LỜI NÓI ĐẦU
Nước ta hiện nay đang ở trong giai đoạn đầu cho sự cất cánh của nền kinh tế .Lựa chọn con đường mô hình kinh tế bảo đảm cho nền kinh tế phát triển theo định hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa ,định hướng XHCN là vấn đề không hề đơn giản
Nước ta còn có nhiều hạn chế trong quản lý nhà nước nói chung và cơ chế chính sách nói riêng .Việc nhận thức đúng vai trò ,nhiệm vụ của nhà nước trong nền kinh tế thị trường phải là việc đầu tiên.Nghiên cứu vai trò kinh tế nhà nước là việc cần th
26 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1501 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Kinh tế nhà nước và vai trũ của nú trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iết và quan trọng
Nội dung chính của đề tài này gồm 3 phần :
Phần 1:- Quan niệm về kinh tế nhà nước
Phần 2:- Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
Phần 3:- Thực trạng nền kinh tế hiện nay, những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường ở Việt Nam. Các biện pháp tăng cường trò vai chủ đạo của kinh tế nhà nước
Với tư cách là sinh viên trường ĐHKTQD, tôi xin đưa ra đề án kinh tế với nội dung “ Kinh tế nhà nước và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”
Việc đi sâu vào nghiên cứu đề tài này giúp tôi có những nhận thức đúng và chính xác về vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước . Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu do kinh nghiệm còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi cũng xin chân thành cám ơn thầy giáo Văn Tường đã hướng dẫn và giúp tôi hoàn thành đề án
I. Quan niệm về kinh tế nhà nước
1/ Quan niệm chung về kinh tế nhà nước
1.1. Kinh tế nhà nước xuất hiện rất sớm ,trải qua mỗi thời kỳ kinh tế nó được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau
Trong thời kỳ tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản nó được quan niệm là những hoạt động của nhà nước trong việc thực hiện những chính sách về tiền tệ những quy định trong buôn bán ….
Cũng trong giai đoạn này thì theo “thuyết bàn tay vô hình”của Ađam Smith (1726 – 1790) thì: “nhà nước không can thiệp vào những hoạt động kinh tế cũng không chống lại vai trò kinh tế nhà nước mà chỉ chống lại sự can thiệp sai trái của nhà nứớc vào kinh tế”
Tới thời kỳ độc quyền nhà nước thì nó được quan niệm khái quát hơn đặc biệt là thuyết “ bàn tay hữu hình” của J.M Keynes . Ông quan niệm và đánh giá cao vai trò của KTNN tới kinh tế thị trường
Trong quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lênin về kinh tế nhà nước :
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất ( chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước).Nếu theo quan niệm nay thì cơ chế thị trường là một cơ chế điều tiết tốt nhưng vẫn có khuyết tật khi thiếu sự quản lý của nhà nước .Và không nhà nước nào lại tồn tại phi kinh tế ngoài nền kinh tế .Sự tác động của nhà nước tới nền kinh tế đã tạo nên thành phần kinh tế nhà nước có vai trò lớn
1.2. Các thành phần của kinh tế nhà nước (KTNN)
Xét theo khía cạnh hình thức tổ chức thì KTNN bao gồm :
+Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh và các doanh nghiệp hoạt động công ích
+Các doanh nghiệp có có phần nhà nước chi phối hoặc cổ phần đặc biệt của nhà nước
+Các doanh nghiệp có vốn góp của nhà nước
+Các tổ chức sự nghiệp kinh tế của nhà nước
Khái niệm kinh tế nhà nước rộng và mạnh hơn bộ phận doanh nghiệp nhà nước,do đó phân biệt hai phạm trù này, nhận thức đầy đủ hơn vai trò kinh tế nhà nước là một bước phát triển về thực tiễn kinh tế nước ta trong quá trình đổi mới
Nếu xét về lĩnh vực hoạt động trong nền kinh tế thì khu cực kinh tế nhà nước bao gồm:
+Quản lý và khai thác các nguồn tài nguyên tự nhiên
+ Đầu tư quản lý và khai thác các công trình hạ tầng kỹ thuật ( đường xá ,bến bãi ,cảng ,các khu công công nghiệp …)
+Các tổ chức kinh tế hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp ,nông nghiệp, thương mại ,dich vụ; trong lĩnh vực tài chính…
Mọi tài sản kinh tế của thành phần này đều thuộc sự sở hữu và quản lý của nhà nước .Nhà nước sẽ can thiệp vào các vấn đề về kinh tế khi thành phần này tham gia vào hoạt động của nền kinh tế
Mặt khác kinh tế nhà nước có vai trò tương đương là một chủ thể kinh tế với nguồn vốn do nhà nước cấp, phương thức hoạt động sản xuất và định hướng phát triển của nó nhằm dưới sự điều hành và quản lý của nhà nước
2/ Đặc điểm của kinh tế nhà nước
Đặc điểm cơ bản trong kinh tế nhà nước là sự phân loại doanh nghiệp nhà nước thành hai loại chủ yếu sau:
Loại thứ nhất : Các doanh nghiệp hoạt động trước hết vì lợi ích công cộng ,mục đích trực tiếp không vì lợi nhuận ,nhằm đảm bảo ổn định chính trị - xã hội :doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm phục vụ cho quốc phòng ,giao thông công cộng kết cấu hạ tầng ,giáo, dục y tế ….
Loại thứ hai : Các doanh ngiệp nhà nước hoạt động kinh doanh chủ yếu nhằm mục đích đạt lợi nhuận .Loại doanh nghiệp này có vai trò quan trọng trong thúc đẩy nền kinh tế phát triển cũng như hỗ trợ các thành phần kinh tế khác,tăng thu nhập cho ngân sách tạo sự phát triển đất nước, ổn định chính trị đáp ứng các nhu cầu cần thiết của xã hội
Là thành phần dựa trên sở hữu công cộng mà nhà nước là người đại diện ,đứng ra lãnh đạo hoạt động một cách trưc tiếp hơặc gián tiếp. Nhà nứớc có thể trực tiếp sử dụng đầu tư phát triển kinh tế ( ngành :dầu khí, mỏ, hàng không …) hoặc có thể giao cho các nhà nước doanh nghiệp sử dụng (một số ngành công nghiệp quan trọng: cơ khi, xi măng, dệt may…)
Thực hiện sản xuất có kế hoạch mà nhà nước đưa ra và theo nhu cầu của thị trường.Tất nhiên khi đưa ra các kế hoạch thì nhà nước phải tính tới các yếu tố về năng lực sản xuất sự tác động các yếu tố bên ngoài đặc biệt có cách nhìn tổng thể về toàn cảnh nền kinh tế trong giai đoạn hiện tại và trong tương lai.Trong hoạt động thực hiện phân phối theo lao động,thực hiện hạch toán kinh tế.Đây là đặc điểm khác biệt lớn nhất giữa kinh tế nước ta với các nước tư bản chủ nghĩa.Điều này cũng dễ hiểu bởi trong cơ cấu hoạt động kinh tế ở các nước này thì kinh tế nhà nước chỉ đóng vai trò điều tiết và hỗ trợ nền kinh tế. Tuy nhiên chế độ phân công lao động trong xã hội lại phụ thuộc vào sự đóng góp tài sản, và như thế lợi ích sẽ nằm trong tay tư sản còn vai trò thống trị sẽ thuộc về thành phần kinh tế tư bản tư nhân.Còn đối với nước ta kinh tế nhà nước với tư cách là chủ thể chính đại diện cho lợi ích nhân dân lao động trong xã hội,được ưu tiên phát triển và giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, định hướng nền kinh tế không đi chệch hướng quy đạo XHCN.
Tồn tại rộng khắp với nhiều ngành nghề ở tất cả các lĩnh vực kinh tế : kinh tế nông nghiệp,công nghiệp, các dịch vụ … Từ những đặc điểm trên kinh tế nhà nước là một thành phần kinh tế góp phần tạo nên đặc trưng chung cho nền kinh tế Việt Nam là :kinh tế thị trường định hướng theo CNXH.
3/ Quá trình hình thành kinh tế nhà nước
Trong thế giới tư bản chủ nghĩa, kinh tế nhà nước hình thành bằng việc nhà nước tư bản xâm nhập và tác động vào kinh tế (vd:thời kỳ độc quyền có tư bản độc quyền nhà nước ). Tại Việt Nam mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trong gần 1 thế kỷ qua đã tở thành động lực thúc đẩy giành độc lập và xây dựng một cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
Dựa trên chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chúng ta hoàn toàn có khả năng xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và lao động trong doanh nghiệp nhà nước không chỉ làm giàu cho bản thân mà còn làm giàu cho đất nước.
Quá trình hình thành kinh tế nhà nước bằng nhiều con đường khác nhau. Trước đây sau khi giành độc lập ở miền Bắc và đăc biệt sau khi thống nhất đất nước nhà nước thực hiện quốc hữu hóa các xi nghiệp tư nhân chuyển thành các donh nghiệp nhà nước làm ăn hiệu quả.Đến thời kỳ đổi mới nhà nước đã trực tiếp đầu tư xây dựng mới với mục đích vừa cải tạo XHCN và phát triển kinh tế theo một hướng mới. Ta có thể lý giải nguyên nhân của việc làm trên: Do cơ cấu kinh tế, cơ sở hạ tầng của chế độ cũ quá thấp kém và lạc hậu, mang nặng một nền kinh tế nông nghiệp, công nghiệp thấp kém. Trong khi đó do yêu cầu đổi mới phát triển đất nước đòi hỏi có nhiều công nghệ tiên tiến,khoa học, phải xây dựng nền tảng vững chắc cho nền kinh tế công nghiệp đặc biệt là những ngành công nghiệp mũi nhọn đủ sức đáp ứng yêu cầu thực tế đó
Bằng hai con đường hình thành trên thì kinh tế nhà nước mà đại diện là các doanh nghiệp nhà nước được xây dựng rất sớm với nguồn vốn huy động tương đối lớn từ nhà nước.Điều này càng chứng tỏ thấy kinh tế nhà nước trong quan niệm chung của chủ nghĩa Mác-Lênin là rất đúng và nó đang bao trùm nên toàn bộ nền kinh tế nước ta.Ta có thể thấy rõ trong hệ thống ngân hàng tài chính, một số ngành công nghiệp chủ chốt đất nước.Mọi hoạt động của các thành phần này đều ảnh hưởng tới hoạt động kinh tế đất nước.Mà con đường hình thành của những hệ thống này đều có bàn tay của nhà nước ,đều đặt dưới sự quản lý vĩ mô của nhà nước, hoặc có thể kể tới các xí nghiệp trước kia mà nhà nước thực hiện quốc hữu hóa. Sau khi thực hiện được bước đó nhà nước mới bắt tay vào đầu tư và xây dựng ,phát triển các xí nghiệp đó đi theo con đường định hướng XHCN.
II. Nội dung vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
1/ Tính tất yếu vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
Nền kinh tế cơ cấu nhiều thành phần là đặc trưng phổ biến của mọi nền kinh tế thị trường. Khác nhau là ở chỗ kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa ,kinh tế tư bản tư nhân giữ vai trò thống trị ;còn kinh tế thị trường nước ta (nền kinh tế định hướng XHCN)thì kinh tế nhà nước có vai trò chủ đạo,và kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể xây dựng và phát triển ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Do có sự nhầm lẫn giữa nhà nước và kinh tế nhà nước nên có ý kiến cho rằng chỉ có nhà nước mới giữ vai trò chủ đạo ,chứ kinh tế nhà nước không giữ vai trò chủ đạo. Cũng do sự đồng nhất giữa các doanh nghiệp nhà nước và kinh tế nhà nước nói chung ,nên những ý kiến đó cho rằng các doanh nghiệp nhà nước không giữ vai trò chu đạo bởi nó có rất nhiều khuyết điểm và nhược điểm trong hoạt động Thật ra doanh nghiệp nhà nước là bộ phận trụ cột nhất của kinh tế nhà nước chứ không phải là của toàn bộ kinh tế nhà nước .Nói đến kinh tế nhà nước thì phải nói đến tất cả các sở hữu trong tay nhà nước kể cả tài nguyên ,đất đai .ngân sách nhà nước …Kinh tế nhà nước không làm chức năng quản lý nhà nước nhưng chính nó là công cụ quan trọng ,là sức mạnh kinh tế mà nhà nước nắm lấy và đưa vào để làm chức năng quản lý của mình. Báo cáo chính trị viết : “ Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế ,là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế ,các doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt ,đi đầu trong ứng dụng khoa học tiến bộ của công nghệ giúp đem lại hiệu quả kinh tế cao”.
Kinh nghiệm thế giới cũng như ở Việt Nam cho thâý rằng kinh tế nhà nước có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Do đó khi tiến hành đổi mới và tham gia vào nền kinh tế thị trường nó cần có một cách nhìn toàn diện và thực tế hơn.Vai trò thể hiện khá sâu sắc trong nền kinh tế ở: “tính định hướng ,dẫn dắt và sự chi phối’.
Kinh tế nhà nước nhờ có ưu thế về nhiều mặt, đặc biệt là cơ sở vật chất kỹ thuật mạnh so với các thành phần kinh tế khác do đó nó có khả năng tổ chức liên kết ,liên doanh kinh tế ,phân công chuyên môn hóa ,hợp tác hóa sản xuất các ngành vừa cải tạo vừa xây dựng ,sử dụng các thành phần khảc. Trong quá trình sản xuất lưu thông kinh tế nhà nước đảm nhiệm việc nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ khoa học-kỹ thuật ,giúp đỡ vốn và kỹ thuật ….Bên cạnh đó việc xây dựng và phát triển các ngành nghề đòi hỏi nhiều vốn đầu tư mà tư nhân không thể làm : xây dựng hệ thống ngân hàng ,các cơ quan tài chính bảo hiểm , thông tin và các ngành mũi nhọn …thì kinh tế nhà nước đứng ra đảm nhiệm.Nghiên cứu vai trò của kinh tế nhà nứớc chúng ta thấy vai trò chủ đạo của một hình thức thể hiện ở chỗ tính chất ,đặc điểm và phương thức tác đông của nó tới các thành phần kinh tế khác Điều kiện đó đảm bảo cho nền kinh tế vận động theo mục tiêu của Đảng và nhà nước .Đảng và nhà nước ta đã xá định mục tiêu : “xây dựng và phát triển kinh tế nhiều thành phần trong đó khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo định hướng và chi phối các thành phần kinh tế khác.
Với tư cách là tổ chức kinh tế tầm cỡ quốc gia, kinh tế nhà nước có vai trò tích cực trong vấn đề thu hút nứơc ngoài và liên doanh với các hãng lớn ,tạo điệu kiện cho ta áp dụng các tiến bộ kỹ thuật công nghệ cao, mở rộng thị trường trong nước và vươn ra ngoài khu vực.Mặt khác theo trên đã nêu thì kinh tế nhà nước đang lắm giữ nhiều ngành sản xuất quan trọng nhất như là : năng lượng ,nhiên liệu, xi măng, hóa chất, ngoại thương, và đặc biệt hệ thống ngân hàng tài chính ..do đó nó giữ vai trò chi phối toàn bộ nền kinh tế .Vậy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nứoc là một tất yếu khách quan phù hợp với thực tiễn khách quan và cần thiết.
2/ Những biểu hiện của vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
2.1. Làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô
Nhà nước sử dụng chung các biện pháp có thể can thiệp vào kinh tế nhằm hạn chế những khuyết tật của kinh tế thị trường, tạo môi trừong kinh doanh lành mạnh, phân bổ nguồn lực tối ưu và thúc đẩy tăng rưởng kinh tế, phát triển hài hòa xã hội phù hợp với truyền thống và đất nước
Trong kinh tế mỗi đơn vị doanh nghiệp là một chủ thể kinh tế,trực tiếp mặt với kinh tế thị trường giải quyết vấn đề cơ bản :sản xuất cái gi?sản xuất như thé nào ? cho ai?...theo mục tiêu đối đa lợi nhuận. Khi đó doanh nghiệp sẽ đổ xô vào một ai đó thì tùy thuộc vào tối đa hóa lơị nhuận làm tăng sản xuất các mặt hàng kinh doanh. Ngược lại khi mà kinh doanh không thu được lãi thì doanh nghiệp đó sẽ có hai cách để lựa chọn. Hoặc tìm ra phương pháp khắc phục tình trạng không lãi bằng cách có những chính sách tăng sản xuất thu lãi, hoặc doanh nghiệp phải tự rút khỏi thị trường hàng hóa đó.Việc rút khỏi thị trường sẽ gây ra sự mất cân bằng giữa cung và cầu, ảnh hưởng tới nền kinh tế. Nhà nước sử dụng công cụ điều tiết, mà thành phần kinh tế nhà nước, (cụ thể là các doanh nghiệp nhà nước) được coi là mang lại nhiều hữu hiệu nhất để nhà nước thực hiện sự điều tiết cơ chế thị trừong . Kinh tế nhà nước không chỉ định hướng sản xuất ,mà còn chi phối các chính sách xã hội kiềm chế được khuynh hướng độc quyền và sự tự phát kinh tế thị trường.Bởi lẽ trong nền kinh tế thị trường tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau vừa có những tích cực vừa có những hạn chế do đó cần có “bàn tay” can thiệp chỉ đạo và chi phối những tiêu cực này. Ở đây chúng ta nói tới thànhg phần kinh tế chủ đạo đảm nhận vai trò này – nó phải có sức mạnh vật chất đủ lớn mới có thể thực hiện tốt nhất. Với những đặc điểm nói trên xét thấy kinh tế nhà nước đủ khả năng hoàn thành vai trò này. Với sản lượng hàng hóa và dịch vụ công cộng tương đối lớn tạo ra đem lại khả năng chi phối giá cả thị trường , dẫn dắt và định hướng thị trường bằng chính chất lượng và giá cả của sản phẩm và dịch vụ do mình cung cấp.
Chức năng này thể hiện rõ nét khi các doanh nghiệp tác động đúng thời điểm ở các lĩnh vực của nền kinh tế. Khi mà các doanh nghiệp dân doanh đủ sức đáp ứng nhu cầu thị trừong thì các doanh nghiệp nhà nước sẽ rút khỏi thị trường đó, nhường chỗ cho các doanh nghiệp dân doanh. Tùy từng vùng mà chức năng này thể hiện rõ ra ngoài đặc biệt quan trọng ở các vùng sâu vùng xa
2.2. Làm đòn bẩy nhanh tăng trửong kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội
Một nền kinh tế được coi là phát triển nhanh khi có sự tăng trưởng cao ( biểu hiện là tỷ lệ tăng trưởng). Muốn vậy cần có một lực lượng làm đòn bẩy thúc đẩy các lực lượng khác cùng phát triển. Kinh tế nhà nước ở nước ta tuy không đủ khả năng chi phối nền kinh tế một cách tuyệt đối xong nó cũng là một thực lực lớn thể hiện được chức năng đòn bẩy. Bởi nó chiếm giữ các ngành nghề mũi nhọn ,then chốt của nền kinh tế , có đủ khả năng chi phối môi trường xã hội và bảo đảm tính ổn định của nền kinh tế .Trong giai đoạn 1990- 1991 kinh tế nhà nước đạt một số chỉ tiêu sau:
Tổng sản phẩm : 34.5%
Thu nhập quốc dân : 27%
Tổng sản phẩm công nghiệp quốc doanh : 57%
Xây dựng cơ bản :76%
Nông nghiệp :3%
Các ngành bưu chính viễn thông ,vận tải đường sắt , hàng không : 100%
Kinh tế nhà nước góp phần hết sức quan trọng vào việc tạo ra sản phẩm cho xã hội và thu ngân sách , tạo nguồn lực đáng kể trong tay nhà nước để điều tiết quá trình phát triển theo định hướng XHCN. Bên cạnh đó kinh tế nhà nước còn bảo đảm sức sản xuất và hoạt động cho nền kinh tế , thực hiện các nhiệm vụ xuất nhập khẩu đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế giải quyết các vấn đề xã hội : việc làm, các phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường, giảm thiểu những tiêu cực trong đời sống .
Đi đầu về nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả , nhờ đó mà thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh ,bền vững của nền kinh tế. Các ngành các doanh nghiệp thuộc khu vực sản xuất kinh doanh của kinh tế nhà nước không ngừng nâng cao năng suất. So với trước thời kỳ đổi mới thi kinh tế tăng trưởng nhanh hơn hẳn .Trong thập kỷ 90 (1990- 1999) tăng trưởng kinh tế liên tục đạt mức cao và ổn định và đạt 9.3% vào năm 1996. Đặc biệt chúng ta đã hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch 5năm (1991- 1995). Đại hội Tám của Đảng đã xhỉ ra : “ Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế -xã hội nhưng một số mặt chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho cặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền dề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành ,cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa ,hiện đại hóa”. Cho tới đầu thế kỷ 21 mà cụ thể qua 5 năm (2000-2004) chúng ta đã có những bước phát triển khá cao , GDP tăng liên tục trong các năm tương ứng là 6.7%, 6.8%, 7.0%, 7,3% , 7,7% .Đó là những tín hiệu đáng mừng của nền kinh tế đất nước. Còn trong thành phần kinh tế nhà nước thì so với năm 1991 năm 1992 thu nhập quốc dân tăng 5.3%. Hơn 10 năm từ 1995 tới 2005 kinh tế nhà nước luôn đóng góp trên 60% vào GDP và khoảng 66% trong xuất khẩu
2.3. Mở đường hướng dẫn , hỗ trợ các thành phần kinh tế khác, tạo nền tảng cho nền kinh tế và xã hội mới
Với lợi thế về vốn , kỹ thuật và lao động ,kinh tế nhà nước là đơn vị tổ chức mạnh, sản xuất lớn, kinh doanh hiệu quả, từng bước dẫn dắt các thành phần kinh tế khác theo bứơc đi của mình. Bằng nhiều hình thức hỗ trợ ,giúp đỡ các thành phần khác cùng phát triển theo định hướng XHCN, tính chất này của kinh tế nhà nước xuất phát từ vị tí chiến lược và khả năng chi phối đến môi trường kinh tế-xã hội. Có những ngành có vai trò quan trọnh như là yếu tố đảm bảo , tác nhân kích thích cho sự phát triển cho các ngành khác như giao thông vận tải thông tin liên lạc ...song do tính chất của những ngành này mà các thàn phần khác hoặc là không đủ vốn hoặc gặp khó khăn về quản lý trong thu hồi vốn nên không đầu tư. Để khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư sản xuất, khu vực kinh tế nhà nước đứng ra tổ chức xây dựng những cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ,tạo môi trường hoạt động kinh doanh có hiệu quả . Ở đây vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thể hiện là yếu tố mở đường kích thich sự phát triển toàn bộ theo định hướng nhất định.
“ Trong điều kiện nền kinh tế chậm phát triển nhất là trong hoàn cảnh nước ta, để rút ngắn thời kỳ công nghiệp hóa –hiện đại hóa thì việc cần chấn chỉnh ,đổi mới và phát huy có hiệu quả khu vực kinh tế nhà nước , làm tốt vai trò chủ đạo thúc đẩy hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển , tập trung cố gắng của doanh nghiệp nhà nước vào những khâu then chốt như kết cấu hạ tầng, những công trình đòi hỏi kỹ thuật cao ,vốn đầu tư lớn thời gian thu hồi vốn chậm …cần thiết tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và của toàn xã hội”.(Văn kiện hội nghị lần VII ban chấp hành trung ương khóa VII)
Kinh tế nhà nước tạo nền tảng kinh tế - xã hội cho đời sống. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta thu nhập của dân cư còn thấp kém ,tĩch lũy nhỏ nên việc đầu tư lớn chỉ có thể thực hiện được bằng vốn nhà nước .. Mặt khác kinh tế nhà nước thông qua việc cung cấp hàng hóa tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có tác dụng thúc đẩy lưu thông giữa các ngành nghề và các khu vực ,góp phần bảo đảm việc cho vay vốn để phát triển sản xuất góp phần khắc phục sự khác biệt giữa các vùng. Qua đó làm tăng tinh thần hòa hợp cộng đồng và ý thức đoàn kết dân tộc.
III. Thực trạng, những đặc trưng của kinh tế thị trường ở Việt Nam. Biện pháp tăng cường vai trò chủ đạo
1/ Thực trạng kinh tế
Sau hơn mười năm đổi mới,kinh tế nước ta có nhiều biến chuyển lớn và nhìn chung là đạt được những thành tựu đáng kể có ý nghĩa quan trọng. Trong suốt thời kỳ đổi mới từ năm 1986 kinh tế Việt Nam luôn có tăng trưởng dương và ổn định. Điều này được minh chứng từ năm 1991 tới nay tăng trưởng luôn đạt mức cao có năm đạt 9,3% (năm 1996) các năm 2002,2003, 2004 tốc độ tăng trên 7%. Cơ cấu kinh tế ngành , khu vực có nhiều biến chuyển tích cực theo hướng thị trường định hướng CNXH. Các ngành công nghiệp và dịch vụ phát triển đi kèm là sự ổn định của nông nghiệp. Thực tiễn trong nền kinh tế nước ta từ trước tới nay kinh tế nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất là các ngành trong công nghiệp. xây dựng, giao thông vận tải, dường sắt, hàng không…Hàng năm kinh tế nhà nước đóng góp một tỷ trọng lớn vào GDP ( khoảng 40% ) làm lực lượng quan trọng cung cấp tài chính cho ngân sách nhà nước ( khởang 60%)
Trong công cuộc đổi mới kinh tế, kinh tế nhà nước cũng không ngừng đổi mới. Cơ chế quản lý cũ được thay bằng những chính sách quản lý phù hợp hơn đáp ứng yêu cầu của một nền kinh tế thị trường. Vấn đề hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước được quan tâm hơn vì đã là doanh nghiệp thì phải kinh doanh có lãi thì mới tồn tại và phát triển. Việc xem xét đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp cần có quan điểm toàn diện về kinh tế, chính trị, xã hội. Lấy việc sinh lời từ vốn làm tiêu chuẩn đánh giá các doanh nghiệp kinh doanh, lấy kết quả thực hiện chính sách xã hội làm tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp công ích.Từ năm 1989 chúng ta chủ trương có sự sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước. Chúng ta đã mạnh dạn thực hiện cắt giảm một lượng lớn các doanh nghiệp họat động trong kinh tế nhà nước nhưng không đem lại hiệu quả kinh tế. Từ khoảng 12000 doanh nghiệp năm 1990 chúng ta đã giảm xuống còn hơn 5000 doanh nghiệp năm 2000 . Nhưng tỷ trọng kinh tế nhà nước trong GDP vẫn tăng từ 29.4% năm 1990 lên 39.0% năm 2000.Nhiều doanh nghiệp có quy mô nhỏ được chuyển đổi sang hình thức sở hữu khác. Nhà nước đã thành lập 92 tổng công ty lớn trên nhièu lĩnh vực then chốt. Tính đến cuối năm 2002 số lượng chuyển đổi này là 1035 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa 907 doanh nghiệp, giao khoán 76 doanh nghiệp, bán 46 doanh nghiệp khoán cho thuê 6 doanh nghiệp. Nhờ vậy mà quy mô vốn tự có và vốn ngân sách cấp cho các doanh nghiệp tăng nên; các doanh nghiệp có thêm vốn đầu tư, hiện đại hóa máy móc thiết bị, giúp năng suất lao động tăng cao đem lại hiệi quả kinh tế. Đồng thời sau khi thay đổi cơ chế quản lý cơ cấu kinh tế cũng có những thay đổi đáng kể. Mặc dù tổng sản phẩm kinh tế nhà nước giảm từ 37% năm1990 xuống còn 34.5% năm 1998 nhưng một số mặt lại có sư tăng trưởng cao cụ thể : tổng sản phẩm công nghiệp tăng từ 56% nên 57%; khối lượng vận chuyển hàng hóa tăng từ 68% tới 72%. Trong việc thực hiện cơ chế mới, một số cơ sở kinh tế nhà nước đã chủ động xác định và thay đổi phương thức sản xuất và kinh doanh, tìm thị trường đầu ra, tạo thêm nguồn vốn bằng nhiều cách ( trong đó có đi vay và tự có), trình độ kỹ thuật đã được đổi mới, chủ động tiếp cận các thị trường xã hội và đã đứng vững…. Nhờ vậy mà các cơ sở kinh tế nhà nước vẫn phát triển và kinh doanh có lãi. Chẳng hạn năm 1991 sản xuất nói chung của cả nước tuy gặp nhiều khó khăn nhưng sản xuất của doanh nghiệp nhà nước vẫn tăng 15.6% so với năm 1990.Trong đó bộ công nghiệp nặng tăng 32.5% bộ nông nghiệp và công nghiệp nhẹ tăng 26%, nhiều sản phẩm quan trọng tăng đáng kể như dầu thô tăng 4,5% ,thép tăng 42,5% xi măng là 26,7%.....
Có một thực tế khó phủ nhận đó là thành phần kinh tế nào cũng có những khuyêt tật của nó. Trong những năm qua thành phàn kinh tế nhà nước đã có vai trò lớn của nền kinh tế quốc dân nhưng cũng bộc lộ nhiều khuyết điểm cần phải được xem xét và khắc phục:
Trước hết chúng ta quá chủ quan và nóng vội đi lên CNXH nên đã mở rộng kinh tế nhà nước quá tải và quá khả năng điều hành của các cấp quản lý, vượt qua yêu cầu khách quan của nền kinh tế. Quy mô các doanh nghiệp nhà nước còn nhỏ (vốn bình quân chỉ khoảng 1.2 tỷ đồng), cơ cấu có nhiều bất hợp lý, công nghệ lạc hậu quản lý yếu kém chưa thật tự chủ. Đến tháng 5 năm 2001 mới chỉ có 4,1% tổng số doanh nghiệp nhà nước được công gnhận đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Kết quả kinh doanh của các xí nghiệp cũng chưa tương xứng với nguồn lực đã có và sự giúp đỡ của nhà nước: Từ năm 1997 tới 2000 ngân sách nhà nứoc đã đầu tư thêm cho các doanh nghiệp nhà nước gần 82000 tỷ đồng ngoài ra còn giảm thuế 1351 tỷ, xóa nợ 10888 tỷ đồng, khoanh nợ 3392 tỷ,giãn nợ 540 tỷ, đầu tư cho vay ưu đãi 9000 tỷ . Đến năm 2000 số doanh nghiệp nhà nước làm ăn có lãi mới chỉ là 40% bị lỗ là 29%
Hậu quả của việc thành lập tràn lan các xí nghiệp quốc doanh dãn đến một số bộ phận bị giải thể. Từ năm 1990 đến 2000 đã cắt giảm hơn một nửa bộ phận nghiệp,gần 6000 lao động bị thất nghiệp. Sự việc đó đã làm phát sinh những vấn đề trong xã hội :tệ nạn các tiêu cực khác … Cơ cấu kinh tế vẫn còn mất cân đối về tỷ trọng ngành , khu vực, điều đó làm cho sự thiếu vắng những ngành sản xuất cần cho cuộc sống. Nhiều doanh nghiệp của kinh tế nhà nước gặp khó khăn khi chuyển sang cơ chế mới thì lại bị thiếu về vốn ,thị trường , kinh doanh lỗ kéo dài… Tình trạng nợ lần làm mât khả năng phục hồi và thanh toán, theo thống kê thì trong số nợ 8000 tỷ có 60% là của thành phần kinh tế nhà nước
Một hạn chế quan trọng mà góp phần đáng kể cho sự kém hiệu quả đó là bộ phận đội ngũ cán bộ quản lý. Đại đa số các cán bộ đều từ chế độ cũ chuyển sang điều hành trong cơ chế mới do vậy từ tác phong tới trình độ năng lực và kinh nghiệm có nhiều hạn chế không phù hợp với cơ chế mới.Đó sẽ là khuyết điểm lớn nhất cần khắc phục thì mới có thể đem lại hiệu quả của nền kinh tế
Nguyên nhân của những hạn chế :
Nhà nước ít vốn, thực hiện đầu tư dàn trải và với phương trâm chỉ đủ tồn tại mà không có sự tăng trưởng đi nên không có sức cạnh tranh. Chế đọ phân phối trong doanh nghiệp nhà nước không phù hợp với kết quả kinh doanh, không có sự gắn bó chặt chẽ giữa lợi ích vật chất với trách nhiệm vật chất và năng suất lao động nên không khuyến khích sản xuất. Cán bộ quản lý thiếu tiêu chuẩn lãnh đạo cũng như trách nhiệm trước cơ quan đoàn thể
Sự trì trệ do có ỷ lại vào nhà nước thực hiện vẫn theo cơ chế cũ theo kế hoạch không, đưa ra kế hoạch phát triển, thiếu sáng tạo năng động. Sự độc quyền của kinh tế nhà nước làm cho sự trì trệ càng tăng cùng với không đổi mới công nghệ. Rồi những chính sách đào tạo cán bộ công nhân kỹ thuật tay nghề cao trong các lĩnh vực còn kém hiệu quả…
2/ Đặc trưng kinh tế thị trường ở Việt Nam
Chúng ta đã biết cương lĩnh năm 1991 của Đảng ta nêu ra sáu đặc trưng lớn của xây dựng chế độ XHCN trong đó có đặc trưng về kinh tế dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu. Chế độ công hữu bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Khi xây dựng xong XHCN thì chế độ công hữu sẽ hiếm ưu thế tuyệt đối. Đó là chuyện lâu dài, còn trước mắt chúng ta vẫn đang trong giai đoạn quá độ. Giai đoạn này cũng là một thử thách khó khăn và kéo dài nên việc phát triển kinh tế nhiều thành phần là tất yếu khách quan. Khi đó chúng ta sẽ tận dụng được nhiều điều kiện , tập trung mọi nguồn lực để phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa tinh thần nhân dân
Trước đây do chủ quan duy ý chi nóng vội xây dựng CNXH thông qua các biện pháp cải tạo xã hội chủ nghĩa xóa bỏ các thành phần kinh tế được coi là phi chủ nghĩa xã hội. Thực tế thì sau gần 20 năm đổi mới chúng ta đi nên xây dựng từ một nước nghèo nàn lạc hậu chậm phát triển đã lấy việc phát triển lực lượng sản xuất làm ưu tiên, xây dựng các quan hệ sản xuât mới. Theo tinh thần đó trong báo cáo của bộ chính trị đã chỉ rõ : “ tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN là thúc đẩy doanh nghiệp sản xuất và hội nhập để thu được nhiều thành quả nhất…”
Một nền kinh tế thị trường vơi các quan hệ thị trường được xác lập có vai trò quyết định với sản xuất kinh doanh. Nền kinh tế có nhiều thành phần cạnh tranh có trình độ xã hội cao thúc đaayr sự kết hợp hài hòa giữa sản xuất và tiêu dùng. Nhà nước dùng luật pháp các kế hoạch định hướng và chinh sách kkinh tế để dẫn dắt thị trương phát triển mạnh điều tiết phân phối đảm bảo phúc lợi cho toàn dân thực hiện công bằng xã hội
Đặc trưng của kinh tế thị trường ở Việt Nam được thể hiện ở các mặt sau:
2.1. Nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo:
Kinh tế nước ta tồn tại ba hình thức sở hữu cơ bản :sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể , sở hữu tư nhân. Ba hình thức sở hữu đó hình thành nên sáu thành phần kinh tế cơ bản ( hiện tại) và nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Do đó không chỉ ra sức phát triển các thành phần kinh tế có sở hữu công cộng mà còn khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế khác để hình thành nên một thị rộng lớn bao gồm các đơn vị sản xuất khác nhauvà bình đẳng
Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta thì kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Việc xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là vấn đề có nguyên tắc và là sự khác biệt giữa kinh tế thị trường định hướng XHCN với kinh tế thị trường tư bản. Tính định hướng XHCN của kinh tế thị trường nước ta đã quy định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
2.2. Sự phát triển kinh tế gắn với việc giải quyết các vấn đề xã hội
Đây là đặc trưng nổi bật nhất của kinh tế thị trường XHCN. Hai mặt kinh tế và xã hội được kết hợp với nhau thông luật pháp ,các chính sách kinh tế và chính sách xã hội. Thực hiện phúc lợi xã hội thông qua ngân sách đề ra vừa khuyến khích mọi người làm giàu chính đảng và tăng thu nhập cho nền kinh tế quốc dân. Chúng ta gắn kinh tế xã hội và quốc phòng vừa đảm bảo ổn định chính trị vừa phát triển kinh tế từng bước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế nâng cao đời sống nhân dân
Sự thành của nền kinh té thị trường không chỉ dừng lại ở tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn phải nâng cao chất lượng cuộc sống ,tiền lương, thu nhập thực tế, y tế giáo dụ phát triển…Tuy có sự phân hóa giàu nghèo nhưng không làm ảnh hưởng tới phúc lợi xã hội và vị trí của mỗi người. Cơ chế kinh tế thị trường không làm xuống cấp hay thoái hóa trong các lĩnh vực văn hóa xã hội, các quan hệ đạo dức nếu biết gắn kết kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội
2. 3. Tăng trưởng và phát triển bền vững
Thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV291.doc