Lời nói đầu
Trong quá trình phát triển của lịch sả xã hội, nước ta đã trải qua nhiều giai đoạn phát triẻn khác nhau kể tiếp từ thấp đến cao. Tưong ứng với mỗi giai đoạn lịch sử là một hình thái kinh tế xã hội khác nhau và tương ứng với mỗi hình thái kinh tế xã hội là một Nhà nước khác nhau. Dù ở bất cữ giai đoạn lịch sử nào hay trong bất cứ hoạt động kinh tế nào điều cần đến vai trò chủ quan của con người điều khiển qúa trình kinh tế đó hoạt dộng theo một cơ chế quản lý nhất định. Đó là tổng th
31 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1332 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Kinh tế Nhà nước và vai trò của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ể các phương pháp, hình thức kinh tế, các công cụ kinh té mà người ta tác động vafo kinh tế nhằm đảm bảo cho nó hoạt động theo một phương pháp nhất định.
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trương fcó sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN là một chiến lược lâu dài và đứng đắn của Đảng. Mặc dù đã gặp rất nhiều khó khăn nhưng với vai trò quản lý củ Nhf nước ở tầm vĩ mô và sự chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước bước đầu nước ta đã thu được những kết qủa đáng khích lệ, đặc biệt là mấy năm gần đây biểu hiẹn ở tốc độ tăng trưởng GDP, GNP. Sự thành công này là do công sức đóng góp to lớn của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước. Trong thực tế cho thấy ở nước ta kinh tế Nhà nước và vai trò của kinh tế Nhà nước là yếu tố rất quan trọng cho sự phát triển của đất nước, đặc biệt là trong giai đoạn kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đối với các sinh viên, đặc biệt là sinh viên chuyên ngành kinh tế, việc nghiên cứu và tìm hiểu hoạt động kinh tế cũng như cơ cấu nền kinh tế đất nước là hết sức cần thiết. Đặc biệt là đi sâu tìm hiểu hiểu về kinh tế Nhà nước và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường. Vì lý do đó nên em đã chọn đài tài: “Kinh tế Nhà nước và vai trò của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta”
I. Kinh tế Nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta.
1. Kinh tế Nhà nước
1.1. Tính tất yếu củ việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Đánh giá thành tựu 10 năm thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế XH (1999-2000), báo cáo chính trị tại đại hội IX nhận định rằng 1 trong những chuyển biến quan trọng của nền kinh tế trong những năm vừa qua là từ chỗ chủ yếu có hai thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể đã chuyển sang có nhiều thành phần, trong dó kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Mặt khác, về đường lối và chiến lược phát triển kinh tế xã hội, báo cáo chính trị lại khằng định quyết tâm của Đảng ta “các thành phần kinh tế kinh doanh theo định hướng XHCN, cùng với phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế Nhà nước vẫn dữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế Quốc dân. Chúng ta đang trong thời kỳ quá độ một thời kỳ không ngắn cho nên phát triển nền kinh tế nhiều thành phàn cũng là một yếu tố khách quan nhằm khai thác tối đa một năng lực sản xuất trong xã hôị để phát triển lực lượng sản xuất và nâng cao đời sống vật chất, văn hoá do nhân dân. Trước đây do duy ý trí, chủ quan và nóng vội, đã có ý nghĩ rằng đã có thể xây dựng nhanh CNXH thông qua các biện pháp cải ttạo CNXH, xoá bỏ các thành phần kinh tế tư nhân được coi là “phi XHCN”. Sự thực không phải như vậy. Thực tiễn 15 năm đổi mới cho thấy rằng đi lên CNXH từ một nền kinh tế còn nghèo nàn, chậm phát triển, trước hết phải lấy việc phát triển lực lượng sản xuất làm ưu tiên. Còn xây dựng , còn việc xây dựng quan xây dựng quan hệ sản xuất mới, đặc biệt là xây dựng chế độ “công hữuvà tư liệu sản xuất” chủ yếu là quá trình phát triẻn kinh tế xã hội lâu dài qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao. Theo tinh thần đó, báo cáo chính trị chỉ số “tiêu chuẩn văn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN là thúc đâỷ phát triển lực lượng sản xuất cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội”.
1.2. Quan niệm về kinh tế Nhà nước
Bất cứ Nhà nước nào cũng có chức năng kinh tế, ở các thời đại khác nhau, mỗi chế độ xã hội khác nhau, do tính chất nhà nước khác nhau, nên vai trò và chức năng của kinh tế Nhà nước cũng khác nhau. ậ Việt Nam, thành phần kinh tế nhà nước là những đơn vị, tổ chức trực tiếp sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ hoặc phục vụ sản xuất, kinh doanh mà toàn bộ nguồn lực thuộc về sở hữu của Nhà nước hoặc phần của Nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế hoặc chi phối (theo chế độ tham dự) toàn bộ tài sản, đất đai, rừng biển, thềm lục địa vùng trời đang được khai thác, kết cấu hạ tầng kinh tế do Nhà nước xây dựng và quản lý, ngân sách nhà nước, các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước dự trữ quốc gia, hệ thống bảo hiểm nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước…
Như vậy các doanh nghiệp Nhà nước chỉ là một bộ phận của kinh tế Nhà nước, là bộ phận quan trọng và chủ yếu cầu thành lên kinh tế Nhà nước . Và cũng phải cần phân biệt giữa sở hữu Nhà nước và thành phần kinh tế Nhà nước , phạm trù sở hữu Nhà nước rộng hơn thành phanà kinh tế Nhà nước. Thành phần kinh tế Nhà nước trước hết phải thuộc sở hữu Nhà nước. Nhưng sở hữu Nhà nước có thể do các thành phần kinh tế khkác sử dụng, thí dụ như đất đai, Nhà nước đại biểu do toàn dân sở hữu, nhưng kinh tế hộ, hợp tác xã nông nghiệp do các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác sở hữu. Ngược lại, thuộc sở hữu Nhà nước không phải là kinh tế Nhà nước, chẳng hạn Nhà nước góp vốn cổ phần chiếm tỷ lệ thấp và các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, thông qua liene doanh, liên kết gọi là kinh tế tư bản Nhà nước.
2. Vai trò kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
2.1. Tính tất yếu của việc phát triển nền kinh tế thị trường
Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam theo dịnh hướng XHCN là một tất yéu của lịch sử. Nó nhằm dẫn đến những mục tiêu rất cụ thể và mang tính cách mạng. Nó thay thế đối với hàng loạt vấn đề lý luận thực tiễn, cả về kinh tế và chu trình xã hội, nó đảm bảo việc phát triển chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện, hoàn cảnh mới.
Kinh tế thị trường là một kiểu quan hệ kinh tế xã hội mà trong đó sản xuất xã hội gắn với thị trường, tức là gắn chặt với quan hệ hàng hoá tiền tệ với quan hệ cung cầu. Trong nền kinh tế thị trường nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống xã hội là quan hệ hàng hoá. Mọi mặtc của quan hệ xã hội phải tính đến quan hệ hàng hoá, ít hay nhiều phải sử dụng quan hẹ hàng háo như mắt khâu trung gian. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường ở đó sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? được quyết định thông qua thị trường.
Kinh tế thị trường luôn lấy cạnh tranh làm môi trường, lấy lợi nhận làm động lực. Sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường tuân theo quy luật giá trị . Do đó đòi hỏi kinh doanh không ngừng đổi mới, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, nâng cao năng xuất lao động mở rộng quan hẹ sản xuất kinh doanh. Quá trình hình thành theo cơ chế thị trường là quá trình mở rộng, phân công lao động xã hội tạo điều kiện cho các thành phần sản xuất phát triển.
2.2. Ưu điểm, khuyết tật của nền kinh tế thị trường và vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường tho định hướng XHCN.
* Ưu điểm: Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thẻ kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ. Do dó làm cho nền kinh tế phát triển năng động, huy động các nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh tế.
Cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm hao phí lao động các biệt đến mức thấp nhất có thẻ bằngcách áp dụng khoa học kỹ thuật vf cong nghệ vào sản xuất mới, nhờ đó thúc đẩy được lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng và số lượng hàng hoá. Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội, nhờ đó có thể thoả mãn nhu cầu trên dùng cá nhân và sản xuất về hàng ngàn, hàng vạn loại sản phẩm khác nhau. Những nhiệm vụ này nếu Nhà nước làm sẽ thực hiện một khối lượng công việc khổng lồ, có khi không thực hiẹn được và đòi hỏi chi phí cao trong việc tạo ra quyết định.
So với cơ quan Nhà nước, cơ thế thị trường mềm nhỏ hơn, linh hoạt hơn và có khả năng thích nghi cao hơn trước những thay đổi của điều kiện kinh tế. Nhờ vậy cớ chế thị trường giải quyết định mua hàng hóa này mà không cần mua hàng hoá kia, lợi nhuận lôi cuốn các doanh nghiệp vào sản xuất mặt hàng có lợi nhuận cao, do đó đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Sản xuất bằng phương pháp nào, bằng công nghệ nào được quýet định bởi cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá. Cách duy nhất để các doanh nghiệp có thẻ cạnh tranh được về giá cả và thu được lợi nhuận tối đa là giảm chi phí sản xuất đến mức tối thiểu bằng áp dụng kỹ thuật và công nhệ vào sản xuất. Sản xuất hàng hoá cho ai hay là sản phẩm sản xuất ra được phân phố như thế nào, một phàn được quyết định bởi quan hệ cung cẩn trên thị trường các yếu tố sản xuất.
Như vậy, thị trường đã giải quyết được ba vấn đề kinh tế là sản xuất cái gì? sản xuất cho ai, sản xuất như thế nào?
* Khuyết tật: Lịch sử phát triển của sản xuất xã hội đã chứng minh rằng có chế thị trường là cơ chế điều tiết nền kinh tế đạt hiệu quả cao. Song cơ chế thị trường không pahỉ là hiệu thân của sự hoàn hảo, mà nó còn có những khuyết tật đặc biệt là về mặt xã hội. Có thể chỉ ra một số khuyết tật như sau:
Cơ chế thị trường chỉ thực hiẹn đầy đủ lhi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn hảo, một nền kinh tế được thúc đẩy khi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn hảo. Một nền kinh tế được thúc đẩy bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ dẫn tới phân bố và sử dụng vô hiệu quả nhất đầu vào của sản xuất và đầu ra, tức là nền kinh tế đứng trên giới hạn của đường giới hạn năng lực sản xuất. Như vậy hiệu lực của cơ chế thị trường phụ thuộc vào mức độ không hoàn hảo của cạnh tranh, cạnh tranh càng không hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trường càng giảm.
Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, vì vậy họ dùng những biện pháp để thu được lợi nhuận tối đa, thậm chí còn lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người mà xã hội phải gánh chịu, do đó hiệu quả kinh tế của xã hội không được bảo đảm.
Có những mục tiêu, xã hội mà dù cơ chế thị trường có hoạt động tốt cũng không thể đạt được, sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự phân hoá giàu nghèo, tác động xấu đến đạo đức và tình người. Một nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết khó khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ. Người ta nhận thấy rằng một nền kinh tế hiện đại đang đứng trước một vấn đề nan giải của kinh tế vĩ mô không một nước nào trong thời gian dài lại có được lạm phát, thất nghiệp thấp và công ăn việc làm đầy đủ.
Như vậy cơ chế thị trường có một loạt những khuyết tật vốn có của nó. Do đó ngày nay trong thực tế khong có sự can thiệp của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước chỉ can thiệp ở tầm vĩ mô.
* Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
Vai trò điều chỉnh: Bằng cách cân đối cung cầu trong toàn xã hội để chỉ đạo các doanh nghiệp làm lệnh cung cầu chung, cái mà từng doanh nghiệp không nắm được. Trong vai trò này phải phát hiện lập thời những mất cân đối, những nguy cơ tiểm ẩn để lo ngăn ngừa đối phó kịp thời khi nó xẩy ra.
Đảm bảo ổn định chính trị, xã hội và thiết lập khuôn khổ luật phát đẻ tạo ra những điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế. Nhà nước tạo ra hành lang luật pháp cho sự hoạt động kinh tế và bằng cách đặt ra những quy định chi tiết cho hoạt động của các doanh nghiệp.
Đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Tạo ra sân chơi công bằng để các doanh nghiệp tự do cạnh tranh. Đó cũng là tạo ra công bằng xã hội, luật pháp được soạn thảo đúng vốn quy luật của thị trường sẽ giúp thực hiện tốt vai trò này.
Điều tiết hài hoà giữa các lĩnh vực, các vùng kinh tế để tạo ra sự phát triển hài hoà, nó phải đòi hỏi tìm hiểu xem thị trường hiện nay như thế nào, tưong lai nó sẽ biến động ra sao để điều tiết từ nơi thừa sang nơi thiếum lúc thừa sang lúc thiếu.
Định hướng cho sự phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô nhưng chống lạm phát, chống khủng hoảng ngăn ngừa những biến động xấu trong nền kinh tế.
Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội đảm bảo yêu cầu phát triển kinh tế khắc phục hạn chế, tiêu cực của cơ chế thị trường, phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội.
2.3. Kinh tế Nhà nước – Vai trò chủ đoạ trong nền kinh tế nhiều thành phần.
Tính chất nhiều thành phần kinh tế là nét đặc trưng có tính quy luật của nền kinh tế quá độ lên CNXH ở nước ta. Các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quá độ luôn luôn vận động, phát triển trong mối quan hệ, tác động qua lại, đan xen trong cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất, trên cơ sở vừa hợp tác vừa bổ sung cho nhau vừa cạnh tranh với nhau trong nèn kinh tế thị trường và bình đẳng trước pháp luật. Để tiến hành Công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, các thành phần kinh tế phải được cải thiện dựa trên những tiền đề khách quan là: Xuất phát từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội và yêu cầu của xã hội hoá sản xuất trên thực tế, xuất phát từ đặc điểm, tính chất của từng ngành nghề mà xác định tỷ trọng, quy mô, cơ cấu các thành phần kinh tế cho phù hợp; xuất phát từ khả năng tổ chức và quản lý kinh tế của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế. Vấn đề là không phải là xoá bỏ hay ưu tiên thành phần kinh tế này hay thành phần kinh tế khác, mà điều quan trọng là phải nắm vứng bản chất của từng thành phần và sử dụng chúng đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
Một thành phần kinh tế có bản chất và những quy luật kinh tế hoạt động riêng, dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về lực lượng sản xuất và có khả năng tái sản xuất một cách tương đối độc lập lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất và có khả năng tái sản xuất một cách tương đối độc lập lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tương ứng. Khả năng tái sản xuất là điều kiện tồn tại và vận động của mỗi thành phần kinh tế. Chính xu hướng mở rộng hay thu hẹp có khả năng sản xuất chỉ rõ vai trò và triển vọng của mỗi thành viên kinh tế trong nền sản xuất xã hội. Tuy nhiên các thành phần kinh tế không tồn tại một cách biệt lập, mà có mỗi liên hệ và tác động qua lại, đan xen. Để đảm bảo nèn kinh tế phát triển tho định hướng XHCN, trong quá trình vận dộng vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác, thành phần kinh tế Nhà nước phải tự vươn lên, làm sao để cùng với kinh tế hợp tác dần dần, trở thành nền tảng cho chế độ xã hội mới XHCN.
Kinh tế Nhà nước dựa trên chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, là chế độ sở hữu phù hợp với xu hướng xã hội hoá của lực lượng sản xuất. Kinh tế Nhà nước nắm giữ những vị trí then chốt, yết hầu, xương sống của nền kinh tế, do đó nó có khả năng , có điều kiện chi phối hoạt động của các thành phần kinh tế khác đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo hướng ổn định . Kinh tế Nhà nước là lực lượng đảm bảo cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế, là lực lượng có khả năng can thiệp, điều tiết, hướng dẫn giúp đỡ và liên kết, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, nó có thể tác động tới các thành phần kinh tế khác, không chỉ bằng các công cụ và đòn bẩy kinh tế, mà còn bằng con đường gián tiếp, thông qua những thiết kế và hoạt động của kiến trúc thượng tầng XHCN. Kinh tế Nhà nước dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa học kỹ thuận hiện đại, tiên tiến do đó nó có nhịp độ phát triển nhanh, đóng góp phần lớn cho ngân sách Nhà nước và sự tích tụ để có thể ngừng tái sản xuất mở rộng. Kinh tế Nhà nước còn đóng vai trò là lực lượng nòng cốt hình thành các trung tâm kinh tế, đô thị mới là lực lượng có khả năng đầu tư vào những lĩnh vực có vị trí quan trọng sống còn, nhưng ít ai dám đầu tư vì đòi hỏi vốn quá lớn mà thời gian thu hồi vốn lại quá chậm.
2.4. Kinh tế Nhà nước dữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế là do:
Nhiều thành phần kinh tế là đặc trưng phổ biến của mọi nền kinh tế thị trường khác nhau là ở chỗ trong kinh tế thị trường TBCN, kinh tế tư nhân nói đúng hơn là kinh tế tư bản tư nhân giữ vai trò thống trị, còn trong kinh tế thị trường theo định hướng XHCN như ở nước ta thì kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo và kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể được xây dựng và phát triển để ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Do có sự nhầm lẫn giữa Nhà nước và kinh tế Nhà nước nên có ý kiến cho rằng chỉ có Nhà nước mới làm chức năng chỉ đạo hay chủ đạo, chứ kinh tế Nhà nước không giữ vai trò chủ đoạ được. Cũng do có sự đồng nhất giữa kinh tế Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước nên ý kiến khác lại cho rằng doanh nghiệp Nhà nước không thể giữ vai trò chủ đạo được bổ nó có hàng loạt những khuyết điểm và nhược điểm trong hoạt động. Thật ra doanh nghiệp Nhà nước là bộ phận trụ cột nhất của kinh tế Nhà nước chứ không phải là toàn bộ kinh tế Nhà nước. Nói đến kinh tế Nhà nước là phải nói đến tất cả các sở hữu trong tay Nhà nước kể cả tài nguyên, đất đai, ngân sách Nhà nước, dự trữ quốc gia… kinh tế Nhà nước không làm chức năng quản lý của Nhà nước, nhưng chính nó là công cụ quan trtọng là sức mạnh kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh té, doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò chủ chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa kỹ thuật và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp lệnh.
II. Thực trạng của thành phần kinh tế nhà nước ta hienẹh nay.
1. Thực trạng của thành phần kinh tế Nhà nước ta trong giai đoạn cơ chế thị trường theo định hướng XHCN.
1.1. Cổ phần hoá và giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian không đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra
Sau chiến tranh thế giới thứ II, khu vực doanh nghiệp Nhà nước ở hầu hết các nước trên thế giới phát triển rất nhanh chóng và chiếm tỷ lệ áp đảo trong nền kinh tế quốc gia. Nhưng đến những năm của thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80, khu vực doanh nghiệp Nhà nước ở hầu hết các quốc gia đã bộ lộ những yếu kém, hạn chế nhất là về hiệu quả kinh tế. Khu vực doanh nghiệp Nhà nước nắm đại bộ phận tài nguyên thiên nhiên, lao động, vốn và công nghệ của toàn xã hội, song sức sinh lợi của đòng vốn bỏ ra thấp hơn so với khu vực khác. Đối với nước ta trong quá trình thực hiện đổi mới do Đảng đề xướng và lãnh đạo, đa dạng hoá sở hữu thông qua chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp Nhà nước mà trọng tâm là cổ phần hoá và giao bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước cũng được xác định là một chủ chương lớn đã thể hiện trong các nghị quyết của Đảng và quốc hội. Song chúng ta có cách làm riêng, từng bước ổn định và vững chắc, đồng thời giải quyết thoả đáng quyền lợi cho người lao động. Điều này nói lên bản chất yêu việt của chế độ, cổ phần hóa nhưng không làm tăng thêm số người thất nghiệp.
Có thể khái quát quá tình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ta như sau:
Giai đoạn 1992 – 1995 là thời kỳ thực hiện thí điểm theo quyết định 202 / NĐBT của hội đồng bộ trưởng về thí điểm chuyển một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty Cổ phần: Gia đoạn 1996 – 1998 là thời kỳ thực hiện nghị định 28CP (1996) về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, giai đoạn 1999 đến nay là thời kỳ thực hiện nghị định 44/ 1998 CP vè cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước và nghị định 103/ 1999 NĐ - CP về giao bán , khoán cho thuê doanh nghiệp Nhà nước.
Hai hội nghị gần đây đã tạo ra khuôn khổ pháp lý theo cổ phần hoá giao bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước. Về tổ chức, các ban chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp Nhà nước từ trung ương đến các bộ ngành . Tổng Công ty 91 và các địa phương đã được thành lập. Nhưng quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp diễn ra rất chậm. Từ năm 1992 đến năm 1998 cổ phần hoá được 102 doanh nghiệp. Từ chỗ tự nguyện đăng ký số doanh nghiệp tựhc hiện cổ phần hoá đã được thành chỉ trên pháp lệnh. Năm 1999 thủ tướng chính phủ giao chỉ tiêu cổ phần hoá 450 doanh nghiệp cho các bộ, tổng Công ty 91 và các địa phương, nhưng chỉ thực hiện được 220 doanh nghiệp đạt 49% kế hoạch. Mặc dù doanh nghiệp đó cổ phần hoá và giao, bán, khoán, cho thuê còn ít nhưng khả năng cạnh tranh và hiệu quả đã rõ ràng, hầu hết các doanh nghiệp sau khi đã cổ phần hoá thì doanh thu, thu nhập của người lao động, lợi nhuận, vốn, nộp thuế đều tăng hơn so với trước khi cổ phần hoá.
Hiện nay trong tổng số 5280 doanh nghiệp chỉ có 20,9% doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng, còn 65,5% doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng, 30% các doanh nghiệp địa phương có vốn dưới 1 tỷ đồng. Doanh nghiệp Nhà nước có sức cạnh tranh và hiệu quả kinh tế thấp chỉ khoảng 40% làm ăn có hiệu quả đủ sức cạnh tranh, 40% hiệu quả thấp hoặc hoà vốn, 20% thua lỗ liên tục. Lộ trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước giai đoạn 2000 - 2002 là phải sắp xếp lại 2280 doanh nghiệp, trong đó có số vốn trên10 tỷ đồng là 216,1 đến 10 tỷ đồng là 1233, dưới 1 tỷ đồng là 831 ; về hình thức thì 368 doanh nghiệp thuộc diện tiến hành giải thể hoặcphá sản, 1489 doanh nghiệp được cổ phần hoá và giao bán, khoán, cho thuê, 380 doanh nghiệp phải sát nhập vào doanh nghiệp khác và 43 doanh nghiệp trở thành đơn vị sự nghiệp.
1.2. Kết qủa của việc sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước.
Thực hiện đường lối của Đảng 10 năm qua, từ năm 1991 đến nay Chính phủ đã đẩy mạnh cuộc đổi mới và đã tiến hành 3 đợt sắp xếp lớn các doanh nghiệp Nhà nước. Kết qủa sắp xếp các doanh nghiệp Nhà nước theo chủ trương nghị quyết của Chính phủ, chỉ thị của thủ tướng chính phủ đến cuối năm 1997là một mặt thu hẹp hơn 50% số đầu mối các doanh nghiệp Nhà nước, từ hơn 12000 doanh nghiệp xuống còn 6000 doanh nghiệp trong đó sát nhập 3100 doanh nghiệp, giải thể 3350 doanh nghiệp. Mặt khác doanh nghiệp Nhà nước vẫn phát triển ổn định và đóng góp phần quan trọngcho ngân sách Nhà nước.
Nhưng tiến bộ trên đầy về đổi mới, sắp xếpdn1 Nhà nước và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước tuy có ý nghĩa rất quan trọngnhưng chưa tương xứng với yêu cầu và năng lực sẵn có của doanh nghiệp Nhà nước. Doanh nghiệp còn yếu kém, tồn tại cơ bản nhất là :
Thứ nhất : Những năm gần đây tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sử dụng vốn các doanh nghiệp Nhà nước giảm dần. Năm 1995 đánh giá chung số doanh nghiệp có lấn chiếm khoảng 40% sốdn1 bị lỗ chiếm 20%. Nếu tính đủ khấu hao tài sản cố định thì doanh nghiệp làm ăn thua lỗ con số lớn hơn. Số dn1còn lại nằm trong tình trạng không ổn định, khi số vốn lãi và lãi cũng không lớn hơn. Công nợ trong doanh nghiệp Nhà nước hiện nay là quá lớn.
Thứ hai : Doanh nghiệp Nhà nước còn thiếu về số lượng nhưng lại nhỏ về quy mô, còn lan trải theo ngành nghề địa phương.
Thứ ba : Tình trạng thiếu vốn của các doanh nghiệp Nhà nước phổ biến và nghiêm trọng.
Thứ tư : Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu. Hậu quả là chưa tạo được nhiều sản phẩm quốc gia, sản phẩm mũi nhọn có hàm lượng chất sám và công nghệ cao, trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh, nội lực của đất nước với sử dụng có hiệu quả hợp tác kinh tế quốc tế, khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và trong nước của sản phẩm do doanh nghiệp Nhà nước làm ra thấp.
1.3. Những mặt hạn chế còn tồn tại :
Kinh tế Nhà nước (KTNN) ở nước ta có một thực lực to lớn, chiếm 3/4 tài sản quốc gia và đóng góp trên 40% GDP hàng năm, nắm giữa các đài chỉ huyvà các vị trí then chốt trong nền kinh tế, đó là nền tảng, là cơ sở và sức mạnh để định hướng XHCN toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Những đòi hỏi tư nhân hoá khu vực KTNN không gì khác hơn là làm cho nền tảng và sức mạnh kinh tế của CNXH yếu đi, tạo thắng thế cho định hướng TBCN. Tuy nhiên cũng phải khách quan mà nhìn nhận rằng thành phần KTNN ở Việt Nam hiện nayđang hoạt động tương đối kém hiệu quả do chúng ta chưa có cơ chế để thực hiện quyền sở hữu đó có hiệu quả nhất. Sự mỏng manh, chưa vững chắc trong vai trò chủ đạo KTNN hiện nay có những nguyên nhân thuộc về quá khứ của quy hoạch, đầu tư đào tạo, bố trí và sử dụng cán bộ quản lý, ở đào tạo và tuyển dụng lao động, ở sự lại trông chờ vào việc ban phát từ bên trên, ở sự kém năng động và thiếu tính quyết toán trong các quyết định quản lý do có quá nhiều tầng nấc từ bên trên can thiệp… đang là những lực cản gây ra sự yếu kém, trì trệ ít hiệu quả của KTNN. Cùng các dư âm của quá khứ, việc chuyển đổi cơ chế cũng làm bộc lộ hơn những khuyết điểm mà chúng ta xử lý đó là tình trạng vô chủ trên thực tế vẫn còn tồn tại mặc dù về mặt pháp lý chúng tađã phân biệt rõ ràng các quyền năng sở hữu, sử dụng, định đoạt và hưởng lợi. Song việc sử dụng tăng phí công sản Nhà nước, quản lý lỏng lẻo, vô trách nhiệm, phân phối tùy tiện, chiếm dụng vốn lẫn nhau, lại vào sự đầu tư của Nhà nước, đánh quả, chụp giật, móc ngoặc vẫn còn tồn tại. Sự kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước và tập thể người lao động chưa được triển khai đồng bộ và thực sự có hiệu quả. Nhiều giám đốc sử dụng ngay đồng đều của Nhà nước để làm vô hiệu hoá sự kiểm tra và kiểm soát đó.
2. Nguyên nhân của thực trạng trên.
Thứ nhất : Tình hình tài chính của doanh nghiệp nói chung và tài chính của những doanh nghiệp Nhà nước phải cổ phần hoá nói riêng chưa lành mạnh, thiếu tính minh bạch, thiếu rõ ràng. Chính phủ đã có quyết định 104/CT về thanh toán công nợ giai đoạn một và quyết định 95/QĐTTg về xử lý thanh toán giai đoạn II nhằm lành mạnh hoá tài chính của doanh nghiệp, nhưng kết quả giải quyết công nợ chưa khả quan, diễn ra rất chậm. Giai đoạn I chỉ giải quyết được gần 19% và giai đoạn II giải quyết được khoảng 18% tổng số nợ các doanh nghiệp kê khai. Mục đích của biện pháp này là làm cho các doanh nghiệp Nhà nước lành mạnh về tài chính trước khi cổ phần hoá, nhưng việc cơ cấu lại nợ của các doanh nghiệp vẫn còn nhiều bất cập nên việc xác định giá trị doanh nghiệp khi thực hiện cổ phần hoá gặp nhiều khó khăn.
Thứ hai : Thể chế quản lý vẫn chưa tạo ra được sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Hiện nay vẫn có sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp Nhà nước với các đối thủ cạnh tranh thuộc thành phần kinh tế khác. Thực tế là giữa chính sách của mọi doanh nghiệp đều bình đẳng trước pháp luật và thực tiễn còn có khoảng cách, ngay ở khuôn khổ pháp luật vẫn còn có sự phân biệt đói xử giữa các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế. Bên cạnh đó là sự mặc cảm của xã hội đối với những người làm việc ở khu vực ngoài quốc doanh và sự kỳ thị của một số công chức đối với khu vực kinh tế dân doanh. Điều đó thể hiện rõ ở tần suất thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp dân doanh lớn nhiều hơn số với doanh nghiệp Nhà nước.
Thứ ba : Công tác tuyên triển về đa dạng hoá sở hữu một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước còn nhiều hạn chế. Một số giám đốc doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn nhận thức giám đốc doanh nghiệp là một chức vụ vô cùng với nó là “vị ngọt” của quyền lợi, “hương thơm” của quyền lực, họ vẫn ỉ lại vào Nhà nước, chưa nhận thức được đầy đủ trách nhiệm của một giám đốc đối với doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường đã khúc xạ thời kỳ bao cấp trước đây.
Thứ tư :Tiềm lực tự đổi mới công nghệ của Nhà nước ta rất thấp, phần GDP cho nghiên cứu rất ít và lại chủ yếu chi cùng cho những lĩnh vực lý thuyết, ít tính ứng dụng. Chiến dịch chuyển giao công nghệ chưa nhận thức đúng để vạch ra và thực hiện một cách cương quyết. Dẫn đến chiến lược đầu tư thể hiện khá nhiều sai lầm. Nền kinh tế chưa hình thành các ngành mũi nhọn đủ sức nâng cao doanh nghiệp nói riêng và kinh tế nói chung rời bệ phóng để cất cánh. Ngoài ra, bộ phận quản lý của doanh nghiệp Nhà nước còn rất bỡ ngỡ việc cung cách làm ăn thị trường, cạnh tranh khốc liệt, do vậy nhiều khi còn bị lừa gạt. Ngoài ra tệ nạn tham ô, tham nhũng có xu hướng tăng trưởng nền kinh tế cũng là một trong những căn nguyên làm giảm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước.
III. Giải pháp.
1. Một số phương pháp tháo gỡ khó khăn của doanh nghiệp nhà nước hiện nay.
Trong những năm qua phải nhận thấy rằng quá trình cải tổ chủ yếu mang nặng tính chất hành chính, gấy sức ép từ trên xuống thông qua các chủ trương, kế hoạch cải cách lớn của Chính phủ. Do vậy những thành tựu thu được chủ yếu do tháo bỏ những ràng buộc vô lý để cho các quan hệ kinh tế tự nó phát triển theo quy luật nhằm tận dụng hết những nguồn lực dự trữ bề nổi mà xã hội hiện có. Quan hệ thị trường mới khuyến khích các doanh nghiệp Nhà nước khai thác nguồn lực theo chiều rộng, theo bề nổi, còn những yếu tố chiều sâu công nghệ tiên tiến chưa sử dụng được là bao mà những yếu tốt này lại là lực lượng sản xuất quan trọng nhất của nền kinh tế hiện đại, để khơi dậy sức sống cho lao động sáng tạo, tài năng cần tiếp tục đổi mới sâu sắc hơn nữa cơ chế quản lý doanh nghiệp Nhà nước.
+ Trước hết là mối quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước về các mặt tài chính và các lĩnh vực hoạt động. Chúng ta không thể giữ mãi cơ chế coi doanh nghiệp Nhà nước như một hạng mục doanh nghiệp đặc biệt được hưởng cơ chế ưu đãi riêng so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Đã là doanh nghiệp, với tư cách là một pháp nhân tài sản độc lập, doanh nghiệp Nhà nước cũng phải hoạt động theo cơ chế thị trường như mọi doanh nghiệp khác. Trong cơ chế thị trường, mục tiêu của bất cứ doanh nghiệp nào cũng bao gồm một nội dung kép : Là lợi nhuận tối đa cho chủ sở hữu và thu nhập cao cho người đóng góp vào hoạt động của Công ty. Khi chủ sở hữu quản lý trực tiếp doanh nghiệp thì xu hướng chủ đạo trong điều hành là giảm đến mức tối đa thu nhập của người làm công với tư cách giảm chi phí để tăng tối đa lợi nhuận thu về. Còn khi người làm thuê trực tiếp quản lý doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp Nhà nước, thì họ lại có xu hướng nâng cao tiền lương, coi đó như phần thưởng hợp pháp của những người lao động nhằm khuyến khích họ làm việc tốt. Mâu thuẫn giữa hai xu hướng này chưa phải đã hết trong sở hữu Nhà nước bởi vì thu nhập qua lương người lao động được quyền chi phối trực tiếp, còn thu thập qua phân phối lại từ ngân sách nhà nước vừa khó kiểm soát vừa không cảm nhận một cách thiết thân. Do vậy khi chuyển sang cơ chế thị trường, sự tách bạch công khai tài chính doanh nghiệp Nhà nước và tài chính công là hết sức cần thiết. Nhưng cơ chế tách bạch đó như thế nào. Hiện tại các doanh nghiệp Nhà nước vẫn hoạt động theo cơ chế giao vốn và nhà nước và nhà nước giao nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Song cơ chế quản lý theo kiểu giao vốn đã ít nhiều bộc lộ khiếm khuyết.
Trong nền kinh tế hiện đại có hai cách quản lý vốn có hiệu quả : Đó là cơ chế kinh doanh vốn như công ty tài chính và cơ chế uỷ quyền trực tiếp cho các cá nhân tin cậy. Không phải doanh nghiệp nào cũng có thể dùng chế độ tham dự._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34600.doc