LỜI NÓI ĐẦU
Loài người đã trải qua hai nền văn minh và ngày nay, chúng ta đang đứng trước ngưỡng cửa của nền văn minh thứ ba -văn minh trí tuệ. Trong nền văn minh này, bộ phận quan trọng nhất là nền kinh tế tri thức - có thể nói là hết sức cơ bản của thời đại thông tin.Đặc biệt là trong thập niên 90 các thành tựu về công nghệ thông tin như: công nghệ Web, Internet, thực tế ảo, thương mại tin học.... Cùng với những thành tựu về công nghệ sinh học: công nghệ gen, nhân bản vô tính... đang tác động
18 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1354 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Kinh tế tri thức trong hoạt động đời sống xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mạnh mẽ, sâu sắc làm đảo lộn toàn bộ nền kinh tế thế giới và toàn bộ xã hội loài người đưa con người đi vào thời đại kinh tế tri thức.Rất nhiều nước trên thế giới đều có tăng trưởng kinh tế từ tri thức.Việt Nam vẫn đang là một trong những nước nghèo và kém phát triển so với khu vực và trên thế giới.Do đó phát triển kinh tế là chiến lược cấp bách hàng đầu.Hơn nữa chúng ta đang trên con đường tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nên không thể không đặt mình vào tri thức, phát triển tri thức để đưa nền kinh tế nước nhà bắt kịp và phát triển cùng thế giới.
Góp phần vào chiến lược phát triển kinh tế, tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá chúng ta cần phải nghiên cứu tri thức, tìm hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế tri thức, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, phù hợp với khu vực, với thế giới và thời đại trong tổng thể các mối liên hệ, trong sự phát triển vận động không ngừng của nền kinh tế tri thức. Vì vậy em quyết định chọn đề tài này để làm đề tài nghiên cứu của mình.
I. Khái niệm về tri thức và kết cấu của nó
1. Khái niệm.
Tri thức đã có từ lâu trong lịch sử, có thể nói từ khi con người bắt đầu có tư duy thì lúc đó có tri thức.Trải qua một thời gian dài phát triển của lịch sử, cho đến những thập kỷ gần đây tri thức và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế-xã hội được đề cặp nhiều.Vậy tri thức là gì?
Tri thức theo nghĩa triết học là : “Tri thức là kết quả quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thưc, làm tai hiện trong tư tưởng những thuôc tính, những quy luật của thế giới ấy và diễn dật chúng dưới ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác.’’
Tri thức bao gồm tất cả những thông tin, số liệu, bản vẽ, tưởng tượng(sáng tạo), khả năng, kỹ năng quan niệm về giá trị và những sản phẩm mang tính tượng trưng xã hội khác.Tri thức có vai trò rất lớn đối với đời sống –xã hội.
Kinh tế thế giới đang bước vào một thời đại mới, một trình độ mới.Đó là trình độ mà”nhân tố quan trọng nhất là việc chiếm hữu, phân phối nguồn trí lực và việc sáng tạo, phân phối và sử dụng tri thức trong các ngành kĩ thuật cao”.Tiêu chí chủ yếu của nó là lấy tri thức, trí óc làm yếu tố then chốt để phát triển kinh tế và tồn tại trực tiếp giống như các yếu tố sức lao động và tài nguyên.Đó là thời đại mà “Tri thức đã trở thành động lực chủ yếu của sự phát triển xã hội”, ”Tri thức là tài nguyên là tư bản”, “Tri thức là tâm điểm của cạnh tranh và là nguồn lực dẫn dắt cho sự tăng trưởng dài hạn..dẫn tới những thay đổi lớn trong cách tổ chức sản xuất, cấu trúc thị trường, lựa chọn nghề nghiệp…
2. Kết cấu của tri thức.
Tri thức có nhiều loại khác nhau như tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con người.Tri thức có nhiều cấp độ khác nhau như:Tri thức thông thường được hình thành do hoạt động hàng ngày của mỗi cá nhân, mang tính chất cảm tính trực tiếp, bề ngoài rời rạc.Tri thức khoa họcphản ánh trình độ của con người đi sâu nhận thức thế giới hiện thực.
II. Vai trò của tri thức với hoạt động của con người
1. Trang bị cho con người nhửng tri thức bản chất qui luật khách quan của đối tượng
Xuất phát từ loài người, trước tiên, các nhà khoa học nhận thấy rằng một con người có Tri thức khi rơi vào một hoàn cảnh mới, hoàn toàn chưa gặp trước đó, không được ai chỉ dẫn, ra lệnh, một người có khả năng suy nghĩ luôn có khả năng tìm ra giải pháp để hoạt động và giải quyết công việc trong hoàn cảnh này [6]. Một ví dụ nôm na (có nghĩa là ví dụ này chỉ có tác dụng minh họa cho các độc giả không có chuyên môn trong lĩnh vực nghiên cứu Tri thức) về khả năng giải quyết một trường hợp chưa được dự liệu trước, không được dạy trước, cũng không có chỉ dẫn hay lệnh trực tiếp: Vào thời chưa có các dụng cụ quan sát quang học, một anh chàng muốn nhìn thấy rõ một vật cách xa anh ta vài km. Rõ ràng là trước thời đó chưa có ai nói là phải làm thế nào để nhìn xa như thế, chả có sách vở nào viết là phải làm thế nào trong trường hợp này, và chả có ai hay có vật nào có thể chỉ dẫn cho anh ta về giải pháp. Như vậy, anh chàng này phải căn cứ vào các hiểu biết của mình về toán học, quang học, về cơ khí và nấu thủy tinh ... qua một quá trình suy nghĩ, nghĩa là qua một tiến trình vận động của Tri thức, để chế tạo ra cái ống nhòm. Hiển nhiên là anh ta có tìm cả đời trong kho kiến thức của nhân loại đã có trước đó cũng không tìm ra giải pháp. Điều này nghĩa là anh ta đã tìm ra giải pháp mới mà không cần sự can thiệp trực tiếp từ bên ngoài, và không có nghĩa là chỉ lưu giữ thông tin một cách đơn giản, và đem ra sử dụng khi cần thiết.
2.Giúp con người xác định đúng mục tiêu, đưa ra phương hương hợp lí, xác định các biện pháp và thực hiện được mục tiêu
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã lấy chủ đề “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, đầy mạnh toàn diện công cụôc đổi mới sớm đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển".
Không phải ngẫu nhiên mà Đảng ta lựa chọn chủ đề như vậy, bởi vì Đảng ta đã đúc kết kinh nghiệm, bài học của 20 năm đối mới để định hướng phát triển của đất nước trước một tương lai vận hội mới, kết hợp xu thế dân tộc và xu thế thời đại. Đảng ta là một Đảng cầm quyền, trí tuệ của Đảng có tầm quyết định tới vận mệnh quốc gia và phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nếu không nâng cao năng lực sức chiến đấu của Đảng thì có thể trở thành lực cản trong quá trình phát triển đi lên của dân tộc.
Muốn đưa nước ta khỏi tình trạng kém phát triển phải hội đủ các yếu tố: Thiên thời – Địa lợi – Nhân hoà, dưới sự lãnh đạo của Đảng các yếu tố đó đã có và đang đến chúng ta, thế và vận nước đang lên. Chúng ta đang đứng trước một “thời cơ vàng”, nhưng cũng đầy những thách thức; hơn lúc nào hết Đảng ta phải đầy đủ bản lĩnh, trí tuệ để đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa và tham gia hội nhập quốc tế.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta trải qua các triều đại đều gắn liền với vai trò của đội ngũ trí thức, những người được coi là “kẻ sỹ” của mọi thời đại. Năm 1070 khi khánh thành Quốc tử giám (trường đại học đầu tiên của Việt Nam) Lý Nhân Tông xuống chiều cầu hiền, trong đó có câu: :Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, hiền tài thịnh thì nguyên khí thịnh, hiền tài suy thì nguyên khí suy”. Đây là một câu nói bất hủ của một thời đại thịnh trị có “vua sáng tôi hiền” đã lập nên những võ công hiền hách và một nền văn hóa rực rỡ của triều đại Lý – Trần.
Khi cách mạng tháng Tám thành công, trong nhiều bộn bề lo toan của chính quyền non trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh chỉ thị chi các địa phương tìm kiếm người hiền tài để báo cáo với Chính phủ. Bác Hồ là một chuẩn mực nhất về “chiêu hiền đãi sỹ”, rất nhiều bậc nhất trí thức danh tiếng đã được Bác cảm hóa và phụng sự Tổ quốc đến cùng.
Lịch sử loài người hiện nay đang ở trong thời kỳ bùng nổ về khoa học – công nghệ với những thành tựu vượt bậc trong công nghệ thông tin đã đưa con người tiệm cận với một nền văn minh mới: Nền văn minh của nên kinh tế trí thức. Nếu không có những phát minh kỳ diệu của các nhà khoa học thì làm sao có được những thành tựu khoa học – công nghệ mà con người có được ngày hôm nay. Con người vẫn là yếu tố hàng đầu để quyết định mọi vấn đề.
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa là nền tảng đầu tiên để đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển: cần phải tập trung nguồn lực đổi mới quản lý, đổi mới công nghệ, áo dụng những thành tựu về khoa học – công nghệ trong nước và ngoài nước để tạo những bước đột phá trong lĩnh vực phát triển kinh tế, trong đó vấn đề năng suất – chất lượng đạt được coi là yếu tố sống còn của nền kinh tế.
Hội nhập quốc tế là một cơ hội đồng thời đây là một thách thức đối với nước ta nói chung và tỉnh Cà Mau nói riêng. Khi Việt Nam thành thành viên chính thức Wto, tổ chức thương mại quốc tế lớn nhất hành tinh, đây là cơ hội vàng để các sản phẩm Việt Nam được tham gia tự so trên thị trường thế giới và cũng là cơ hội đế đón nhận các làn sóng đầu tư và du nhập các công nghệ mới. Nhưng chúng ta cũng đứng trước những thách thức cực kỳ gay go phức tạp, đó là các sản phẩm hàng hóa Việt Nam muốn tham gia hội nhập quốc tế phải vượt qua 2 rào cản đó là: Rào cản kỹ thuật và rào cản thương mại.
Trước thời cơ vận hội và những thách thức đang đến với chúng ta vao trò của đội ngũ trí thức trong ngành kinh tế - xã hội và kể cả quản lý nhà nước hết sức quan trọng. Nói đúng hơn là không có đội ngũ này thì chúng ta rất khó khi tiến hành công nghiệp hóa – hiện đại hóa và tham gia hội nhập quốc tế thành công.
Vì vậy cần phải chuẩn bị thật tốt các điều kiện để tham gia hội nhập quốc tế trong đó nguồn nhân lực trí thức được coi là quan trọng hàng đầu. Đội ngũ trí thức trong thời kỳ mới phải đầy đủ kỹ năng, bản lĩnh để cạnh tranh với thị trường quốc tế, phải có lòng tự tôn tự hào dân tộc để ngẩng cao đầu và sánh vai với các cường quốc năm châu.
Khẩn trương hình thánh các vườn ươm khoa học công nghệ để thu hút, đào tạo, tuyển chọn người tài để hình thành các doanh nghiệp khoa học – công nghệ, trong đó chú trọng tiếp cận phát triển công nghệ cao, một xu hướng phát triển hiện nay của thế giới.
Có chính sách đãi ngộ, đề bạt, cân nhắc đối với những trí thức có đóng góp đối với kinh tế - xã hội tỉnh nhà. Thu hút người tài, trọng dụng kẻ sỹ vẫn là kế sách của muôn đời nay, nhưng tài là phải là tài thật sự, tài phải có đức thì mới phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân được.
3.Tri thức là sức mạnh của con người
- Trong lịch sử nước nhà, mỗi thắng lợi vang dội đều là kết quả của nguồn lực tổng hợp toàn dân tộc, và trên mỗi chặng đường đều có dấu ấn để lại của những trí thức, kể cả từ rất xa xưa như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, La Sơn Phu Tử, Nguyễn Du… Để thành công trong cuộc hội nhập khốc liệt hiện nay, chúng ta lại càng phải chân nhận rõ những giá trị quý giá của dân tộc. Báo Điện tử VietNamNet cùng tạp chí Khoa học và Tổ quốc sẽ cùng phối hợp mở cuộc thảo luận với chủ đề “Trí thức Việt Nam”. Để mở đầu cuộc thảo luận, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của PGS. TS. Chu Hảo.
Hình chụp năm 1948 tại chiến khu, với những trí thức Việt Nam yêu nước, từ phải sang trái là các vị Đinh Văn Thắng, Tôn Thất Tùng, Hồ Đắc Di, Nguyễn Văn Huyên, Đỗ Xuân Hợp, Vũ Văn Cẩn, Nguyễn Trinh Cơ (ảnh: www.hmu.edu.vn)
Thật ra ngay từ khi từ trí thức (intellectuel), lần đầu tiên xuất hiện dưới dạng danh từ chỉ một loại công dân của Pháp thời kỳ sau Công xã Paris, cuối thế kỷ 19, đã mang một ý nghĩa khá rõ ràng: đó là những người không chỉ có học vấn hay trình độ chuyên môn cao, mà hơn hết phải là những người quan tâm và có chính kiến trước những vấn đề chính trị – xã hội nóng bỏng của thời cuộc.(1) Cũng trong tinh thần cách mạng ấy Karl Marx đã coi trí thức là những người có đủ tri thức để quan tâm và có chính kiến riêng đối với các vấn đề của xã hội nên họ phải là những người “phê bình không nhân nhượng những gì đang hiện hữu, không nhân nhượng với nghĩa rằng họ không lùi bước trước kết luận của chính quyền hoặc trước xung đột với chính quyền, bất cứ chính quyền nào”.(2)
PGS. TS. Chu Hảo
Với những hiểu biết trên đây, chúng ta có thể suy ra rằng tầng lớp trí thức của xã hội có thiên chức sau: Tiếp thu và truyền bá tri thức hoặc/và văn hóa; Sáng tạo các giá trị mới của tri thức hoặc/và văn hóa; Đề xuất, phản biện một cách độc lập các chủ trương chính sách và biện pháp giải quyết các vấn đề của xã hội; Dự báo và định hướng dư luận xã hội.
Xã hội văn minh nào cũng phải có một tầng lớp trí thức ưu tú như vậy. Trong lịch sử dân tộc ta, thời nào cũng có những trí thức kiệt xuất. Tầng lớp sỹ phu trong những triều đại hưng thịnh của nước ta rõ ràng có nhiều điểm tương đồng với khái niệm tầng lớp trí thức như được nói đến ở trên.
Ngày nay trong cụm từ “Liên minh Công – Nông – Trí” tôi ngờ rằng chúng ta đã dùng từ “trí” để chỉ những người lao động trí óc (kỹ sư, bác sỹ, nhà văn, họa sỹ, v.v…) chứ không phải là trí thức theo cách hiểu thông thường của thế giới hiện đại. Trong số rất đông những người lao động trí óc đó chỉ có một số là trí thức thực thụ mà thôi. “Một số” này đã quy tụ lại (chủ yếu là thông qua diễn đàn, dư luận) thành một tầng lớp trí thức với đúng nghĩa của nó hay chưa vẫn còn là một vấn đề cần được thảo luận.
Đã là trí thức thì ở nước nào cũng vậy, thời đại nào cũng vậy, đều có tính cách chung là: tôn thờ lý tưởng Chân – Thiện – Mỹ; độc lập tư duy; hoài nghi lành mạnh; và tự do sáng tạo. Tuy nhiên mỗi dân tộc đều có tính cách riêng, tầng lớp trí thức của mỗi dân tộc cũng có bản sắc riêng.
Chúng ta thường nghe nói: trí thức Trung Hoa thâm thúy (thâm nho), trí thức Nhật khiêm tốn (đến khách khí), trí thức Nga sâu sắc đôn hậu, trí thức Mỹ thực dụng, trí thức Anh lạnh lùng tỉnh táo, trí thức Pháp hào hoa phong nhã v.v… Vậy trí thức Việt Nam có đặc điểm gì? Tôi đã từng nghe ông K.G. nói đến tính cách “phò chính thống”; bà P.T.H. nói đến tính cách “quan văn”, tựu chung lại là tính “thích được chính quyền sử dụng”. Có nhiều người nói là tính cách “tùy thời”, nghe có vẻ dễ chịu hơn chữ “cơ hội” hay là “hèn” mà một số bạn đồng nghiệp của chúng ta không ngại ngần khẳng định. Nguyên cớ gì mà phải “hèn”? Đã “hèn” làm sao có nhân cách? Thiếu nhân cách liệu có xứng đáng là trí thức? Nhiều ý kiến cho rằng bi kịch của giới trí thức Việt Nam chính là ở chỗ này! Nhưng như vậy có lẽ chưa được công bằng cho lắm! Vậy thực sự trí thức Việt Nam có đặc tính gì?
Ngay từ những ngày đầu của chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Những người trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến rất quý báu cho Đảng. Không có những người đó thì công việc cách mạng khó khăn thêm nhiều”.(3)
Chính Hồ Chủ Tịch là một trí thức đi làm cách mạng. Với tư cách ấy, có lẽ Người đã nói về vai trò của trí thức một cách khiêm tốn như trên. Nhưng bây giờ, sau hơn nửa thế kỷ nhìn lại, chúng ta có thể thấy rằng vai trò của họ trong những tháng năm đầu tiên của chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn quan trọng hơn thế nhiều. Hồ Chủ Tịch đã hết sức trọng dụng tầng lớp trí thức ưu tú của dân tộc, tạo điều kiện cho họ được cống hiến, được thể hiện đầy đủ nhất vai trò và trách nhiệm của mình trong sự nghiệp chung của toàn dân.
Ngày nay, khi đất nước ta đang bước sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiếp tục đổi mới toàn diện, hội nhập vào nền kinh tế tri thức toàn cầu thì vai trò và trách nhiệm của tầng lớp trí thức càng quan trọng và nặng nề hơn. Đổi mới càng sâu sắc và toàn diện càng đòi hỏi phải đổi mới tư duy triệt để; muốn vậy phải có tầm trí tuệ rất cao. Tầm trí tuệ cao ấy phải có sự can dự của tầng lớp trí thức ưu tú của dân tộc.
Toàn cầu hóa buộc chúng ta phải hội nhập một cách ngang tầm trong mọi lĩnh vực. Trí thức Việt Nam cũng phải phấn đấu để có thể ngang tầm với tầng lớp trí thức của các nước tiên tiến khác. Điều đó thật không dễ dàng nếu chúng ta thẳng thắn và dũng cảm nhìn vào thực trạng đội ngũ trí thức nước nhà. Không ai nâng cao được vai trò của trí thức nếu giới trí thức của chúng ta không tự khẳng định được mình! Không ai san sẻ trách nhiệm với trí thức được; chỉ có trí thức mới thi hành được thiên chức của mình; vinh quang và cay đắng gắn liền với thiên chức ấy cũng chỉ dành riêng cho giới trí thức mà thôi!
III.Vai trò của tri thức với xã hội
1. Vai trò tri thức đối với chính trị
Tri thức đem lại cho con người những sự hiểu biết, kiến thức.Người có tri thức là có khả năng tư duy lý luận, khả năng phân tích tiếp cận vấn đề một cách sát thực, đúng đắn.Điều này rất quan trọng, một đất nước rất cần những con người như vây để điều hành công việc chính trị.Nó quyết định đến vận mệnh của một quốc gia.Đại hội VI của Đảng đã đánh dấu một sự chuyển hướng mạnh mẽ trong nhận thức về nguồn lực con ngươì.Đại hội nhấn mạnh:”Phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt đông”chiến lược phát triển con người đang là chiến lược cấp bách.Chúng ta cần có những giải pháp trong việc đào tạo cán bộ và hệ thống tổ chức :
Tuyển chọn những người học rộng tài cao, đức độ trung thành với mục tiêu xã hội chủ nghĩa, thuộc các lĩnh vực, tập trung đào tạo, bồi dưỡng cho họ những tri thức còn thiếu và yếu để bố trí vào các cơ quan tham mưu hoạch định đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước với những qui định cụ thể về chế độ trách nhiệm quyền hạn và lợi ích.
Sắp xếp các cơ quan nghiên cứu khoa học –công nghệ và giáo dục-đào tạo thành một hệ thống có mối liên hệ gắn kết với nhau theo liên ngành, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho hợp tác nghiên cứu và ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tĩên. Hợp nhất các viện nghiên cứu chuyên ngành vào trường đại học và gắn kết trường đại học và các công ty, xí nghiệp.Các cơ quan nghiên cứu và đào tao được nhận đề tài, chỉ tiêu đào tạo theo chương trình, kế hoạch và kinh phí dựa trên luận chứng khả thi được trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan.
Hàng năm theo định kỳ có những cuộc gặp chung giữa những người có trọng trách và các nhà khoa học đầu nganh của các cơ quan giáo dục-đào tạo và trung tâm khoa học lớn của quốc gia, liên hiệp các hội khoa học Việt Nam…với sự chủ tri của đồng trí chủ tịch, sự tham gia của các thành viên Hội đồng giáo dục -đào tạo và khoa học-công nghệ quốc gia về những ý kiến tư vấn, khuyến nghị của tập thể các nhà khoa học với Đảng và nhà nước về định hướng phát triển giáo dục-đào tạo.Phát triển khoa học –công nghệ, cách tuyển chon và giao chương trình đề tài, giới thiệu những nhà khoa học tài năng để viết giáo khoa, giáo trình, làm chủ nhiệm chương trình, đề tài và tham gia các hội đồng xét duyệt, thẩm định nghiệm thu các chương trình, đề tài khoa học cấp Nhà nước.
Liên hiệp các hội khoa học Việt Nam cần thường xuyên và phát huy trí tuệ của các nhà khoa học, dân chủ thảo luận để đưa ra được những ý kiến tư vấn, những khuyến nghị xác thực có giá trị với Đảng, Nhà nước và động viên tập hợp lực lượng các hội viên tiến quân mạnh mẽ vào các lĩnh vực khoa học và công nghệ mà đất nước đang mong chờ để sớm thoát khỏi tình trạng nghèo và kém phát triển.
2. Vai trò tri thức đối với văn hoá-giáo dục
Tri thức cũng có vai trò rất lớn đến văn hoá -giáo dục của một quốc gia. Nó giúp con người có được khả năng tiếp cận, lĩnh hội những kiến thức, ý thức của con người được nâng cao.Và do đó nền văn hoá ngày càng lành mạnh.Có những hiểu biết về tầm quan trọng của giáo dục.Từ đó xây dựng đất nước ngày càng lớn mạnh, phồn vinh..
Văn minh phương Tây có truyền thống giáo dục theo tinh thần tự do từ lâu đời, ở đó kiến thức tổng quát, sự hiểu biết và tôn trọng ý kiến của người khác được coi là điểm nhấn của toàn bộ sự phát triển cá nhân trong đó có việc đào t¹o nghề nghiệp.
Tư tưởng này có lẽ đã bắt đầu từ Hy lạp cổ đại và ngày càng trở nên rõ ràng hơn đối với ba khoa là ngữ pháp, tu từ và logic, và sau này là tứ khoa dạy ở nhà trường trung cổ: số học, hình học, thiên văn và âm nhạc. Truyền thống này vẫn tiếp tục đến ngày nay và hiện nay giáo dục tri thức tổng quát theo tinh thần trên vẫn là một thành tố quan trọng của giáo dục đại học ở tất cả các quốc gia phát triển. Vai trò của nó trong việc tạo nên các nhà lãnh đạo và những công dân ưu tú thể hiện rất rõ trong lãnh vực nhà nước cũng như tư nhân. Khó lòng có được một số liệu thống kê có tính toàn cầu, nhưng ấn tượng dễ thấy là mối quan tâm đối với chương trình giáo dục tri thức tổng quát đang phát triển mạnh ở phương Tây.
Có thể thấy rõ sự tương phản ở các quốc gia đang phát triển. Nhất là từ sau thế chiến thứ hai, khi những quốc gia này giành được độc lập thì giáo dục tri thức tổng quát trở thành một cái gì được coi là xa xỉ và không cần thiết. Điều đó được phản ánh trong chương trình của cả giáo dục phổ thông lẫn giáo dục đại học, nơi mà việc đào tạo nghề nghiệp thường được coi trọng hơn. Nhà nước tránh xa chương trình giáo dục tri thức tổng quát, coi đó như sản phẩm của những kẻ coi mình là ưu việt, biểu tượng cho những giá trị của chủ nghĩa thực dân phương Tây đang bị thù ghét, và để có nó, ắt là phải trả một giá đắt. Chỉ đến thời gian rất gần đây mới có những dấu hiệu cho thấy là thái độ đó đang thay đổi, nhưng nhận thức về lợi ích của chương trình giáo dục tri thức tổng quát vẫn còn là điều còn xa mới có thể trở thành phổ biến.
Bài viết này sẽ trình bày vai trò sống còn của giáo dục tri thức tổng quát đối với các trường đại học và cao đẳng ở các quốc gia đang phát triển – cả trong chương trình đào tạo đại học lẫn sau đại học. Những điều chúng tôi trình bày sau đây là sự suy xét dựa trên kết quả nghiên cứu và quan sát ở nhiều quốc gia khác nhau. Tất nhiên chúng ta phải hiểu rằng mỗi quốc gia là một trường hợp cụ thể và không thể đưa ra những chứng minh đúng cho tất cả mọi trường hợp. Tuy vậy chúng tôi tin rằng những nhận định này là dựa trên cơ sở lịch sử và logic.
IV. Vai trò của tri thức với kinh tế
1. Tri thức là nguồn lực quan trọng nhất của phát triển kinh tế
Phát triển là một quá trình qua đó con người trở nên ý thức được các cơ hội và thách thức, hình thành nên các phản ứng, đưa ra các quyết định và khởi xướng ra các hoạt động có tổ chức. Qúa trình này tuân theo một trình tự từ tri thức tới cảm hứng rồi tới hành động. Con người tiếp nhận tri thức, qua đó họ nhận thức được các cơ hội và thách thức. Khi tri thức đó đạt đến một mức nhất định (chín mùi), họ có động lực hay cảm hứng để chuyển tri thức đó thành hành động. Không quan trọng cơ hội lớn như thế nào hay sự cần thiết cấp bách ra sao, nếu không có tri thức đó thì chẳng có phản ứng thích hợp nào xảy ra. Tri thức là nền tảng cho mỗi bước trong quá trình phát triển. Nó cần cho việc tạo ra sự nhận thức về các cơ hội và thách thức, đánh giá thích hợp các thay đổi, tạo ra các phản ứng, lập kế hoạch hiệu quả, đưa ra các sáng kiến và thực hiện các sáng kiến này.
Tốc độ và mức độ phát triển phụ thuộc vào sự sẵn có của nguyên vật liệu, nguồn lực tài chính và công nghệ, nhưng về cốt lõi, sự phát triển là một quá trình liên quan đến con người, được xác định thông qua phản ứng của con người đối với môi trường xung quanh. thức đóng góp cho sự phát triển theo nhiều cách khác nhau: như nguồn lực sản xuất, như đầu vào chính yếu cho giáo dục, nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ; như chất xúc tác cho thay đổi xã hội và phát triển kinh tế; và như nền tảng của sự văn minh và các giá trị văn hoá thúc đẩy sự hài hoà xã hôi
2.Kinh tế tri thức
Nền kỉnh tế tri thức là nền kinh tế trong đó quá trình thu nhận truyền bá, sử dụng, khai thác, sáng tạo tri thức trở thành thành phần chủ đạo trong quá trình tạo ra của cải.
- Kinh tế tri thức có nhiều đặc điểm cơ bản khác biệt so với các nền kinh tế trước đó:
-Tri thức khoa học-công nghệ cùng với lao động kỹ năng cao là cơ sỏ chủ yếu và phát triển rất mạnh
-Nguồn vốn quan trọng nhất, quý nhất là tri thức, nguồn vốn trí tuệ.
- Sáng tạo và đổi mới thướng xuyên là động lực chủ yếu nhất thúc đảy sụ phát triển.
- Nền kinh tế mang tính học tập.
-Nền kinh tế lấy thị trường toàn cầu là môi trường hoạt động chính.
-Nền kinh tế phát triển bền vững do được nuôi dưỡng bằng nguồn năng lượng vô tận và năng động là tri thức.
Thực tiễn hai thập niên qua đã khẳng định, dưới tác động của cách mạng khoa học –công nghệ và toàn cầu hoá, kinh tế tri thức đang hình thành ở nhiều nước phát triển và sẽ trở thành một xu thế quốc tế lớn trong một, hai thập niên tới.
3. Sự xuất hiện của các hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên tri thức.
Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế lấy sản xuất và kinh doanh tri thức làm nội dung chủ yếu.Tương lai của bất cứ doanh nghiệp nào cũng không chỉ phụ thuộc vào c sử dụng tiền bạc, nguyên vật liệu, nguồn nhân lực và máy móc thiết bị…mà còn phụ thuộc vào việc xử lý và sử dụng những thông tin nội bộ và thông tin từ môi trường kinh doanh.Cách tốt nhất để tăng năng suất là tìm hiểu kiến thức chuyên môn mà hãng có được, sử dụng vì mục đích thương mại và những kiến thức này cần được phát triển không ngừng.
Giá trị của những công ty công nghệ cao như các công ty sản xuất phần mềm và các công ty công nghệ sinh học không chỉ nằm trong những tài sản vật chất hữu hình, mà còn nằm trong những tài sản vô hình, như tri thức và các bằng sáng chế.Để trở thành một công ty được dẫn dắt bởi tri thức, các công ty phải biết nhận ra những thay đổi của tỉ trọng vốn trí tuệ trong tổng giá trị kinh doanh.Vốn trí tuệ của công ty, tri thức, bí quyết và phương pháp đội ngũ nhân viên và công nhân cũng như khả năng của công ty để liên tục hoàn thiện phương pháp sản xuất là một nguồn lợi thế cạnh tranh.Hiện có các bằng chứng đáng lưu ý chỉ ra phần giá trị vô hình của các công ty công nghệ cao và dịch vụ đã vượt xa phần giá trị hữu hình của các tài sản vật thể của các công ty đó, như các toà nhà hay thiết bị.Ví dụ như các tài sản vật thể của công ty Microsoft chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng giá trị được vốn hoá trên thị truờng của công ty này.Phần lớn là vốn trí tuệ.Sau hai mươi năm thành lập, số nhân viên công ty tăng 6 nghìn lần, thu nhập tăng 370 nghìn lần, 1/10 số nhân viên trở thành triệu phú.Nguồn vốn con người là một thành tố giá trị cơ bản trong một công ty dựa vào tri thức.
Nền kinh tế tri thức sẽ ngày càng làm xuất hiện nhiều sản phẩm thông minh.Đó là những sản phẩm có khả năng gạn lọc và giải thích các thông tin để người sử dụng có thể hành động một cách hiệu quả hơn.Ngay cả một chiếc bánh kẹp thịt cũng có thể trở thành một sản phẩm mới dựa trên tri thức bằng cách làm cho khách hàng biết cách sử dụng những thông tin về dinh dưỡng.Số lượng ka-lo và chất béo được in lên hoá đơn hoặc thậm chí trình bày thông tin đó trước khi khách đặt hàng.Thậm chí có những sản phẩm thông minh vừa có thể truyền đạt thông tin về sản phẩm vừa khuyên khách hàng nên làm gì từ tình hình vừa được thông tin.
4. Vốn tri thức –vai trò của nó trong kinh tế tri thức
Vốn tri thức là tri thức được dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh với mục đích sinh lợi(tăng thêm giá trị).
Vốn tri thức là một yếu tố nổi bật nhất trong hàm sản xuất.Trong văn minh nông nghiệp thì sức lao động, đất đai và vốn là những yếu tố của sản xuất công nghiệp, vốn, đất đai và nhất là sức lao động trở thành hàng hoá với tư cách là những yếu tố quan trọng trong sự phát triển kinh tế-xã hội, góp phần chuyển xã hội phong kiến thành xã hội tư bản trong lịch sử.Còn trong kinh tế tri thức, yếu tố của sự phát triển nền kinh tế-xã hội không chỉ bao gồm vốn tiền tệ, đất đai và dựa trên lao động giản đơn mà chủ yếu dựa trên lao động trí tuệ gắn với tri thức.Như vốn tri thức trở thành yếu tố thứ nhất trong hàm sản xuất thay vì yếu tố sức lao động vốn tiền tệ và đất đai.
Vốn tri thức thực sự trở thành nguồn gốc động lực cho sự phát triển kinh tế-xã hội.Nước Mỹ nói riêng và các nước thuộc tổ chức OECD nói chung nhiều năm qua tăng trưởng ổn định với tốc độ cao là nhờ có sự phát triển của các ngành kinh tế dựa trên tri thức như các ngành công nghệ thông tin, viễn thông, vũ trụ, đầu tư, ngân hàng, tài chính, chứng khoán, bảo hiểm…Đồng thời chuyển đầu tư vốn tri thức từ các ngành truyền thống sang các ngành có hàm lượng tri thức cao.ở các nước có nền kinh tế đang phát triển, đầu tư càng nhiều vốn tri thức thì mang lại giá trị gia tăng cang lớn, tỷ xuất lợi nhuận càng cao.
Vốn tri thức trong kinh tế tri thức đóng vai trò quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp.Vốn tri thức ở đây bao gồm các công nhân tri thức, các nhà quản lý có trình độ cao, các công nghệ mới.
Vốn tri thức đóng vai trò to lớn trong việc rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển.Sự xuất hiện kinh tế tri thức vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với các nước kém và đang phát triển, trong đó có Việt Nam.Các quốc gia kém và đang phát triển phải nhanh chóng tiếp cận với kinh tế tri thức, thông qua tri thức hoá các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, đặc biệt sớm hình thành các công nghệ cao để nhanh chóng đưa nền kinh tế đất nước đuổi kịp các nước phát triển.
KẾT LUẬN
xu hướng xây dựng và phát triển tri thức là xu hướng tất yếu của lịch sử, không riêng gì cntb. vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh" việt nam không thể đi ngược xu hướng đó. nước ta đã nắm bắt được rất nhiều cơ hội và từ đó có thể phát triển nền tri thức, theo kịp nền kinh tế của các nước phát triển. tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn những khó khăn mà chúng ta phải vượt qua. nước ta phải vận dụng những điều kiện thuận lợi để đẩy lùi nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tiến vào thời kỳ công nhiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. tăng cường mở rộng các mối quan hệ ngoại giao, tìm hiểu kinh nghiệm của các nước tiên tiến. và một điều quan trọng nữa là phải chăm lo đến cải cách giáo dục về con người và vật chất nước nhà.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.giao trình triết học mac lê nin
2.văn kiện đại hội đảng toàn quốc lần x
3.trang web: vietbao.com.vn
tailieuhoc.tk
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 27566.doc