Phần mở đầu
Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình chuyển từ nền kinh tế tự cấp tự túc sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa luôn đặt ra những vấn đề nghiên cứu lý luận thực tiễn. Nền kinh tế nước ta có bao nhiêu thành phần? Chúng có mối liên hệ như thế nào? Thành phần nào đóng vai trò quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân? Những câu hỏi đó giúp Nhà
37 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1318 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Kinh tế Nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước có những chính sách, biện pháp cụ thể để khuyến khích phát triển. Đề tài: “Kinh tế Nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” góp phần làm rõ hơn lịch sử phát triển, vai trò của kinh tế Nhà nước. Phải quan niệm như thế nào cho đúng, cho khách quan, để hiểu đúng về vai trò của kinh tế Nhà nước. Để làm được điều đó thì chúng ta phải nắm chắc được sự ra đời, bản chất và những biểu hiện của kinh tế Nhà nước. Từ đó xác định và phân tích vai trò của kinh tế Nhà nước đối với nước ta hiện nay để có biện pháp phương hướng đổi mới để nó làm tròn vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Đề tài này là một đề tài rộng, đòi hỏi người nghiên cứu phải có trình độ và khả năng tổng hợp cao. Với tầm hiểu biết còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, em mong được thầy chỉ bảo và sửa chữa để đề tài được hoàn thiện.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Nghiêm Văn Luyến
Phần I
Kinh tế nhà nước Sự hình thành và bản chất
I. Quá trình hình thành và phát triển của kinh tế nhà nước.
1. Kinh tế nhà nước hình thành cùng với nhà nước.
Khi loài người vừa thoát thai khỏi thế giới động vật, cuộc sống hoang dã, mông muội như Ănghen nói : “người ta nửa là người, nửa là động vật man rợ còn bất lực trước sức mạnh của tự nhiên, còn chưa biết được sức mạnh của chính mình. Do đó cùng nghèo nàn như động vật”. Trong xã hội nguyên thuỷ trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp kém, người ta muốn sống tồn tại được họ buộc phải dựa vào nhau. Cuộc sống mông muội hoang dã khiến cho con người hòa đồng để chiến thắng thiên tai và thú dữ. cuộc sống chủ yếu là săn bắn và hái lượm, làm chung và ăn chung. Cuộc sống của họ chỉ là kiếm ăn và cùng ăn. Sản phẩm kiếm được được phân phối bình quân để duy trì cuộc sống tối thiểu chưa có của cải dư thừa. Chính vì thế chưa có sự chiếm đoạt của cải giữa mỗi thành viên trong cộng đồng, chưa có sự chiếm đoạt của chung thành của riêng. Xã hội chưa biết đến tư hữu, chưa biết đến nhà nước. Trong thời gian đó giai cấp chưa xuất hiện nhà nước và kinh tế nhà nước chưa xuất hiện.
Lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, cuộc sống săn bắn thuận tiện. Do đó cuộc sống của con người được nâng lên trên mức tối thiểu. Con người ngày càng phát triển về trí tuệ, ban đầu nếu họ chỉ biết sử dụng những công cụ thô sơ như : cành cây dược vót nhọn dùng để đâm thú dữ, những hòn đá đẽo nhọn thì nay họ đã biết sử dụng công cụ bằng kim loại. Năng suất lao động tăng lên sản xuất xã hội phát triển. Với đại phân công lao động lần thứ nhất: chăn nuôi tách khỏi trồng trọt. Chính sự phân công lao động đó được Ănghen nhấn mạnh đó là một “sự phân công xã hội lớn đầu tiên đã nảy sinh sự phân chia lớn đầu tiên trong xã hội thành hai giai cấp chủ nô và nô lệ, kẻ bóc lột người bị bóc lột”. Đại phân công lao động lần 2 : Tiểu thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp, lao đông trí óc tách khỏi lao động chân tay, hình thành các mối quan hệ trao đổi, quan hệ bất bình đẳng về tài sản. Với lực lượng sản xuất mới chế độ làm chung ăn chung không còn thích hợp nữa, sản xuất gia đình cá thể, riêng lẻ trở thành hình thức sản xuất hiệu quả hơn. Tư liệu sản xuất và sản phẩm trở thành thành tài sản riêng của từng gia đình. Sở hữu tập thể trong thị tộc lại trở thành sở hữu cá nhân. Sở hữu về tư liệu sản xuất xuất hiện thay thế dần sở hữu công đồng nguyên thủy. Hình thức tổ chức gia đình gắn với chế độ tư hữu tư nhân đầu tiên trong lịch sử. Các Mác viết” chế độ tư hữu tư hữu ruộng đất đã xâm nhập vào từng gia đình của công xã. Công xã nông thôn là giai đoạn cuối cùng của hình thái kinh tế xã hội đầu tiên, đồng thời là là giai đoạn quá độ tiến lên hình thái kinh tế xã hội thứ hai, có nghĩa là thời kì quá độ từ xã hội dựa trên cơ sở chiếm hữu công cộng tiến lên xã hội dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân”. Nhu cầu tiêu dùng ngày càng đòi hỏi phỉa có thêm nhiều sản phẩm và vấn đề cần phải đặt ra là phải có nhiều sức lao động để tạo ra nhiều sản phẩm. Sản phẩm xã hội ngày càng nhiều có của cải dư thừa, những người có quyền đã lợi dụng để chiếm lấy làm của cá nhân mình. Đồng thời họ còn chiếm đoạt cả bản thân người lao động. Xã hội đã phân hoá thành hai giai cấp cơ bản: giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Xã hội có giai cấp, nhà nước ra đời bảo vệ cho quyền lợi của giai cấp thống trị, đàn áp nô dịch giai cấp bị trị. Sự ra đời của nhà nước là một yếu tố khách quan “từ nhu cầu phải kiềm chế sự đối lập giữa các giai cấp” làm cho cuộc đấu tranh giữa các giai cấp có quyền lợi kinh tế mâu thuẫn nhau đó, không đi đến chỗ tiêu diệt nhau và tiêu diệt cả xã hội và giữ cho xung đột đó nằm trong vòng trật tự:“nhà nước, nói chung chỉ là sự phản ánh dưới hình thức tập trung của những nhu cầu kinh tế của giai cấp thống trị trong sản xuất”. Nhà nước đầu tiên mà loài người biết đến đó là nhà nước nô lệ, phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ đầu tiên có giai cấp và nhà nước. đây là nhà nước sơ khai trong lịch sử nhân loại, tuy nhiên là một nhà nước tiến bộ lớn trong lịch sử vì đã có “ sự phân công lao động trên trên một quy mô rộng lớn giữa công nghiệp và nông nghiệp và do đó mới có thời kì hưng thịnh”. Để duy trì bộ máy nhà nước cũng như để thực thi một số công trình thuộc về kết cấu hạ tầng của nền kinh tế chủ yếu dựa vào việc huy động thuế từ các chủ nô, từ những người lao động tự do, từ việc cưỡng bức lao động nô lệ. Cũng nhờ sử dụng sức lao động của nhiều nô lệ nên xã hội thời cổ đại đã xây dựng được nhiều công trình kiến trúc văn hoá to lớn như mốc son lịch sử lưu truyền đến ngày nay.
Lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, sự phân công lao động ngày càng chi tiết đòi hỏi người lao động ngày càng nâng cao tay nghề để đáp ứng nhu cầu sản xuất. Trong khi đó chế độ nô lệ lại sử dụng sức lao động giản đơn và hình thức lao đọng cưỡng bức điều đó đã kìm hãm sự phát triển của sản xuất và ảnh hưởng đến kết quả của người chủ. Từ thực tế đó đòi hỏi giai cấp thống trị phải thay đổi hình thức tổ chức sản xuất. Bọn chủ nô phải chia nhỏ diện tích đất đai của mình giao cho những người nông nô canh tác. hình thức đầu tiên là địa tô lao dịch ( phải có thời gian quy định cụ thể để làm việc trên ruộng đất của người chủ, phần lớn sản phẩm nộp cho chủ). Dù sao người nông nô cũng tự do hơn người nô lệ, nhờ đó đã kích thích lực lượng sản xuất phát triển theo thời gian. Phương thức chiếm hữu nô lệ là phương thức sản xuất tồn tại lâu trong đêm dài trung cổ của lịch sử nhân loại đã được thay thế bằng một phương thức sản xuất tiến bộ hơn đó là phương thức sản xuất phong kiến. đặc trưng cơ bản của phương thức sản xuất phong kiến là : đất đai, tư liệu sản xuất chủ yếu trong nông nghiệp thuộc về địa chủ phong kiến và một phần tư hữu nhỏ của người nông dân tự do. Bọn địa chủ phong kiến tập trung phần lớn ruộng đất vào tay chúng còn nông dân, những người trực tiếp sản xuất lại có rất ít hoặc không có ruộng đất. Sở hữu phong kiến về ruộng đất là cơ sở của xã hội phong kiến. Thực chất của sở hữu ruộng đất là nước độc quyền chiếm hữu ruộng đất của thiểu số phong kiến. Những vấn đề về xây dựng thuỷ lợi, đê điều, kết cấu hạ tầng... đòi hỏi nhiều sức lao động tập trung quy mô lớn chỉ có nhà nước mới làm nổi.
Bộ máy quản lý nhà nước nằm trong tay vua quan và giới quý tộc. Việc duy trì bộ máy nhà nước chủ yếu dựa vào nguồn thu thuế từ các lãnh chúa phong kiến và từ nông dân đóng góp. Việc xây dựng các công trình thuộc kết cấu hạ tầng xã hội như đắp đê, phòng hộ hoặc chiến tranh để mở mang bờ cõi chủ yếu dựa vào lực lượng từ binh và nông dân. mặt khác trong chế độ phong kiến vẫn tồn tại bộ phận những người sản xuất nhỏ, cá thể. Họ là những người lao động tự do gồm: nông dân, thợ thủ công tiểu thương... Chính họ đã khôi phục lại những nghành nghề thủ công cổ truyền bị lãng quen trong chế độ nô lệ. Họ đã mở ra những xưởng thợ, những trung tâm buôn bán ở thành phố, những người giàu có mở xí nghiệp, thuê công nhân và đây là mầm mống của sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. chủ nghĩa tư bản ra đời hình thức sở hữu cũng đa dạng phong phú hơn. ngoài sở hữu của cá nhân, nhà tư bản chiếm đoạt đại bộ phận tư liệu sản xuất trong xã hội, còn có sở hữu của địa chủ phong kiến và sở hữu của những người sản xuất nhỏ: nông dân, thợ thủ công, tiểu thương. Sở hữu nhà nước tư bản về phạm vi, quy mô, cơ cấu lớn hơn nhiều so với nhà nước nô lệ và phong kiến. Như vậy giai đoạn sau, xã hội bao giờ cũng là sự kế thừa và tiếp tục phát triển so với giai đoạn và xã hội trước.
Cùng với sự ra đời và phát triển của các loại hình nhà nước. Sở hữu nhà nước là nền tảng của kinh tế nhà nước đã dần phát triển và có những biểu hiện khác nhau. Vậy tại sao kinh tế nhà nước lại ra đời? Hay nói cách khác đó là lý do tồn tại của kinh tế nhà nước là gì?
2. Tính tất yếu khách quan sự tồn tại của kinh tế nhà nước.
2.1. Kinh tế thị trường, những ưu điểm và khuyết tật của nó.
Kinh tế nhà nước ra đời là một tất yếu khách quan trong nền kinh tế . đó là vì, trước hết là những thất bại của thị trường và cả ưu khuyết tật của cơ chế thị trường đòi hỏi phải có vai trò kinh tế của nhà nước thông qua kinh tế nhà nước. ưu điểm của kinh tế thị trường đó là một nền kinh tế phát triển với tốc độ cao. Tuy nhiên những hạn chế của nó lại là rất lớn như ô nhiễm môi trường, vi phạm một số quy phạm đạo đức chuẩn mực, vấn đề phân phối thu nhập, vấn đề giải quyết việc làm, dịch vụ công phúc lợi xã hội và nhiều vấn đề khác mà kinh tế thị trường không thể tự điều chỉnh được. đó là những vấn đề ở tầm vĩ mô ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của toàn xã hôi. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 chứng tỏ rằng học thuyết tự điều chỉnh nền kinh tế của trường phái cổ điển là thiếu chính xác. sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất cang đòi hỏi sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế. Lý thuyết của J.M Keynes ( 1884-1964 ) ra đời đã chứng minh sự cần thiết và vai trò quan trọng của nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế và gắn liền nó là vai trò quan trọng của khu vực kinh tế nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường, khu vực kinh tế nhà nước ngoài chức năng kinh doanh có hiệu quả còn phải đảm nhận chức năng xã hội và góp phần điều tiết vĩ mô mà kinh tế tư nhân không thể nào làm được.
2.2 Kinh tế nhà nước với chức năng góp phần điều tiết vĩ mô.
Trong nền kinh tế thị trường sự tồn tại của khu vực kinh tế nhà nước là một vấn đề cần thiết khách quan, cùng với khu vực kinh tế tư nhân tạo ra một cơ chế tác động tương hỗ, bổ sung cho nhau. Mỗi khu vực đều có tính độc lập tương đối, đều có mặt mạnh mặt yếu, đều có những ưu thế khác nhau, thúc đẩy nhau tạo ra sự phát triển chung của nền kinh tế quốc dân. cụ thể những lý do tồn tại của nền kinh tế nhà nước có thể khái quát:
Một là, đáp ứng sự phát triển của cách mạng khoa học kĩ thuật thì chỉ có nhà nước đầu tư cho sản xuất lớn để mở đường, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển mà tư nhân không có khả năng đầu tư.
Hai là, khu vực kinh tế nhà nước sản xuất những hàng hoá công cộng thông qua giá cả và chính sách xã hội để đảm bảo công bằng xã hội.
Ba là, kinh tế nhà nước tồn tại và phát triển còn là lực lượng vật chất để nhà nước khắc phục chu kỳ sản xuất kinh doanh và những đột biến không lường trước đặc biệt cứu vãn những doanh nghiệp tư nhân bị phá sản. ngoài ra sự tồn tại và phát triển kinh tế nhà nước để tạo ra những công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, độc quyền để kiểm soát những lĩnh vực kinh tế quan trọng, thực hiện quan hệ kinh tế quốc tế và là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
II. Bản chất của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường
1. Quan điểm của Đảng ta về kinh tế nhà nước.
Sự ra đời của kinh tế nhà nước là một tất yếu khách quan và ta đã khẳng định: kinh tế nhà nước ra đời cùng với sự ra đời của nhà nước. Tuy nhiên đối với nước ta thuật ngữ “kinh tế nhà nước” không phải được chính thức nhắc đến khi những biểu hiện đầu tiên của nó xuất hiện.
Trong văn kiện đại hội đảng VI mới chính thức dùng thuật ngữ kinh tế. Nhà nước, một trong năm thành phần kinh tế ở nước ta: thực hiện những chủ trương chính sách sau đây đối với từng thành phần kinh tế... tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo, làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội... làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết nền kinh tế vĩ mô”. Trước kia trong văn kiện Đại hội Đảng các khóa trước vá trong các văn kiện hội nghị chỉ thấy xuất hiện thuật ngữ “khu vực doanh nghiệp nhà nước” tiếp tục chấn chỉnh và xây dựng khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Và đến văn kiện Đại hội Đảng IX Đảng ta tiếp tục khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Như vậy theo quan điểm của Đảngta các thành phần kinh tế được nảy sinh từ các loại hình sở hữu. Tại Đại hội Đảng VIII đã xác định nước ta tồn tại 5 thành phần kinh tế hình thành trên cơ sở 3 loại hình sở hữu và kinh tế nhà nước được hình thànhtừ sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước. Đối với nước ta kinh tế nhà nước có vai trò hết sức quan trọng. Vậy thực chất của kinh tế nhà nước là gì?
2. Bản chất của kinh tế nhà nước.
Thực chất của kinh tế nhà nước là gì? vấn đề hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau. Có ý kiến coi kinh tế nhà nước không phải là một thành phần kinh tế mà là tài sản của một quốc gia, một công cụ kinh tế của nhà nước... Xét về mặt lịch sử ra đời của kinh tế nhà nước thì kinh tế nhà nước được nảy sinh từ sở hữu nhầ nước. Trong quá trình phát triển sở hữu nhà nước là toàn bộ nguồn lực mà nhà nước nắm giữ, nó hình thành kinh tế nhà nước.
Quan điểm của Đại hội VIII xác định kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp của nhà nước, các sở hữu của nhà nước như đất đai, tài nguyên thiên nhiên, ngân sách lực lượng dự trữ vầ cả phần vốn nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. như vậy kinh tế nhà nước bao gồm 2 bộ phận đó là : Doanh nghiệp nhà nước và kinh tế nhà nước phi doanh nghiệp (đất đai, tài nguyên thiên nhiên, ngân sách quốc gia...). Kinh tế mang tính chất rộng hơn doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận quan trọng cấu thành kinh tế nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước là những tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn thành lập và tổ chức quản lý các doanh nghiệp đó hoặc mang ý nghĩa hoạt động công ích, tạo phúc lợi cho xã hội hoặc hoạt động kinh doanh để thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao.
Phần II
Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường
I. Quan niệm về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
1.1. Chủ đạo là gì?
Chủ đạo có nghĩa là có tác dụng chi phối đối với toàn bộ hay nó là tác dụng điều khiển, quyết định đối với cái gì?
1.2 Quan niệm về vai trò chủ đạo.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo vì nó nắm giữ những vị trí then chốt yết hầu xương sống của nền kinh tế vì thế nó có khả năng điều khiển, chi phối hoạt động của các thành phần kinh tế khác và định hướng toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Và người ta khẳng định nó thực chất nó là độc quyền tự nhiên. Độc quyền tự nhiên tức là do “ pháp luật nhà nước đặt ra cho một nghành, một xí nghiệp quốc doanh hay một tổ chức, một công ty tư nhân”. Nhà nước thường nắm độc quyền những nghành liên quan đến an ninh quốc phòng, đến vận mệnh của kinh tế quốc gia đến vận mệnh của kinh tế quốc gia trong cạnh tranh quốc tế đảm bảo phát triển nền kinh tế quốc dân một cách ổn định, cân đối, mở rộng sự hợp tác quốc tế bảo vệ sự độc lập phát triển của kinh tế quốc dân trước sự bành trướng của các quốc gia phát triển. Một lý do khác cho rằng kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo vì nó được nhà nước bảo vệ, giúp đỡ để phát triển không ngừng. Ngoài ra còn có một lý do mà theo quan niệm truyền thống cho rằng nó đóng vai trò chủ đạo vì nó là lực lượng đảm bảo cho sự phát triển ổn định nền kinh tế, là lực lượng tạo điều kiện giúp đỡ và liên kết các thành phần kinh tế cùng phát triển thông qua những thiết chế và hoạt động của kiến trúc thượng tầng. Kinh tế nhà nước góp phần giải quyết những vấn đề xã hội như thất nghiệp, phân phối bất bình đẳng tạo sự ổn định cho xã hội.
1.3 Biểu hiện của chủ đạo
Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đã được bắt đầu đề cập đến từ Đại hội Đảng lần thứ VII và đến các kỳ Đại hội sau này. Những quan niệm mới xuất hiện và bổ sung cho những quan niệm cũ.
Văn kiện Đại hội VII nhấn mạnh “kinh tế quốc doanh (kinh tế nhà nước) được củng cố và phát triển trong những doanh nghiệp trọng yếu, đảm đương những công việc mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện đầu tư kinh doanh. Theo hướng đó khu vực kinh tế quốc doanh phải được sắp xếp lại, đổi mới công nghệ và tổ chức quản lý kinh doanh có hiệu quả, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác, thể hiện vai trò chủ đạo với chức năng như một công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước”. Như vậy biểu hiện của chủ đạo được thể hiện ở nhiều mặt: Là lực lượng nắm các yết hầu kinh tế, giữ vị trí chi phối nền kinh tế đảm bảo cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế, là lực lượng tạo điều kiện giúp đỡ và liên kết các thành phần kinh tế khác cùng phát triển...
Đại hội VIII của Đảng khẳng định tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo làm đòn bẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường hướng dẫn hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển, làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới. Để cụ thể hoá vai trò chủ đạo của nền kinh tế văn kiện VIII ghi “ Tập trung nguồn lực để phát triển kinh tế nhà nước trong những ngành những lĩnh vực trọng yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, những cơ sở sản xuất và thương mại dịch vụ quan trọng, một số doanh nghiệp thực hiện những nhiệm vụ có liên quan đến quốc phòng an ninh”.
Đến Đại hội IX của Đảng biểu hiện của vai trò chủ đạo được ghi trong văn kiện: “Tiếp tục đổi mới và phát tiển kinh tế nhà nước để thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Tập trung đầu tư cho kết cấu hạ tầng xã hội và một số cơ sở công nghiệp quan trọng. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế, đi đầu ứng dụng khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng hiẹu quả kinh tế xã hội và chấp hành pháp luật.
Như vậy có thể khẳng định những biểu hiện vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đã được ghi trong văn kiện VII, VIII, IX. Khái quát lại có thể thấy đượcvai trò đó được xác định trên 4 yếu tố:
Làm đòn bẩy thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế, giải quyết những vấn đề xã hội.
Làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chính sách điều tiết và quản lý vĩ mô.
Mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
Làm nòng cốt cho công nghiệp hoá, hiện đại hóa, nền tảng vật chất kỹ thuật cho xã hội mới.
II. Quan điểm về vai trò của kinh tế Nhà nước.
Trên thế giới nói chung cũng như ở Nhà nước ta, vai trò của kinh tế Nhà nước có tính ổn định tương đối, tuỳ thời gian và tuỳ tình hình mà vai trò của kinh tế Nhà nước biến đổi phù hợp với bản chất của Nhà nước theo những biểu hiện của vai trò chủ đạo đã đề cập đến những vai trò chủ yếu của kinh tế Nhà nước ta ở 3 mặt sau.
2.1. Mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
Kinh tế Nhà nước cần phải mở đường các lĩnh vực sau:
Một là, xây mới, nâng cấp, cải tạo, mở rộng cơ sở hạ tầng phục vụ cho cuộc sống như: Giao thông (đường xá, cầu cống), điện, thông tin liên lạc, nước sạch và các công trình công cộng khác phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Việc xây dựng cơ sở hạ tầng đòi hỏi cần vốn lớn, thời gian thi công dài, hiệu quả thu hồi vốn thấp hoặc bao cấp. Vì thế thông thường nhiệm vụ đó đặt lên vai kinh tế Nhà nước để khắc phục sự lạc hậu của kết cấu hạ tầng và tạo nền tảng cho nền kinh tế. Để thực hiện nhiệm vụ này Nhà nước cần phải xây dựng quy hoạch một cách khoa học và khả thi. Vấn đề đặt ra cần cân nhắc, tính toán, thảo luận, dân chủ trong khi thực hiện và xác định những hạng mục công trình cần đầu tư dứt điểm bằng khả năng hiện có, tránh giàn trải vốn, lãng phí, chất lượng hiệu quả thấp.
Hai là, tập trung nghiên cứu để xây dựng mới và cải tạo, bổ xung, giúp đỡ các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế mũi nhọn mà trong nước có lợi thế, có khả năng cạnh tranh thị trường đem lại thu nhập lớn, thu hút được lực lượng lao động, tạo đà cho phát triển kinh tế và hội nhập với khu vực và thế giới. Tất nhiên Nhà nước và kinh tế Nhà nước cần phải xác định vị thế những khu vực nào? ngành nào? hàng hoá nào cần phải mở đường đi trước. Việc phát triển các ngành, các hàng hoá mũi nhọn tạo ra bước đột phá của nền kinh tế phù hợp với quy luật phát triển chung của nền kinh tế Nhà nước, thể hiện rõ chiến lược phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
Có thể khẳng định làm như vậy vai trò mở đường, đòn bẩy, hướng dẫn giúp đỡ của kinh tế Nhà nước có giúp đỡ mạnh nhất.
Ba là, Nhà nước tạo điều kiện tối đa để khu vực kinh tế Nhà nước đi đầu trong công cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, trong việc nghiên cứu, chế tạo, triển khai nhập, chuyển giao các loại công nghệ truyền thống, nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, có khả năng giải quyết việc làm và bảo vệ môi trường sinh thái, đồng thời xoá bỏ dần tình trạng lạc hậu của nền kinh tế tạo năng suất lao động cao, làm cơ sở nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế. Cần phải khẳng định rằng đầu tư cho khoa học giáo dục và công nghệ là đầu tư cho phát triển. Vì thế Nhà nước cần huy động mọi nguồn vốn đầu tư thích đáng hơn để có sự chuyển biến về chất của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế.
Từ sự tạo điều kiện giúp đỡ của Nhà nước, kinh tế Nhà nước xâm nhập, lôi cuốn, tác động đến các thành phần kinh tế khác, biểu hiện trực tiếp và hiệu quả ở vai trò mở đường vào khoa học giáo dục và công nghệ.
Bốn là, cùng với các thành phần kinh tế khác, kinh tế Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc thăm dò, khai thác, bảo quản, phát triển và sử dụng có hiệu quả, tài nguyên và các tiềm năng khác của đất nước.
Hơn ai hết khu vực kinh tế Nhà nước là người nắm giữ phần lớn tài sản quốc gia, là chủ thể quan trọng chi phối các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Kinh tế Nhà nước cần phải đi tiên phong là người mở đường dẫn lối cho các thành phần kinh tế khác bằng chính vai trò kinh tế của mình trong việc khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên và các tiềm năng của xã hội. Qua thực tiễn những nước thành công trong mô hình kinh tế thị trường, trong quá trình phát triển kinh tế Nhà nước đã có những đóng góp đáng kể trong việc cải tạo cơ cấu kinh tế, phát huy tiềm năng của nền kinh tế, khai thác tài nguyên thiên nhiên, sử dụng lực lượng lao động, khai thác tiềm năng về khoa học kỹ thuật, tạo dựng những ngành kinh tế cơ bản và trong quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng của xã hội.
Năm là, Kinh tế Nhà nước mở đường đi đầu trong đổi mới trình độ và năng lực quản lý kinh tế với trang thiết bị công cụ quản lý hiện đại, hiệu quả và chế độ phân phối hợp lý, khuyến khích làm giầu chính đáng, lành mạnh hoạt động tài chính, chống lãng phí tham nhũng.
Trước mắt và lâu dài kinh tế Nhà nước cần phải làm gương đổi mới một cách căn bản và thực chất lĩnh vực này. Một mặt đảm bảo công bằng kích thích năng lực sáng tạo và tinh thần làm chủ của người lao động, xoá dần những tồn tại tiêu cực trong xã hội, “quốc nạn” tham nhũng và những bất công khác. Mặt khác, kinh tế Nhà nước đóng góp xứng đáng cho các mục tiêu, chính sách xã hội.
Sáu là, kinh tế Nhà nước là người tiên phong làm gương cho các thành phần kinh tế khác trong việc thực hiện chủ trương, chính sách của Nhà nước. Đồng thời nó đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nguồn thu cho ngân sách quốc gia, tạo điều kiện đầu tư cho kết cấu hạ tầng và các công trình phúc lợi. Kinh tế Nhà nước là nơi thu hút một lực lượng lao động khá đông đảo, góp phần giải quyết việc làm, làm hạn chế tình trạng thất nghiệp, hạn chế sự phân hoá giàu nghèo, phân tầng xã hội.
Bẩy là, trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, kinh tế Nhà nước bằng vai trò mở đường, hỗ trợ của mình đã thúc đẩy hình thành các trung tâm kinh tế, văn hoá xã hội mới tiên tiến, tạo điều kiện thuận lợi để phân bố lại dân cư, hình thành cụm dân cư mới, trên cơ sở đó còn hình thành các trung tâm kinh tế, dịch vụ hiện đại, đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội.
Tám là, kinh tế Nhà nước tiêu biểu xem trọng người lao động, động lực của sự phát triển. Có thê nói đây là một trong những vai trò quan trọng của kinh tế Nhà nước. Nó vừa mang ý nghĩa kinh tế lại vừa mang ý nghĩa nhân văn – xã hội.
Người lao động trong mọi chế độ xã hội bao giờ cũng là yếu tố cơ bản của sự phát triển xã hội, nhưng nếu có sự tách biệt giữa con người với tư cách là mục tiêu mà xã hội phải chăm lo thì nhất định động lực phát triển kinh tế sẽ không được thực hiện. Con người với tư cách sáng tạo ra lực lượng sản xuất, đồng thời trong quá trình ấy cũng tự hoàn thiện và nâng cao năng lực của mình.
Do đó việc xem trọng nhân tố con người là điều kiện quan trọng, quyết định việc tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Điều đó hiện nay là một chân lý hiển nhiên xong trong quá trình phát triển của nhân loại đã trải qua nhiều thăng trầm: Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, người lao động chỉ được xem như là một công cụ biết nói. Đến chế độ phong kiến cuộc sống của người lao động phần nào được cải thiện hơn song họ vẫn bị lệ thuộc vào chủ phong kiến, họ được xem như là phương tiện để đem lại sự giàu có cho chủ. Khi nhân loại bước sang kỷ nguyên văn hoá Tư bản chủ nghĩa, người lao động được tự do về thân thể nhưng sức lao động của họ trở thành hàng hoá đặc biệt, được mua bán trên thị trường với giá hết sức rẻ mạt. Việc nhà tư bản trả công cho người lao động là việc duy trì sức lao động cho người lao động, đồng thời con mang ý nghĩa duy trì nguồn lực lao động. Vấn đề đặt ra là: Muốn tăng hiệu quả sản xuất xã hội thì phải tăng chất lượng, tăng mức sống cho người lao động.
Việc xem trọng người lao động trong quá trình phát triển kinh tế thị trường biểu hiện ở việc Nhà nước quan tâm đào tạo lại người lao động từ việc tăng trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật cho người lao động đến việc chi phí của Chính phủ cho công tác đào tạo lại ngày càng tăng. Cùng với việc xuất hiện chế độ tham dự đã thu hút người lao động vào việc chia cổ phần tham gia quản lý, phân chia lợi nhuận ở nước ta trong doanh nghiệp Nhà nước, công nhân viên cũng như người lao động được quan tâm sâu sắc đến đời sống thể hiện bằng nhiều chế độ ưu đãi. Mục tiêu nâng cao chất lượng đời sống của công nhân viên luôn là những mục tiêu hàng đầu của mỗi doanh nghiệp. Điều đó thể hiện con người đã được quan tâm với vai trò là một mục tiêu mà xã hội phải chăm lo.
Tóm lại, còn nhiều lĩnh vực khác nữa mà kinh tế Nhà nước mở đường cho bản thân nó và cả nền kinh tế vận động đi lên. Vai trò mở đường của kinh tế Nhà nước về thực chất tạo nền tảng để định hướng cho cả nền kinh tế phát triển đúng quỹ đạo, phù hợp quy luật, phát triển nhanh, bền vững, gắn với vấn đề phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường nhằm mục tiêu “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”.
2.2. Vai trò lực lượng vật chất để Nhà nước điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế.
Để điều tiết vĩ mô nền kinh tế, Nhà nước phải có tiềm lực kinh tế mạnh. Kinh tế Nhà nước là lực lượng kinh tế, một công cụ có sức mạnh vật chất để Nhà nước điều tiết hướng dẫn nền kinh tế nhiều thành phần, phát triển đúng hướng. Trong điều kiện nước ta hiện nay, Nhà nước chủ yếu dựa vào các doanh nghiệp Nhà nước, các tổ chức kinh tế Nhà nước như hệ thống tài chính, ngân hàng, dự trữ quốc gia, tài nguyên thiên nhiên và những cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có.
Cho đến nay hầu như những sản phẩm, hàng hoá cho sản xuất và đời sống do doanh nghiệp cung cấp như: Phần lớn những tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, đường xá, bến cảng, trạm trại, điện, nước, bưu chính viễn thông, an ninh quốc phòng, giáo dục văn hoá…Bộ phận phi kinh tế Nhà nước đảm bảo những dịch vụ chủ yếu cho đời sống và sản xuất như: Tài chính, ngân hàng, vận tải hàng hoá…
Vai trò và công cụ quản lý vĩ mô của kinh tế Nhà nước tạo tiền đề vững chắc cho nền kinh tế phát triển ổn định, đảm bảo cân đối lớn của nền kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội, cũng như đổi mạnh để đối phó với những đột biến bất thường. Vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước thông qua kinh tế Nhà nước biểu hiện sự phát triển của lực lượng sản xuất, ở sự tận dụng nguồn lực khan hiếm để sản xuất vật chất và ở trình độ quản lý. Cùng với công cụ quản lý khác kinh tế Nhà nước góp phần làm lực lượng sản xuất góp phần bổ sung kịp thời. Đặc biệt khi có biến động xấu của cung cầu hàng hoá gây nên, giả sử có sự dư thừa hoặc thiếu những mặt hàng chiến lược trong đời sống thì Nhà nước không thể khống chế bằng biện pháp hành chính: Ra lệnh tịch thu, bán hạ giá…trái lại Nhà nước cần phải sử dụng khu vực kinh tế Nhà nước để can thiệp, tức là tham gia mua bán với các chủ thể khác để ổn định thị trường. Hoặc cần thiết để phát triển một số ngành kinh tế còn quá mới mẻ, lại đòi hỏi nguồn vốn lớn, thu hồi vốn chậm. Nếu tư nhân không muốn đầu tư Nhà nước không thể bằng mệnh lệnh hành chính ra lệnh cho họ làm mà phải bằng lực lượng vật chất của mình là kinh tế Nhà nước đầu tư.
Trong nền kinh tế thị trường mục đích chung của doanh nghiệp là lợi nhuận nhưng sự khác nhau ở chỗ: khu vực tư nhân lợi nhuận là mục đích cá nhân vì dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất còn khu vực kinh tế Nhà nước lợi nhuận phục vụ lợi ích xã hội trong đó có bản thân người lao động và điều quan trọng nữa là tạo sự ổn định trong sự phát triển kinh tế chị xã hội. Việc Nhà nước sử dụng công cụ của mình là kinh tế Nhà nước tham gia thị trường không phải là ý đồ bành chướng thôn tính, bóp chết khu vực tư nhân mà Nhà nước vẫn tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân bằng các chính sách ưu đãi.
Kinh tế Nhà nước là một công cụ điều tiết vĩ mô để hạn chế những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, kịp thời lấp đi những “khoảng trống” của kinh tế thị trường. Kinh tế Nhà nước đóng vai trò tiên p._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34605.doc