Kinh tế thị trường & vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Phần thứ nhất: Giới thiệu đề tàI Đất nước ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới một bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu , nước mạnh, xã hội công bằng văn minh từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Cơ chế quản lý kinh tế mới ở nước ta hiện nay là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, chính sách, kế hoạch và các công cụ khác. Từ thực tiễn đổi mới hơn 15 năm qua, tại đại hội Đảng IX đã khẳng sự tất phát triển nền kinh tế thị trường định h

doc27 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1288 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Kinh tế thị trường & vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu, trong đó Nhà nước đóng vai trò điều hành nền kinh tế vĩ mô (định hướng và điều tiết) nhằm phát huy vai trò tích cực, hạn chế và ngăn ngừa các mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Trong quá trình đổi mới và thực hiện việc cải cách hành chính hiện nay, cải cách là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô được đổi mới và ngày càng hoàn thiện. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội là định hướng cơ bản cho sự vận động của cơ chế thị trường ở nước ta. Chúng ta đang đẩy nhanh, mạnh việc xây dựng hệ thống pháp luật, các thể chế kinh tế, tăng cường việc sử dụng các công cụ tài chính và tiền tệ để điều tiết thị trường. Như vậy nền kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường đòi hỏi tăng cường chứ không làm giảm nhẹ vai trò quản lý của Nhà nước bất luận là Nhà nước tư bản chủ nghĩa hay Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa chúng ta đang xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần áp dụng cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và mở rộng quan hệ quốc tế đi vào thị trường thế giới không phân biệt chế độ chính trị kinh tế của Nhà nước. Thực tế đã chứng minh từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế trị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nâng cao vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hết sức quan trọng, đặc biệt là trong những năm gần đây, sự quản lý vĩ mô của Nhà nước đã và đang tạo điều kiện cho nền kinh tế thị trường phát huy mặt tích cực và khắc phục những mặt hạn chế, đời sống của toàn thể nhân dân thực sự được cải thiện. Do đó việc nghiên cứu kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và vai trò của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay được đề ra hết sức nghiêm túc và cần thiết. Đây là một vấn đề lớn nhưng trong giới hạn cho phép em xin được đề cập giải quyết một số nội dung cơ bản được phản ánh ở các vấn đề: *Lý luận sự cần thiết khách quan dẫn đến nghiên cứu đề tài *Kinh tế thị trường và các đặc trưng của kinh tế thị trường. *Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. *Vai trò của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. *ý nghĩa của đề tài nghiên cứu. Do phạm vi rộng lớn và tính chất phức tạp của đề tài nhất là trong giai đoạn hiện nay : trong quá trình chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sạng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên bài viết không thể đi sâu và phân tích đầy đủ các vấn đề. Vậy mong được sự chỉ bảo và góp ý của thầy giáo, em xin chân thành cảm ơn! Phần hai: Nội dung chính của đề tài. I: Kinh tế trị trường và các đặc trưng của Kinh tế trị trường. 1.Bản chất của kinh tế trị trường. Xuất phát từ khái niệm về kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao, mà ở đó toàn bộ các yếu tố sản xuất đầu vào và sản phẩm đầu ra đều thông qua thị trường và do thị trường quyết định. Ta có thể thấy bản chất của kinh tế thị trường: là trong đó các chủ thể kinh tế trong xã hội đều hướng tới mục tiêu lợi nhuận, lấy lợi nhuận làm động lực sản xuất kinh doanh, các vấn đề: sản xuất cái gì? Sản xuất cho ai? Và sản xuất như thế nào? đều do thị trường quyết định. Chúng ta đang từng bước thực hiện những quá trình mang tính quy luật của bước chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, với tự do hóa thương mại và tự do hóa giá cả là khâu trung tâm đột phá từng bước tiến tới cơ chế thị trường đích thực, đó là một cơ chế phát huy vai trò điều tiết của Nhà nước hình thành bước đầu của thị trường cạnh tranh làm cho hàng hóa lưu thương, cân đối cung cầu, thoát khỏi khủng hoảng thiếu, giá cả được ổn định dần, lạm phát được ngăn chặn. Chúng ta chủ trương chuyển sang cơ chế thị trường trên cơ sở ổn định chính trị, lấy ổn định chính trị làm tiền đề và làm điều kiện cho cải cách kinh tế. Mặt khác cũng nhận thức rõ phải đổi mới mạnh mẽ trong lĩnh vực hành chính trên cơ sở đổi mới quản lý của Nhà nước nâng cao chất lượng hiệu quả quản lý cho nó phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường mà tiếp tục ổn định chính trị đưa cải tiến lên trên bước phát triển mới. 2. Lịch sử hình thành và phát triển của kinh tế thị trường: 2.1. Quá trình chuyển từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hoá: 2 .1.1. Khái quát về kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hoá. Kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hoá là hai hình thức tổ chức kinh tế – xã hội đã tồn tại trong lịch sử. Nền sản xuất xã hội trong bất kỳ một giai đoạn lịch sử nào cũng phải giải quyết ba vấn đề cơ bản là: sản xuất ra cái gì? Sản xuất như thế nào? Và sản xuất cho ai? Kinh tế tự nhiên chính là hình thái tổ chức kinh tế xã hội đầu tiên mà lịch sử loài người sử dụng để giải quyết 3 vấn đề trên.. Trong nền kinh tế tự nhiên, người sản xuất cũng đồng thời là người tiêu dùng. Tự sản xuất, tự tiêu dùng là đặc điểm nổi bật của kinh tế tự nhiên. Mục đích của sản xuất là tạo ra những giá trị sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của chính bản thân người sản xuất, vì thế có thể nói quá trình sản xuất của nền kinh tế tự nhiên gồm hai khâu: sản xuất – tiêu dùng. Các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế tự nhiên đều mang hình thái hiện vật. Trong nền kinh tế hàng hoá, mục đích sản xuất là trao đổi hay để bán. Mục đích đó được xác định từ trước quá trình sản xuất và có tính khách quan. Sản xuất và toàn bộ quá trình tái sản xuất đều gắn với thị trường. 2.1.2. Những tiền đề của quá trình chuyển từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hoá. Theo đà phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, đồng thời gắn với nó đó là sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thuỷ, quan hệ trao đổi ngày càng phát triển mạnh. Khi trao đổi trở thành mục đích phổ biến và thường xuyên của sản xuất thì kinh tế tự nhiên dần chuyển thành kinh tế hàng hoá. Sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hoá là quá trình khách quan. Trong lịch sử, những quan hệ hiện vật, tự nhiên và quan hệ hàng hoá - tiền tệ tồn tại đan xen và mâu thuẫn với nhau. Sự xuất hiện của kinh tế hàng hoá cũng chính là sự xuất hiện những tiền đề phủ định kinh tế tự nhiên và khẳng định kinh tế hàng hoá . Mỗi bước phát triển của kinh tế hàng hoá là một bước đẩy lùi kinh tế tự nhiên. Như vậy, quá trình vận động và phát triển của kinh tế hàng hoá đã phủ định dần kinh tế tự nhiên và khẳng định mình là một kiểu tổ chức kinh tế – xã hội độc lập Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ ra rằng kinh tế hàng hoá muốn ra đời và tồn tại được cần có hai điều kiện: *Phân công lao động xã hội đã tạo ra những ngành nghề sản xuất khác nhau. Do phân công lao động xã hội nên mỗi người chuyên sản xuất một loại hàng hoá nhất định. Nhưng nhu cầu tiêu dùng của họ lại cần nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thoả mãn nhu cầu này họ phải trao đổi sản phẩm cho nhau. Làm nảy sinh quan hệ kinh tế giữa những ngưới sản xuất. *Trong điều kiện tư hữu về tư liệu sản xuất, những người sản xuất độc lập với nhau và có lợi ích kinh tế khác nhau. Phân công lao động xã hội phát triển cũng dẫn tới sự ra đời của ngành thương nghiệp. Khi thương nghiệp ra đời quan hệ trao đổi đã có mầu sắc mới. Người sản xuất và người tiêu dùng quan hệ với nhau qua nhân vật thứ ba là thương nhân. Thương nghiệp phát triển làm cho sản xuất và lưu thông hàng hoá cùng với lưu thông tiền tệ được phát triển nhanh chóng. Quan hệ trao đổi ngày càng được mở rộng và phát triển đỏi hỏi hệ thống giao thông vận tải cũng phải mở rộng và phát triển đây là điều kiện vật chất làm tăng thêm các phương tiện trao đổi mở rộng thị trường. 2.2. Quá trình chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang nền kinh tế thị trường.. 2.2.1. Khái niệm về kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá, trong đó toàn bộ các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất đều thông qua thị trường. Kinh tế hàng hoá phát triển, điều đó có nghĩa là phạm trù hàng hoá, phạm trù tiền tệ và thị trường được phát triển và được mở rộng. Hàng hoá không chỉ bao gồm những sản phẩm đầu ra của sản xuất mà còn bao gồm cả các yếu tố đầu vào của sản xuất. Mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều tiền tệ hoá. Khi đó người ta gọi kinh tế hàng hoá là kinh tế thị trường. 2.2.2. Những điều kiện hình thành kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường được hình thành với những điều kiện sau: Một là: sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động và thị trường sức lao động. Cần khẳng định rằng sự xuất hiện hàng hoá sức lao động là một tiến bộ lịch sử. Ngươi lao động của mình và là chủ thể bình đẳng trong việc thương lượng với người khác Hai là: Phải tích luỹ được một số vốn nhất định để tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận Ba là: Cần phải có hệ thống tài chính, tín dụng, ngân hàng tương đối phát triển Có người cho rằng kinh tế thị trường là kinh tế tiền tệ, mọi hoạt động kinh tế đều có thể được biểu hiện bằng chỉ tiêu tiền tệ, cho nên vai trò của tiền tệ vô cùng quan trọng. Bốn là: Sự hình thành kinh tế thị trường đòi hỏi phải có một kết cấu hạ tầng tương đối phát triển. Trên cơ sở đó mới bảo đảm cho lưu thông hàng hoá và lưu thồng tiền tệ để thuận lợi nhằm mở rộng quan hệ trao đổi Năm là: Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước. Đối với nước ta, đây là vấn đề có tính then chốt để hình thành nền kinh tế thị trường Với tác động của tất cả các tiền đề trên, nền kinh tế thị trường được xã hội hoá cao, các quan hệ kinh tế mang hình thái phổ biến là quan hệ hàng hoá - tiền tệ và nó được tiền tệ hoá. Các quy luật của kinh tế thị trường được phát huy tác dụng một cách đầy đủ. 3. Những đặc trưng của kinh tế thị trường . Những đặc trưng chung nhất, vốn có của kinh tế thị trường : Một là: Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Các chủ thể trong nền kinh tế thị trường bao gồm các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh, các cá nhân và cả nhà nước. Họ chính là người đề ra các quyết sách kinh tế, các quyết định trong kinh doanh, họ phải tự chụi trách nhiệm về tính khả thi của các quyết sách, quyết định được ban hành, cũng như phải tự gánh chịu mọi rủi ro. Hai là: Trên thị trường hàng hoá rất phong phú. Người ta tự do mua, bán hàng hoá. Trong đó người mua chọn người bán, người bán tìm người mua. Họ gặp nhau ở giá cả thị trường. Đặc trưng này không thể có được trong nền kinh tế hàng hoá kém phát triển. Chỉ trong nền sản xuất hàng hoá phát triển cao của lực lượng sản xuất, của phân công và chuyên môn hoá lao động mới có được đặc trưng này. Ba là: Giá cả để hình thành ngay trên thị trường. Giá cả thị trường vừa là biểu hiện bằng tiền của giá thị trường, vừa chịu sự tác động của quan hệ cạnh tranh và quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ. Trên cơ sở giá thị trường, giá cả là kết quả của sự thương lượng và thoả thuận giữa người mua và người bán. Đặc trưng này phản ánh yêu cầu của luật lưu thông hàng hoá Bốn là: Cạnh tranh là một tất yếu của thị trường. Nó tồn tại trên cơ sở những đơn vị sản xuất hàng hoá độc lập và khác nhau về lợi ích kinh tế. Tuy nhiên cần phân biệt cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Cạnh tranh lành mạnh là cạnh tranh diễn ra trong khuôn khổ của pháp luật và bằng những biện pháp kinh tế kỹ thuật qua đó nâng cao năng xuất lao động, số lượng và chất lượng hàng hoá dịch vụ, hạ giá thành sản phẩm, tăng hiệu quả trong kinh doanh. Cạnh tranh lành mạnh là động lực phát triển của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh không lành mạnh là những quan hệ cạnh tranh được tiến hành bằng những biện phát phi kinh tế, vi phạm phát luật và thu lời bất chính. Quan hệ cạnh tranh kiểu này gây hại cho người tiêu dùng và gây thiệt hại cho cả xã hội. Nói chung cần phải nghiêm trị bằng phát luật. Năm là: kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở. Bởi nó lấy trao đổi làm mục đích của sản xuất kinh doanh. Đã trao đổi phải mở của hướng ra bên ngoài. Nó rất đa dạng, phức tạp và được điều hành bởi hệ thống tiền tệ và hệ thống pháp luật của Nhà nước. II: Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam. 1: bản chất của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Như chúng ta đều biết, từ Đại hội VI, Đảng ta đã đề ra chủ trương cho phép sử dụng nhiều hình thức kinh tế, khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, coi đây là một giải pháp có ý nghĩa chiến lược góp phần giải phóng mọi khả năng để phát triển lực lượng sản xuất. Hội nghị Trung ương sáu khoá VI phát triển thêm một bước, đưa ra phát triển kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội Đến đại hội VII Đảng ta tiếp tục nói rõ hơn chủ trương này càng khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cương lĩnh của Đảng đã khảng định: “phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước ”. Nhưng lúc đó cũng mới nói đến kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường chứ chưa nói đến thuật ngữ: “ Kinh tế thị trường ”. Đến Đại hội Đảng IX đưa ra khái niệm “ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nội hàm của khái niệm này thực chất vẫn là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nói rõ được mô hình kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ. Nói đến kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là nền kinh tế của chúng ta không phải là nền kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu bao cấp, nhưng đó cũng không phải là nền kinh tế thị trường tự do theo cách nói của tư bản, tức không phải là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa ; và cũng chưa phải hoàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, bởi vì như trên chúng ta đã nói, chúng ta còn đang tronhg thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, còn có sự đan xen giữa cái cũ và cái mới, vừa có vừa chưa có đầy đủ yếu tố của chủ nghĩa xã hội . 2: các đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý, và phân phối. So với kinh tế tư bản chủ nghĩa kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng chủ yếu sau: * Mục tiêu chiến lược của đường lối phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam là giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. * Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế nhiều thành phần trong kinh tế Nhà nước giữa vai trò chủ đạo. * Trong điều kiện hiện tại , cả kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đều cần sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, song điều khác nhau là ở bản chất của hai nhà nước. Kinh tế thị truờng tư bản chủ nghĩa, Nhà nước là Nhà nước của giai cấp tư sản, tự do dân chủ cũng là tự do dân chủ tư sản, và vậy Nhà nước can thiệp kinh tế là để bảo vệ lợi ích cảu giai cấp tư sản. Còn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam, Nhà nước là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, và vậy Nhà nước can thiệp kinh tế là bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. * Trong nền kinh tế thị trường tất yếu phải tồn tại nhiều hình thức phân phối Trong kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hình thức phân phối chủ yếu là phân phối theo vốn, theo trình độ bóc lột, theo sức lao động, chủ yếu phục vụ mục đích thu lợi nhuận tối đa của chủ tư bản. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yêú, bên cạnh đó có kết hợp với các hình thức phân phối khác nữa để vừa khuyến khích lao động, vừa đảm bảo phúc lợi cơ bản. III: vai trò kinh tế của Nhà nước. 1.Vai trò kinh tế của Nhà nước nói chung trong lịch sử: Nhà nước luôn là vấn đề trung tâm của những cuộc đấu tranh chính trị. Mọi Đảng trong cương lĩnh hoạt động của mình bao giờ cũng hướng mục tiêu vào việc giành lấy chính quyền Nhà nước. Trong lịch sử phát triển có nhiều cách giải quyết khác nhau về nguồn gốc và bản chất của Nhà nước. Theo một số quan điểm thì tôn giáo là quyền lực của Thượng Đế ở trần gian cho đến khi giai cấp tư sản làm cách mạng đã lên án quan điểm này, họ cho rằng Nhà nước xuất phát từ xã hội, để điều khiển và quản lý xã hội. Theo họ thì Nhà nước là do nhân dân bầu ra và quyền lực thuộc về nhân dân. Theo quan điểm của Mác, ông thừa nhận Nhà nước sinh ra từ xã hội nhưng không phải là khế ước của xã hội mà nó xuất phát từ những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa. Mâu thuẫn này dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt để đi đến một nhu cầu của xã hội là phải có một tổ chứ quyền lực đủ mạnh để duy trì xã hội tồn tại trong một trật tự nhất định sao cho phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, tổ chức ấy chính là Nhà nước. Như vậy Nhà nước là công cụ bạo lực để thống trị giai cấp, giai cấp nào thống trị về mặt kinh tế thì giai cấp đó sẽ thống trị về mặt chính trị (hay Nhà nước ). Nhà nước chính là công cụ để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Trong lịch sử phát triển của mình, các Nhà nước đã có phương pháp khác nhau để nắm giữ kinh tế nhằm phục vụ chức năng quản lý của mình. Nhà nước chủ nô - kiểu Nhà nước đầu tiên trong lịch sử loài người chỉ bảo vệ cho quyền lợi của giai cấp chủ nô là giai cấp chiếm đoạt khối lượng của cải được sản xuất ra bởi những người nô lệ, những người bị đàn áp, thống trị bằng bạo lực. Trong thời đại phong kiến Nhà nước phong kiến không chỉ can thiệp vào việc phân phối của cải mà còn đứng ra tập hợp lực lượng nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp. Trong những năm đầu của chủ nghĩa tư bản, chúng ta đã thấy sự phát triển của chủ nghĩa trọng thương với đặc điểm của nó là đánh giá rất cao vai trò kinh tế của Nhà nước. Không phải là không có căn cứ với sự đề cao này mà thực tế như chúng ta đã biết chủ nghĩa trọng thương là hệ thống tư tưởng kinh tế của chủ nghĩa tư bản (CNTB), chủ nghĩa trọng thương tương ứng với thời kỳ tích lũy nguyên thuỷ của CNTB. Giai cấp tư sản rất cần có chỗ dựa vững chắc cho Nhà nước thông qua chỗ dựa này, việc tích lũy tư bản sẽ tiến hành nhanh chóng hơn và hiệu quả cao hơn. Đối với trường phái này muốn phát triển kinh tế thì phải dựa vào sức mạnh của Nhà nước. Họ đánh giá cao các chính sách kinh tế của Nhà nước, ủng hộ chính quyền Nhà nước. Vì vậy ở trong thời kỳ này vai trò kinh tế của Nhà nước được xác lập và nâng cao. Ngược lại với chủ nghỉa trọng thương, các nhà kinh tế học cổ điển mà nổi bật là Adam Smith (1723 - 1790) lại cho rằng Nhà nước chỉ nên thực hiện các chức năng nguyên thuỷ của mình. Lập pháp bảo vệ an ninh quốc gia xét xử những tranh chấp, chứ không nên can thiệp vào các quá trình kinh tế. Theo Adam Smith việc tổ chức nền kinh tế hàng hóa cần theo nguyên tắc tự do. Ông ủng hộ tự do cạnh tranh và chính ông cũng đưa ra thuyết “ bàn tay vô hình “ và nguyên lý Nhà nước không can thiệp vào mọi hoạt động của nền kinh tế. Sự hoạt động của toàn bộ nền kinh tế là do các quy luật khách quan tự phát chi phối, sự vận động của thị trường là do quan hệ cung cầu và sự biến đổi tự phá t của giá cả hàng hóa trên thị trường quyết định. Có nghĩa là “ bàn tay vô hình” tự điều chỉnh nền kinh tế một cách năng động, linh hoạt theo những quy luật khách quan của thị trường còn Nhà nước không nên can thiệp vào nền kinh tế thị trường và hoạt động của các doanh nghiệp. Việc đề cao “ bàn tay vô hình” và xem nhẹ “ bàn tay Nhà nước” đã thực hiện ở các nước tư bản chủ nghĩa (TBCN) trong giai đoạn tự do cạnh tranh đã đem lại sự tăng trưởng nhất định trong kinh tế. Tuy nhiên với một thị trường tự do cạnh tranh hoạt động không có sự can thiệp của Nhà nước ngày càng bộ lộ nhiều khiếm khuyết như tình trạng độc quyền, ô nhiễm môi trường, hoạt động kinh tế chồng chéo, triệt tiêu nhau và đặc biệt là các chu ky kinh tế thể hiện thông qua khủng hoảng kinh tế liên tục mà rõ nhất là thời kỳ đại suy thoái nền kinh tế TBCN (1929 - 1933). Hơn nữa trình độ xã hội hóa sản xuất ngày càng cao đã chỉ cho các nhà kinh tế học thấy rằng cần có sự can thiệp của Nhà nước vào các quá trình hoạt động kinh tế, điều tiết nền kinh tế, nhà kinh tế học người Anh Meynard Keynes (1884 - 1946) người được coi là đã cứu sống CNTB thì lập luận rằng: “ nguyên nhân đưa đến khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp gia tăng đó là Nhà nước không can thiệp vào kinh tế hoặc can thiệp những chính sách kinh tế lạc hậu bảo thủ”. Do vậy theo ông để hạn chế, ngăn chặn khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp thì phải can thiệp vào kinh tế bằng những chính sách kinh tế vĩ mô thích hợp: đó là các chính sách về tài chính tiền tệ lãi suất điều tiết ở tầng vĩ mô. Nhà nước trực tiếp phát triển các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và làm dịch vụ công cộng. Quan điểm này xuất phát ở chỗ cho rằng sự tăng lên của thu nhập sẽ làm tăng lên tiêu dùng so với tiêu dùng giới hạn nhưng sự tăng của tiêu dùng chậm hơn sự tăng của thu nhập dẫn tới cầu giảm, điều này dẫn tới hàng hóa ế thừa từ đó sẽ dẫn tới tỉ suất lợi nhuận giảm. Nếu tỉ suất lợi nhuận nhỏ hơn hoặc bằng lãi xuất thì chủ doanh nghiệp sẽ không có lãi khi vay vốn đầu tư như vậy họ sẽ “ tháo lui đầu tư”. Điều này đưa nền kinh tế vào tình trạng trì trệ khủng hoảng. Vì vậy theo Keynes Nhà nước cần phải can thiệp vào nền kinh tế, can thiệp vào thị trường. Song khi đánh giá cao vai trò của Nhà nước ông lại bỏ qua vai trò của thị trường tự do, bỏ qua vai trò của “ bàn tay vô hình” và “ cân bằng tổng quát”. Hơn nữa, thêm vào đó là tình trạng khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát xảy ra ngày càng trầm trọng. Điều này đã làm làn sóng phê phán lý thuyết của Keynes và xuất hiện tư tưởng phối hợp “ bàn tay vô hình” với Nhà nước để điều chỉnh nền kinh tế thị trường. Nổi bật là quan điểm “ kinh tế hỗn hợp” của Paul Samuelson - một nhà kinh tế học người Mỹ. Ông lại cho rằng điều hành một nền kinh tế không có cả chính phủ lẫn thị trường, cũng như định vỗ tay bằng một tay. Cơ chế thị trường xác định giá cả và sản lượng trong nhiều lĩnh vực trong khi đó chính phủ điều tiết thị trường bằng các chương trình thuế chỉ tiêu và luật lệ. Cả hai bên thị trường và chính phủ đều có tính chất thiết yếu. Theo xu hướng “ hỗn hợp” ngày nay các nhà kinh tế đã thừa nhận rằng các nền kinh tế hiện đại muốn phát triển phải dựa vào cả cơ chế thị trường cũng như sự quản lý của Nhà nước. Khác hẳn với các thành phần kinh tế khác, chủ nghĩa Mác - Lênin dựa trên cơ sở sự sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất vì vậy Nhà nước XHCN có vai trò kinh tế đặc biệt, nó không còn là bộ máy ăn bám đứng trên quá trình sản xuất. Nó phải chuyển sang tổ chức thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế quốc dân. Chức năng này gắn liền với quá trình kế hoạch hóa tập trung thông nhất quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm, kiểm tra chặt chẽ mức độ lao động và mức độ tiêu dùng (tổng cung và tổng cầu). Như vậy sẽ tránh được khuyết tật của cơ chế thị trường, thực hiện được tốt các chính sách xã hội. Tuy nhiên với một bộ máy Nhà nước quá cồng kềnh kế hoạch hóa quá sát sao đã dẫn đến tình trạng dựa dẫm ỷ lại, thiếu sáng tạo đối với cấp dưới, không khai thác và phát huy được hiệu quả cao nhất các nguồn lực như vậy nền kinh tế sẽ có tốc độ tăng trưởng thấp. Do đó các nước theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung như Liên Xô (cũ) và các nước XHCN đã phải chuyển sang cơ chế thị trường và phải đổi mới cách thức quản lý của Nhà nước. Trên thực tế qua các giai đoạn phân tích đánh giá các quan điểm của các trường phái, chúng ta rút ra được tính tất yếu khách quan của vai trò quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Nừu như chỉ thuần tuý sử dụng “ bàn tay vô hình” hay“ bàn tay Nhà nước” thì đều không thể đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển lâu dài, muốn đạt được điều đó thì phải biết sử dụng chúng hòa hợp, cần thiết phả có cả “ hai” cùng tham gia vào hoạt động kinh tế, đó là thị trường và Nhà nước. Vì vậy Nhà nước giữ một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế tự nhiên, sự can thiệp của Nhà nước ở đây chỉ là tầm vĩ mô. 2.Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam : Những năm trước giải phóng do điều kiện lịch sử lúc đó cho nên cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước được sao chép gần như nguyên vẹn mô hình phát triển kinh tế xã hội và cơ chế quản lý kinh tế của các nước XHCN với điển hình là Liên Xô cũ. Cơ chế quản lý kinh tế của nước ta trong giai đoạn này đề cao công cụ kế hoạch hóa, kế hoạch hóa mang tính pháp lệnh bắt buộc mọi ngành, mọi cấp cơ quan, đơn vị và cá nhân phải tuân theo thông qua hệ thống chỉ tiêu kế hoạch để quyết định tất cả các vấn đề kinh tế xã hội. Cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp mang những đặc điểm cơ bản: - Nhà nước quản lý kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, điều này được thể hiện ở sự chi tiết hóa các nhiệm vụ do Trung ương giao bằng một hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh từ một trung tâm. - Các doang nghiệp, xí nghiệp cố gắng hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch đề ra, lãi Nhà nước thu, lỗ Nhà nước bù, điều này mang tính chất không kinh tế. - Các cơ quan hành chính - kinh tế cấp trên can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sử nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về mặt vật chất đối với các quyết định của mình. - Bỏ qua quan hệ hàng hóa tiền tệ, hiệu quả kinh tế quản lý và kế hoạch hóa bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện vật là chủ yếu do đó hạch toán kinh tế chỉ là hình thức. Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức: bao cấp qua giá, bao cấp qua tiền lương hiện vật (chế độ tem phiếu) và bao cấp qua cấp phát vốn của ngân sách mà không ràng buộc vật chất với người được cấp phát vốn. Đi từ những đặc điểm trên dẫn tới bộ máy quản lý rất cồng kềnh có nhiều cấp trung gian và kém năng động, từ đó phát sinh ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý không thông tạo nghiệp vụ kinh doanh nhưng phong cách thì quan liêu, cửa quyền. Bên cạnh những ưu điểm đó là phù hợp với đất nước có chiến tranh. Trong thời kỳ chiến tranh cơ chế này đã động viên tích cực lực lượng tình nguyện lên đường chiến đấu, họ yên tâm hơn bởi người thân của họ ở hậu phương vẫn đảm bảo mức lương thực, họ vững tin vào sản xuất chiến đấu phục vụ sản xuất. Sau ngày chiến tranh kết thúc, áp dụng cơ chế này không còn phù hợp ở Việt Nam, điều này chúng ta chưa nhận ra nên trong suốt một thời gian dài cơ chế cũ đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nước ta gây nhiều tác hại xấu cho cộng đồng. Do có sự bình quân về phân phối nên đã không khuyến khích được người sản xuất phát huy khả năng sáng tạo, sự năng động hăng say nhiệt tình trong công tác. Vì có sự bao cấp của Nhà nước, bao tiêu sản phẩm nên sản phẩm sản xuất ra với chất lượng kém, làm ăn lãng phí, chi phí đầu tư cao nhưng hiệu quả kinh tế lại thấp. Do sản xuất theo kế hoạch nên thiếu sự linh hoạt nhạy bén với thị trường dẫn đến tình trạng sản xuất không phù hợp với tiêu dùng. Công nghệ kỹ thuật lại chậm cải tiến, chi phí rất cao mà chất lượng lại rất thấp. Cung cách hạch toán mang hình thức phô trương tình trạng “ lãi giả, lỗ thật”. Tóm lại , cơ chế cũ đã tích cực đóng góp những xu hướng tiêu cực làm nảy sinh sự trì trệ thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội.Vấn đề được đặt ra là phải đổi mới sâu sắc cơ chế đó. Phương hướng cơ bản của sự đổi mới của nước ta được đại hội VI của Đảng xác định và tiếp tục được đại hội Đảng VII khẳng định: “Tiếp tục xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Thực tế, nhiều chỉ thị, quyết định dần được ban hành: chế độ khoán sản phẩm đến tay người sản xuất được thực hiện, Nhà nước điều chỉnh biểu thuế, giá thu mua nông sản của nông dân - Nhà nước trao quyền tự do về tài chính, sản xuất kinh doanh tự hạch toán cho các cơ sở, các xí nghiệp. Thực tiễn đã chứng minh sau mười năm đổi mới, hiệu quả của nền kinh tế ngày càng cao, tính quan liêu của cơ chế tập trung dần được khắc phục, khả năng lao động sáng tạo của người sản xuất được khuyến khích. Thông qua đại hội Đảng IX một lần nữa khẳng định cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nó không những không đối lập mà còn là nhân tố khách quan cần thiết cho xã hội, phát triển đất nước theo con đường XHCN vì vậy cần phải tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với mục tiêu xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành tương đối đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Khi chuyển sang cơ chế thị trường chúng ta cần phải đánh giá được mặt tốt, mặt xấu của cơ chế thị trường để từ đó có bước đi đúng đắn. Như vậy chúng ta có thể hiểu được cơ chế thị trường là cơ chế từ điều tiết nền kinh tế hàng hóa do sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có của nó, cơ chế giải quyết 3 vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai? Cơ chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung, cầu và giá cả thị trường. Hiện nay vẫn còn tồn tại rất nhiều định nghĩa khác nhau về kinh tế thị trường. Chẳng hạn theo Paul Samuelson thì cơ chế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế trong cá nhân người tiêu dùng và các nhà doanh nghiệp tác động lẫn nhau qua thị trường xác định 3 vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế. Cơ chế thị trường không phải là một sự hỗn độn mà là một trật tự kinh tế, là một bộ máy kinh tế, là bộ máy tinh vi phối hợp một cách không có ý thức hoạt động không có ý thức hoạt động của người tiêu dùng với các nhà sản xuất thông qua hệ thống giá cả thị trường. Không ai tạo ra nó, nó tự phát sinh ra và phát triển cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa. Dựa vào những kinh nghiệm thực tế của nhiều nước cho thấy thị trường không phải là một liều thuốc vạn năng, bên cạnh những ưu điểm của nó thị trường cũng bộc lộ rất nhiều mặt hạn chế của nó cụ thể: Trước hết kinh tế thị trường kích thích việc áp._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docU0358.doc
Tài liệu liên quan