Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam thực trạng và giải pháp

A. Đặt vấn đề Vấn đề Nhà nước và thị trường là mối quan tâm hàng đầu của nhiều nhà nghiên cứu kinh tế trong nhiều thập kỷ qua. Vì vậy ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới muốn tìm tòi mô hình quản lý kinh tế vĩ mô thích hợp và có hiệu quả hơn.. Trong báo cáo chính trị của “ban chấp hành trung ương” khoá VIII trình đại hội IX của Đảng ta có đề cập. Nhà nước ta quản lý kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của kinh

doc27 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1558 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế thị trường. Bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động. Điều đó đã thúc đẩy mọi người phát huy nghiên cứu mối quan hệ giữa thị trường và Nhà nước. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một yếu tố tất yếu cơ bản của quá trình đổi mới quản lý kinh tế ở nước ta. Trong 15 năm qua nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn thoát khỏi những khủng hoảng, đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể, chính trị xã hội ổn định, quốc phòng an ninh quốc gia được giữ vững, từ một nền kinh tế quan liêu bao cấp đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên quy- luật giá trị và tín hiệu cung cầu của thị trường. Như vậy, việc nhận thức nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một điều hết sức cần thiết. Em muốn dùng những kiến trức triết học cơ bản đã học đựơc trong một thời gian rất ngắn để phân tích vấn đề nêu trên nhằm đưa ra ý kiến của mình để thầy xem xét phê bình giúp em đưa ra được những nhận thức và suy nghĩ đúng đắn có khoa khọc hơn. Đây cũng là tác phẩm đầu tay của em về nghiên cứu triết học nên không thể tránh khỏi những sai sót. Em rất mong thầy chỉ bảo tận tình cho em để em có những công trình nghiên cứu tốt hơn trong thời gian tới có một cách nhìn toàn diện hơn về kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội trong những năm tiếp theo. Em xin chân thành cảm ơn. B. Nội dung I. Những lý luân chung về quan điểm toàn diện. 1. Cơ sở lý luận. Quan điểm toàn diện được xuất phát từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng. Đó là các sự vật hiện tượng không tồn tại cô lập, biệt luật mà thống nhất nhau trong đó các sự vật hiện tượng tồn tại bằng cách tác động lẫn nhau, ràng buộc lẫn nhau quy định và chuyển hoá lẫn nhau. Không chỉ tự nhiên mà cả trong lĩnh vực đời sống lĩnh vực tinh thần mọi sự vật hiện tượng cũng luôn luôn liên hệ tác động qua lại lẫn nhau. Sự liên hệ đó là tính khách quan và tính phổ biến của các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Trong thế giới khách quan có vô vàn mối liên hệ, chúng rất đa dạng và giữ vai trò vị trí khác nhau trong sự tồn tại, vận động phát triển sự vật hiện tượng có mối quan hệ bên trong (sự liên hệ tác động, lại có mối liên hệ bên ngoài, nói chung mối liên hệ này không có ý nghĩa quyết định hơn nữa nó thường thông qua mối liên hệ bên trong mà phát huy tác dụng đối với các sự vận động và phát triển của sự vật. Tuy nhiên nó là mối liên hệ hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường vì vậy không có một sự kiện nào tồn tại trong trạng thái cô lập tách rời những sự kiện khác. Chẳng hạn cuộc cách mạng khoá học cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại vừa tạo ra những thời cơ nhưng cũng vừa tạo ra những thách thức to lớn đối với tất cả các nước chậm phát triển. Nước ta có tranh thủ được thời cơ do cuộc cách mạng đó tạo ra hay không trước hết phụ thuộc vào năng lực lãnh đạo của Đảng của Nhà nước và tiếp nữa là sự phấn đấu toàn nhân dân Việt Nam. Song chúng ta cũng khó xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội nếu không hội nhập quốc tế. Không vận dụng được những thành quả của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mà thế giới đã đạt được. Nói cách khác, mối liên hệ bên ngoài cũng hết sức quan trọng, đôi khi có thể giữ vai trò chủ đạo. Có mối liên hệ chung trong toàn bộ thế giới, cũng có mối liên hệ riêng trong từng lĩnh vực cụ thể. Có mối liên hệ trực tiếp giữa hai hay nhiều sự vật hiện tượng, lại có mối liên hệ gián tiếp (sự vật hiện tượng liên hệ tác động qua lại lẫn nhau thông qua một hay nhiều khâu trung gian). Từ nhận thức trên trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có các yếu tố thị trường, các công cụ quản lý nền kinh tế quan điểm toàn diện ở đây thể hiện ở chỗ muốn xây dựng nền kinh tế thị trường phải xây dựng các yếu tố thị trường mang tính đồng bộ tính toàn diện chứ không phải xây dựng các công cụ riêng biệt lẻ loi, các thị trường hàng hoá, dịch vụ cụ thể (thị trường vốn, thị trường lao động ) mà ngay bản thân nền kinh tế cũng vậy nó không tồn tại trong trạng thái cô lập mà trong mối quan hệ quy định lẫn nhau giữa các lĩnh vực kinh tế chính trị ngoại giao, kinh tế chính trị, đạo đức pháp quyền, kinh tế chính trị – khoa khọc – nghệ thuật) 2. Yêu cầu của quan điểm toàn diện. Quan điểm toàn diện đòi hỏi để có nhận thức đúng đắn về sự vật, chúng ta phải xem xét nó trên 2 khía cạnh. a. Trong mối liên hệ giữa các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính khác của chính sự vật đó. b. Trong mối liên hệ giữa sự vật đó với sự vật khác (kể cả trực tiếp và gián tiếp) - VI – Lê Nin viết “Muốn hiểu thực sự được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mói liên hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó” Quan điểm toàn diện đòi hỏi để nhận thức được sự vật, chúng ta cầm xem xét nó trong mối quan hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. ứng với mỗi con người, mỗi thời đại và trong một hoàn cảnh nhất định con người bao giờ cũng chỉ phản ánh được một số lượng hữu hạn những mối liên hệ. Bởi vậy trí thức đạt được về sự vật cũng chỉ là tương đối, không đầy đủ, không trọn vẹn. - Như vậy quan điểm toàn diện chân thực đòi hỏi chúng ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ sự vật đến chỗ khái quát để rút ra cái bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng đó. Quan điểm toàn diện không đồng nhất với cách xem xét dần trải, liệt kê những quy định khác nhau của sự vật hay hiện tượng đó. Quan điểm toàn diện không đồng nhất với cách xem xét dần trải, liệt kê những quy định khác nhau của sự vật hay hiện tượng. Nó đòi hỏi phải làm nổi bật cái cơ bản nhất, chủ yếu nhất và quan trọng nhất của sự vật hay hiện tượng đó. 3. ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm toàn diện. Để cải tạo một sự vật hiện tượng, để hoàn thành nhiệm vụ đặt ra trong hoạt động thực tiễn, đòi hỏi một hệ thống các biện pháp nhất định. Nếu thiếu tính toàn diện trong các chủ trương biện pháp thì sẽ không đạt được hiệu quả như mong muốn. Song toàn diện đồng bộ, không phải cái gì cũng đặt ra một cách dẫn đến tràn lan mà đòi hỏi trong mỗi một thời kỳ mỗi một giai đoạn phải có những chủ trương, những biện pháp mang tính trọng tâm, trọng điểm, phải xác định được những khâu then chốt tập trung giải quyết để làm cơ sở cho những chủ trương biện pháp khác một cách đồng bộ góp phần khắc phục lối suy nghĩ giản đơn, một chiều phiến diện trong thế giới khách quan, mọi sự vật, mọi hiện tượng đều có rất nhiều mối liên hệ. Vì vậy cần phải xem xét các mặt tránh xem xét một mặt hoặc một vài mắt đã vội kết luận ngay vấn đề như vậy sẽ không chính xác. các quan hệ lợi ích thường chỉ thắng lợi ích trước mắt và không thấy được lợi ích lâu dài. Chống lại chủ nghĩa nguỵ biện và chủ nghĩa triết chung nhân danh toàn diện để kết hợp một cách vô nguyên tắc những cái hết sức khác nhau thành một hình ảnh không đúng về sự vật. II. Tính tất yếu phải xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 1. Kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa là gì? 1.1. Kinh tế thị trường và những đặc điểm của kinh tế thị trường. Như đã biết, vào cuối thời kỳ công xã nguyên thuỷ, đầu thời kỳ xã hội nô lệ loại người đã có một bước tiến nhảy vọt trong lĩnh vực sản xuất ra của cải vật chất. Trong sản xuất đã bắt đầu có sản xuất thặng dư, tức là phần sản phẩm nhảy vọt quá phần sản phẩm tất yếu do người sản xuất tạo ra. Mặc dù lúc đầu sự dư thừa đó chỉ là ngẫu nhiên nhưng cùng với chế độ tư hữu được xác lập, người lao động đã có thể làm chủ những sản phẩm dư thừa đó, mang trao đổi với nhau để nhận lại những sản phẩm mà mình thiếu do kết quả phân công chuyên môn hoá đưa lại thị trường sơ khai xuất hiện từ đó. Tuy nhiên, phải trải qua quá trình phát triển lâu dài, mãi đến giai đoạn cuối xã hội phong kiến đầu xã hội TBCN kinh tế thị trường mới được xác lập, và phải đến cuối giai đoạn phát triển của CNTB tự do cạnh tranh thì kinh tế thị trường mới được xác lập hoàn toàn. Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá với những đặc trưng riêng của nó là người làm ra sản phẩm với mục đích đi bán (để trao đổi) chứ không phải tiêu dùng hay ngẫu nhiên như trước. Đặc trưng đó ngày càng được bổ sung phong phú thêm. Như vậy kinh tế thị trường phát triển từ sơ khai đến hiện đạ’ là một công trình sáng tạo của loài người trong quá trình sản xuất và trao đổi đó là trình độ văn minh mà nhân loại đạt được. Do đó mọi quan điểm cho rằng kinh tế thị trường là phát minh riêng của chủ nghĩa tư bản là không có căn cứ. Việc đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản rồi nó tránh, hoặc sử dụng nó như một công cụ tạm thời, hoặc coi việc áp dụng kinh tế thị trường là mặc nhiên chấp nhận con đường TBCN.... Đều có thể dẫn đến sai lầm đáng tiếc. Ngay trong văn kiện đại hội VIII Đảng ta đã khẳng định “sản xuất hàng hoá là thành tựu văn minh chung của nhân loại”, chúng ta không chỉ kiên định “không bỏ qua kinh tế hàng hoá ” mà còn khẳng định kinh tế hàng hoá còn tồn tại khách quan cho đến khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng . lần này trong dự thảo văn kiện đại hội IX tiếp tục khẳng định “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nói gọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 2.1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và những yêu cầu của nó. a. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. - Kinh tế thị trường khác hẳn với nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp trước kia sự cạnh tranh nghiên cứu dưới góc độ quan điểm toàn diện chúng ta nhận thấy rằng một mặt nền kinh tế thị trường làm cho cạnh tranh thúc đẩy khoa khọc phát triển, tiếp thu được các công nghệ và bí quyết mới. Nhưng mặt khác cạnh tranh cũng làm cho hàng loạt Xí nghiệp doanh nghiệp bị phá sản. Đó là do kinh tế thị trường bao hàm cả hai mặt tích cực và tiêu cực. - Về mặt tích cực: Kinh tế thị trường tạo ra được những con người năng động, quyết đoán có được nhiều kinh nghiệm sau những lần cạnh tranh thắng lợi hay thất bại từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động đẩy mạnh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, quá trình xã hội hoá lực lượng sản xuất. - Về mặt tiêu cực và hạn chế: phân hoá giầu nghèo quá xa, dẫn đến mọi cân bằng xã hội, xuất hiện mâu thuẫn xã hội. Sự phát triển mù quáng của các doanh nghiệp mang lẻ tất yếu dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Xuất hiện nhiều tệ nạn xã hội, quá coi trọng đồng tiền xem thường đạo đức truyền thống. Vậy để phát triển kinh tế thị trường cần phải có sự tác động của Nhà nước để tiếp tục phát huy mặt tích cực hạn chế mặt tiêu cực. Điều đó đã được thể hiện rõ trong đường lối kinh tế ở nước ta là Nhà nước quản lý kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa gọi tắt là nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong lịch sử hình thành Nhà nước, chức năng hành chính công, lúc đầu chỉ “mờ nhạt” đơn thuần là thu thuế của các tầng lớp dân cư hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng do tính tự phát của kinh tế thị trường đã gây ra những hậu quả ngày càng nặng nền mà xã hội phải gánh chịu, Nhà nước phải can thiệp sâu hơn vào kinh tế từ đó, chức năng kinh tế của Nhà nước cũng dần được xác định. Học thuyết của JMKên (nhà kinh tế học Anh, 1884-1946) là điển hình về sự kêu gọi phải có bàn tay “hữu hình” của Nhà nước can thiệp vào thị trường để hạn chế tính tự phát, tiêu cực của cơ chế thị trường. Tiếp sau học thuyết của Kên là nhiều học thuyết kinh tế với tên gọi khác nhưng chỉ tập trung bàn về việc Nhà nước nên can thiệp vào kinh tế như thế nào mức độ, thời điểm sao cho hiệu quả cao. Do đó, việc can thiệp vào quá trình kinh tế (quản lý kinh tế vĩ mô) đã được coi là đương nhiên, mang tính quy luật của kinh tế thị trường và việc định hướng phát triển của nền kinh tế đó cũng hoàn toàn phụ thuộc vào bản chất giai cấp của Đảng cầm quyền. Chúng ta biết rằng, Nhà nước là sản phẩm của đấu tranh giai cấp, là công cụ của giai cấp cầm quyền, Nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường ngay từ buổi bình minh của nó để đẩy nhanh quá trình tích luỹ nguyên thuỷ và tư bản, nhằm hình thành và phát triển chủ nghĩa tư bản, ngay cả sau này, khi Nhà nước tư bản chủ nghĩa ban hành các đạo luật chống độc quyền cũng quyết không phải vì lợi ích của giai cấp cần lao, mà vẫn là vì lợi ích toàn cục của chế độ TBCN nói chung vì các tập đoàn tài chính nói riêng. Vì thế việc Nhà nước ta quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế thị trường là điều đương nhiên, phù hợp với tính quy luật đã hình thành trong thực tiễn. Ngay trong nghị quyết trung ương 4 khoá VIII Đảng ta đã khẳng định: Đổi mới và tăng cường quản lý Nhà nước vè kinh tế – xã hội coi đó như là một chính sách lớn để đảm bảo cho định hướng xã hội chủ nghĩa được thực hiện. Kinh tế thị trường định hướng Xí nghiệp chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc bản chất của chủ nghĩa xã hội. Do đó kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có 2 nhóm nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó là nhóm nhân tố của kinh tế thị trường đóng vai trò như là “động lực” thúc đẩy sản xuất xã hội đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, đóng vai trò hướng dẫn, chỉ đạo sự vận đọng của nền kinh tế theo những mục tiêu đã được xác định. Kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế mở. Để mở cửa nền kinh tế tuỳ thuộc vào: thứ nhất, bối cảnh quốc tế, khu vực và năng lực nội sinh của nền kinh tế trong quá trình vươn ra tiếp cận với nền kinh tế thế giới, thứ hai, năng lực tổ chức, quản lý, điều hành của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và khả năng nội sinh hoá có hiệu quả các yếu tố “ngoại sinh” (vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, trí thức kinh doanh...) du nhập vào nước ta. Như vậy, sự hiện diện của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa với tư cách là bộ phận cấu thành trọng yếu (kinh tế Nhà nước ), vừa với tư cách là chủ thể tổ chức, xây dựng quan hệ quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường. Quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường là thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế một đặc trưng của kinh tế hiện đại. Đối với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chức năng đó được thực hiện bởi Nhà nước của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Sự điều tiết của Nhà nước thể hiện ở các mặt sau đây: Một là, Nhà nước tạo môi trườg pháp lý thuận lợi cho các cá nhân, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoạt động. ở nước ta hiện nay các cá nhân, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được quyền tự chủ sản xuất kinh doanh; các cá nhân, các doanh nghiệp khi lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh đều lấy lợi nhuận làm thước đo hiệu quả đồng thời làm mục tiêu định hướng các hoạt động kinh tế của mình, tất nhiên, tự chủ kinh doanh theo pháp luật và mọi hành vi đều phải tuân theo pháp luật. Do đó, Nhà nước phải xây dựng và ban hành một hệ thống pháp luật đầy đủ và đồng bộ như: luật về các quyền (sở hữu, chiếm hữu, sử dụng, thừa kế, chuyển nhượng....); luật hợp đồng; luật về sự bảo đảm của Nhà nước đối với các điều kiện khung của nền kinh tế (bảo hộ lao động, bảo vệ môi trường, chống hạn chế cạnh tranh, chăm sóc môi trường, chống hạn chế cạnh tranh, chăm sóc những người không có khả năng lao động, bảo hiểm xã hội...), luật thương mại,..... Hai là, Nhà nước tạo môi trường kinh tế – xã hội ổn định bằng cách xây dựng kết cấu hạ tầng sản xuất (trong đó quan trọng nhất là phát triển hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc) và kết cấu hạ tầng xã hội (trong đó quan trọng nhất là phát triển hệ thống giáo dục- đào tạo, y tế), cùng với các dịch vụ công cộng khác, như đảm bảo an ninh, dịch vụ tiêu dùng... Ba là, Nhà nước soạn thảo kế hoạch, quy hoạch, các chương trình phát triển kinh tế – xã hội và ban hành các chính sách để hướng các chủ thể thị trường thực hiện các kế hoạch, quy hoạch và chương trình ấy thông qua các chính sách tài chính, tiền tệ, sử dụng các đòn bẩy kinh tế như: ưu đãi về thuế, về lãi suất cho vay cho những ai đầu tư vào lĩnh vực mà Nhà nước khuyến put the boot in. Một vấn đề quan trọng là, Nhà nước ta quản lý nền kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa “theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch hoá, phát huy mặt tích cực, hạn chế, khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân”. Có một số người cho rằng, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thì Nhà nước đừng có can thiệp vào kinh tế và kế hoạch hoá vĩ mô của Nhà nước cũng không còn cần thiết nữa. Quan niệm đó là giản đơn, hoàn toàn sai lầm và không có căn cứ lý luận và thực tiễn. Mọi người đều thấy rằng, trong tất cả các mô hình kinh tế được đúc kết đến nay trrên thế giới đều có cả hai dạng điều tiết kinh tế, một là, điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch hoá và các biện pháp hành chính; hai là, điều tiết gián tiếp thông qua thị trường, vận dụng cơ chế thị trường để tác động đến các hoạt động của các doanh nghiệp, dùng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích hoặc gây áp lực buộc các doanh nghiệp phát triển trong khuôn khổ theo hướng kế hoạch do Nhà nước đề ra. Hai dạng điều tiết kinh tế này chỉ khác nhau ở mức độ, liều lượng và hình thức trong cơ chế chung. Sở dĩ như vậy là vì, với tư cách là công cụ điều tiết vĩ mô, là biện pháp, thủ đoạn kinh tế, cả kế hoạch hoá và thị trường đều có những ưu thế và khuyết tật của nó. Thực chất của vấn đề kế hoạch hoá và thị trường – xét từ góc độ Nhà nước – là sự kết hợp giữa điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch và điều khiển gián tiếp thông qua cơ chế thị trường đối với các hoạt động trên thị trường, cũng như đối với các hoạt động kinh tế trong xã hội. Thực tế ngày càng chứng tỏ rằng, sẽ hợp lý hơn và hiệu quả hơn nếu thông qua kế hoạch hoá của Nhà nước điều tiết thị trường để thị trường điều tiết sản xuất và điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quản lý nền kinh tế theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường sẽ càng có thêm điều kiện giải phóng lực lượng sản xuất, đẩy nhanh sự phát triển kinh tế xã hội. Qua 14 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước ta đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo các điều kiện để chuyển đổi nền kinh tế sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quản lý Nhà nước nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đã đem lại nhiều kết quả. Song, nhìn chung, ta còn thiếu tri thức và kinh nghiệm quản lý nền kinh tế thị trường, quản lý Nhà nước về kinh tế, xã hội còn nhiều yếu kém. Trong những năm tới, cần tiếp tục nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế củ Nhà nước theo hướng: “Nhà nước thực hiện tốt các chức năng, định hướng sự phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để cần đạt nổ lực phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thiết lập khuôn khổ luật pháp, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn phát đạt, khắc phục, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân, quản lý tài sản công và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế – xã hội. Thực hiện đúng chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công của Nhà nước. Cán bộ và các cấp chính quyền không can thiệp vào chức năng quản lý kinh doanh và quyền tự chủ hạch toán của doanh nghiệp. b. Kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta: Đối với nước ta, giải quyết mối quan hệ giữa thị trường và Nhà nước trong điều tiết, quản lý nền kinh tế cũng còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn phải nghiên cứu. chẳng hạn như: Thứ nhất, sử dụng cơ chế thị trường đến đâu và như thế nào để phát huy được mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của nó. Thứ hai, với chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước thì kế hoạch hoá được sử dụng như là một trong những công cụ lao động kinh tế vĩ mô như thế nào để đạt được tăng trưởng lâu bền và đảm bảo được định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, kế hoạch hoá được hiểu theo nghĩa rộng nhất bao gồm toàn bộ các hành vi can thiệp một cách có chủ định của Nhà nước vào nền kinh tế để đạt được những mục tiêu đã đề ra. Kế hoạch trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng khác với kế hoạch hoá trước đây nếu trước đây kế hoạch hoá chỉ giới hạn trong phạm vi khu vực kinh tế Nhà nước, thì bây giờ kế hoạch hoá phải bao hàm tổng thể nền kinh tế quốc dân với nhiều thành phần kinh tế và phải nhấn mạnh đến vấn đề quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội v..v... Nhìn nhận kế hoạch hoá với tư cách là một chức năng cơ bản của quản lý kinh tế, thị trường với tư cách là một lĩnh vực hoạt động của đời sống kinh tế xã hội thì mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường có thể hiểu theo cách thị trường vừa là đối tượng, vừa là cơ sở của kế hoạch hoá. Từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khoá VI đã khẳng định: “Trong nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch. Thị trường vừa là một công cụ vừa là một đối tượng của kế hoạch hoá”. Sự phát triển nền kinh tế hiện nay lệ thuộc rất nhiều vào những yếu tố môi trường, chứ không chỉ lệ thuộc vào sự điều hành và mong muốn của Chính phủ. Ví dụ như môi trường khu vực, môi trường quốc tế, môi trường địa kinh tế, môi trường thiên nhiên..v... vì thế, các mục tiêu trong kế hoạch chỉ mang tính dự báo, tính định hướng và kế hoạch không bao gồm kế hoạch sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Thứ ba, thị trường là khách quan, kế hoạch là sản phẩm chủ quan của Nhà nước, của ngành, của địa phương... vậy xử lý mối quan hệ giữa cái khách quan và cái chủ quan ở đây như thế nào cho phù hợp trong một cơ chế để phát huy tác dụng cao nhất. Nhìn nhận kế hoạch hoá thị trường với tư cách là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước, thì thực chất của vấn đề kế hoạch hoá và cơ chế thị trường được coi là sự kết hợp giữa điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch hoá và điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch hoá và điều khiển gián tiếp thông qua cơ chế thị trường đối với các hoạt động trên thị trường cũng như đối với các hoạt động kinh tế trong xã hội. Đổi mới kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Với cách đặt vấn đề như trên, cần thấy rằng; kế hoạch hoá là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng của Nhà nước nhằm đạt tăng trưởng lâu bền và đảm bảo định hướng XHCN. Vì thế đổi mới công tác kế hoạch hoá từ tư duy, quan điểm định hướng, nội dung quy trình lập và điều hành cho đến cơ cấu tổ chức và cách thức chỉ đạo, kế hoạch là một nội dung cơ bản của quá trình đổi mới công tác kế hoạch hoá hiện nay. Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Cơ chế đó đảm bảo tình huớng dẫn, điều khiển nền kinh tế nhiều thành phần hướng tới đích xã hội chủ nghĩa theo phương châm: Nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp. Cơ chế đó thể hiện ở các mặt cơ bản: một là, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhân tố đóng vai trò “nhân tố trung tâm” và điều tiết nền kinh tế vĩ mô. Hai là, cơ chế thị trường là nhân tố đóng vai trò “trung gian” giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, sự quản lý vĩ mô của Nhà nước phải thích hợp với yêu cầu của các quy luật kinh tế thị trường. Nhà nước phải sử dụng chủ yếu các công cụ, biện pháp kinh tế, luật pháp, quy hoạch, kế hoạch định hướng, chính sách kinh tế – xã hội và khả năng, sức mạnh kinh tế của Nhà nước để tác động tới thị trường, điều tiết hoạt động của các doanh nghiệp cho phù hợp. Vì cơ chế thị trường có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực, do đó đặt ra cho nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phải kết hợp hài hoà 3 vấn đề sau đây: một là, kết hợp vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội, đảm bảo cho các chủ thể kinh tế thị trường có được lợi nhuận cao, vừa tạo được điều kiện chính trị – xã hội bình thường cho sự phát triển kinh tế. Hai là, kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc của kinh tế thị trường, như: phân phối theo lao động, theo vốn, theo tài năng, phân phói qua quỹ phúc lợi xã hội... Trong đó, nguyên tắc phân phối theo lao động là chính. Thứ ba, điều tiết phân phối thu nhập, một mặt, đòi hỏi Nhà nước phải có chính sách sao cho giảm bớt khoảng cách chênh lệch giữa lớp người giàu và lớp người nghèo...; mặt khác, phải có chính sách, biện pháp nâng cao thu nhập chính đáng của người giàu, người nghèo và của toàn xã hội. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, do vậy nội dung kế hoạch không được phép chỉ giới hạn trong phạm vi khu vực kinh tế Nhà nước mà phải mang tính tổng thể toàn nền kinh tế. Việc đổi mới này sẽ tác động một cách sâu sắc đến tính dân chủ và công khai của kế hoạch. Những công cụ thường được áp dụng trong nền kinh tế kế hoạch hoá trước kia phải được thay thế bằng những công cụ, chính sách phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Liên quan chặt chẽ với những điểm trên là vấn đề quy hoạch. Quy hoạch được coi là cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch. Nhưng ở nước ta vấn đề quy hoạch cũng còn nhiều hạn chế, bất cập. Cần phải phân biệt rõ 2 loại quy hoạch: quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch đô thị và quy hoạch phát triển ngành. Thời gian qua quy hoạch sử dụng không gian, đặc biệt là quy hoạch đô thị chưa được chú ý đúng mứcc, quy hoạch sử dụng đất thì lại không ổn định. Điều này đã gây lãng phí cho cả Nhà nước lẫn mọi người dân. Quy hoạch phát triển ngành lại được chú ý quá mức, gần như ngành nào cũng có và hầu hết quy hoạch ngành lại được xác định trong điều kiện “tinh” và “đóng cửa”, không tính được đầy đủ những biến động trên thị trường thế giới, đó cũng là nguyên nhân dẫn đến nhiều doanh nghiệp, nhiều sản phẩm được hình thành theo quy hoạch không thể có sức cạnh tranh trên thị trường nếu được Nhà nước bảo hộ. Tư duy về quy hoạch cần đổi mới theo hướng tăng cường công tác quy hoạch đô thị, quy hoạch sử dụng đất, chỉ quy hoạch theo những ngành mang tính hệ thống toàn vùng hoặc toàn quốc (đường giao thông, điện, viễn thông....), những ngành mang tính kinh doanh chỉ nên dừng ở mức dự báo cung cấp thông tin kinh tế, khoa khọc công nghệ để các doanh nghiệp tự làm. Việc quy hoạch đô thị cần được tiến hành một cách công khai và ổn định, hạn chế các hiện tượng tiêu cực hoặc lạm dụng để đầu cơ trong thị trường bất động sản. Quy hoạch tổng thể ngành được áp dụng cho những ngành mang tính chiến lược và tính hệ thống toàn quốc (điện, giao thông, bưu chính viễn thông) có tính đến sự tham gia của các thành phần kinh tế và những biện pháp khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia thực hiện quy hoạch. Quy hoạch phát triển của các ngnàh khác có sản phẩm và dịch vụ mang tính thương mại, phụ thuộc vào biến động thị trường trong nước và thế giới, tiến bộ khoa học kỹ thuật chỉ nên dừng ở mức định hướng, dự báo, hạn chế tối đa việc sử dụng nguòn ngân sách để đầu tư cho dự án ở những lĩnh vực này. Cần có quy hoạch để các thành phần kinh tế đóng góp ý kiến, tham khảo và tích cực tham gia thực hiện. Xu thế phân cấp trong quản lý ngày càng tỏ ra có hiệu quả trong thực tế. Cần phân cấp quản lý Nhà nước theo nguyên tắc “những hoạt động gắn liền với quyền lợi người dân do chính quyền cấp gần dân nhất chăm lo, chính quyền cấp trên chỉ thực hiện những nhiệm vụ có quy mô lớn mà cấp dưới không thực hiện được hoặc những việc mang tính liên vùng”. Việc xác định mục tiêu trong lập kế hoạch ở cả Trung ương lẫn địa phương theo kiểu năm sau phải cao hơn năm trước, mục tiêu nào cũng đều muốn đạt mức cao trong khi tiềm lực có hạn cần được thay đổi một cách cơ bản. kế hoạch phải căn cứ vào thực hiện, phân tích quan hệ cung cầu và khả năng cạnh tranh trên thị trường (trong nước và quốc tế ) để tính tốc độ tăng trưởng, từ đó xác định thứ tự ưu tiên giữa các mục tiêu, nghĩa là phải có sự “trả giá”, hy sinh mục tiêu này cho việc đạt mục tiêu khác. Việc chiến lược phát triển kinh tế – xã hội do Hội đồng Nghiên cứu chiến lược thực hiện, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chiến lược có thời gian 10-15 năm nhưng được điều chỉnh vào giữa kỳ, dự thảo chiến lược công bố công khai và được các tầng lớp xã hội, đặc biệt là các nhà trí thức và quản lý tham gia đóng góp ý kiến, chiến lược đựơc Bộ chính trị và Đại hội Đảng thông qua. Xây dựng kế hoạch phát triển 5 năm. Kế hoạch 5 năm cụ thể hoá chiến lược. Kế hoạch 5 năm xác định hướng cho sự phát triển của đất nước, xác định những lĩnh vực mà nền kinh tế sẽ ưu tiên tập trung phát triển, xác định nguyên tắc hoạch định và xây dựng chính sách cụ thể để hướng toàn bộ nền kinh tế phát triển theo định hướng đã định. Do nội dung kế hoạch ngày càng có tính định hướng, dự báo cao nên vai trò của kế hoạch 5 năm ngày càng quan trọng. Một trong những cơ sở quan trọng cho việc lập kế hoạch 5 năm là những dự báo phát triển về khả năng biến động của những yếu tố quốc tế, xu thế hội nhập khu vực và quốc tế, của tiến bộ khoa khọc và công nghệ trên thế giới, hiệu quả và khả năng cạnh tranh của một số ngành chủ chốt trên thị trường Việt Nam cũng như trên thị trường quốc tế. Kế hoạch 5 năm cần tập trung nguồn lực vào một số ít mục tiêu quan trọng của thời kỳ, những mục tiêu khác có thể chỉ cần đạt đến một mức độ tối thiểu cần thiết. Hệ thống kế hoạch hằng năm ở tầm vĩ mô: kế hoạch vừa là bộ phận vừa là công cụ để điều hành thực hiện kế hoạch định hướng phát triển kinh tế xã hội 5 năm. Trong mối quan hệ với kế hoạch 5 năm, kế hoạch hằng năm chủ yếu chỉ mang nôi dung phân bổ các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực tài chính để thực hiện một phần mục tiêu của kế hoạch 5 năm, do vậy kế hoạch hằng năm không nên đưa ra mục tiêu mang tính tổng quát. Về nguyên tắc, hệ thống kế hoạch kinh tế quốc dân trong nền kinh tế thị trường không bao gòm kế hoạch sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuy nhiên trong quá trình trong quá trình chuyển đổi, Nhà nước còn nắm vị trí độc quyền hoặc chủ đạo ở một số ngành then chốt, vì kế hoạch của những Tổng Công ty chủ chốt ở những ngành này (ví dụ: Dầu khí, Điện lực, Bưu chính viễn thông...). Bên cạnh đó, hệ thống Ngân hàng thương mại của Việt Nam tiếp tục giữ một vai trò._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35959.doc