi chép sổ sách kế toán đầy đủ và hay làm sai lệch số liệu. Do đó một trong những lý do doanh nghiệp tư nhân lớn tiếp cận nguồn vay ngân hàng dễ hơn so với doanh nghiệp nhà nước là chúng có ghi chép sổ sách tốt. Đối với các công ty đang phát triển thì khó khăn của họ không phải là tài chính cho hoạt động hàng ngày mà là cho việc mở rộng phạm vi và quy mô kinh doanh. Dưới góc độ này thì thị trường vốn dường như quan trọng hơn các khoản vay của ngân hàng nếu muốn tăng nhanh tốc độ phát triển khu vực tư nhân nhưng cho tới nay Trung Quốc mới có hai thị trường chứng khoán và doanh nghiệp tư nhân lại không được phép tham gia. Quy định đó tuy đã được xoá bỏ năm 2000 nhưng thị trường chứng khoán vẫn chủ yếu dành cho doanh nghiệp nhà nước. Sẽ là phi thực tế nếu chỉ dựa vào thị trường chứng khoán để giải quyết vấn đề vốn cho các doanh nghiệp tư nhân. Cách đây vài năm, cũng đã từng có rải rác ở một vài địa phương thị trường chứng khoán giao ngay cho các doanh nghiệp địa phương, tuy nhiên những thị trường này đã tan rã ngay sau khi hiệp hội tín dụng địa phương ngừng hoạt động. Xét trên khía cạnh quốc tế thì chưa nước nào có nhiều kinh nghiệm về việc giải quyết vấn đề tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ. Ở một nước rộng lớn như Trung Quốc, thị trường chứng khoán địa phương có thể xem là một giải pháp tốt. Tóm lại, các công ty tư nhân ở Trung Quốc chủ yếu phụ thuộc vào thị trường vốn phi chính thức cho hoạt động kinh doanh của mình. Có sự không tương xứng giữa những đóng góp vào nền kinh tế với việc phân phối nguồn lực tài chính: trong khi đóng góp của khu vực ngoài nhà nước chiếm gần 2/3 GDP thì tỷ lệ vay vốn từ ngân hàng của khu vực này chỉ chiếm 20%. Cho dù nguồn vốn thiếu hụt đó được tạo ra thông qua vay mượn trên thị trường phi chính thức đi chăng nữa cũng vẫn cần phải củng cố lại vai trò của Chính phủ. * Tính phi chính thức của doanh nghiệp tư nhân Nếu có sự cản trở tiềm năng phát triển doanh nghiệp tư nhân ở Trung quốc thì đó chính là tính phi chính thức của khu vực này. Tính phi chính thức rất đa dạng, dưới nhiều góc độ và hậu quả của nó cũng rất nặng nề. Trước hết, các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ không thực hiện ghi chép sổ sách kế toán đầy đủ. Nhiều trường hợp, doanh nghiệp tư nhân cố ý sử dụng mánh khoé trong việc ghi chép và lưu giữ nhiều loại sổ sách kế toán: một cho chủ doanh nghiệp, một để tính thuế, và một cho ngân hàng. Thông tin cho chủ doanh nghiệp là thực ghi, bộ sổ sách thứ hai nhằm giảm thu nhập và lợi tức của công ty và bộ thứ ba lại nhằm thổi phồng mình. Thực tế này đã tạo ra tính không chắc chắn cho bên thứ ba đối với thông tin về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Trong trường hợp công ty có nhu cầu vay vốn bên ngoài thì ngân hàng lại do dự khi cấp các khoản vay cho họ cho dù họ có cung cấp thông tin thật bởi vì ngân hàng biết rằng phần lớn DNV&N không tiết lộ thông tin thật. Thậm chí nếu ngân hàng rất sẵn lòng cho vay thì chi phí liên quan đến việc xác định chính xác thông tin tài chính của doanh nghiệp cũng rất cao. Thứ hai, doanh nghiệp tư nhân dường như không có ý thức tuân thủ pháp luật. Ví dụ, có rất nhiều doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ đã đăng ký bảo hộ t._.g lực, có ý chi vươn lên. b. Đánh giá công bằng và thoả đáng đối với cả các mặt tích cực và tiêu cực Kinh nghiệm thực tế cho thấy bên cạnh những thành tựu về phát triển kinh tế xã hội, nâng cao mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thì hàng loạt các hiện tượng tiêu cực, tệ nạn xã hội đã xuất hiện với quy mô ngày càng lớn hơn. Liên quan đến kinh doanh, hiện tượng tiêu cực phổ biến là: trốn lậu thuế, lợi dụng hoá đơn thuế giá trị gia tăng để trục lợi, hối hộ làm hư hỏng cán bộ nhà nước, chứa chấp mại dâm, buôn lậu, gian lận thương mại, buôn bán hàng giả v.v... Các hiện tượng nói trên rất đáng bị phê phán và trừng trị theo pháp luật. Tuy vậy, khi phê phán các hiện tượng nói trên cần: (i) tránh khuynh hướng áp đặt, chủ quan, kinh tế thị trường, kinh tế tư nhân là nguyên nhân gây nên các hiện tượng tiêu cực nói trên; không thể coi các hiện tượng đó là căn bệnh cố hữu trong doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân, chỉ xảy ra trong các doanh nghiệp đó; doanh nghiệp nhà nước, công chức nhà nước, nếu có vi phạm, thì cũng do doanh nghiệp của tư nhân lôi kéo v.v... (ii) Khi phát hiện các hiện tượng tiêu vực nói trên, thì cần nêu rõ và cụ thể đối tượng vi phạm, hành vi vi phạm, nguyên nhân dẫn đến các sai phạm, hậu quả của những sai phạm đó để mọi người có liên quan hiểu và cùng rút được kinh nghiệm cho bản thân. 3.3.3 Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch cùng với cơ chế, chính sách để định hướng, dẫn dắt sự phát triển của kinh tế tư nhân Trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của nền kinh tế, của từng ngành, từng địa bàn, cần xác định rõ hướng phát triển với các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân. Đi liền với chiến lược, quy hoạch, cần có cơ chế, chính sách để tạo động lực hoặc hỗ trợ phát triển theo định hướng. Khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển mạnh, lâu dài, bền vững, có hiệu quả và không hạn chế trong suốt quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây dưng CNXH; phát triển rộng rãi trong những ngành nghề, lĩnh vực có lợi cho quốc kế dân sinh (trừ một số lĩnh vực nhà nước cần giữ độc quyền) và tham gia vào những ngành nghề, lĩnh vực then chốt mà doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí chi phối. Mở rộng ngành nghề kinh doanh, nhất là những ngành nghề, lĩnh vực kinh tế tư nhân có nhiều lợi thế trên từng địa bàn cũng như trong phạm vi cả nước; chú trọng đầu tư nhiều hơn vào khu vực sản xuất, đi liền với biện pháp bảo vệ môi trường; đẩy mạnh sản xuất sản phẩm xuất khẩu và đầu tư kinh doanh ra nước ngoài. Phát triển kinh tế tư nhân dưới nhiều hình thức tổ chức kinh doanh phù hợp với nhiều trình độ và tập quán, tâm lý của người kinh doanh và do người kinh doanh tự lựa chọn, quyết định theo pháp luật: từ đơn giản, không đăng ký kinh doanh đến các hình thức hộ kinh doanh có đăng ký, các loại hình doanh nghiệp, công ty, không hạn chế số lao động làm việc, số địa điểm kinh doanh; thuận lợi trong liên kết, liên doanh và trong thay đổi hình thức tổ chức kinh doanh. Coi trọng phát triển cả các hộ kinh doanh cá thể và các doanh nghiệp; phát triển ngày càng nhiều các công ty cổ phần tư nhân trong nước và với nước ngoài. Phát triển với nhiều trình độ công nghệ, chú trọng đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ sản xuất và quản lý; có uy mô kinh doanh phù hợp, trong đó đại bộ phận là các hộ kinh doanh cá thể, các doanh nghiệp nhỏ và vừa; không hạn chế các doanh nghiệp có quy mô lớn; không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh của kinh tế tư nhân. Các hộ kinh doanh cá thể trong quá trình phát triển có thể hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp, hoặc kinh doanh lớn hơn, là tiền đề cho sự phát triển kinh tế tập thể và các doanh nghiệp, công ty tư nhân. Phát triển mạnh các doanh nghiệp nhỏ và vừa; khuyến khích các doanh nghiệp lớn của tư nhân tham gia làm thành viên ngày càng nhiều vào các tập đoàn kinh tế mạnh do kinh tế nhà nước làm nòng cốt. 3.3.4 Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật Luật pháp, chính sách cần nhất quán, minh bạch, mọi sự thay đổi cần thiết phải theo xu hướng thuận lợi hơn, tốt hơn và không gây bị động cho người kinh doanh. Xây dựng luật cần theo hướng đủ cụ thể để thực hiện thống nhất. Tôn trọng quyền tự chủ, tự quyết định của người kinh doanh. Có chế tài, chế độ khen thưởng và xử phạt nghiêm minh cả với người kinh doanh và người thi hành công vụ. Dần xác lập hệ thống lý lịch tư pháp của công dân; phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong cấp đăng ký kinh doanh theo nguyên tắc “một cửa”, “một dấu”. Phân biệt rõ quan hệ kinh tế, dân sự với việc vi phạm gây thiệt hại nghiêm trọng cho lợi ích quốc gia, lợi ích nhà nước và trật tư an toàn xã hội có tính chất hình sự. Hàng năm các doanh nghiệp lớn cần được kiểm toán. Cần thống nhất phối hợp giữa các cơ quan thanh tra, kiểm tra, các cơ quan quản lý nhà nước có chương trình thanh tra, kiểm tra định kỳ đối với doanh nghiệp và thông báo trước cho doanh nghiệp. Cơ quan bảo vệ pháp luật chỉ kiểm tra, thanh tra khi doanh nghiệp đã có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Các cơ quan thanh tra, kiểm tra phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thanh tra, kiểm tra và phải bồi thường thiệt hại về những tổn thất gây ra cho cơ sở (nếu có). Sớm ban hành pháp luật về cạnh tranh, chống độc quyền, hình thành khung khổ pháp lý cho việc đảm bảo cạnh tranh lành mạnh và kiểm soát độc quyền kinh doanh. Tiếp tục hoàn thiện các quy định về hợp đồng và xử lý các vi phạm, tranh chấp kinh tế thông qua các hình thức trọng tài và toà án. Sớm ban hành pháp lệnh về trọng tài. Bổ sung, sửa đổi Pháp lệnh thi hành án theo hướng đơn giản thủ tục, rút ngắn thời gian và tăng cường hiệu lực thi hành án. 3.3.5 Bổ sung, sửa đổi một số cơ chế, chính sách Cần bổ sung, sửa đổi một số cơ chế, chính sách, bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế về cơ hội và khả năng lựa chọn các điều kiện để phát triển; tiếp tục tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, sửa đổi những quy định chưa phù hợp với quy mô và trình độ kinh doanh để kinh tế tư nhân có điều kiện thụ hưởng những chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với các ngành, vùng, các sản phẩm và dịch vụ cần ưu tiên hoặc khuyến khích phát triển, không phân biệt thành phần kinh tế; chú trọng tạo điều kiện hỗ trợ những doanh nghiệp vừa và nhỏ. a. Chính sách về đầu tư, tín dụng: - Khuyến khích đầu tư phát triển kinh tế tư nhân Công khai hoá các quy chế và tiêu chí được nhận ưu đãi khuyến khích đầu tư; đơn giản hoá các thủ tục cấp ưu đãi đầu tư.. Việc ưu đãi đầu tư đối với khu vực kinh tế tư nhân có thể vừa theo phương thức hỗ trợ ưu đãi trực tiếp vừa theo phương thức hỗ trợ gián tiếp Hỗ trợ gián tiếp bằng cách dùng vốn này phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, dự báo về đầu tư cho các doanh nghiệp định hướng đầu tư, cung cấp thông tin về sản xuất, về thị trường, đào tạo chuyên môn, kinh nghiệm lập và quản lý dự án đầu tư ; chuyển mạnh từ phương thức hỗ trợ đầu ra sang phương thức hỗ trợ đầu vào. Chính sách đầu tư cần công khai và ổn định; khi nhà nước thay đổi các quy định về hạn chế hoặc cấm kinh doanh, cần có thời gian chuyển tiếp để giảm thiệt hại cho người kinh doanh. - Tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân trong sử dụng tài sản, quyền sử dụng đất để thế chấp khi vay vốn: Sửa đổi, bổ sung một số quy định cho phù hợp với thực tế về đăng ký tài sản thế chấp; xác định giá trị quyền sử dụng đất khi thế chấp; xử lý tài sản thế chấp. Ban hành quy định đăng ký sở hữu tài sản. Đẩy mạnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà và sở hữu tài sản khác cho khu vực kinh tế tư nhân. - Tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân vay được nhiều hơn các nguồn vốn tín dụng thương mại: Sửa đổi, bổ sung các quy định theo hướng nâng cao hơn nữa quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức tín dụng trong việc cho vay. Đơn giản hoá thủ tục cho vay; những gì pháp luật không cấm, tổ chức tín dụng chủ động xem xét thực tế khả năng của từng đối tượng để quyết định việc cho vay và việc thế chấp, tín chấp, tỷ lệ cho vay so với tài sản thế chấp. Mở rộng cho vay trung và dài hạn. Tăng cường các dịch vụ thanh toán, bảo lãnh, tư vấn cho kinh tế tư nhân. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các Quỹ tín dụng nhân dân để huy động vốn và mở rộng cho vay với khu vực này. - Tạo điều kiện cho khu vực kinh tế tư nhân sử dụng được nhiều hơn nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước: Giảm bớt các thủ tục về đầu tư và xây dựng, đấu thầu, thủ tục cho vay, giải ngân khi vay vốn ở Quỹ hỗ trợ phát triển; nâng cao quyền tự chủu, tự chịu trách nhiệm của chủ đầu tư. Tăng thêm ưu đãi để thu hút kinh tế tư nhân tham gia vào các đầu tư nhà Nước khuyến khích. Phát huy tốt Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV cho kinh tế tư nhân trong vay vốn ở các tổ chức tín dụng, hỗ trợ khi gặp rủi ro, bất khả kháng không trả được nợ vay. b. Chính sách tạo điều kiện về mặt bằng cho sản xuất, kinh doanh Sửa đổi quy định về đất ở đã được cấp quyền sử dụng, đất đang dùng làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh do doanh nghiệp mua lại quyền sử dụng hoặc đã được giao đất có thu tiền sử dụng đất, đều được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài thay vì thuê đất. Chính thức hoá các giao dịch trên thị trường nhà đất. Nhà nước thu hồi và tiến hành đền bù những diện tích bỏ hoang, sử dụng sai mục đích theo quy định của Luật Đất đai để cho doanh nghiệp thuê làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh phù hợp quy hoạch chung của địa phương; không yêu cầu cơ sở sản xuất, kinh doanh được thuê đất phải tự tiến hành đền bù. Nhà nước quy hoạch dành đất xây dựng các khu công nghiệp trong nước, các chợ, siêu thị, văn phòng, nhà kho; sử dụng một phần vốn ngân sách và huy động thêm vốn của các thành phần kinh tế để xây dựng kết cấu hạ tầng; cho các hộ kinh doanh cá thể, doanh nghiệp nhỏ và vừa thuê được với giá phù hợp. Sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai theo hướng: Đất ở của tư nhân đã được cấp quyền sử dụng đất, đất đang được tư nhân dùng làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh do được chuyển nhượng lại một cách hợp pháp quyền sử dụng hoặc được Nhà nước giao đã nộp tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, thì tư nhân đó được tiếp tục sử dụng mà không phải nộp thêm tiền thuê đất cho nhà nước khi dùng đất này vào sản xuất, kinh doanh. Nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ việc sử dụng đất ở các vùng còn nhiều đất chưa được sử dụng, đất trống, đồi núi trọc. c. Chính sách hỗ trợ khoa học, công nghệ, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp: Cần ban hành bổ sung quy định của Chính phủ về sở hữu trí tuệ, bảo hộ bí mật kinh doanh. Hỗ trợ doanh nghiệp trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Có chính sách hỗ trợ mở các lớp ngắn hạn miễn phí bồi dưỡng kiến thức khoa học công nghệ cho các hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Thực hiện lộ trình giảm giá dịch vụ viễn thông, Internet theo quy định của Chính phủ. Hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, chuyển giao công nghệ, nhập khẩu công nghệ mới và bằng sáng chế phát minh. Chi phí đổi mới, hiện đại hoá công nghệ được hạch toán vào giá thành sản phẩm. Mở rộng hệ thống dịch vụ tư vấn khoa học, công nghệ, thuê mua tài chính công nghệ mới, mua bán trả góp thiết bị công nghệ mới để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Khen thưỏng xứng đáng doanh nghiệp của mọi thành phần kinh tế có sản phẩm chất lượng cao, áp dụng có hiệu quả công nghệ tiên tiến. d. Chính sách thuế, tài chính, kế toán, kiểm toán: (1) Về chính sách thuế: Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các chính sách thuế (kể cả các ưu đãi, miễn giảm) theo nguyên tắc công bằng và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; đẩy mạnh cải cách các thủ tục hành chính về thuế, theo hướng đơn giản, rõ ràng, vừa nâng cao ý thức trách nhiệm, vừa tạo thuận lợi cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh nói chung và dễ thực hiện đối với kinh tế tư nhân nói riêng. Thực hiện nghiêm các luật thuế; bổ sung chế tài xử lý các vi phạm chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ; thực hiện thanh toán qua ngân hàng, hạn chế sử dụng tiền mặt trong giao dịch, thanh toán. Đối với thuế giá trị gia tăng, nghiên cứu chuyển các hộ kinh doanh vừa và nhỏ nộp thuế khoán sang nộp thuế theo một tỷ lệ trên doanh thu hoặc thuế thu nhập cá nhân. Thực hiệ chế độ kê khai, nộp thuế đơn giản hơn đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Quy định thống nhất về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp cho cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thay đổi các quy định về xác định chi phí phù hợp với thực tế, nhằm thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân tích cực đổi mới thiết bị, trả thu nhập cao cho người lao động. Nâng mức thu nhập được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho hộ kinh doanh và chỉ tính thuế đối với phần thu nhập doanh nghiệp trên mức này. Sửa đổi biểu thuế nhập khẩu theo hướng: giảm số lượng mức thuế suất, không phân biệt thuế suất theo mục đích sử dụng; bãi bỏ việc áp giá tính thuế theo bảng giá tối thiểu; mở rộng danh mục hàng hoá nhập khẩu để thuận tiện cho việc áp mã thuế hàng hoá tính thuế. (2) Về cơ chế tài chính, chế độ kế toán, kiểm toán Sớm nghiên cứu ban hành quy định của nhà nước về cơ chế tài chính đối với doanh nghiệp của tư nhân, đảm bảo cho doanh nghiệp có toàn quyền quyết định về hoạt động tài chính của mình, đồng thời giúp cho cơ quan quản lý nhà nước nắm được một số số liệu phục vụ cho quản lý kinh tế vĩ mô. Sửa đổi, bổ sung chế độ kế toán đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ phù hợp hơn với đặc điểm và trình độ của doanh nghiệp. Sớm ban hành Luật kế toán. Mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ kế toán, kiểm toán độc lập, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp của tư nhân sử dụng được dịch vụ này. đ. Chính sách đào tạo, tiền lương, thu nhập và bảo hiểm xã hội (1) Về đào tạo nghề: Xây dựng chiến lược, chương trình đào tạo nghề cho các thành phần kinh tế. Chú trọng đào tạo công nhân kỹ thuật. Khuyến khích, hỗ trợ mạnh hơn các tổ chức và cá nhân mở các cơ sở dạy nghề ngoài công lập; hỗ trợ các làng nghề, nghệ nhân; thợ cả trong việc đào tạo nghề, truyền nghề. Phát triển các trung tâm dạy nghề của Nhà nước, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, miền núi; khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức và cá nhân trong, ngoài nước mở các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật cho doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân. Có chính sách trợ giúp đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật, chuyên môn và quản trị kinh doanh cho người chủ kinh doanh, không phân biệt các thành phần kinh tế. Có chính sách hỗ trợ phát triển mạnh các trung tâm giới thiệu việc làm, xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động. (2) Về tiền lương, tiền công, tiền thưởng: Tạo điều kiện để khu vực kinh tế tư nhân thực hiện tốt các quy định của Nhà nước theo nguyên tắc thoả thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động, phù hợp với quan hệ tiền công trên thị trường. Tôn trọng quyền quyết định trả lương cao cho người lao động của chủ doanh nghiệp, đi liền với thực hiện quy định về thuế thu nhập cá nhân. Bổ sung chế tài để xử lý vi phạm của các doanh nghiệp trong thực hiện quy định về tiền lương, tiền công, tiền thưởng, phụ cấp đối với người lao động. (3) Về bảo hiểm xã hội Sớm ban hành đồng bộ các quy định về bảo hiểm xã hội để người lao động trong hộ kinh doanh cá thể và doanh nghiệp của tư nhân đều được tham gia. Tiến tới hình thành đa dạng về mô hình tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội phù hợp với từng nhóm đối tượng có nhiều mức đóng, mức hưởng khác nhau. Quy định về đóng bảo hiểm xã hội, về chế độ hưu trí nên chia nhiều cấp độ, mốc thời gian, mức đóng và mức hưởng theo các tỷ lệ khác nhau. Nghiên cứu chính sách giảm mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc trong một thời gian nhất định, đối với những doanh nghiệp gặp khó khăn, cùng với việc Ngân sách nhà nứoc hỗ trợ cho cơ quan bảo hiểm xã hội, để thực hiện bảo hiểm xã hội đối với người lao động ở các doanh nghiệp này. Sớm bổ sung chế tài bắt buộc người sử dụng lao động thực hiện nghiêm túc chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao động Nghị định số 38/CP ngày 25/6/1996, ở Điều 11 mới chỉ quy định mức phạt cao nhất đến 2.000.000 đồng, đối với người sử dụng lao động không đóng bảo hiểm xã hội hoặc đóng bảo hiểm xã hội không đúng quy định đã được ghi ở Điều 141 và Điều 149 của Bộ luật lao động. . Nghiên cứu ban hành chính sách bảo hiểm thất nghiệp theo nguyên tắc: người lao động, người sử dụng lao động tham gia đóng góp và có sự hỗ trợ một phần của nhà nước. e. Về cung cấp thông tin và xúc tiến thương mại Bảo đảm cho khu vực kinh tế tư nhân tiếp cận thông tin về chính sách, pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, các thông tin dự báo trung, dài hạn và các dự án phát triển có nguồn vốn từ Ngân sách nhà nước, vốn ODA và FDI; trợ giúp việc tiếp cận các thông tin thị trường; giảm chi phí thông tin (cước phí truy nhập Internet, cước phí điện thoại). Tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân tham gia vào các đoàn khảo sát, nghiên cứu thị trường, tham gia hội chợ triển lãm... ở trong và ngoài nước. Khuyến khích và trợ giúp các hoạt động xúc tiến thương mại, hỗ trợ kinh doanh của các hiệp hội doanh nghiệp và các doanh nghiệp. 3.3.6 Tiếp tục hoàn thiện tổ chức quản lý của Nhà nước Chức năng quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân là: xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý và ban hành chính sách, cơ chế quản lý đối với các đơn vị sản xuất, kinh doanh; trợ giúp đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý cho doanh nghiệp; thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, chế độ, quy định của Nhà nước tại doanh nghiệp. Kiện toàn bộ máy để thực hiện được chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành và UBND tỉnh, thành phố đối với mọi thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân, theo quy định pháp luật. Chính phủ giao cho một cơ quan đầu mối ở Trung ương, uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giao cho một cơ quan làm đầu mối ở địa phương để phối hợp theo dõi, tổng hợp tình hình, phát hiện và đề xuất những biện pháp tháo gỡ khó khăn và chủ động uốn nắn những sai phạm của kinh tế tư nhân. Các cơ quan bảo vệ pháp luật chỉ kiểm tra, thanh tra khi doanh nghiệp của tư nhân có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Các cơ quan quản lý nhà nước phải có chương trình thành tra, kiểm tra định kỳ đối với doanh nghiệp, thông báo trước cho doanh nghiệp và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các kết luận thanh tra, kiểm tra của mình. Chính phủ sớm quy định tiêu chí để đánh giá và phân định hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp khác của tư nhân cho đúng tính chất của từng loại hình kinh tế, làm cơ sở cho việc áp dụng cơ chế và phương thức quản lý phù hợp. 3.3.7 Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Xây dựng tổ chức cơ sở Đảng và các tổ chức Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội Liên hiệp thanh niên trong các doanh nghiệp của tư nhân có đủ điều kiện. Đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng trong khu vực kinh tế tư nhân, tập trung vào việc nâng cao nhận thức chính trị, ý thức chấp hành luật của cả người lao động và người chủ doanh nghiệp, tổ chức, lãnh đạo và phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân trong doanh nghiệp. Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người sử dụng lao động và người lao động; phát huy lòng yêu nước, ý thức tôn trọng pháp luật, quyết tâm làm giàu cho mình và cho đất nước. Những Đảng viên đang làm chủ doanh nghiệp của tư nhân chấp hành tốt Điều lệ Đảng và luật pháp, chính sách của Nhà nước thì vẫn là Đảng viên của Đảng. Kết luận Thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Nhà nước, kinh tế tư nhân đã phát triển rộng khắp trong cả nước và góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế. Sự phát triển của khu vực này thời gian qua đã khơi dậy một bộ phận tiềm năng của đất nước cho phát triển kinh tế – xã hội. Nguồn tiềm năng này bao gồm trí tuệ, kinh nghiệm, năng lực quản lý, khả năng kinh doanh, quan hệ xã hội, tiền vốn, sức lao động, tài nguyên... Phát triển khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần tăng cường lực lượng sản xuất, kinh doanh, tham gia cạnh tranh, thúc đẩy phát triển thị trường. Khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng GDP, huy động nguồn vốn trong xã hội đầu tư vào sản xuất, kinh doanh; tạo được nhiều việc làm; góp phần cải thiện đời sống nhân dân, tăng thu ngân sách cho nhà nước, tham gia sản xuất nhiều hàng xuất khẩu, tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế kinh tế – xã hội. Hơn mười năm qua, khu vực kinh tế tư nhân tăng nhanh về số lượng, vốn kinh doanh, lao động, đặc biệt là sau khi thực hiện Luật doanh nghiệp. Tuy nhiên, khu vực này còn ở trình độ thấp, khả năng huy động và tích tụ vốn còn nhiều hạn chế, thị trường tiêu thụ nhỏ bé, trình độ công nghệ thấp, trình độ và kỹ năng quản lý còn yếu. Ngoài ra, tính liên kết, hợp tác trong sản xuất, kinh doanh giữa các doanh nghiệp còn thấp nên khó tạo được sức mạnh chung trên cơ sở phát huy lợi thế. Bên cạnh đó, việc phát triển khu vực kinh tế tư nhân còn gặp nhiều cản trở. Thứ nhất, môi trường pháp lý đối với khu vực kinh tế tư nhân chưa hoàn thiện, nhiều quy định chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, thiếu nhất quán, phức tạp và chồng chéo. Thứ hai, thiếu mặt bằng sản xuất, kinh doanh vẫn luôn là trở ngại lớn nhất đối với các doanh nghiệp. Thứ ba, thiếu vốn là vấn đề nổi cộm thường xuyên khi mà các doanh nghiệp của tư nhân vẫn còn nhỏ bé, tài sản sử dụng làm tài sản thế chấp để vay khoản vốn cần thiết quá hạn hẹp. Hơn nữa, hệ thống ngân hàng thương mại, mà khách hàng của họ chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước, rất ngại cho các doanh nghiệp của tư nhân vay. Thứ tư, chính sách thuế còn quá nhiều bất cập và có sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp của tư nhân. Từ thực tiễn phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong thời gian qua, các giải pháp đưa ra là: cần thay đổi quan niệm và tư duy chính trị về kinh tế tư nhân; xây dựng chiến lược, cơ chế, chính sách định hướng sự phát triển của kinh tế tư nhân; hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật về kinh tế tư nhân; bổ sung, sửa đổi một số cơ chế, chính sách về phát triển kinh tế tư nhân như chính sách đầu tư, tín dụng, chính sách về mặt bằng sản xuất, kinh doanh, chính sách thuế, tài chính, kế toán, kiểm toán, chính sách đào tạo, tiền lương, thu nhập và bảo hiểm xã hội... Phụ lục A Một số số liệu về kinh tế tư nhân của Trung Quốc Bảng 15: Doanh nghiệp tư nhân phân theo loại hình 1991 1994 1997 2000 Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) Tổng số 107.843 100 432.240 100 960.726 100 1.761.769 100 Doanh nghiệp cá thể 60.613 56,2 209.852 48,6 387.534 40,3 499.787 28,4 Công ty hợp danh 40.552 37,6 86.594 20,0 130.668 13,6 174.694 9,9 Trách nhiệm hữu hạn 6.678 6,2 135.794 31,4 442.554 46,1 1.087.288 61,7 Nguồn: Niên giám Quản lý Hành chính Công thương, 1992 - 2001. Bảng 16: Sự phát triển doanh nghiệp tư nhân từ năm 1991 Năm Số doanh nghiệp Lao động Sản lượng (giá 1995) Số lượng (1.000) Mức tăng (%) Số lượng (1.000) Mức tăng (%) (Tỷ NDT) Mức tăng (%) 1991 107,8 1839,0 93,7 1992 139,6 29,5 2318,4 26,1 116,0 23,8 1993 237,9 70,4 3726,3 60,7 260,1 124,2 1994 432,2 81,7 6483,4 74,0 551,7 112,1 1995 654,5 51,4 9559,7 47,4 1.005,3 82,2 1996 819,3 25,2 11711,3 22,5 1.592,3 58,4 1997 960,7 17,3 13492,6 15,2 1.983,7 24,6 1998 1201,0 25,0 17090,8 26,7 2.434,6 22,7 1999 1508,9 25,6 20215,5 18,3 3.093,0 27,0 2000 1761,8 16,8 24065,0 19,0 Trung bình 38,1 34,4 59,4 * Tính theo giá năm 1995. Nguồn: Niên giám Quản lý Hành chính Công thương, 1992 - 2001, Niên giám Thống kê Trung Quốc, 1992 - 2001. Bảng 17: Tỷ trọng trong GDP của các khu vực năm 1998 (%) (i) (ii) (iii) (iv) Khu vực nhà nước 37 Khu vực nhà nước 37 Khu vực nhà nước 37 Khu vực nhà nước 37 Khu vực phi nhà nước 63 Nông nghiệp 18 Nông nghiệp 18 Nông nghiệp 18 Khu vực ngoài nhà nước 45 Hợp tác xã 12 Hợp tác xã 12 Khu vực tư nhân 33 Khu vực nước ngoài 6 Khu vực tư nhân trong nước 27 100 100 100 100 Nguồn: Garnaut et al. (2001). Bảng 18: Doanh nghiệp tư nhân phân theo ngành kinh tế (1.000, %) Ngành 1992 1993 1996 1997 2000 Lao động Tỷ lệ Lao động Tỷ lệ Lao động Tỷ lệ Lao động Tỷ lệ Lao động Tỷ lệ Nông nghiệp 166,4 1,4 237,3 1,8 559,7 2,3 Công nghiệp 1611,5 69,5 2296,6 61,7 6396,4 54,6 7000,8 51,9 11692,7 48,6 Xây dựng 102 4,4 156,1 4,2 425,1 3,7 475,2 3,5 1114,7 4,6 Giao thông 34,8 1,5 49,7 1,3 117,7 1,0 141,3 1,0 316,3 1,3 Thương mại 389,5 16,8 845,8 22,7 3545,1 30,3 4362,3 32,3 5912,4 24,6 Dịch vụ vui chơi 40,7 1,7 65,7 1,7 211,1 1,8 249,8 1,9 1882,9 7,8 Dịch vụ xã hội 51,9 2,3 144,5 3,9 590,4 5,0 729,6 5,4 1730,6 7,2 Dịch vụ sửa chữa 29,7 1,3 38,7 1,0 44,6 0,4 4,38 0,3 61,6 0,3 Khác 58,3 2,5 129,2 3,5 214,6 1,8 252,5 1,9 794,1 3,3 Tổng số 2318,4 100 3726,3 100 11711,3 100 13492,6 100 24065,0 100 Nguồn: Niên giám Quản lý Hành chính Công thương, 1992 - 2001. Bảng 19: Doanh nghiệp tư nhân phân theo vùng (1.000) Năm Vùng duyên hải Miền trung Miền tây Số doanh nghiệp Lao động Số doanh nghiệp Lao động Số doanh nghiệp Lao động 1992 95,4 1754,5 24,5 453,4 19,7 380,5 1993 159,3 2351,3 44,6 768,9 34,1 600,6 1996 529,2 7232,8 178,6 2741,2 111,4 1737,4 1997 610,1 8235,5 211,1 3189,7 139,5 2067,4 2000 1165,1 15587,1 313,2 4346,4 283,5 4131,5 Vùng duyên hải: Liêu Ning, Hà Bắc, Bắc Kinh, Thiên Tân, Sơn Đông, Giang Tô, Thượng Hải, Triết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông. Miền trung: Hắc Long Giang, Cát Lâm, Sơn Tây, Hà Nam, Hồ Bắc, An Huy, Giang Tây, Hồ Nam, Hải Nam. Miền tây: Nội Mông, Sơn Tây, Ninh Hạ, Cam Túc, Thanh Hải, Tân Cương, Tây Tạng, Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây. Nguồn: Niên giám Quản lý Hành chính Công thương Trung Quốc, 1992 - 2001. Phụ lục B Một số số liệu về kinh tế tư nhân của Việt Nam Tài liệu tham khảo Ban Tư tưởng – Văn hoá Trung ương: “Những nội dung cơ bản của Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khoá VII”. Năm 1994. “Báo cáo một năm thi hành Luật Doanh nghiệp”. Tổ Công tác thi hành Luật Doanh nghiệp, 2001 “Báo cáo hai năm thi hành Luật Doanh nghiệp”. Tổ Công tác thi hành Luật Doanh nghiệp, tháng 5 năm 2002. “Báo cáo ba năm thi hành Luật Doanh nghiệp”. Tổ Công tác thi hành Luật Doanh nghiệp, tháng 5 năm 2003 Bộ Chính trị: Nghị quyết số 16-NQ/TW ngày 15-7-1986 về đổi mới chính sách và cơ chế quản lý đối với các cơ sở sản xuất thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Trần Ngọc Bút: “Phát triển kinh tế tư nhân định hướng xã hội chủ nghĩa”. 2002. “Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh”. Dự án VIE/97/016, NXB Bộ Giao thông vận tải, 2002. Trần Tiến Cường: “Phân tích sự tác động qua lại giữa cải cách doanh nghiệp nhà nước và phát triển kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam”. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2000. “Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam: Trên đường tiến đến phồn vinh”. MPDF, số 10. “Dịch vụ hỗ trợ kinh doanh ở Việt Nam”. MPDF, 1998. “Dịch vụ phát triển kinh doanh (BDS)”. SME Promotion, GTZ, 2002 GS. Trần Ngọc Hiên: “Chính sách phát triển thành phần kinh tế tư bản tư nhân theo định hướng xã hội chủ nghĩa đến năm 2010”. Tháng 1/1999. Hà Hương: “Vietnam Economic Transition in the perspectives of public policy in the post economic crisis”, 2000. Nguyễn Văn Hưởng: “Phân tích các chính sách và biện pháp hỗ trợ đầu tư theo luật khuyến khích đầu tư trong nước đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh”. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tháng 2 năm 2001. Nguyễn Duy Khiên: “Bất cập trong tiếp cận thông tin thị trường quốc tế: Nguyên nhân và một số biện pháp tháo gỡ”. Báo cáo viết cho dự án VIE 98/021. “Khu vực kinh tế tư nhân mới nổi lên và sự nghiệp công nghiệp hoá ở Việt Nam”. MPDF, 1997. Kornai János: “What the change of system from socialism to capitalism does and does not mean”. Journal of Economic Perspectives, Volume 14, 2000. Kornai János: “Con đường dẫn tới nền kinh tế thị trường”. Hội tin học Việt Nam. 2001. “Nghiên cứu khung pháp luật của khu vực kinh tế tư nhân”. CIEM-JIBIC, tháng 9 năm 2001. Liesbet Steer, Markus Taussig: “Domestic Private Companies and Vietnam’s Pressing Need for Wage Employment”. August 2002. PTS Trần Du Lịch: “Những luận cứ khoa học cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá:”. Đề tài KHXH: 02-07. Tháng 7 năm 1999. Roman Frydman, Cheryl Gray, Marek Hessel, Andrzej Rapaczynski: “Private ownership and corporate performance: evidence from transition economies”. October 1997. "Sự khác biệt trong chính sách và thực hiện chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh". Dự án Vie 97/016, tháng 9 năm 2001. "Sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân: rào cản pháp lý và giải pháp”. Hội thảo CIEM-JIBIC, tháng 2 năm 2001. Nguyễn Văn Thạo: “Hệ thống các quan điểm, chính sách của Đảng và nhà nước đối với kinh tế tư nhân và cá thể định hướng các chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế tư bản tư nhân cá thể từ nay đến năm 2010”. Hà Nội, tháng 3/1999. Thời báo Kinh tế Sài Gòn năm 2000, 2001, 2002 và 2003. Vũ Quốc Tuấn: “Chính sách trên trời, cuộc đời dưới đất”. Tạp chí Tia sáng, tháng 5 năm 2002. GS. TS. Nguyễn Thanh Tuyền: “Thành phần kinh tế tư bản tư nhân trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. NXB Chính trị quốc gia. 2002. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. NXB Chính trị quốc gia. Năm 1987. Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khoá VII. NXB Chính trị quốc gia. Tháng 11-12/1991. Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương khoá VII. NXB Chính trị quốc gia. Tháng 6/1992. Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khoá VII. NXB Chính trị quốc gia. Tháng 2/1993. Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khoá VII. NXB Chính trị quốc gia. Năm 1994. Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khoá VIII. NXB Chính trị quốc gia. Năm 1999. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. NXB Chính trị quốc gia. Năm 2001. Vũ Quang Việt: “Vấn đề bóc lột lao động nhìn từ lý thuyết thặng dư của Marx và kinh tế hiện đại”. Hà Nội, 25/02/2002. “Vietnam Economic Monitor”. WB, Spring 2002. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37183.doc
Tài liệu liên quan