Kinh tế tư nhân trong quá trình phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay

LỜI NÓI ĐẦU Trong quá trình phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay việc phát triển nền kinh tế thị trường với cơ cấu nhiều thành phần được đặt ra như một nhu cầu tất yếu đối với nền kinh tế tư nhân là một bộ phận cấu thành nên cơ cấu kinh tế đó. Sự xuất hiện của thành phần kinh tế tư nhân đã góp phần không nhỏ đóng góp vào sự thay đổi của nền kinh tế Việt Nam theo hướng ngày càng tích cực như hiện nay mặc dù trước dố bộ phận kinh tế tư nhân được coi là bộ phận đối lập với kinh tế xã hội chủ nghĩ

doc21 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1344 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kinh tế tư nhân trong quá trình phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a. Vì vậy, nằm trong diện cải tạo và tiến tới xoá bỏ, song thực tế đã chứng minh rằng như vậy là cực đoan là đi ngược với hướng phát triển. Cùng với chủ trương chuyển nền kinh tế sang kinh tế thị trường, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương chính sách để khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân. Bắt đầu từ đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng ta đã thấy được tầm quan trọng của bộ phận kinh tế tư nhân và chú trọng phát triển kinh tế tư nhân. Cho đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định: “Sự tồn tại của khu vực kinh tế tư nhân không chỉ là sự tồn tại khách quan chúng ta phải chấp nhận, mà nó còn rất cần thiết trong nền kinh tế của thời kỳ phát triển, hội nhập kinh tế của nước ta hiện nay” Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay. Nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước những thời cơ và thách thức mới. Cơ hội phát triển đang mở rộng ra trước mắt và đang dần rút ngắn lại, với mục tiêu phấn đấu đưa Việt Nam về cơ bản thành một nước công nghiệp vào năm 2020 không phải là không tưởng mà có thể trở thành hiện thực với ự đóng góp tích cực của tất cả các thành phần kinh tế. Và kinh tế tư nhân tất nhiên không thể đứng ngoài cuộc chơi đó. Trong bối cảnh hiện nay xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần và coi kinh tế tư nhân là một động lực để phát triển là một khuynh hướng đã hoàn toàn đúng đắn của các nhà lãnh đạo kinh tế Việt Nam. Mặc dù, sự phát triển của kinh tế tư nhân của Việt Nam trong những năm vừa qua là vô cùng lớn và không thể không nhắc đến nhưng kinh tế tư nhân vẫn còn chưa phát triển hết tiềm năng sẵn có của nó để xứng đáng với vai trò của mình trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Chính vì tính cấp thiết của vấn đề như thế nên em đã chon đề tài: “ Kinh tế tư nhân trong quá trình phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay” để làm đề tài tiểu luận môn kinh tế chính trị với mong muốn có một cái nhìn khái quát, tổng quan hơn về bộ phận kinh tế tư nhân. Do còn hạn chế nhiều về vấn đề trong một đề tài kinh tế mang tính nóng bỏng này nên vẫn còn có những sai sót nhất định mong cô chỉ đạo và hướng dẫn thêm để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn. PHẦN I- NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN Kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế bao gồm các thành phần kinh tế dựa trên sở hữu ta nhân về tư liệu sản xuất kinh tế tư nhân là khái niệm chỉ khu vực kinh tế tư nhân bao gồm các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh thuộc nhóm các thành phần kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân không phải là một thành phần kinh tế mà là phạm trù để chỉ nhóm thành phần kinh tế vừa có đặc trưng chung lại vừa có bản chất khác nhau. I. Kinh tế tư nhân có những quan hệ kinh tế cơ bản sau: Thứ nhất là quan hệ sở hữu : Kinh tế tư nhân thể hiện quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất cũng như phần của cải vật chất được tạo ra từ tư liệu sản xuất. Nó bao gồm sở hữu tư nhân nhỏ, là sở hữu của những người lao động tự do, sản xuất ra sản phầm nhờ lao động chính mình và các thành viên trong gia đình (như thợ thủ công, cá thể, tiểu thương) và sở hữu tư nhân lớn của các nhà sản xuất kinh doanh trong nước và ngoài nước ngoài đầu tư ở Việt Nam. Thứ hai là quan hệ quản lý : Xuất phát từ quan hệ sở hữu của kinh tế tư nhân, quan hệ quản lý của khu vực kinh tế này gồm các quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ và quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân lớn. Quan hệ quản lý dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ là quan hệ dựa trên sự tổ chức, điều hành hay tổ chức. Quan hệ quaảnlý dựa trên sở hữu tư nhân lớn là quan hệ quản lý giữa nguời quản lý và người bị quản lý. Thứ ba là quan hệ phân phối : Trong kinh tế tư nhân, quan hệ phân phối dựa trên cơ sở các loại hình sở hữu khác nhau. Trong các chế độ chính trị xã hội khác nhau thì quan hệ phân phối của kinh tế tư nhân cũng có những sự khác biệt nhất định. Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tư nhân là một trong những nhân tố có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Song nếu để tự phát, không có định hướng cụ thể cho khu vực kinh tế tư nhân thì tất yếu sẽ dẫn đến tác động tiêu cực, gây nên bất ổn định về kinh tế xã hội. Vì thế chúng ta cần xác định rõ những xu hướng phát triển của kinh tế tư nhân và có sự định hướng cho khu vực này. II. Các xu hướng vận động của kinh tế tư nhân 1.Một là: Kinh tế tư nhân gắn liền với phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường. Mỗi thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường không thể vận hành một cách bình thường nếu không thực hiện những mối quan hệ kinh tế giữa các thành phần kinh tế với nhau. Các thành phần kinh tế, khu vực kinh tế vừa cạnh tranh với nhau, vừa hợp tác hỗ trợ, thúc đẩy nhau là tiền đề phát triển của nhau theo cơ chế thị trường trong một nền kinh tế thống nhất. Đối với khu vực kinh tế tư nhân cần xác định phương hướng phát triển về ngành nghề, lĩnh vực kinh tế, phải đặt sự phát triển của kinh tế tư nhân trong quan hệ phân công lao động xã hội phù hợp với trình độ thực tế của nó. Phải chú trọng chiến lược lựa chọn quy mô kinh nghiệm các nước và thực tiễn phát triển khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam thưòi gian qua cho thấy “quy mô vừa và nhỏ là phù hợp hơn cả trong điều kiện về vốn, năng lực tổ chức kinh doanh, tiế cận thị trường của khu vực kinh tế này. Đồng thời, thực hiện chiến lược sản phẩm hướng vào xuất khẩu và thay thế nhập khẩu, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân nói riêng nền kinh tế nói chung để có khả năng hoà nhập nền kinh tế thế giới và khu vực. 2. Hai là: Phát triển kinh tế tư nhân phải kết hợp với các mục tiêu độc lập, tự chủ XHCN trong cơ chế thị trường, mở cửa hội nhập quốc tế. Những thành tựu to lớn của những năm đổi mới phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển. Vì vậy, phát triển kinh tế tư nhân cần phải quán triệt mục tiêu độc lập, dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cần phải làm rõ vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước tạo điều kiện đảm bảo chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường. Không nên chỉ dừng lại ở việc đưa ra một quan niệm đúng đắn về bản chất của kinh tế tư nhân mà còn phải xác định các chỉ tiêu số lượng, hình thức vận động của khu vực kinh tế tư nhân mà còn phải xác định các chỉ tiêu số lượng, hình thức vận động của khu vực kinh tế này trong cơ cấu chung của nền kinh tế. Quan niệm đó còn thể hiện rõ lập trường, thái độ đối với khu vực kinh tế tư nhân. Không được coi lợi ích kinh tế, mục tiêu kinh tế lên trên hết trong chiến lược phát triển đất nước. Mở cửa hội nhập nhưng không được hoà tan. Trái lại phải làm cho kinh tế nước ta độc lập, tự chủ hơn, giữ vững con đường định hướng XHCN. 3. Ba là: Phát triển kinh tế tư nhaâ phải nhằm đạt tới các mục tiêu: Huy động vốn, tạo việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư, tăng GDP và tăng thu ngân sách cho Nhà nước. Quan điểm này thừa nhận sự tồn tại của khu vực kinh tế tư nhân không ngoài mục đích khai thác, phát huy tốt nhất mọi năng lực sản xuất của họ để phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tạo ra nhiều của cải cho xã hội. 4.Bốn là: Phát triển kinh tế tư nhân theo hướng đa dạng hoá sở hữu đan xen các hình thức sở hữu theo các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước. - Muồn làm như vậy chúng ta cần khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển theo hướng tiến bộ như tăng mức độ xã hội hoá sở hữu, hiện đại hoá công nghệ, hướng sự phát triển của kinh tế tư nhân đi vào con đường chủ nghĩa tư bản Nhà nước dưới hình thức thích hợp, có sự kiểm kê, kiểm soát điều tiết của Nhà nước. Trên đây là tất cả xu hướng chủ yếu nhằm phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay và trong thời gian tới. Những điều chúng ta cần chú ý là phải liên kết các lực lượng trong nước thành một lực lượng kinh tế dân tộc trong quá trình mở cửa, hội nhập với khu vực và thế giới, phải lấy hiệu qủa kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn quan trọng nhằm đánh giá sự phát triển của kinh tế tư nhân trong tiền trình công nghiệp hoá đất nước theo định hướng XHCN. PHẦN II. NHỮNG THỰC TẾ CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY Kinh tế tư nhân không chỉ có tiếng nói quyết định đến sức mạnh kinh tế của hầu hết quốc gia mà còn trở thành một lực lượng kinh tế có ý nghĩa chính trị toàn cầu. Phát triển khu vực kinh tế tư nhân cũng có nghĩa bảo toàn tính đa dạng phong phú của đời sống kinh tế xem nó như nguồn gốc của mọi sự phát triển. Ngày nay kinh tế tư nhân, sở hữu tư nhân đã phát triển nên một trình độ mới về chất quy mô sở hữu của nhiều công ty ngày càng đồ sộ và nhiều công ty tạo ra lượng tài sản có giá trị lớn hơn cả GDP của một số quốc gia. 1. Sự biến đổi về chất của kinh tế tư nhân Chúng ta, cả nhân loại đang hàng ngày chứng kiến một thời đại các rào cản đầu tư, thương mại hàng hoá và dịch vụ dần bị dỡ bỏ, nền kinh tế thị trường mở đang tạo điều kiện dễ dàng cho kinh tế tư nhân lớn mạnh không ngừng. Trong quá trình phát triển kinh tế tư nhân đã tồn tại dưới nhiều dạng như kinh tế cá thể, công ty và ngày nay là các công ty đa quốc gia. Sự lớn mạnh của các công ty đa quốc gia trong những năm cuối thể kỷ XX cho thấy kinh tế tư nhân đã có sự phát triển vượt bậc với những thay đổi về chất. Công ty đa quốc gia chính là biểu hiện của kinh tế tư nhân được quốc tế háo và nó trở lên hùng mạnh nhất của kinh tế tư nhân. Trong nền kinh tế thị trường mở, quốc gia nào có nền kinh tế tư nhân tham gia nhiều nhất, đầy đủ nhất vào nền kinh tế toàn cầu thì quốc gia đó càng có ưu thế trong cạnh tranh. Dựa trên bối cảnh và xu thế phát triển này mỗi quốc gia cần phải có chính sách phát triển kinh tế tư nhân thích hợp của mình, trong đó phải đặc biệt chú ý đến sự hợp tác của kinh tế tư nhân trong nước với các công ty đa quốc gia cũng như tham gia trực tiếp vào các công ty đa quốc gia. 2. Phương tiện hiệu qủa nhất để phát triển kinh tế Vấn đề đặt ra ở đây là kinh tế Nhà nước và kinh tế tư nhân cùng song song tồn tại trong thế giới ngày nay nhưng tại sao kinh tế tư nhân lại tỏ ra năng động hơn, có sức sống hơn và phát triển mạnh mẽ hơn. Câu trả lời đó chính là: tính chất mở cửa thị trường ngày càng tăng, sự hợp tác và cạnh trạnh quốc tế đòi hỏi các thực thể kinh tế phải rất linh hoạt và tự chủ trong hoạt động kinh doanh điều này lại là nhược điểm của kinh tế Nhà nước. Tính cạnh trạnh cao của kinh tế tư nhân không phải ngẫu nhiên mà có, nó được hình thành thông qua sự thất bại của các công ty trong quá trình phát triển. Kinh tế có quy luật riêng của nó, không phụ thuộc vào tính chất của chúng ta. Kinh tế tư nhân đối diện với cac thử thách như vậy để phát triển giống như chúng ta cần trải qua những gian lao, thậm chí vấp ngã để vững vàng hơn trong cuộc sống. 3. Phát triển kinh tế tư nhân là phát triển năng lực con người Kinh tế tư nhân có cội nguồn từ cá nhân, vì vậy phát triển kinh tế tư nhân phải dựa trên nền tảng phát triển các giá trị cá nhân, phát triển năng lực cá nhân, phát triển con người. Có thể nói, không có sự phát triển năng lực cá nhân thì sẽ không có sự phát triển kinh tế tư nhân. Một trong các yếu tố cạnh tranh của một cộng đồng xã hội chính là tính đa dạng của sự sáng tạo mà tính đa dạng của sự sáng tạo là hệ quả tất yếu của sự đa dạng của những năng lực cá nhân. Sự đa dạng của năng lực cá nhân là kết quả trực tiếp của sự tôn trọng các giá trị cá nhân. Như vậy, có thể nói lý thuyết phát triển kinh tế tư nhân bắt nguồn từ lý thuyết phát triển con người. Sự phát triển của các quyền cá nhân đến lượt nó sẽ thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ. III. Những thực trạng giải pháp của kinh tế tư nhân của nước ta hiện nay 1. Thực trạng chung của kinh tế tư nhân Nền kinh tế mà nước ta lựa chọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo nghĩa đó nếu không có kinh tế Nhà nước sữ không có định hướng XHCN nhưng nếu không có kinh tế tư nhân cũng sẽ không có kinh tế thị trường. Chính vì thế mà phát triển kinh tế nhiều thành phần nói chung và phát triển kinh tế tư nhân nói riêng là một nội dung quan trọng của đường lối đổi mới kinh tế. Trước khi đổi mới, kinh tế tư nhân chủ yếu giới hạn trong khu vực hộ kinh doanh cá thể, hoạt động chủ yếu ở thị trường tự do (tức là khu vực không chính thức). Cho đến năm 1990, nếu số hộ công thương nghiệp kinh doanh cá thể mới có 840 nghìn thì đến nay đã có trên 3 triệu hộ. Đó là chưa kể 130 nghìn trang trại và khoảng 11 triệu hộ sản xuất nông nghiệp theo mô hình kinh tế tự chủ. Doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân trước năm 1991 hầu như không có. Từ sau khi có luật công ty (năm 1990), số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân mới chính thức ra đời và chỉ thực sự tăng lên nhanh chóng từ sau kho có luật doanh nghiệp, sau 5 năm thi hành, số doanh nghiệp đăng ký mới đã đạt gần 110 nghìn, cao gấp, 2,4 lần so với thời kỳ 1991 – 1999. Tuy số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân đăng ký mới khá nhiều nhưng số doanh nghiệp thực tế đang hoạt động sản xuất kinh doanh chưa nhiều. Bên cạnh đó, còn có những khác biệt về số doanh nghiệp hoạt động với số đămg kỹ kinh doanh. Khu vực kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Khu vực kinh tế tư nhân năm 2005 đã chiếm 38,5% GDP cao gấp 5,4 lần tỷ trọng 7,11% của khu vực kinh tế tập thể, cao gấp 2,5 lần tỷ trọng 15,17% của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và đạt xấp xỉ với tỷ trọng 39,22% của khu vực kinh tế Nhà nước. Riêng tỷ trọng trong GDP cảu các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân đã nhìn chung đã tăng lên qua các năm, nếu năm 2000 mới chiếm 7,31% thì năm 2005 là 8,91%. Đáng lưu ý, tốc độ tăng trưởng GDP do các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân luôn luôn có cao gấp rưới tốc độ tăng trưởng chung cũng như cao hơn tốc độ của các khu vực khác. Khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng cao trong tổng số lao động đang làm việc (88,8%) cao hơn rất nhiều so với khu vực kinh tế Nhà nước chỉ chiếm có 9,7%. Trong tổng số lao động làm việc trong khu vực doanh nghiệp (5175 nghìn lao động) thì doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân chiếm 42,9% cao hơn tỷ trọng 39,9% của khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Khu vực này cũng đã chiếm 1/3 tổng vốn đầu tư toàn xã hội. 2. Những khó khăn của kinh tế tư nhân Tuy chiếm một vị trí ngày một quan trọng và đang trong xu thế tăng lên nhưng bộ phận kinh tế tư nhân hiện đang gặp rất nhiều khó khăn. Kinh tế tư nhân đang vấp phải nhiều cái “nhất” nhất trong nền kinh tế. Vốn ít nhất: 85% số DN có vốn hoạt động dưới 1 tỷ Khó tiếp cận nhất các nguồn vốn cho vay của NHTM nhất, tiếp cận nguồn vốn cho vay của Nhà nước lại càng khó khăn hơn. Đơn giản họ không có tài sản tương ứng để thế chấp. vì thế để có vốn họ thường xuyên phải vay ngoài với lãi suất cao. Khó tìm kiếm mặt hàng sản xuất kinh doanh nhất. Họ phải sử dụng cả nhà ở, hoặc thuê lại mặt của doanh nghiệp Nhà nước với giá rất cao. Chính vì vậy họ không dám đầu tư lớn và lâu dài về nhà xưởng thiết bị. Khó tiếp cận nguồn thông tin nhất Nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế điều đó cũng có nghĩa khu vực kinh tế tư nhân sẽ là khu vực mà cuộc hội nhập tác động diện rộng và rất đa dạng. Vì thế chúng ta có vô vàn cơ hội và song hành với nó là muôn ngàn các thách thức đang chờ đón. 3. Cơ hội và thách thức của kinh tế tư nhân trong quá trình hội nhập. Cơ hội lớn: Từ năm 2000 trở lại đây, khu vực kinh tế tư nhân nói chung và DNTN nói riêng đang phát triển mạnh, đóng góp ngày càng lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và đang ngày càng khẳng định vai trò động lực của mình. Với việc thi hành Luật Doanh nghiệp và hàng loạt các biện pháp cải cách khác, môi trường kinh doanh ở nước ta trong mấy năm gần đây đã có những cải thiện quan trọng theo hướng mở rộng quyền tự do kinh doanh của người dân trên nguyên tắc doanh nghiệp và người dân được tự do kinh doanh tất cả những lĩnh vực mà luật pháp không cấm, khuyến khích người dân làm ăn, kinh doanh làm giàu cho mình và cho đất nước, khuyến khích mọi doanh nghiệp tham gia các ngành xuất khẩu, chú trọng hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính trong môi trường đó, KVKTTN và đặc biệt là DNTN đã nhanh chóng phát triển cả về số lượng và chất lượng, góp phàn tích cực vào tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội của đất nước trên các mặt tạo công ăn việc làm, tăng vốn đầu tư phát triển, mở rộng xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng các ngành kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ thúc đẩy phát triển các thị trường, đổi mới kinh tế và hành chính…. Khu vực kinh tế tư nhân phát triển nhanh chóng trong thời gian qua còn do tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, khởi đầu từ khi chuúng ta đổi mới và đặc biệt phát triển từ giữa thập kỷ 1990, khi nước ta lần lượt tham gia ASEAN, ASEM, APEC và không ngừng mở rộng quan hệ song phương với các nước trên thế giới. Thị trường các nước mở rộng dần cho các sản phẩm của Việt Nam đã tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam (DNVN) trong đó có KVKTTN phát triển sản xuất, kinh doanh các sản phẩm của mình trên các thị trường khu vực quốc tế. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh thị trường trong nước còn hạn hẹp do tình trạng nuowcs nghèo, mức thu nhập và khả năng tiêu dùng còn thấp, các DNVN rất thiếu “đầu ra”. Các quan hệ thương mại và đầu tư rộng mở cũng tạo cho DNVN cơ hội và các đối tác làm ăn, cơ hội học hỏi kinh nghiệm quản lý, tiếp thu công nghệ của họ, đào tạo nguồn nhân lực cho mình và trưởng thành dần qua hợp tác và cạnh tranh. Khi nước ta tham gia WTO các cơ hội này lại càng mở rộng, những rào cản được dỡ bỏ, các DNVN sẽ có vị trí bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trên thị trường các nước. Họ sẽ có quyền không chỉ xuất nhập khẩu, tiếp nhận đầu tư, mà còn mở rộng nhiều phương thức hợp tác khác và đầu tư ra các thị trường nước ngoài, khai thác tối đa những lợi thế cạnh tranh của mình và tận dụng sự phân công lao động quốc tế, tham gia mạng lưới kinh doanh và chuỗi giá trị toàn cầu theo cách có lợi nhất cho mình. Tham gia WTO cũng thúc đẩy nước ta cải thiện mạnh mẽ môi trường pháp lý, chính sách cho kinh doanh, tạo thuận lợi cho cạnh tranh và phát triển của mọi doanh nghiệp. Thách thức không nhỏ tuy nhiên trong bước đường phát triển vừa qua cũng như trong thời gian tới, khu vực kinh tế này còn phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, trở ngại. Một là, bản thân KVKTTN và các DNTN của các nước ta nhìn chung còn nhỏ, yếu, mới hình thành, rất thiếu các nguồn lực cần thiết cũng như thiếu sự liên kết để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển. Trong DNTN của chúng ta có tới 95% thuộc quy mô nhỏ và vừa (theo tiêu chí của nước ta là có dưới 300 lao đọng và / hoặc dưới 10 tỉ đồng vốn), trong đó khoảng 50% thuộc quy mô nhỏ hoặc cực nhỏ (dưới 100 lao động và/ hoặc dưới 5 tỉ đồng vốn). Cái yếu của DNTN ở nước ta thể hiện rõ nhất ở năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh nhìn chung còn thấp so với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI) và doanh nghiệp các nước xung quanh. Họ cũng yếu hơn phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) trong cùng lĩnh vực về quy mô, về khả năng tiếp cận các nguồn lực và kinh nghiệm thương trường. Do nhỏ, yếu, DNTN nước ta vừa rất khó đương đầu với cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thị trường trong nước và quốc tế, vừa dễ bị tổn thương trước những biến động thị trường. Hơn 80% DNTN ở nước ta mới ra đời sau khi luật doanh nghiệp 1999 được thi hành lên họ còn rất thiếu kinh nghiệm thương trường, chưa đủ thời gian để trưởng thành trong khi đã phải đối phó với áp lực cạnh tranh ngày càng mạnh. Hầu hết các DNTN ở nước ta đều thiếu những nguồn lực cơ bản cần thiết cho họ: Nguồn vốn, đất đai, công nghệ, kỹ năng quản lý, nhân lực có chất lượng, thị trường, thông tin…. Và các mối quan hệ với các đối tác quan trọng. Bản thân họ không thể có đủ nguồn lực, lại gặp khó khăn rất lớn trong việc tiếp cận với các nguồn lực có sẵn ở bên ngoài doanh nghiệp, kể cả những nguồn lực được Nhà nước cam kết hỗ trợ, ưu đãi hoặc dành quyền bình đẳng khi tiếp cận. Tình trạng thiếu nguồn lực của DNTN bị kéo dài đã hạn chế rất lớn sự phát triển của họ. Tuy trong thời gian qua, DNTN đạt tốc độ phát triển nhanh trên một số lĩnh vực, nhưng điều đó cũng do điểm xuất phát của họ rất thấp. Nếu tính tới hàm lượng tăng trưởng, DNTN có so sánh được với DNNN, còn tỉnh cả về hàm lượng và chất lượng, họ có sánh được với FDI nhất là trong phát triển công nghiệp và các lĩnh vực đòi hỏi nguồn vốn lớn. Do vây, DNTN vừa khó cạnh tranh, vừa khó là đối tác bình đẳng với DNNN, FDI và doanh nghiệp các nước khác. Cho tới nay số DNTN trưởng thành, đạt quy mô kinh tế hiệu quả còn chiếm tỷ lệ rất thấp trong DNTN ở nước ta. Ngay trong số DNTN đã trưởng thành cũng không ít doanh nghiệp đang lúng túng về chiến lược và nguồn lực để tiếp tục phát triển trong thời gian tới. DNTN cũng chưa thiết lập được sự liên kết giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế với nhau trong từng ngành, giữa các ngành liên quan, hoặc trong từng vùng để tạo thế mạnh của tính hệ thống và hiệu quả của sự phối hợp. Từng DNTN mới chỉ dựa vào sức mình là chính, chưa khai thác, sử dụng được sức mạnh của sự liên kết vốn rất cần thiết, nhất là đối với các doanh nghiệp (DN) nhỏ và vừa. Thực tế đây cũng là vấn đề chung của các doanh nghiệp Việt Nam, với những mạng lưới kinh doanh chưa được hình thành đầy đủ, thiếu những doanh nghiệp thật mạnh có khả năng làm trụ cột, đầu đàn tạo sự liên kết, hợp tác vững chắc để nhân thêm sức mạnh trong cạnh tranh quốc tế. Hai là, môi trường kinh doanh trong nước còn nhiều khó khăn và thiếu bình đẳng. Tình trạng này kéo dài đã lâu nhưng chậm được khắc phục, khiến cho môi trường kinh doanh luôn là thách thức lớn nằm ngoài khả năng kiểm soát của DN. Trong môi trường kinh doanh ở nước ta hiện nay, trở ngại lớn nhất của KVKTTN và DNTN là ở 5 mặt sau: + Việc ra nhập thị trường tuy đã được cải thiện nhiều do luật doanh nghiệp nhưng vẫn còn đòi hỏi chi phí cao về tiền của và thời gian. Do vậy, vẫn còn khó khăn cho nhiều người, nhiều vùng khi muốn lập thêm DN mới. Hiện nay, ngoài khâu đăng ký kinh doanh là nhanh chóng và ít tốn kém nhất. Các doanh nghiệp ra đời còn phải qua 3 khâu (khắc dấu, đăng ký mã số thuế, mua hóa đơn) trước khi có thể bắt đầu hoạt động, với tổng thời gian 50 – 60 ngày và chi phí khoảng 3 – 5 triệu đồng, tương đương với 49% thu nhập bình quân đầu người trong 1 năm ở nước ta. Ngoài ra, quyền kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân trong một số lĩnh vực cũng còn bị hạn chế, hoặc do các qui định về điều kiện kinh doanh hoặc do qui hoạch ngành, vùng ở một số nơi, hoặc do các rào cản thực tế khác. Còn những rào cản lớn về pháp lý và hành chính trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Hệ thống luật pháp và chính sách của nước ta còn những nhược điểm: thiếu minh bạch, thiếu nhất quán, thiếu ổn định, khó tiên liệu; tổ chức thực thi lại kém. Hệ thống hành chính của ta kém hiệu quả, với tình trạng can thiệp hành chính vào hoạt động của doanh nghiệp phổ biến và kéo dài. Sự yếu kém, nhũng nhiễu của không ít công chức đã làm vô hiệu hóa những chính sách tốt và cam kết cải cách của nhà nước. Nhiều vướng mắc của doanh nghiệp trong lĩnh vực thanh tra, thuế, phí, hải quan, đất đai… kéo dài đã lâu nhưng rất chậm được giải quyết. Đó là những vấn đề chung của mọi loại hình doanh nghiệp ở nước ta, nhưng đối với doanh nghiệp tư nhân, những vấn đề này còn nặng nề hơn do sự phân biệt đối xử vẫn tồn tại trên thực tế. Tiếp cận các nguồn lực rất khó khăn và tốn kém. Như đã nêu trên, doanh nghiệp tư nhân rất kho tiếp cận với các nguồn lực cần thiết, và họ phải trả giá rất cao để tiếp cận với các nguồn lực đó. Trong khi đó, các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lại được tiếp cận dễ dàng hơn, với những điều kiện ưu đãi và chi phí thấp hơn nhiều. Thực tế này gây lên sự bất bình đẳng lớn cho DNTN, làm cho họ mất đi nhiều cơ hội thị trường, tăng rủi ro và giảm đáng kể khả năng đầu tư của họ. Chi phí kinh doanh ở nước ta khá nhanh so với các nước trong khu vực, khiến cho DNTN của ta khó có thể giảm giá thành để nâng cao năng lực cạnh tranh. Đồng thời chi phí cao cũng hạn chế khả năng sinh lời, làm giảm động lực và nguồn lực trong kinh doanh cản trở nhiều người đi vào hoạt động thương trường hoặc tích lũy thêm vốn cho đầu tư mới. So với các nước trong khu vực, chi phí kinh doanh ở nước ta cao về nhiều mặt. Các dịch vụ hạ tầng như đất đai, nhà xưởng, điện, thông tin liên lạc, giao thông vận tải… đều có mức giá cao, chất lượng dịch vụ lại thấp, khiến cho chi phí thực tế đối với doanh nghiệp càng lớn. Chi phí vốn cao về lãi suất, phí tiếp cận, lại khó vay trung hạn, dài hạn nên thêm đắt đỏ cho các doanh nghiệp cần vốn để đầu tư. Chi phí hành chính, chỉ cho các dịch vụ cần thiết, nhiều khoản chi không được tính vào giá thành để trừ thuế…. Càng làm tăng chi phí thực tế của doanh nghiệp. Những nguyên nhân cơ bản của tình trạng chi phí kinh doanh cao ở nước ta như quản lý yếu kém, độc quyền kinh doanh của một số doanh nghiệp nhà nước trong một số lĩnh vực… chậm được khắc phục, nên tình trạng này kéo dài và trở thành gánh nặng lớn đối với doanh nghiệp tư nhân. Thiếu hệ thống dịch vụ và tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp. Hệ thống dịch vụ phát triển kinh doanh, hệ thống tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp rất cần thiết đối với khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các doanh nghiệp phi hình thức. Ở nước ta, cả 2 hệ thống này đều chưa được phát triển, vừa thiếu, vừa yếu, vừa kém về chất lượng. Thách thức của môi trường kinh doanh quốc tế trong tiến trình hội nhập. Là nước đi sau, doanh nghiệp tham gia sâu vào thị trường thế giới, nước ta và các doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân gặp không ít trở ngại trong quan hệ với cộng đồng kinh doanh quốc tế trên thế giới. Trước hết, môi trường kinh doanh quốc tế chứa đựng nhiều điều kiện không thuận lợi cho các nước đang phát triển như nước ta. Sự bất công, bất bình đẳng không những không giảm mà còn có chiều hướng tăng lên trên nhiều lĩnh vực. Các nước lớn, các công ty đa quốc gia nắm quyền chi phối thị trường đã luôn tìm cách lái thị trường thế giới theo hướng có lợi cho họ. Trong khi các nước đang phát triển luôn luôn gặp sức ép đòi phải mở cửa thị trường, thì trong thực tế các rào cản thuế và phi thuế, các hàng rào kỹ thuật lại càng được các nước phát triển dựng lên nhiều hơn, gây trở ngại cho xuất khẩu của các nước đang phát triển.Nước ta và khu vực kinh tế tư nhân của nước ta thậm chí còn phải chịu sự phân biệt đối xử từ những thủ tục như chứng minh năng lực sản xuất, kiểm tra tại doanh nghiệp… do một số nước bạn hàng tạo thêm. Trong điều kiện như vậy, khoảng cách với bạn hàng, sự hạn chế của khu vực kinh tế tư nhân do thiếu thông tin, hiểu biết, kinh nghiệm, kỹ năng, phương tiện trong kinh doanh quốc tế càng đẩy chúng ta vào thế khó khăn hơn. Trong tiến trình hội nhập quốc tế hiện nay, chúng ta còn đang bị sức ép rất lớn về thời gian. Nước ta cần hội nhập sớm, nhưng doanh nghiệp ta lại có quá ít thời gian để chuẩn bị. Chúng ta phải chấp nhận cạnh tranh toàn cầu ngày từ bây giờ, trong khi năng lực cạnh tranh của chúng ta còn thấp và phải mất nhiều thời gian công sức để cải thiện. Chúng ta phải cố gắng để theo kịp trình độ phát triển ở một số nước khác, nhưng do thế giới bên ngoài thay đổi nhanh, nên tốc độ và chất lượng thay đổi của chúng ta khó theo kịp họ. Dù tốc độ tăng trưởng GDP, tăng trưởng xuất khẩu của nước ta hiện nay khá cao, thì hàm lượng tăng nhỏ hơn, năng suất lao động thấp hơn nhiều nước khác, trên thực tế chúng ta vẫn đang thụt lại xa hơn sau họ. Thực tế đó còn khiến chúng ta còn kém khả năng đối phó với các khả năng biến động của thị trường và dễ bị tổn thương hơn… Nhìn chung, chặng đường trước mắt của KVKTTN của nước ta còn rất dài và đầy gian nan. Tuy nhiên, với quyết tâm cao và đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam, với lực lượng doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đang trưởng thành, đầy ý chí vươn lên làm giàu cho mình và cho đất nước, với bản lĩnh và tài năng của mình, với sự liên kết hợp tác ngày càng phát triển giữa các doanh nghiệp Việt Nam với nhau và với cộng đồng kinh doanh quốc tế, chắc chắn KVKTTN Việt Nam sẽ vượt qua mọi thách thức, giành những thắng lợi lớn hơn trong kinh doanh, phát triển nhanh và vững chắc để làm một động lực mạnh đưa nền kinh tế nước ta phát triển và hội nhập. PHẦN III- GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ TRONG TƯƠNG LAI Để khai thác phát huy tốt hơn các nguồn lực nhằm khuyến khích phát triển KTTN trong thời gian tới chúng ta cần tập trung giải quyết các vấn đế sau 1. Nắm vững các quan điểm về phát triển kinh tế tư nhân + Khẳng định kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, phát triển mạnh kinh tế tư nhân được coi là chiến lược lâu dài trong chiến dịch phát triển kinh tế nhiều thành phần của nước ta. + Tôn trọng và phát huy quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi và định hướng quản lý sự phát triển của kinh tế tư nhân theo pháp luật + Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, phát huy vai trò quản lý của đoàn thể, mặt trận tổ quốc đặc biệt là vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp đối với sự phát triển của kinh tế tư nhân 2. Tạo môi trường thuận lợi về thể chế và tâm lý xã hội cho sự phát triển kinh tế tư nhân + Chúng ta cần sửa đổi bổ sung và hoàn thiện luật doanh nghiệp với một số quy định còn mang tính phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế + Xác định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước trong việc đăng ký kinh doanh và quản lý hoạt động của kinh tế tư nhân 3. Ban hành chính sách thúc đẩy sự phát triển kinh tế tư nhân + Chính sách thừa nhận sự tồn tại và phát triển lâu dài, bảo hộ sở hữu và lợi ích hợp pháp của kinh tế tư nhân. Thực hiện bình đẳng giữa kinh tế tư nhân và các thành phần kinh tế khác + Chính sách tập trung sản xuất nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm thuộc khu vực kinh tế tư nhân + Chính sách đào tạo nguồn nhân lực và sử lý quan hệ lao động trong khu vực kinh tế tư nhân 4. Giải pháp thúc đẩy sự phát triển của kinh tế tư nhân + Hoàn thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện huy động mọi nguồn lực của dân cư và đầu tư phát triển, khuyến khích doanh nghiệp tư nhân mở rộng và nâng._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35835.doc
Tài liệu liên quan