Mục lục
Trang
Lời mở đầu
Lịch sử loài người đã trãi qua nhiều phương thức sản xuất. Trong đó phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được hình thành và ngày càng mở rộng, phát triển và hoàn thiện hơn.
Tư bản chủ nghĩa đã trãi qua thời kỳ tự do cạnh tranh. Thời kỳ mà con người tư do buôn bán và sự cạnh tranh giữa những người sản xuất nhỏ, giữa những nhà tư bản vừa và nhỏ.
C.Mác và Ph.Ănghen đã chứng tỏ rằng:tự do cạnh tranh sinh ra tích tụ và tập trung sản xuất, tích tụ và tập trung sản xuất đ
35 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1558 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Kinh tế tư bản hiện đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ến một mức độ nào đó sẽ dẫn đến độc quyền.
Trong chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện các tổ chức độc quyền là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản lớn để tập trung vào tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hoá nào đó nhằm mục đích thu được lợi nhuận độc quyền cao. Và các tổ chức độc quyền ngân hàng ra đời. Sự hợp nhất giữa tư bản ngân hàng của một số ít ngân hàng độc quyền lớn nhất với tư bản của những liên minh độc quyền các nhà công nghiệp tạo thành tư bản tài chính. Và sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ độc quyền chi phối toàn bộ đời sống kinh tế và chính trị của toàn xã hội tư bản gọi là bọn đầu sỏ tài chính. Bên cạnh đó còn xuất hiện các hiện tượng xuất khẩu tư bản, sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền, sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc.
Trong chủ nghĩa tư bản độc quyền thì sự xuất hiện của chủ nghĩa độc quyền Nhà nước là một tất yếu khách quan, là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư bản thành một thiết chế và thể chế thống nhất nhằm phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản.
Cái mốc báo hiệu sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản hiện đại là một tất yếu kinh tế, là cuộc khủng hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa 1929-1933. Nhưng tới sau chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa tư bản hiện đại mới xuất hiện với những đặc trưng khác về chất so với chủ nghĩa tư bản cổ điển.
Ngày nay chủ nghĩa tư bản vẫn là chủ nghĩa tư bản độc quyền, song đã có sự phát triển lên nấc thang mới và có tính quốc tế. Nó phản ánh một giai đoạn mới về chất trong lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản, đó là giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước với những đặc trưng mới. Nó luôn luôn vận động và có những biến đổi. Vì vậy việc nghiên cứu chủ nghĩa tư bản hiện đại là quan tâm của nhiều người.
Bản thân đang là một sinh viên của trường Đại hoc Kinh tế quốc dân, và tương lai là một cử nhân kinh tế. Em mong muốn đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình cùng xây dựng đất nước ngày một giàu mạnh hơn, nền kinh tế phát triển hơn, và đời sống người dân tốt hơn.Vì thế, bản thân em nhận thấy mình cần hiểu rõ hơn về chủ nghĩa tư bản ngày nay cũng như những đặc trưng của nó, nhất là ngày nay khi mà thế giới đang ngày một biến đổi và kinh tế chủ nghĩa tư bản vẫn là một hệ thống lớn mạnh chi phối rất lớn nền kinh tế thế giới.Vì vậy, em đã chọn đề tài này:” kinh tế tư bản hiện đại”. Do giới hạn về thời gian và tầm hiểu biết nên trong bài viết này không tránh khỏi sự thiếu sót và hạn chế. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp và sữa chữa của các thầy cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn !
Nội dung
Có thể nói từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay chủ nghĩa tư bản đã bước sang một giai đoạn phát triển mới với những đặc trưng kinh tế mới được biểu hiện rõ nét trong lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Trong chủ nghĩa tư bản thì lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau,mối quan hệ biện chứng. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì nó sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, nếu quan hệ sản xuất lỗi thời sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trong mối quan hệ này lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất phải thay đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên quan hệ sản xuất cũng tác động ngược trở lại lực lượng sản xuất, nó quy định mục đích sản xuất,ảnh hưởng lợi ích và thái độ của người lao động trong sản xuất.
Thực tế cho thấy không có sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội thì không có sự phát triển của quan hệ sản xuất xã hội, không có sự phát triển chưa từng thấy của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước. Mặt khác, không có sự điều chỉnh của chủ nghĩa độc quyền Nhà nước đối với quan hệ sản xuất xã hội thì cũng không thể có bước phát triển của lực lượng sản xuất sau chiến tranh. Trong chủ nghĩa tư bản ngày nay, cùng với sự điều tiết của Nhà nước đã có những biến đổi trong lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng như sự biến đổi trong hệ thống kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa hiện nay.
I- Sự biến đổi trong lực lượng sản xuất
1. Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của xã hội nhất định, ở một thời kỳ nhất định. Nó biểu hiện trình độ sản xuất của con người, năng lực hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm: tư liệu sản xuất và con người với tri thức và phương pháp sản xuất, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen của họ.
Trong quá trình sản xuất, tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động có vai trò rất quan trọng. Trong quá trình lao động con người sử dụng tư liệu lao động tác động lên đối tượng lao động để làm thay đổi hình thái của nó cho phù hợp với mục đích của con người. Khi xã hội phát triển đi lên, tầm nhận thức của con người ngày một sâu sắc, cũng như nhu cầu càng tăng thì tư liệu sản xuất cũng ngày một phong phú, đa dạng. Nó không chỉ là những công cụ thô sơ, thiết bị cơ khí hoá mà thay vào đó là các công cụ thiết bị tự động hoá. Nhất là khi khoa học công nghệ càng phát triển thì tư liệu sản xuất được cải tiến đi lên những trình độ mới ngày càng hiện đại. Cùng với những thành tựu khoa học thì trình độ của người lao động được nâng lên tầm cao mới như phương pháp, kỹ năng, kỹ xảo được phát huy, đặc biệt là thời đại ngày nay với nền kinh tế trí thức.
Có thể nói lực lượng sản xuất là cơ sở tồn tại của loài người, đồng thời là lực lượng quyết định, thúc đẩy xã hội loài người phát triển không ngừng. Vì đó là năng lực được tạo ra bởi sự kết hợp giữa lao động với tư liệu lao động để tạo ra của cải vật chất và tinh thần không những để con người tồn tại mà còn nhằm thoả mãn những nhu cầu ngày càng tăng, càng đa dạng, phong phú của con người thúc đẩy xã hội loài người phát triển.
Cùng dòng chảy của thời gian và sự phát triển của thời đại thì lực lượng sản xuất ở mỗi thời kỳ khác nhau cũng khác nhau, ngày một phàt triển đi lên và mang những đặc điểm riêng.Ngày nay, biểu hiện nổi bật nhất củ chủ nghĩa tư bản là sự phát triển như vũ bão của lực lượng sản xuất và kéo theo những thay đổi trong xã hội.
2. Biến đổi các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất:
2.1. Biến đổi trong khoa học - công nghệ:
Đặc trưng của tư bản chủ nghĩa là sở hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất.Ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và ngày càng phát triển thì tư liệu sản xuất cũng đa dạng và phát triển mạnh.
Sự phát triển của máy móc, thiết bị và đối tượng lao động:
Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất thì tư liệu sản xuất không thể thiếu đối với người lao động. Trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản thì công cụ lao động cũng đang còn thô sơn như máy kéo sợi, máy hơi nước… cũng như đối tượng lao động giản đơn hầu như là lấy trong tự nhiên xung quanh con người, như gỗ trong rừng, quặng trong lòng đất…và một số loại trải qua lao động, cải biến, như:vải để may mặc, sắt thép để chế tạo máy…
Cuộc đại chiến thế giới thứ hai là một tai hoạ lớn trong lịch sử loài người xong nó lại có tác dụng thúc đẩy tới sự phát triển của khoa học kỹ thuật, máy móc thay thế dần cho các công cụ thô sơ. Các quốc gia đã tập trung nghiên cứu kỹ thuật quân sự, phát minh vũ khí, thiết bị chiến tranh như tên lửa, máy bay, bom tử… và các phát minh này được áp dụng trong đời sống, trong quá trình sản xuất sau này. Bên cạnh đó, nhờ sự cạnh tranh độc quyền quyết liệt, chạy đua vũ trang, chủ nghĩa độc quyền Nhà nước đã thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật và trở thành lực lượng sản xuất xã hội- một bộ phận năng động nhất của lực lượng sản xuất hiện đại từng bước thay thế lực lượng sản xuất thô sơ bằng các tư liệu sản xuất hiện đại dựa trên thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Nó không chỉ nổ ra ở các ngành động lực, chế tạo máy mà còn xâm nhập vào mọi mặt của đời sống loài người như công nghiệp, nông nghiệp, năng lượng, giao thông, dịch vụ, môi trường sinh thái…mà tập trung ở các lĩnh vực điện tử, tin học ,công nghệ thông tin, vật liệu mới, năng lượng, vũ trụ học, hải dương học, công nghệ sinh học…thể hiện trong những thiết bị siêu nhỏ, siêu nhẹ, siêu bền…tác dụng nhanh, hiệu quả cao, tiêu tốn ít năng lượng như thiết bị điện tử, con chip…Bên cạnh đó, bước phát triển mới của cuộc cách mạng khoa học -công nghệ đã đưa sản xuất và đời sống con người vượt ra những hạn chế của nguồn tài nguyên. Ngày nay, khi mà nhu cầu của con người càng lên cao, con người sử dụng nhiều nguồn năng lượng, và tài nguyên thiên nhiên khan hiếm và đang trong tình trạng suy thoái thì việc tạo ra các nguồn năng lượng mới thay thế cho các nguồn năng lượng cũ là rất cần thiết. Cùng với sự phát triển của tư liệu sản xuất thì sự ra đời của các vật liệu tổng hợp không những giúp con người giảm sự phụ thuộc vào tự nhiên thiên nhiên không tái sinh được mà còn cung cấp cho con người nguồn vật liệu mới-nguyên vật liệu “nhân tạo”, tính năng ưu việt hơn và tái sinh được. Sự ra đời và xuất hiện các loại vật liệu này ngày càng trở nên quan trọng đối với sự phát triển sản xuất xã hội và tiến bộ khoa học công nghệ.
Phát triển những công nghệ mới đẩy mạnh quá trình tự động hoá:
Sự đột phá của cuộc cách mạng khoa học công nghệ là nhanh chóng và không ngừng tạo ra, hình thành, phát triển công nghệ mới như:công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ năng lượng đã đưa nền sản xuất cơ khí của chủ nghĩa tư bản bước vào giai đoạn tự động hoá. Máy móc đã dần thay thế cho lao động của con người, đặc biệt là việc sử dụng rộng rãi người máy ở các nước tư bản phát triển, như năm 1990 ở Nhật đã sử dụng khoảng 270 ngàn người máy, Mỹ khoảng 40 ngàn, Đức khoảng 30 ngàn. Hệ thống máy móc, thiết bị điện tử sản xuất theo công nghệ dây truyền nên tạo nên mối liên hệ giữa các ngành càng mật thiết, tinh vi hơn. Hàng ngàn công nhân, nhà khoa học phải hiệp đồng với nhau, nỗ lực cùng nhau làm cho hoạt động sản xuất trôi chảy.
Vai trò của khoa học công nghệ được đánh giá khá cao và được thực tiễn chứng minh. Sự thay đổi của nó đã đóng góp tới 65% tăng trưởng kinh tế Nhật, 73% kinh tế Anh, 76% kinh tế Pháp và Cộng hoà liên bang Đức, 35% tăng trưởng kinh tế Mỹ.
2.2 Biến đổi trong kết cấu ngành:
Cùng với sự biến đổi của công nghệ thì kết cấu các ngành cũng được dịch chuyển, nâng cấp nhanh. Các ngành công nghiệp mới dựa trên cơ sở khoa học kỹ thuật hiện đại ra đời và phát triển rất nhanh, trở thành những ngành tiên phong, chủ đạo của sự phát triển kinh tế xã hội như bưu chính viễn thông. Bên cạnh đó các ngành công nghiệp truyền thống phần lớn là những ngành công nghiệp cơ sở, không thể thiếu đối với nền tái sản xuất xã hội đã độ cải thiện không ngừng. Tuy nhiên,cơ cấu ngành thay đổi, chuyển dịch, nâng cấp nhanh lên trình độ mới phù hợp với nền sản xuất hiện đại, kỹ thuật cao, hàm lượng trí tuệ lớn. Và biểu hiện ở ba ngành:công nghiệp, nông nghiệp, ngành kinh tế phục vụ không sản xuất vật chất.
Ngành nông nghiệp:
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nông nghiệp ở các nước tư bản phát triển đã ứng dụng thanh quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, sử dụng rộng rãi thiết bị máy móc tiên tiến, phân bón, kỹ thuật điện tử, sinh học, di truyền đặc biệt trong trồng trọt và chăn nuôi để giảm bớt sức lao động chân tay .Đồng thời trình độ chuyên môn hoá phát triển mạnh và hệ thống phục vụ nông nghiệp ngày càng hiện đại. Tuy nhiên tỷ trọng nền nông nghiệp giảm xuống rất nhanh,từ năm: 1910-1949 mỗi năm giảm 0,8%, năm 1945-1990 mỗi năm giảm 4,8%. Và tỷ trọng ngững năm gần đây xu hướng giảm bắt đầu dịu đi, như Mỹ-một nước tư bản phát triển mạnh, thập kỷ 50 giảm với tốc độ 5,5%, còn thập kỷ 80 là: 1,1%. Tuy nhiên nhờ sự áp dụng khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp thì sản lượng nông nghiệp tăng rất nhanh. ở Mỹ năm 1990 so với năm 1950 giá trị sản lượng nông nghiệp Mỹ cao hơn 4,8 lần, trình độ sản lượng nông nghiệp cao hơn 1,92 lần.
Ngành công nghiệp:
Bên cạnh sự phát triển của nền nông nghiệp thì cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp ngày nay vô cùng phức tạp, nhất là sau chiến tranh thế giới thứ hai, các ngành có kỹ thuật cao, như: kỹ thuật điện tử, vật liệu mới, năng lượng mới, sinh học…đặc biệt là ngành điện tử dần thay thế cho các ngành công nghiệp tăng trưởng nhanh trong thập kỷ 50 như xe hơi, dụng cụ điện gia đình…Trong khi đó các ngành nghề truyền thống như:than, chế tạo máy,dệt…giảm tương đối. Việc đầu tư vào các thiết bị và nhà xưởng tăng để cải tạo kỷ thuật cũ và nâng cao trình độ tự động hoá. Ngay sau chiến tranh thế giới thứ hai, ngành công nghiệp phát triển mạnh, xong dần dần bị thu hẹp bớt, thay vào đó là sự đi lên của ngành du lịch, dịch vụ.
Ngành kinh tế phục vụ không sản xuất vật chất:
Cùng với sự thay đổi của công nghiệp và nông nghiệp thì sau chiến tranh thế giới cùng với sự thúc đẩy của khoa học -công nghệ và sự nâng cao trình độ sản xuất toàn diện của chủ nghĩa tư bản làm ngành kinh tế phục vụ không sản xuất vật chất không ngừng phát triển,không những vượt ngành công nghiệp, nông nghiệp về mặt tỷ trọng mà cơ cấu của nó còn có xu hướng hiện đại do hàm lượng tri thức và kỹ thuật trong nội bộ ngành không ngừng gia tăng. Nó xâm nhập vào đời sống của con người: phục vụ truyền thống, nghiên cứu khoa học, phục vụ cho sự phát triển và đời sống của con người cũng như tổ chức và quản lý đời sống kinh tế xã hội. Bên cạnh đó, tốc độ tích luỹ tư bản của ngành này tăng lên rất mạnh, mức của nó trong tổng lượng tích luỹ tư bản toàn xã hội không ngừng mở rộng.
Xu hướng chung của ba ngành trong phạm vi trên toàn thế giới là ngành nông nghiệp không ngừng thu nhỏ lại, tỷ lệ ngành công nghiệp từ mở rộng đi đến thu nhỏ lại, tỷ lệ ngành kinh tế phục vụ không sản xuất không ngừng mở rộng.
3. Biến đổi cơ cấu lao động
3.1. Nguồn lao động
Trong chủ nghĩa tư bản, mục tiêu và quan tâm là giá trị thặng dư. Sau chiến tranh, chủ thể sản xuất ra giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản vẫn là thành phần làm thuê đã có nhiều thay đổi, vừa có người lao động trong ngành trực tiếp sản xuất vật chất vừa có cả người lao động trong ngành sản xuất phi vật chất; vừa có người lao động chân tay, vừa có người lao động trí óc mà lao động trí óc ngày càng có vai trò quan trọng trong tiêu hao lao động sống. Đặc biệt sự chào đời của thời đại kinh tế tri thức, với những con người trí thức. Ngày nay, khi khoa học-công nghệ đang phát triển mạnh thì tri thức của con người càng được đánh giá cao. Lượng người lao động trí óc tăng lên, người lao động chân tay giảm xuống.
Việc áp dụng kỹ thuật mới trong các ngành sản xuất vật chất đã nâng cao đột ngột năng suất lao động và tạo ra điều kiện đưa lao động sang các ngành phi sản xuất. Trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ, cơ cấu người lao động làm thuê biến động nhanh chóng. Với nền kinh tế dựa trên nguồn lực thông tin ngay càng nhiều và các ngành có hàm lượng tri thức, công nghệ cao thì ngoài số lao động trong các ngành sản xuất vật chất, người làm trong các ngành lao động trí lực ngày càng có vai trò lớn trong việc tiêu hao lao động sống, tạo ra giá trị thặng dư cho xã hội tư bản. Nên quá trình người lao động được giáo dục, nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật như một tất yếu, với một nhịp độ ngày càng phát triển nhanh. Ngày nay, với nền sản xuất dần dần từng bước chuyển sang nền “sản xuất tri thức”, vai trò của nguồn nhân lực càng trở nên quan trọng. Khi đại bộ phận con người đều có văn hoá và tri thức khoa học thì đó là lực lượng quyết định hướng đi của xã hội. Xu hướng hiện nay là lao động trí lực, lao động khoa học, kỹ thuật, lao động phi sản xuất trực tiếp tăng nhanh, lao động có kỹ năng thấp, ít được đào tạo giảm nhanh vai trò trong sản xuất giá trị thặng dư và dần dần bị loại bỏ khỏi danh mục nghề nghiệp ở các nước tư bản. Như Mỹ:năm 1960 số công nhân lành nghề văn phòng, số công nhân kỹ thuật tương ứng là:19%, 16% thì đến năm 1995 tăng lên:20%, 17%.
Để nâng cao trình độ khoa học, đào tạo đội ngũ lao động lành nghề, các nước tư bản đã tăng cường đầu tư vào việc nghiên cứu và triển khai, thực hiện hợp tác quốc tế trong những trương trình nghiên cứu mang tính chiến lược, thực hiện cải cách giáo dục…Thông qua giáo dục, bồi dưỡng chuyên môn. khoa học kỹ thuật được chuyển há vào người lao động; khi nắm được phương pháp, kỹ năng kỹ xảo lao động chế tạo và điều khiển công cụ lao động, quy trình công nghệ mới,người lao động trở thành công nhân lành nghề hoặc người làm công tác kỹ thuật.Viêc chi cho giáo dục ở Mỹ chiếm: 7,65%GDP,Đức: 4,1% GDP,Pháp: 2,34% GDP. Không những thế các nước tư bản phát triển trên thế giới có những chính sách thu hút vốn lao động có trình độ cao ở các nước trên thế giới. Vì thế lực lượng lao động có chuyên môn cao ngày càng tăng lên ở các nước tư bản phát triển.
Lao động trí óc ngày càng giữ vao trò quan trọng đối với sự phát triển lực lượng sản xuất, cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ làm cho chủ nghĩa tư bản phát triển lên một tầm cao mới-chủ nghĩa tư bản hiện đại. Nếu như sản lượng công nhân thế giới năm 1700-1970 tăng 1,73% lần thì từ 1970 đến thập kỷ 80 sản lượng công nhân tăng gần gấp đôi( gần 3,0416 lần).
3.2. Biến đổi cơ cấu lao động:
Cùng với sự phát triển của con người và sự biến đổi cơ cấu ngành: tỷ trọng của ngành sản xuất vật chất công nông nghiệp trong nền kinh tế giảm, tỷ trọng những ngành sản xuất phi vật chất tăng lên đã kéo theo sự biến đổi cơ cấu lao động trong ngành.
Khi khoa học- công nghệ phát triển tương đối cao thì ngành công nghiệp và nông nghiệp có nguồn lao động tương đối cao chỉ dùng một số lượng người làm ít để làm ra nhiều sản phẩm đã tạo cho sự phát triển của ngành thứ ba (ngành sản xuất phi vật chất) có một cơ sở vật chất vững chắc, thu hút mạnh mẽ sức lao động từ lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp di chuyển đến.
Cơ cấu lao động thay đổi theo chiều hướng tiến bộ và các yếu tố tái sản xuất tư bản chủ nghĩa một cách có hiệu quả. Trong dịch vụ lao động tập trung cao chiếm khoảng 70-75%, đồng thời đội ngũ chuyên gia có tay nghề cao chủ yếu tập trung ở khu vực này. Năm 1990, một số nước tư bản chủ nghĩa phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Đức phân bố lực lượng lao động kỹ thuật có tay nghề cao vào các khu vực dịch vụ, khu vực công nghiệp, khu vực nông nghiệp lần lượt là:77,6%; 21,9%; 0,5%.
Trong ba thập kỷ gần đây, ngành thứ ba tăng trưởng nhanh chóng và do đó tạo ra mức độ tập trung vốn và lao động ngày càng cao trong các ngành dịch vụ. Trong thời kỳ 1960-1989, tỷ trọng số lao động làm việc trong ngành nông nghiệp và công nghiệp trong tổng lao động cả nước Mỹ giảm bình quân hàng năm rương ứng là 3,3% và 1,3%; Trong khi đó tỷ trọng lao động trong ngành sản xuất phi vật chất tăng bình quân 1,2%, đặc biệt đến đầu thập kỷ 90, lao động của ngành này hầu hết ở các nước tư bản phát triển đã chiếm 75% tổng số người lao động làm việc và đóng góp từ 60% đến 70%GNP.
Theo thời gian, cùng với sự thay đổi của thời đại, lưc lượng sản xuất cũng thay đổi cả về yếu tố vật chất lẫn cơ cấu lao động đã làm xã hội tư bản lên một tầm cao mới-xã hội tư bản hiện đại.
II- Sự biến đổi về quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản
1. Quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm xã hội.Trong quá trình sản xuất, con người không chỉ có quan hệ với tự nhiên, tác động vào tự nhiên mà còn có quan hệ với nhau, tác động lẫn nhau. Hơn nữa chỉ có trong quan hệ tác động lẫn nhau thì con người mới có sự tác động vào tự nhiên và mới có sản xuất. Quá trình sản xuất trãi qua bốn giai đoạn: sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm. Bốn giai đoạn bị chi phối lẫn nhau, thúc đẩy nhau phát triển. Để tạo thành một quy trình giai đoạn thì con người đều có tác động với nhau, kết hợp với nhau và đã tạo ra mối quan hệ giữa người với người.
Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội, biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trên ba mặt chủ yếu: quan hệ sở hữu là quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội; quan hệ tổ chức quản lý là quan hệ giữa người với người trong việc tổ chức quản lý sản xuất xã hội và trong trao đổi hoạt động cho nhau; quan hệ phân phối lưu thông là quan hệ giữa người với người trong phân phối và lưu thông sản phẩm xã hội. Chúng có mối quan hệ mật thiết,tác động qua lại lẫn nhau. Trong đó quan hệ sở hữu đóng vai trò quyết định. Tuy vậy, quan hệ tổ chức quản lý và phân phối lưu thông cũng có tác động trở lại quan hệ sở hữu.
Quan hệ sản xuất mang tính khách quan, không phụ thuộc vào ý trí chủ quan của con người. Trong tính hiện thực của nó không phải là những quan hệ ý chí, pháp lý mà là quan hệ kinh tế được biểu hiện thành các phạm trù, quy luật kinh tế. Ngày nay, với sự phát triển như vũ bảo của khoa học công nghệ làm quan hệ sản xuất thay đổi theo.
2. Biến đổi các hình thức sở hữu
2.1. Các hình thức sở hữu
Nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là nền kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất bao gồm sở hữu tư bản tư nhân và sở hữu của người sản xuất nhỏ. Hình thức sở hữu tư nhân bao gồm hình thức chủ sở hữu là các nhà tư bản tư nhân, kinh doanh trong các ngành từ nông nghiệp, công nghiệp, đến dịch vụ và hình thức sở hữu của các nhà sản xuất nhỏ từ nông nghiệp, dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp. Trong đó hình thức sở hữu tư bản tư nhân vẫn đóng vai trò thống trị trong tư bản chủ nghĩa.
2.2. Sự biến đổi
Dưới tác dụng của cuộc cách mạng khoa học công nghệ quan hệ sở hữu đã có nhiều biến đổi to lớn về các mặt: chủ sở hữu, đối tượng sở hữu và đặc biệt là hình thức sở hữu.
Chủ sở hữu:
Chủ sở hữu không đơn thuần là một chủ sở hữu của một doanh nghiệp,công ty mà là nhiều chủ sở hữu. Hiện nay, xu thế hoá toàn cầu càng mở rộng, khoa học kỹ thuật phát triển đòi hỏi phải có nguồn vốn khổng lồ vượt qua khỏi khả năng của một chủ thể. Vì vậy hình thức góp vốn là rất cần thiết. Đặc biệt là hình thức cổ đông, đồng sở hữu, hình tức bán cổ phiếu có các nhà tư bản lớn, tư bản nhỏ, và các công nhân cùng tham gia để thu hút vốn đầu tư trong xã hội, kể cả nguồn vố nhàn rỗi, cũng để thu hút sự quan tâm hơn của người lao động đối với công ty.
Đối tượng sở hữu:
Bên cạnh đó đối tượng sở hữu cũng có sự biến đổi. Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, đối tượng sở hữu không còn bị hạn chế trong việc sở hữu tư liệu sản xuất( hiện vật) mà còn sở hữu về mặt giá trị đặc biệt là sở hữu trí tuệ có vai trò đặc biệt quan trọng. Vì chính giá trị sinh ra mọi của cải của xã hội.
Hình thức sở hữu:
Cùng với sự thay đổi của chủ sở hữu và đối tượng sở hữu thì hình thức sở hữu cũng có nhiều thay đổi. Nó là một đặc trưng rất cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày nay.
Sở hữu tư nhân bao gồm: sở hữu tư bản tư nhân và sở hữu của nhà sản xuất nhỏ. Trong đó hình thức sở hữu tư bản tư nhân giữ địa vị thống trị trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên hình thức này đã có sự biến đổi lớn, đặc biệt là tính độc lập tương đối trong hình thức sở hữu tư nhân thuần tuý đã bị mất dần và thay vào đó là hình thức sở hữu hỗn hợp gồm có sở hữu tập đoàn tư nhân, sở hữu xã hội và sở hữu tập thể cũng như sở hữu liên hợp giữa nhà nước và các nhà tư bản.
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các nhà tư bản lớn đã từng bước thôn tính các doanh nghiệp vừa và nhỏ, lôi cuốn chúng vào một quỹ đạo dưới những hình thức khác nhau theo chế độ tham dự. Giữa các doanh nghiệp thành viên này có những mối liên hệ ở mức độ khác nhau, theo những chức năng riêng. Như ở Mỹ có một công ty hàng đầu về điện dân dụng là công ty General- Electric, có khoảng 3200 xí nghiệp thành viên, thực hiện những chức năng ,nhiệm vụ khác nhau.
Trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, độc quyền nhà nước đã ra đời tồn tại cùng với độc quyền tư nhân. Hình thức sở hữu độc quyền cũng đã có sự biến đổi, nó không còn là độc quyền thuần túy mà ở các dạng hỗn hợp dưới các hình thức sở hữu tư bản tài chính, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, các công ty xuyên quốc gia.
Sở hữu tư bản tà chính:
Sở hữu tư bản tài chính là hình thức sở hữu hỗn hợp tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp do quá trình tích tụ và tập trung sản xuất đưa tới. Ngày nay, tư bản tài chính đã có sự thay đổi về mặt cơ cấu, cách thức huy động vốn và ngày càng mang tính quốc tế hoá cao. Tư bản tài chính đã lôi cuốn hầu như toàn bộ tư bản ở các ngành sản xuất, lưu thông vào cơ cấu tổ chức của mình, hình thành nên một cơ cấu mang tính hỗn hợp. Cùng với quá trình tích tụ và tập trung tư bản trong ngân hàng thì hình thức phi ngân hàng cũng đã tăng lên trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ như thành lập các công ty cổ phần kinh doanh tiền tệ, thị trường tư bản cho vay và chứng khoán để thu hút tiền tiết kiệm, việc cấp vốn của nhà nước, doanh nghiệp, dân cư. Quan hệ sở hữu cổ phần của tư bản tài chính ngày càng được sử dụng rộng rãi, làm cho cổ phần của các nhà tư bản cá biệt thành nhà tư bản hỗn hợp, sở hữu của cá nhân tư bản thành sở hữu của nhà tư bảnn hỗn hợp, ồng thời nâng cao tính quốc tế hoá.
Sở hữu độc quyền Nhà nước:
Bên cạnh đó, hình thức sở hữu độc quyền Nhà nước là một hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đây là sở hữu tập thể của giai cấp tư bản độc quyền. Nó được hình thành thông qua nhiều con đường khác nhau như quốc hữu hoá, xây dựng mới, mua lại, một phần xí nghiệp tư bản…vốn của nó cũng được tạo từ nhiều con đườn khác nhau như thuế,công tráI,tiết kiệm,tích luỹ...Tuy nhiên sở hữu độc quyền nhà nước là một công cụ có vị trí trọng yếu để nhà nước can thiệp vào nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho sở hữu tư bản tư nhân tự do phát triển.Đây là hình thức phù hợp với tính chất xã hội hoá của sản xuất, là hình thức giải quyết mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá của sản xuất với hình thức chiếm hữu hoá tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Các công ty xuyên quốc gia:
Do quá trình tích tụ và tập trung sản xuất ngày càng mạnh, cùng với những điều kiện quốc tế hoá sản xuất, các tổ chức độc quyền quốc gia đã vượt ra khỏi giới hạn quốc gia trở thành các công ty xuyên quốc gia. Thông qua con đường này các công ty xuyên quốc gia ngày càng thâu tóm nhiều tư liệu sản xuất, vốn, trí tuệ quốc tế, tạo ra nhiều hình thức mang tính quốc tế hoá. Hơn nữa, các công ty này khi ra khỏi quốc gia đã thực hiện liên kết với nhau, góp vốn để thu hút được kỹ thuật mới, kinh nghiệm, cũng như năng lực làm việc. Hiện nay đã có khoảng 70% xí nghiệp liên doanh góp vốn với tỷ lệ khác nhau. Khi xu hướng quốc tế hoá ngày càng cao thì hình thúc sở hữu độc quyền xuyên quốc gia là hình thức sở hữu hỗn hợp và đã được quốc tế hoá càng cao.
Ngày nay, khi khoa học công nghệ càng lên cao, lực lượng sản xuất cang phát triển thì các hình thức quan hệ sở hữu cũng thay đổi, ngày càng được quốc tế hoá để phù hợp với lực lượng sản xuất.
3. Hình thức quản lý
3.1. Hình thức quản lý tư bản chủ nghĩa
Hình thức quản lý tư bản chủ nghĩa là hình thức nhằm điều chỉnh hành vi, hoạt động của con người để phù hợp với lực lượng sản xuất.
Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước là mặt biến đổi quan trọng trong quan hệ quản lý và là đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa tư bản đương đại. Chủ nghĩa tư bản Nhà nước chính là sản phẩm của sự phát triển hợp logic của độc quyền trong điều kiện tích tụ và tập trung sản xuất cao độ, là sự dung hợp giữa nhà nước tư sản và các tổ chức độc quyền, hình thành một cơ cấu thống nhất, hoạt động theo cơ chế nhất định nhằm bảo vệ sự tồn tại và lợi ích của giai cấp tư sản, trước hết là của các tổ chức tư bản độc quyền.
3.2. Biến đổi trong hình thức quản lý
Cùng với những biến đổi về quan hệ sở hữu, hình thức tổ chức và cơ chế quản lý cũng có sự biến đổi theo.
Tổ chức quản lý:
Tổ chức quản lý trong nền kinh tế tư bản hiên đại diễn ra trong lĩnh vực vi mô, vĩ mô và cũng có những biến đổi từ trong các công ty, xí nghiệp đến hoạt động quản lý của Nhà nước tư sản. Từ khi khoa học kỹ thuật phát triển thì nhiều thiết bị hiện đại ra đời như máy tính điện tử, các hệ thống sản xuất linh hoạt, các thiết bị điều khiển từ xa đã góp phần vào quá trình quản lý sản xuất được thuận lợi và dễ dàng hơn đáp ứng thị hiếu ngày càng đa dạng của khách hàng, đa dạng hoá các sản phẩm với phương châm nhỏ, đẹp và bền. Hình thức quản lý từ xa được sử dụng rộng rãi, tạo điều kiện cho quá trình phân tán sản xuất nhỏ và vừa trên phạm vi quốc gia và quốc tế. Mặt khác, nền kinh tế ngày càng được quốc tế hoá, mang tính chất toàn cầu nên quá trình quản lý cũng được toàn cầu hoá. Việc quản lý trong quá trình sản xuất và hoạt động trong nền kinh tế cũng như trong quản lý xã hội từ mô hình đại trà, cồng kềnh chuyển sang kiểu sản xuất nhỏ và linh hoạt, mạng lưới liên kết chặt chẽ và nhạy bén hơn.
Mô hình quản lý:
Mô hình quản lý của thể chế này có hai loại, theo quá trình nằm ngang và theo kiểu “tế bào sản xuất”. Quá trình chuyển từ mô hình liên kết dọc sang liên kết ngang đã cắt giảm hàng loạt nhân viên quản lý trung gian, xoá bỏ một số ngành chức năng, nhưng đồng thời lập ra “chủ quản thông tin” hoặc “giám đốc tri thức” để tăng cường thông tin và nghiên cứu khoa học. Mặt khác cũng dựa vào kỹ năng, chuyên môn của công nhân để phân thành “tế bào sản xuất” có thể chế tạo, kiểm tra và hoàn thàn toàn bộ sản phẩm. Đây là một quá trình thu hẹp nhưng linh hoạt đáp ứng nhanh những biến động, đòi hỏi của thị trường. Bên cạnh đấy, mối quan hệ giữa xí nghiệp và công nhân đã có những biến đổi. Công nhân đã được tham gia vào quá trình quản lý, như ở Đức một số công ty có khoảng hơn 2000 người làm thuê thì công nhân được nữa số ghế trong họi đồng giám đốc. Vai trò của công nhân là người làm thuê được dần tăng cường ý thức làm chủ và đồng thời gắn lợi ích của người lao động với tế bào, với tổ chức,nhờ đó họ phát huy được tính chủ động, sáng tạo và có trách nhiệm hơn trong công việc. Bên cạnh mô hình quản lý của các xí nghiệp, công ty thì vai trò của tư bản tàI chính và Nhà nước tư sản trong quá trình quản lý cũng rất to lớn. Nhất là quản lý theo chế độ tham dự đang được mở rộng trong các tổ chức kiểm soát doanh nghiệp của Nhà nước tạo ra môi trường cho mỗi công nhân, cá nhân nói lên những quan tâm và nguyện vọng ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35656.doc