Tài liệu KINH TẾ NHÀ NƯỚC trong NỀN KINH TẾ Thị trường ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở Việt Nam: ... Ebook KINH TẾ NHÀ NƯỚC trong NỀN KINH TẾ Thị trường ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở Việt Nam
129 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1390 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu KINH TẾ NHÀ NƯỚC trong NỀN KINH TẾ Thị trường ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
I. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI:
Hiện nay, nền kinh tế thế giới đang phát triển với tốc độ thần kỳ với rất nhiều biến động đáng kể trên thị trường thế giới, tốc độ toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại diễn ra nhanh chóng . Các nước muốn bắt kịp được với tốc độ phát triển của nền kinh tế thế giới phải tìm được các cách tốt nhất để phát huy tất cả các lợi thế sẵn có của mình, đặc biệt là những nước đang phát triển, đây là một cơ hội lớn cho họ bắt kịp được với sự phát triển của các nước bạn bè. Tuy nhiên đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, làm sao để có nguồn vốn đầu tư vào các ngành thế mạnh của mình đang là một câu hỏi lớn đặt ra cho các nhà lãnh đạo. Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa với xuất phát điểm rất thấp nên gặp phải rất nhiều khó khăn. Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, nguồn vốn trong nước tự có để phát triển sản xuất là hết sức hạn hẹp. Việc tích lũy vốn để đầu tư cho phát triển sản xuất rất khó khăn, đặc biệt là trong các thời kỳ đầu. Vì vậy trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, việc tận dụng được nguồn vốn đầu tư nước ngoài trong điều kiện nguồn vốn tự có chưa đủ đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước là con đường đi tốt nhất cho các nước đang phát triển như Việt Nam. Tuy chúng ta trong thời gian qua đã có những bước phát triển vượt bậc, đạt được nhiều thành tựu thần kỳ về phát triển kinh tế tuy nhiên nhìn nhận một cách tổng thể thì nước ta đang còn là một nước nghèo so với bạn bè trong khu vực, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á. Chính vì vậy nếu dựa vào các nguồn vốn nước ngoài dồi dào này, chúng ta có thể đẩy nhanh được tốc độ công nghiệp hóa – hiện đại hóa, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành, phát triển kết cấu hạ tầng cơ bản, đổi mới công nghệ, trang thiết bị và nâng cao được chất lượng sản phẩm cũng như khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới.
Đầu tư nước ngoài đóng một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của nước ta. Đối với các nước trình độ khoa học công nghệ còn lạc hậu, nguồn vốn tự có để tập trung cho phát triển còn thấp thì việc tận dụng được nguồn vốn đầu tư nước ngoài là giải pháp hữu hiệu nhất để thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn nghèo – thiếu vốn – nghèo. Muốn phát triển nhanh và xây dựng được một nền kinh tế phát triển, ngoài việc tận dụng được hết khả năng hiện có của mình thì Việt Nam phải dựa rất nhiều vào nguồn vốn đầu tư nước ngoài để phát triển nhanh hơn. Máy móc, khoa học công nghệ, kỹ thuật tiên tiến là những yếu tố Việt Nam nên tận dụng từ các nước đã phát triển để rút ngắn con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa của mình. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: “Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa của nước ta, được khuyến khích phát triển lâu dài đầu tư nước ngoài, bình đẳng với các thành phần khác. Thu hút đầu tư nước ngoài là chủ trương quan trọng, góp phần khai thác các nguồn lực trong nước, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển của đất nước”. Chính vì vậy trong thời gian qua Đảng và nhà nước đã tạo rất nhiều điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và thời gian đã chứng minh được hiệu quả to lớn của nguồn vốn đầu tư này. Tuy nhiên trong quá trình thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài, bên cạnh những thành tựu to lớn chúng ta đã đạt được cũng còn tồn tại những mặt hạn chế gây ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng nguồn vốn này. Vì vậy với mong muốn vận dụng kiến thức sẵn có của mình để tìm hiểu về những ảnh hưởng của nguồn vốn nước ngoài trong quá trình phát triển của Việt Nam em xin chọn đề tài: “Thực trạng huy động và sử dụng vốn nước ngoài trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta”. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ và những ý kiến đóng góp hữu ích của cô khi thực hiện bài tiểu luận này.
II.PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA ĐỀ TÀI.
Bài viết dựa trên những quy luật hiện tượng khách quan. Dựa vào các quy luật của triết học như:
- Phương pháp duy vật biện chứng
- Phương pháp lịch sử
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp phân tích tài liệu
- Phương pháp tổng hợp đánh gía
- Phương pháp nội suy
Và một số phương pháp khác.
III.PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
Do phạm vi của đề tài gói gọn trong vấn đề thu hút và sử dụng vốn, thêm vào đó tài liệu tham khảo còn hạn chế nên bài tiểu luận chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề cấp thiết và quan trọng nhất trong việc sử dụng và quản lý vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Bài viết được trình bày dưới dạng một tiểu luận của một môn học và chỉ dừng lại ở mức độ tiểu luận môn học.
NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ):
a. Khái niệm:
(A. Foreign Direct Investment - Đầu tư trực tiếp nước ngoài), phương thức đầu tư của nhà đầu tư thông qua việc khống chế kinh doanh của xí nghiệp ở nước ngoài để thu lợi nhuận. FDI là sự di chuyển quốc tế của tài sản hữu hình như máy móc hoặc bán thành phẩm và của tài sản vô hình như quyền lợi chuyên môn, kĩ thuật chuyên môn, kinh nghiệm quản lí, vv. Cách làm cụ thể của FDI chủ yếu là trực tiếp xây dựng xí nghiệp ở nước ngoài hoặc thông qua phương thức hùn vốn kinh doanh xí nghiệp ở nước ngoài. FDI được tiến hành từ mấy thập kỉ qua và ngày càng có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế thế giới, do FDI có thể góp phần to lớn vào sự tăng trưởng kinh tế của các nước nhận đầu tư và gắn liền với vốn là công nghệ mới, kĩ thuật tiên tiến và kĩ năng quản lí hiện đại. Khác với các hình thức đầu tư quốc tế cũ như đầu tư chứng khoán, trái phiếu..., với FDI, nước đầu tư vốn được quyền tham gia quản lí hoạt động kinh tế. FDI được hình thành do có sự chênh lệch về tỉ suất lợi nhuận của vốn đầu tư giữa các nước tham gia đầu tư với nước nhận vốn đầu tư, khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá ở nước ngoài, khắc phục sự hạn chế của hàng rào thuế quan, hạn ngạch buôn bán; thêm vào đó khai thác lợi thế về cước phí vận tải thấp, về nguồn nguyên vật liệu tại chỗ, về giá nhân công rẻ ở các nước đang phát triển. Trên thực tế, 95% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài do các công ti đa quốc gia thực hiện; vì vậy FDI cũng là hướng tăng trưởng của các công ti trong thời đại hiện nay.
Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua 29.12.1987, đầu tư trực tiếp vào Việt Nam được hiểu là các tổ chức và cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất cứ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh, trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh 100% vốn nước ngoài theo quy định của luật đầu tư.
( Nguồn: Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam)
b.Hình thức:
Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư trong nước hoặc 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài.
Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng BT.
Đầu tư phát triển kinh doanh.
Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp.
Các hình thức đầu tư trực tiếp khác.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh ( gọi tắt là hợp đồng BCC) là hình thức đầu tư được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân.
Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (gọi tắt là hợp đồng BOT) là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam.
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (gọi tắt là hợp đồng BTO) là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận.
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (sau đây gọi tắt là hợp đồng BT) là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thoả thuận trong hợp đồng BT.
( Nguồn: Chương IV - Hình thức đầu tư - Luật đầu tư Việt Nam 2005)
2. Đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI):
a. Khái niệm:
Đầu tư gián tiếp nước ngoài (thường được viết tắt là FPI | Foreign Portfolio Investment) là hình thức đầu tư gián tiếp xuyên biên giới. Nó chỉ các hoạt động mua tài sản tài chính nước ngoài nhằm kiếm lời. Hình thức đầu tư này không kèm theo việc tham gia vào các hoạt động quản lý và nghiệp vụ của doanh nghiệp giống như trong hình thức Đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Đầu tư gián tiếp nước ngoài góp phần làm tăng nguồn vốn trên thị trường vốn nội địa và làm giảm chi phi vốn thông qua việc đa dạng hoá rủi ro, thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tài chính nội địa, thúc đẩy cải cách thể chế và nâng cao kỷ luật đối với các chính sách của chính phủ.
Nếu dòng FPI vào tăng mạnh, thì nền kinh tế tiếp nhận dễ rơi vào tình trạng phát triển quá nóng (bong bóng), nhất là các thị trường tài sản tài chính của nó.
Vốn FPI có đặc điểm là di chuyển (vào và ra) rất nhanh, nên nó sẽ khiến cho hệ thống tài chính trong nước dễ bị tổn thương và rơi vào khủng hoảng tài chính một khi gặp phải các cú sốc từ bên trong cũng như bên ngoài nền kinh tế.
FPI làm giảm tính độc lập của chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái.
Trong các nguồn vốn đầu tư gián tiếp, một bộ phận quan trọng là viện trợ phát triển chính thức ODA.
( Nguồn: Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam)
b. Hình thức:
Mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác;
Thông qua quỹ đầu tư chứng khoán;
Thông qua các định chế tài chính trung gian khác.
( Nguồn: Chương IV - Hình thức đầu tư - Luật đầu tư Việt Nam 2005)
3. Cơ sở lí luận:
Lý thuyết lợi thế so sánh của P.Vernon (Hoa Kỳ)
Trước khi lý thuyết này của Vernon ra đời thì mọi nước đều quan niệm rằng tất cả các nước đều có khả năng phát triển toàn diện, nghĩa là nước nào cũng có khả năng phát triển mọi ngành nghề, lĩnh vực một cách tối ưu nhất.
Tuy nhiên Vernon cho rằng không có một nước nào có khả năng phát triển được toàn diện mọi mặt của nền kinh tế, mỗi nước đều có lợi thế nhất định, không có nước nào tốt toàn diện và không có nước nào kém toàn diện kể cả những nước nghèo nhất.
Hàm sản xuất: y = f(K, L)
P.Vernon cho rằng nên tận dụng lợi thế so sánh sao cho tỷ lệ K/L càng cao.
Như vậy khi đầu tư ra nước ngoài các nước giàu tập trung chủ yếu đầu tư vào các nước đang phát triển để tận dụng được tối đa lợi thế của các nước này như nguồn nhân công dồi dào, nguyên vật liệu phong phú...Các nước này tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực như công nghệ cao, năng lượng… và các nước tiếp nhận vốn cũng cố gắng tiếp thu được công nghệ trong những lĩnh vực này .
Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của A.Smith
Cơ sở của nền kinh tế mở của việc thương mại hóa toàn cầu chính là lợi thế của mỗi nước khi tham gia quan hệ quốc tế. Các nước đều phải tìm được lợi thế của mình khi tiến hành tham gia thương mại toàn cầu. Lý thuyết tuyệt đối của Smith trong thương mại quốc tế chính là hao phí lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa dịch vụ xuất khẩu thấp nhất so với các nước khác. Còn đối với những nước nhập khẩu thì những mặt hàng nhập khẩu là những mặt hàng có chi phí sản xuất cao nhất so với các nước khác. Chính vì những nguyên nhân này mà tất cả các nước đều có lợi thế khi tham gia thị trường toàn cầu. Các nước xuất khẩu có lợi thế là tăng được ngoại tệ từ xuất khẩu, tạo được việc làm nhiều hơn, tận dụng được nguồn năng lực sẵn có của mình. Còn đối với các nước nhập khẩu, nhờ có nhập khẩu mà họ có thể tiêu dùng được hàng hóa dịch vụ nhiều hơn với giá thành rẻ hơn so với tự sản xuất lấy, bên cạnh đó họ có thể tập trung vào sản xuất được những mặt hàng lợi thế của mình. Từ đó nước nào cũng có được lợi ích khi tham gia thị trường quốc tế.
Nhìn chung, vốn nước ngoài có vai trò quan trọng trong công cuộc công nghiệp hóa- hiện đại hóa của nước ta, đặc biệt trong đó là FDI và ODA.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CƠ SỞ THỰC TIỄN:
FDI:
TRIỂN VỌNG CỦA DÒNG VỐN FDI TRÊN THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC CHÂU Á –THÁI BÌNH DƯƠNG:
Trên thế giới:
Thứ nhất, xét trên góc độ khu vực, dòng vốn FDI thế giới đang có xu hướng dịch chuyển từ các nước công nghiệp phát triển sang một số nước có thị trường mới nổi, đặc biệt là những nước ở châu Á và Đông Nam châu Âu. Dòng vốn FDI vào khu vực Mỹ Latinh sẽ tiếp tục phục hồi trong khi dòng vốn này vào châu Phi được dự đoán sẽ duy trì ở mức của năm 2004.
Thứ hai, xét trên góc độ quốc gia, Trung Quốc là nước được coi là địa điểm thu hút đầu tư FDI hấp dẫn nhất, tiếp theo sau là Mỹ, Ấn Độ, Nga và Braxin.
Thứ ba, xét trên góc độ ngành, dịch vụ vẫn được coi là ngành sẽ thu hút được nhiều vốn FDI hơn cả so với các ngành khác. Những ngành cụ thể có triển vọng thu hút được nhiều vốn FDI nhất bao gồm: Máy tính và công nghệ thông tin; tiện ích công cộng; vận tải; những dịch vụ có liên quan đến du lịch; điện và điện tử; máy móc; sắt thép; khai mỏ; và dầu khí.
Thứ tư, xét trên góc độ nguồn vốn FDI, Mỹ sẽ vẫn tiếp tục là nước có nguồn vốn FDI lớn nhất thế giới, tiếp theo sau là Anh, Đức, và Trung Quốc. Bên cạnh Trung Quốc, Braxin, Malaysia và Hàn Quốc cũng có mặt trong số 15 nước có nguồn vốn FDI quan trọng đối với những nước láng giềng của họ.
Thứ năm, xét về phương thức gia nhập thị trường, sáp nhập và mua lại (M&A) được coi là hình thức chủ yếu của dòng vốn FDI trong giai đoạn 2005-2006. Bên cạnh đó, đầu tư mới (greenfield investment) lại được coi là hình thức chủ yếu của dòng vốn FDI vào các nước đang phát triển.
Thứ sáu, xét trên góc độ sự di chuyển các chức năng của công ty, chức năng sản xuất được coi là sẽ được di chuyển nhanh nhất ra nước ngoài, tiếp theo sau là tiếp vận (logistics); dịch vụ hỗ trợ kinh doanh; phân phối; và tiêu thụ. Mặc dù việc di chuyển chức năng nghiên cứu và triển khai (R&D) củ các TNC được đánh giá rất khác nhau giữa các chuyên gia nhưng Báo cáo về Đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2005 của UNCTAD lại cho thấy rằng tỷ trọng chi tiêu cho R&D lớn nhất thế giới sẽ gia tăng cho tới năm 2009, với Trung Quốc, Mỹ và Ấn Độ là những địa điểm thu hút FDI nghiên cứu và triển khai hàng đầu thế giới.
Thứ bảy, xét trên góc độ chính sách thu hút FDI, cạnh tranh thu hút FDI giữa các nước sẽ gia tăng trong giai đoạn 2005-2006 với các biện pháp chính sách được sử dụng như tăng cường mục tiêu hoá đối với dòng vốn FDI, tăng cường xúc tiến đầu tư, đưa thêm các khuyến khích đầu tư, tự do háo hơn nữa đối với dòng vốn FDI.
Theo điều tra kể trên của UNCTAD, những nhân tố khiến cho dòng vốn FDI trên thế giới gia tăng trong giai đoạn 2005-08, bao gồm: Môi trường kinh tế vĩ mô toàn cầu thuận lợi (mặc dù chậm lại nhưng nền kinh tế thế giới vẫn tiếp tục tăng trưởng); lợi nhuận công ty gia tăng; quá trình tự do hoá tiếp tục được đẩy mạnh cả ở cấp độ quốc gia lẫn quốc tế; các nước cạnh tranh nhau thu hút vốn FDI thông qua việc thực hiện nhiều biện pháp xúc tiến và ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, điều tra của UNCTAD cũng chỉ ra những nhân tố cản trở sự gia tăng của dòng vốn FDI trong giai đoạn 2006-08 như chủ nghĩa bảo hộ; các nước công nghiệp phát triển tăng trưởng thấp hơn mức dự tính; bất ổn định tài chính ở các nước công nghiệp chủ chốt (sự dao động mạnh): lợi nhuận công ty gia tăng: quá trình tự do hoá tiếp tục được đẩy mạnh cả ở cấp độ quốc gia lẫn quốc tế; các nước cạnh tranh nhau thu hút vốn FDI thông qua việc thực hiện nhiều biện pháp xúc tiến và ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, điều tra của UNCTAD cũng chỉ ra những nhân tố cản trở sự gia tăng của dòng vốn FDI trong giai đoạn 2006-2008 như chủ nghĩa bảo hộ; các nước công nghiệp phát triển tăng trưởng thấp hơn mức dự tính; bất ổn định tài chính ở các nước công nghiệp chủ chốt (sự dao động mạnh trong giá trị của đồng Đôla Mỹ …); chủ nghĩa khủng bố toàn cầu; sự bất ổn định của giá dầu và giá nguyên liệu thô.
b. Châu Á –Thái Bình Dương
Dòng vốn FDI vào khu vực châu Á – Thái Bình Dương trong giai đoạn 2005-2008 được dự đoán sẽ vẫn tiếp tục gia tăng mạnh mẽ. Trong năm 2004, dòng vốn FDI vào khu vực này đạt mức 148 tỷ USD, tăng 46 tỷ USD so với năm 2003. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, môi trường chính sách đang ngày càng được cải thiện cùng với những cam kết chiến lược của các TNC đối với khu vực là những nhân tố thúc đẩy dòng vốn FDI chảy vào khu vực này trong những năm tới.
Trong số các nước châu Á, Trung Quốc và Ấn Độ được coi là những địa điểm đầu tư hấp dẫn nhất trong khu vực, tiếp theo sau là Thái Lan, Hàn Quốc, Malaysia, Indonesia, Việt Nam và Singapore.
Xét trên góc độ nguồn vốn FDI vào khu vực trong giai đoạn 2005-2006, Mỹ được coi là nước có nguồn vốn FDI lớn nhất, tiếp theo sau là Trung Quốc, Nhật Bản, Ôxtrâylia, Ấn Độ và Anh. Bên cạnh đó, các công ty châu Á đang ngày càng được quốc tế hoá; trong số 50 TNC hàng đầu của các nước đang phát triển, 39 TNC là của châu Á và châu Đại Dương đã tăng gấp 4 lần và đạt mức 69 tỷ USD, trong đó, chủ yếu là từ Hồng Kông (40 tỷ USD). Dòng vốn FDI từ Singapore và Hàn Quốc cũng tăng mạnh, đạt mức 11 tỷ USD và 5 tỷ USD (theo thứ tự). Phần lớn dòng vốn FDI này được đầu tư vào các nước châu Á khác.
Xét trên góc độ ngành, FDI ở châu Á sẽ tập trung ở những ngành dịch vụ và công nghiệp mà các công ty nước ngoài có thể tận dụng được lợi thế chi phí sản xuất thấp cũng như sự sẵn có của lao động có kỹ năng. Những ngành dịch vụ sẽ thu hút được nhiều vốn FDI nhất bao gồm: xây dựng, du lịch, máy tính và công nghệ thông tin viễn thông, dịch vụ kinh doanh, giáo dục và y tế. Các ngành sản xuất thép và sản phẩm thép, điện tử, ô tô, hoá chất, thực phầm nước giải khát, máy móc và thiết bị là những ngành được coi là sẽ thu hút được nhiều vốn FDI nhất, trong số các ngành công nghiệp. Phần lớn các ngành được dự báo sẽ thu hút được nhiều vốn FDI nhất ở châu Á là những ngành sử dụng nhiều vốn con người. Điều này cho thấy các công ty nước ngoài đang có xu hướng tận dụng những lợi thế về sự sẵn có của lao động có kỹ năng ở châu Á.
Một đặc điểm đáng lưu ý trong đánh giá của những người được điều tra là đánh giá của các chuyên gia về triển vọng của dòng vốn FDI vào châu Á cao gấp đôi so với đánh giá của năm 2004, phản ánh xu hướng quốc tế hoá hoạt động R&D của các TNC, hoạt động mà trước kia chỉ chủ yếu tập trung ở các nước công nghiệp phát triển. Theo báo cáo đầu tư thế giới 2005 của UNCTAD, chi phí R&D ở các nước đang phát triển châu Á của các chi nhánh TNC Mỹ đã tăng từ 400 triệu USD năm 1994 lên đến 2,1 tỷ USD năm 2002. Trung Quốc, Singapore, Hồng Kông, Malaysia và Hàn Quốc là những địa điểm diễn ra các hoạt động đó. Hơn ½ trong số 300 công ty có chi tiêu cho R&D lớn nhất trên thế giới thực hiện hoạt động R&D ở Trung Quốc, Ấn Độ hoặc Singapore. Ở Trung Quốc, số lượng các trung tâm R&D của nước ngoài đã tăng từ 0 đến hơn 700 trong thập kỷ qua. Điều đặc biệt là hoạt động R&D nước ngoài ở châu Á đang ngày càng được tài trợ bởi các công ty của chính châu Á. Báo cáo điều tra năm 2005 còn cho thấy có 60 trung tâm R&D nước ngoài do các công ty Hàn Quốc sở hữu; đa số các công ty phần mềm hàng đầu của Ấn Độ thiết lập các trung R&D ở nước ngoài và các công ty Trung Quốc cũng đã thiết lập tới hơn 75 trung tâm R&D ở cả các nước phát triển và đang phát triển.
Xét trên gốc độ phương thức gia nhập thị trường, trong ngắn hạn, đầu tư mới được coi là hình thức chủ yếu của dòng vốn FDI vào châu Á bên cạnh sự gia tăng của các hình thức đầu tư khác như M&A, phản ánh những cố gắng của các nước trong khu vực nhằm nâng cao khả năng của các công ty nội địa để có thể tăng cường hợp tác với các công ty nước ngoài thông qua các hình thức liên kết chiến lược hay hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Xét trên góc độ chính sách thu hút FDI, các nước châu Á sẽ thực hiện một loạt các biện pháp điều chỉnh chính sách nhằm thu hút hơn nữa dòng vốn FDI. Trong số những biện pháp đó, đứng đầu là mục tiêu hoá lớn hớn hơn đối với dòng vốn FDI, tiếp theo sau là tự do hoá và đưa ra nhiều biện pháp khuyến khích hơn nữa đối với dòng vốn này và cuối cùng là tăng cường các biện pháp xúc tiến đầu tư.
Trung Quốc:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) rót vào Trung Quốc năm 2006 có thể vẫn đạt được mức gần với 60,33 tỷ USD của năm nay. Số lượng FDI của Trung Quốc vẫn chưa đủ tầm. Bộ Thương mại Trung Quốc (MOF) sẽ có chính sách khuyến khích thêm nhiều đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc.
Năm 2005, FDI vào Trung Quốc giảm 0,5% so với năm trước xuống còn 60,33 tỷ USD, bao gồm đầu tư vào ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán.
Đây là lần đầu tiên FDI rót vào Trung Quốc giảm tính từ năm 1999.
Theo MOF, chính phủ Trung Quốc đã phê chuẩn 44.002 dự án kinh doanh có đầu tư nước ngoài mới, tăng 0,77% so với năm trước đó.
Người phát ngôn của Bộ Thương mại Chong Quan cho biết, đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc giữ được tốc độ tương đối tốt năm 2005 với nâng cao về cả chất lượng và hiệu quả.
Ông Chong cho biết thêm, năm 2005 chứng kiến mức tăng nhanh của đầu tư từ Liên minh Châu Âu, song lại giảm nhẹ mức đầu tư thực tế từ Mỹ và 10 nước cũng như khu vực tại Châu Á. Hồng Kông vẫn duy trì nguồn đầu tư lớn vào Đại lục.
Cơ cấu đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc năm 2005 đã được cải thiện rất nhiều. Các nhà đầu tư nước ngoài tập trung cao vào đầu tư các lĩnh vực công nghệ cao và các trung tâm nghiên cứu và phát triển. Đầu tư rót vào các lĩnh vực sản xuất thiết bị viễn thông, máy tính và các mặt hàng điện tử khác cũng như sản xuất phương tiện giao thông vận tải đều tăng với tốc độ rất cao.
Anh dẫn đầu châu Âu về số dự án FDI
Báo cáo hàng năm về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở châu Âu của tập đoàn kiểm toán Ernst & Young cho thấy, Anh dẫn đầu châu lục này với 18,2% thị phần dự án FDI của toàn khu vực trong năm 2005.
Các vị trí thứ 2 và 3 thuộc về Pháp, với 17,5%, và Đức, 6% thị phần. Theo báo cáo trên, số dự án FDI ở Anh đã giảm nhẹ so với năm 2004, trong khi số dự án ở Pháp tăng 9,8% và ở Bỉ tăng tới 32,4%. Sự suy giảm ở Anh chủ yếu là do Mỹ và Nhật Bản -mặc dù vẫn là những nhà đầu tư hàng đầu và quan trọng- đã giảm đầu tư vào châu Âu.
Các dịch vụ doanh nghiệp, như gia công, chế biến và hỗ trợ khách hàng, là những dự án có số lượng tăng đáng kể nhất. Giám đốc phát triển vùng của Ernst&Young, Nigel Wilcock, nêu rõ: "Luân Đôn vẫn là thủ đô đầu tư của châu Âu là do nhu cầu ngày càng tăng về các dịch vụ tri thức và hiện đại, tương phản với các ngành truyền thống hơn, như ôtô chẳng hạn".Báo cáo cũng cho thấy số dự án FDI ở châu Âu trong năm ngoái đã tăng 5% so với năm 2004. Mặc dù Ba Lan dẫn đầu khu vực Đông Âu về FDI nhưng mức tăng số dự án đầu tư mạnh mẽ nhất lại được ghi nhận ở Rumani và Xlôvakia.
c. Một vài nhận xét
Thứ nhất, dòng vốn FDI trên thế giới sẽ tiếp tục gia tăng trong giai đoạn 2005-2008 với nguồn vốn FDI lớn nhất sẽ vẫn tiếp tục chảy ra từ Mỹ, châu Âu và Nhật Bản bên cạnh sự gia tăng của dòng vốn này từ một số nước đang phát triển. Đồng thời, cạnh tranh giữa các nước để thu hút dòng vốn FDI sẽ ngày càng gay gắt.
Thứ hai, sự dịch chuyển của dòng vốn FDI trên thế giới từ các nước công nghiệp phát triển sang một số nước có thị trường mới nổi ở châu Á và Đông Nam châu Âu cũng như sự tập trung chủ yếu của dòng vốn này ở các nước công nghiệp phát triển cho thấy tầm quan trọng đặc biệt của môi trường đầu tư (khung khổ luật pháp; cơ sở hạ tầng cứng và mềm …) và nguồn nhân lực.
Thứ ba, dòng vốn FDI đang tiếp tục có xu hướng dịch chuyển vào khu vực dịch vụ với những ngành trọng tâm là máy tính và công nghệ thông tin - viễn thông; tiện ích công cộng; vận tải; những dịch vụ có liên quan đến du lịch…
Thứ tư, xu hướng quốc tế hoá các hoạt động R&D của các TNC đang diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt là ở các nước đang phát triển: thiết lập các trung tâm R&D và kết nối những trung tâm này với mạng R&D toàn cầu. Đối với các nước đang phát triển, xu hướng này có ý nghĩa rất quan trọng bởi vì: nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nước đang phát triển kết nối được với mạng R&D toàn cầu; hấp thụ được công nghệ chuyển giao; tăng khả năng đối mới và sáng tạo công nghệ; tạo giá trị gia tăng cao cho dịch vụ và sản phẩm; thúc đầy văn hoá đổi mới thông qua những ảnh hưởng lan toả tới các công ty địa phương và viện nghiên cứu. Đồng thời , xu hướng này cũng đặt nhiều nước đang phát triển đứng trước nguy cơ tụt hậu nếu không tận dụng được nó.
Thứ năm, để có thể hấp thụ được ở mức cao nhất những lợi ích của dòng vốn FDI (thị trường, công nghệ, tác động lan toả …) và giảm thiểu những tác động tiêu cực của chúng (môi trường, độc quyền, …), khả năng định hướng (mục tiêu hoá) đối với dòng vốn này cũng như cơ sở hạ tầng và trình độ nguồn nhân lực đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nói cách khác, bên cạnh việc tăng cường thu hút dòng vốn FDI cần chú trọng tới chất lượng của dòng vốn này.
II. KẾT QUẢ THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐTNN VÀO VIỆT NAM QUA 20 NĂM :
II.1. Tình hình thu hút vốn ĐTNN đăng ký từ 1988-2007:
II.1.1. Dự án đầu tư từ 1988 đến 2007:
Năm
1988-1990
1991-1995
1997-1999
2001-2005
Số dự án
214
1409
961
Vốncấp mới (tỷ USD)
1.6
18.3
13
20.8
Vốn đầu tư( tỷ USD)
2,13
4,17
7,08
Tính đến cuối năm 2007, cả nước có hơn 9.500 dự án ĐTNN được cấp phép đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD (kể cả vốn tăng thêm). Trừ các dự án đã hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn, hiện có 8.590 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 83,1 tỷ USD
Giai đoạn 1991-1995, quy mô vốn đăng ký bình quân của một dự án đạt 11,6 triệu USD, được xem là thời kỳ “bùng nổ” ĐTNN tại Việt Nam. Đây là giai đoạn mà môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam đã bắt đầu hấp dẫn nhà đầu tư do chi phí đầu tư-kinh doanh thấp so với một số nước trong khu vực; sẵn lực lượng lao động với giá nhân công rẻ, thị trường mới, vì vậy, ĐTNN tăng trưởng nhanh chóng, có tác động lan tỏa tới các thành phần kinh tế khác và đóng góp tích cực vào thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội của đất nước..
Giai đoạn 1997-1999, vốn đăng ký của năm sau ít hơn năm trước (năm 1998 chỉ bằng 81,8% năm 1997, năm 1999 chỉ bằng 46,8% năm 1998), chủ yếu là các dự án có quy mô vốn vừa và nhỏ, bình quân 12,3 triệu USD/dự án. Cũng trong thời gian này nhiều dự án ĐTNN được cấp phép trong những năm trước đã phải tạm dừng triển khai hoạt động do nhà đầu tư gặp khó khăn về tài chính (đa số từ Hàn Quốc, Hồng Kông). Tính đến cuối năm 2007, cả nước có hơn 9.500 dự án ĐTNN được cấp phép đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD (kể cả vốn tăng thêm). Trừ các dự án đã hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn, hiện có 8.590 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 83,1 tỷ USD.
Giai đoạn 2000 - 2003, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu phục hồi chậm. Vốn đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2,7 triệu USD, tăng 21% so với năm 1999; năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn đăng ký giảm, chỉ bằng 91,6% so với năm 2001, năm 2003 (đạt 3,1 tỷ USD), tăng 6% so với năm 2002. Và có xu hướng tăng nhanh từ năm 2004 (đạt 4,5 tỷ USD) tăng 45,1% so với năm trước; năm 2005 tăng 50,8%; năm 2006 tăng 75,4% và năm 2007 đạt mức kỷ lục trong 20 năm qua 20,3 tỷ USD, tăng 69% so với năm 2006, và tăng hơn gấp đôi so với năm 1996, năm cao nhất của thời kỳ trước khủng hoảng.
Giai đoạn 2001-2005, quy mô vốn đăng ký trên giảm xuống 3,4 triệu USD/dự án, thu hút vốn cấp mới (kể cả tăng vốn) vượt 73% so với mục tiêu tại Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001 của Chính phủ vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD tăng 30% so với mục tiêu. Nhìn chung trong 5 năm 2001-2005, vốn ĐTNN cấp mới đều tăng đạt mức năm sau cao hơn năm trước, nhưng đa phần là các dự án có quy mô vừa và nhỏ.
Đặc biệt trong 2 năm 2006-2007, dòng vốn ĐTNN vào nước ta đã tăng đáng kể (32,3 tỷ USD) , quy mô vốn đầu tư trung bình của một dự án đều ở mức 14,4 triệu USD với sự xuất hiện của nhiều dự án quy mô lớn đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp (sản xuất thép, điện tử, sản phẩm công nghệ cao,...) và dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin, du lịch-dịch vụ cao cấp .v.v.). thể hiện sự quan tâm của một số tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào một số dự án lớn (Intel, Panasonic, Honda, Compal, Piaggio....), dấu hiệu của “làn sóng ĐTNN” thứ hai vào Việt Nam.
( Nguồn:
II.1.2. Hoạt động xúc tiến đầu tư:
Về hoạt động xúc tiến đầu tư nhằm xây dựng hình ảnh
Ở cấp trung ương, thời gian qua công tác xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài, quảng bá và xây dựng hình ảnh Việt Nam là địa điểm đầu tư hấp dẫn đã có những bước chuyển đổi mạnh mẽ, đặc biệt là từ năm 2001 trở lại đây. Việc vận động xúc tiến đầu tư nước ngoài được tiến hành ở nhiều ngành, nhiều cấp, ở cả trong nước và ngoài nước dưới nhiều hình thức đa dạng. Bộ kế hoạch & đầu tư đã thành lập 3 trung tâm xúc tiến đầu tư ở khu vực Bắc, Trung, Nam để cung cấp các thông tin mới nhất liên quan đến đầu tư và tổ chức các hoạt động xúc tiến quảng cáo, vận động xúc tiến ĐTNN. Việt Nam đang đẩy mạnh các hoạt động vận động, xúc tiến đầu tư tập trung vào các nước phát triển có tiềm lực tài chính mạnh và có trình độ công nghệ cao như Mỹ, Nhật Bản và một số nước Châu Âu. Các cuộc hội thảo xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ các chuyến thăm các nước của các lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước cũng như các cuộc hội thảo do Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các cơ quan trong và ngoài nước tổ chức đã góp phần quan trọng thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư đối với Việt Nam. Kết quả đã thu hút được một số lượng lớn các tập đoàn, doanh nghiệp có danh tiếng từ nhiều nước và vùng lãnh thổ trên cả thế giới ( Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức…) vào Việt Nam tìm hiểu cơ hội đầu tư và số lượng các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã gia tăng mạnh mẽ ở một số địa bàn thuộc các tỉnh đồng bằng sông Hồng ( Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hải Phòng, Bắc Ninh) và các tỉnh Đông Nam Bộ (Đồng Nai, Bình Dương, Bả Rịa-Vũng Tàu)
Ở cấp địa phương, các Sở Kế hoạch & Đầu tư và các Ban Quản lý KCN – KCX các tỉnh cũng đã tích cực, chủ động tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư nhằm xây dựng và quảng bá hình ảnh của địa phương. Một số Sỏe KH&ĐT các tỉnh đã tích cực tham gia vào các chuyến làm việc và hội thảo xúc tiến ĐTNN. Người quảng bá cho hình ảnh địa phương hiệu quả nhất, đáng tin cậy nhất không ai khác chính là các nhà ĐTNN, hiện ._.đang kinh doanh thành công tại địa phương. Đây cũng chính là hiện tượng “đồng thanh tương ứng” trong đầu tư, nghĩa là các nhà đầu tư tiềm năng khi nghiên cứu các cơ hội đầu tư và quyết định lựa chọn địa bàn đầu tư thường quan tâm tới các doanh nghiệp và các nhà ĐTNN đã thành công khi đầu tư vào khu vực này.
Tuy đã đạt được những thành công nhất định, song các hoạt động xúc tiến đầu tư nhằm xây dựng hình ảnh của các cơ quan xúc tiến đầu tư ở Việt Nam thời gian qua nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu, nội dung cũng như phương thức tổ chức vận động, quảng bá hình ảnh còn quá đơn giản. Tài liệu tuyên truyền giới thiệu về các cơ hội đầu tư, các ấn phẩm hướng dẫn đầu tư, các bản tin xúc tiến đầu tư.v.v…chưa đầy đủ hoặc thiết kế chưa hợp lý, nội dung không cập nhật, hình thức thiếu hấp dẫn. Các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài nước chưa được sử dụng có hiệu quả nhằm phục vụ cho hoạt động đầu tư, xây dựng hình ảnh. Phần lớn các cơ quan xúc tiến đầu tư của Việt Nam chưa tận dụng được ưu thế của hình thức vận động đầu tư gián tiếp thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Sự hợp tác của các cơ quan xúc tiến đầu tư với các cơ quan, các hãng thông tấn, báo chí truyền hình trong và ngoài nước còn thiếu chặt chẽ nên tần suất đưa tin quảng bá về môi trường và cơ hội đầu tư không nhiều, hiệu quả thấp. Kết quả của các hội thảo và hội nghị về xúc tiến đầu tư ở trong nước và nước ngoài, cũng như tính hiệu quả của các chuyến tham gia triển lãm đầu tư ở nước ngoài và các chuyến công tác nước ngoài của các phai đoàn đầu tư thường chưa cao. Hầu hết các cơ quan xúc tiến đầu tư của Việt Nam đều thiếu các kỹ năng cần thiết để tổ chức các cuộc hội thảo vận động và xúc tiến đầu tư có chất lượng cao.
Hoạt động xúc tiến đầu tư nhằm phát sinh và hình thành đầu tư
Mặc dù một số tỉnh đã quan tâm đến việc xây dựng website riêng để quảng bá về tiềm năng và lợi thế của riêng địa phương mình, tuy nhiên vẫn có nhiều tỉnh vẫn chưa thực sự quan tâm đúng mức đến hoạt động xúc tiến đầu tư. Các website nhằm quảng bá, vận động xúc tiến đầu tư thường không được cập nhật và chưa chuẩn cho người sử dụng.
Do thiếu đầu mối quản lý chung, nên ngoài một số cuộc hội thảo về đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó có lồng ghép them nội dung giới thiệu và vận động hình thành đầu tư do một số bộ ngành tổ chức ở trong và ngoài nước, còn lại thì phần lớn các hoạt động xúc tiến đầu tư nhằm phát sinh và hình thành đầu tư trực tiếp được tiến hành hầu như tự phát ở từng địa phương. Công tác xây dựng quy hoạch danh mục và dự án kêu gọi vốn ĐTNN đã bước đầu được quan tâm, nhưng việc triển khai còn chậm và chất lượng thấp. Một số quy hoạch và dự án trong danh mục chưa tính đến nhu cầu và điều kiện cụ thể của nhà ĐTNN, đồng thời không dự báo hết diễn biến tình hình nên chưa thực sự trở thành công cụ định hướng hình thành vận động đầu tư có hiệu quả. Nội dung cũng như phương thức tổ chức còn quá đơn giản, nặng về tuyên truyền luật pháp,chính sách, chưa tập trung vào chương trình vận động thu hut đầu tư theo từng đối tác, từng lĩnh vực hoặc dự án cụ thể. Hoạt động này tại một số nước, khu vực thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao, thương mại của Việt Nam ở nước ngoài còn rất hạn chế do không có cán bộ chuyên trách và thiếu kinh phí tổ chức.
Hoạt động xúc tiến đầu tư nhằm cung cấp các dịch vụ đầu tư
Tất cả các cơ quan xúc tiến đầu tư ở Trung ương và địa phương đều công nhận tầm quan trọng của dịch vụ đầu tư và đồng ý với quan điểm cho rằng “ làm hài lòng các nhà đầu tư chính là công cụ xúc tiến đầu tư tốt nhất”. Nhiều tiến bộ đã được ghi nhận trong việc cung cấp các dịch vụ trước khi cấp giấy phép đầu tư. Chẳng hạn như việc cung cấp một đầu mối liên hệ cho các nhà đầu tư khi họ có ý định đầu tư vào địa phương hoặc rút ngắn thời gian cấp giấy phép đầu tư cho các dự án ĐTNN thông thường xuống còn từ 2 đến 3 ngày, nhưng những dự án phức tạp thí được xem xét và đầu tư trong vòng 7 ngày, hay việc công bố rõ ràng, minh bạch, công khai cho tất cả các nhà đầu tư nước ngoài biết về các quy hoạch công nghiệp, dịch vụ ở địa phương, tạo quỹ đất thuận lợi, kết cấu hạ tầng trọng yếu như đường giao thông, điện, nước…được đáp ứng tốt, thủ tục hành chính, thủ tục đầu tư được tinh giản tới mức tối đa.
Tuy nhiên, các dịch vụ sau khi cấp giấy phép (giải quyết, tháo gỡ kịp thời, nhanh chóng những vướng mắc phát sinh cho nhà ĐTNN trong quá trình thực hiện dự án của họ và cung cấp các dịch vụ GTGT) vẫn còn chưa đáp ứng được nhu cầu và vấn đề này vẫn đang là điểm trở ngại lớn trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Các nhà ĐTNN vẫn còn gặp không ít khó khăn trong việc triển khai dự án sau khi cấp giấy phép đầu tư, đặc biệt là thủ tục thủ tục cấp đất, đền bù giải phóng mặt bằngv.v…Lối quản lý nặng về “xin cho”, thủ tục qua nhiều cửa, kéo dài thời gian chờ đợi của các nhà đầu tư… Ở một số địa phương là những rào cản về hình có tác động rất lớn đến hoạt động vận động, xúc tiến đầu tư thu hút vốn FDI ở nước ta trong thời gian qua.
Về mối liên hệ giữa các cơ quan xúc tiến đầu tư của Trung ương và địa phương.
Sự phối kết hợp giữa các cơ quan ban ngành từ Trung ương đến địa phương trong việc tổ chức và triển khai các hoạt động xúc tiến đầu tư nhằm tăng cường thu hút dòng vốn FDI vẫn còn nhiều hạn chế. Hiện tượng “xé rào ưu đãi đầu tư” trong cuộc chạy đua thu hút vốn đầu tư nước ngoài xảy ra tương đối phổ biến ở nhiều tỉnh thành, ngành trong cả nước thời gian qua là một thực trạng đáng báo động về sự phối kết hợp thiếu chặt chẽ giữa các cơ quan Trung ương và địa phương trong việc thực hiện vận động, xúc tiến đầu tư thu hút vốn FDI ở nước ta. Nhiều địa phương trong cả nước đã chạy theo lợi ích cục bộ, bỏ qua lợi ích tổng thể của đất nước khi ban hành nhiều chinh sách ưu đãi về bổ trợ tiền thuế giá trị gia tăng, giá trị đầu tư…vượt qua khung quy định của chính phủ. Mặc dù có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, nhưng có thể dễ dàng nhận thấy rằng hiện tượng “xé rào ưu đãi đầu tư”, “mạnh ai nấy làm” chính là hệ quả tất yếu và trực tiếp của việc thiếu chiến lược xúc tiến ĐTNN tổng thể ở cấp quốc gia và thiếu sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan xúc tiến đầu tư ở Trung ương và địa phương.
Do chưa xây dựng được chương trình, kế hoạch vận động xúc tiến đầu tư thống nhất, lại thiếu sự phối hợp chỉ đạo của cơ quan đầu mối ở cấp Trung ương nên các hoạt động vận động xúc tiến ĐTNN ở các địa phương còn manh mún, tự phát và phần nào tạo nên sự cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động xúc tiến đầu tư ở nước ta. Mặt khác mức độ phân quyền sâu mà không có một sự liên kết thông tin giữa các đầu mối, thông tin đầu tư, vì thế còn nhiều hạn chế trong việc cung cấp thông tin, quảng bá xây dựng hình ảnh vận động xúc tiến đầu tư và về tính tạo nên một rào chắn cho các nhà đầu tư nước ngoài trong quá trình thâm nhập và tiếp cận với các cơ hội đầu tư tại Việt Nam. Sự phối kết hợp giữa các ban ngành chức năng chưa chặt chẽ và đồng bộ. Các địa phương vì mục tiêu và lợi ích cục bộ đã cố gắng kêu gọi thu hút đầu tư nước ngoài bằng mọi cách mà không xem xét đánh giá một cách khoa học tính khả thi và hiệu quả của dự án, dẫn đến tình trạng số dự án đầu tư nước ngoài được thực hiện còn thấp, trong khi số dự án phải giải thể, phá sản lại tăng lên.
Về nguồn tài chính cho hoạt động xúc tiến đầu tư tại Việt Nam
Những vấn đề khó khăn về tài chính là một vấn đề trọng yếu đặt ra cho tất cả các cơ quan xúc tiến đầu tư Trung ương và Địa phương. Chính phủ không có ngân sách riêng dành cho hoạt động xúc tiến đầu tư nhằm thu hút vốn FDI. Hoạt động xúc tiến đầu tư được tài trợ từ NSNN hoạt động hang năm của Bộ kế hoạch và đầu tư và các Sở kế hoạch và đàu tư các tỉnh. Các hoạt động xúc tiến đầu tư được tiến hành với số lượng quá ít ỏi, cùng với việc duy trì những trang thông tin về xúc tiến đầu tư với nội dung còn quá sơ sài, đơn giản đã cho thấy nguồn tài trợ cho các hoạt động xúc tiến và đầu tư tại Việt Nam còn rất hạn hẹp. Ở cấp độ địa phương, toàn bộ nguồn tài chính dành cho hoạt động xúc tiến đầu tư ở các cấp cơ sở đều được rót từ các nguồn ngân sách của tỉnh. Do đó, việc phân bổ ngân sách cho xúc tiến đầu tư nhiều hay it hoàn toàn tùy thuộc vào sự nhận thức của các UBND cấp tỉnh về tầm quan trọng và vai trò của các hoạt động xúc tiến đầu tư đối với địa phương mình. Nhiều cơ quan xúc tiến đầu tư cho biết, chỉ từ năm 2000, chi phí cho các hoạt động xúc tiến đầu tư mới được chấp nhận là một “chi phí hợp lệ” . Hơn nữa do khai niệm xúc tiến đầu tư không rõ ràng nên việc xác định loại chi phí nào là chi phí có liên quan đến xúc tiến đầu tư để được hưởng nguồn kinh phí từ ngân sách cũng gặp rất nhiều khó khăn và phần nhiều mang tính chủ quan định tính của người xét duyệt. Nguồn kinh phí từ ngân sách cũng gặp rất nhiều khó khăn, hoạt động eo hẹp đã hạn chế khả năng của các cơ quan xúc tiến đầu tư ở cấp cơ sở trong quá trình tổ chức, thực hiện, triển khai các hoạt động xúc tiến đầu tư hiệu quả. Ngoài ra hiện nay các cơ quan xúc tiến đầu tư cấp cơ sở cũng không thể xây dựng được một kế hoạch về ngân quỹ dành cho hoạt động xúc tiến đầu tư dài hạn bởi lẽ ngân sách chỉ được xét duyệt từng năm. Đây cũng là một khó khăn cho các cơ quan xúc tiến đầu tư ở địa phương khi các cơ quan này muốn xây dựng một kế hoạch xúc tiến lâu dài cho địa phương mình. Điều này lý giải tại sao các chương trình và hoạt động xúc tiến ở nước ta phần lớn chỉ được tiến hành theo từng vụ việc riêng lẻ. Một số cơ quan xúc tiến đầu tư ở địa phương nhận được nguồn tài trợ từ khu vực tư nhân để xây dựng trang thông tin điện tử nhằm quảng bá, xây dựng hình ảnh đầu tư ở địa phương, hoặc sản xuất các CD ROM, băng video, ấn phẩm, tài liệu vận động, xúc tiến đâu tư. Tuy nhiên, do tính chất của nguồn tài trợ từ khu vực tư nhân không bền vững và lâu dài nên khi khu vực tư nhân không cấp vốn tài trợ thì các hoạt động xúc tiến đầu tư kể trên cũng không còn được duy trì cập nhật nữa.
( Nguồn: Trang 18-19- Báo Tài chính -7-2007)
II.1.3. Cơ cấu vốn ĐTNN từ 1988 đến 2007:
ĐTNN phân theo ngành nghề:
Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng:
Từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, Việt Nam đã chú trọng thu hút ĐTNN vào lĩnh vực công nghiệp-xây dựng. Qua mỗi giai đoạn các lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư, các sản phẩm cụ thể được xác định tại Danh mục các lĩnh vực khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư. Trong những năm 90 thực hiện chủ trương thu hút ĐTNN, Chính phủ ban hành chính sách ưu đãi, khuyến khích các dự án : (i) sản xuất sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu, (ii) sản xuất hàng xuất khẩu (có tỷ lệ xuất khẩu 50% hoặc 80% trở lên), (iii) sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước và có tỷ lệ nội địa hoá cao.
Sau khi gia nhập và thực hiện cam kết với WTO (năm 2006), Việt Nam đã bãi bỏ các quy định về ưu đãi đối với dự án có tỷ lệ xuất khẩu cao, không yêu cầu bắt buộc thực hiện tỷ lệ nội địa hoá và sử dụng nguyên liệu trong nước. Qua các thời kỳ, định hướng thu hút ĐTNN lĩnh vực công nghiệp- xây dựng tuy có thay đổi về lĩnh vực, sản phẩm cụ thể nhưng cơ bản vẫn theo định hướng khuyến khích sản xuất vật liệu mới, sản phẩm công nghệ cao, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo, thiết bị cơ khí chính xác, sản xuất sản phẩm và linh kiện điện tử... Đây cũng chính là các dự án có khả năng tạo giá trị gia tăng cao và Việt Nam có lợi thế so sánh khi thu hút ĐTNN. Nhờ vậy, cho đến nay các dự án ĐTNN thuộc các lĩnh vực nêu trên (thăm dò và khai thác dầu khí, sản xuất các sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm điện và điện tử, sản xuất sắt thép, sản xuất hàng dệt may...) vẫn giữ vai trò quan trọng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và tạo nhiều việc làm và nguồn thu nhập ổn định cho hàng triệu lao động trực tiếp. Cơ cấu đầu tư có chuyển biến tích cực theo hướng gia tăng tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, lọc dầu và công nghệ thông tin (IT) với sự có mặt của các tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng thế giới: Intel, Panasonic, Canon, Robotech.v.v. Hầu hết các dự án ĐTNN này sử dụng thiết bị hiện đại xấp xỉ 100% và tự động hoá đạt 100% cho sản lượng, năng suất, chất lượng cao, do đó có ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu giá trị của toàn ngành.
Tính đến hết năm 2007, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn nhất với 5.745 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50 tỷ USD, chiếm 66,8% về số dự án, 61% tổng vốn đăng ký và 68,5% vốn thực hiện.
STT
Chuyên ngành
Số dự án
Vốn đầu tư (USD)
Vốn thực hiện (USD)
1
CN dầu khí
38
3,861,511,815
5,148,473,303
2
CN nhẹ
2,542
13,268,720,908
3,639,419,314
3
CN nặng
2,404
23,976,819,332
7,049,365,865
4
CN thực phẩm
310
3,621,835,550
2,058,406,260
5
Xây dựng
451
5,301,060,927
2,146,923,027
Tổng số
5,745
50,029,948,532
20,042,587,769
- ĐTNN trong lĩnh vực dịch vụ:
Nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh dịch vụ phát triển từ khi thi hành Luật Đầu tư nước ngoài (1987). Nhờ vậy, khu vực dịch vụ đã có sự chuyển biến tích cực đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống nhân dân, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Một số ngành dịch vụ (bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, kinh doanh bất động sản) tăng trưởng nhanh, thu hút nhiều lao động và thúc đẩy xuất khẩu. Cùng với việc thực hiện lộ trình cam kết thương mại dịch vụ trong WTO, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh thu hút ĐTNN, phát triển các ngành dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất và xuất khẩu.
Trong khu vực dịch vụ ĐTNN tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động sản, bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp (42% tổng vốn ĐTNN trong khu vực dịch vụ), du lịch-khách sạn (24%), giao thông vận tải-bưu điện (18%) (xem bảng).
TT
Chuyên ngành
Số dự án
Vốn đầu tư
(triệu USD)
Đầu tư đã thực hiện
(triệu USD)
1
Giao thông vận tải-Bưu điện ( bao gồm cả dịch vụ logicstics)
208
4.287
721
2
Du lịch - Khách sạn
223
5.883
2.401
3
Xây dựng văn phòng, căn hộ để bán và cho thuê
153
9.262
1.892
4
Phát triển khu đô thị mới
9
3.477
283
5
Kinh doanh hạ tầng KCN-KCX
28
1.406
576
6
Tài chính – ngân hàng
66
897
714
7
Văn hoá - y tế – giáo dục
271
1.248
367
8
Dịch vụ khác (giám định, tư vấn, trợ giúp pháp lý, nghiên cứu thị trường...)
954
2.145
445
Tổng cộng
1.912
28.609
7.399
Trong năm 2007 tuy vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tập trung vào lĩnh vực công nghiệp (50,6%), nhưng đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh vực dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước, tăng 16,5% so với năm 2006 (31,19%) với nhiều dự án xây dựng cảng biển, kinh doanh bất động sản, xây dựng khu vui chơi, giải trí.v.v.
- ĐTNN trong lĩnh vực Nông-Lâm-Ngư :
Dành ưu đãi cho các dự án đầu tư vào lĩnh vực Nông Lâm ngư nghiệp đã được chú trọng ngày từ khi có luật đầu tư nước ngoài 1987. Tuy nhiên đến nay do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rủi ro đầu tư cao trong lĩnh vực này, nên kết quả thu hút ĐTNN vào lĩnh vực Nông – Lâm ngư chưa được như mong muốn.
Đến hết năm 2007, lĩnh vực Nông- Lâm- Ngư nghiệp có 933 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 4,4 tỷ USD, đã thực hiện khoảng 2,02 tỷ USD; chiếm 10,8% về số dự án ; 5,37% tổng vốn đăng ký và 6,9% vốn thực hiện, (giảm từ 7,4% so với năm 2006). Trong đó, các dự án về chế biến nông sản, thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất 53,71% tổng vốn đăng ký của ngành, trong đó, các dự án hoạt động có hiệu quả bao gồm chế biến mía đường, gạo, xay xát bột mì, sắn, rau. Tiếp theo là các dự án trồng rừng và chế biến lâm sản, chiếm 24,67% tổng vốn đăng ký của ngành. Rồi tới lĩnh vực chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc chiếm 12,7%. Cuối cùng là lĩnh vực trồng trọt, chỉ chiếm gần 9% tổng số dự án. Có 130 dự án thuỷ sản với vốn đăng ký là 450 triệu USD,
Cho đến nay, đã có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào ngành nông-lâm-ngư nghiệp nước ta, trong đó, các nước châu Á ( Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc, Hồng Kông,..) chiếm 60% tổng vốn đăng ký vào ngành nông nghiệp (riêng Đài Loan là 28%). Các nước thuộc EU đầu tư vào Việt Nam đáng kể nhất gồm có Pháp (8%), quần đảo British Virgin Islands (11%). Một số nước có ngành nông nghiệp phát triển mạnh (Hoa Kỳ, Canada, Australi)a vẫn chưa thực sự đầu tư vào ngành nông nghiệp nước ta.
Các dự án ĐTNN trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp tập trung chủ yếu ở phía Nam. Vùng Đông Nam Bộ chiếm 54% tổng vốn đăng ký của ngành, đồng bằng sông Cửu Long 13%, duyên hải Nam Trung Bộ 15%. Miền Bắc và khu vực miền Trung, lượng vốn đầu tư còn rất thấp, ngay như vùng đồng bằng sông Hồng lượng vốn đăng ký cũng chỉ đạt 5% so với tổng vốn đăng ký của cả nước.
STT
Nông, lâm nghiệp
Số dự án
Vốn đăng ký (USD)
Vốn thực hiện (USD)
1
Nông-Lâm nghiệp
803
4,014,833,499
1,856,710,521
2
Thủy sản
130
450,187,779
169,822,132
Tổng số
933
4,465,021,278
2,026,532,653
ĐTNN phân theo hình thức đầu tư:
Ta có bảng số liệu sau:
Số dự án
Tổng vốn (tỷ USD)
% dự án
% vốn đăng kí
% tỉ trọng dự án
Hình thức liên doanh
1.619
23,8
18,8%
28,7%
40,6%
Hợp đồng hợp tác kinh doanh
221
4,5
2,5%
5,5%
19,5%
Hình thức 100%vốn nước ngoài
6.685
51,2
77,2%
61,6%
39,9%
Hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài vẫn chiếm ưu thế.
ĐTNN phân theo đối tác đầu tư:
Thực hiện phương châm của Đảng và Chính phủ “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ hợp tác.. Việt Nam muốn làm bạn với các nước trong khu vực và thế giới...” được cụ thể hóa qua hệ thống pháp luật ĐTNN, qua 20 năm đã có 81 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký trên 83 tỷ đô la Mỹ. Trong đó, các nước Châu Á chiếm 69%, trong đó khối ASEAN chiếm 19% tổng vốn đăng ký. Các nước châu Âu chiếm 24%, trong đó EU chiếm 10%. Các nước Châu Mỹ chiếm 5%, riêng Hoa Kỳ chiếm 3,6%. Tuy nhiên, nếu tính cả số vốn đầu tư từ các chi nhánh tại nước thứ 3 của các nhà đầu tư Hoa Kỳ thì vốn đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam sẽ đạt con số trên 3 tỷ USD, đứng vị trí thứ 5 trong tổng số 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam, ví dụ Tập đoàn Intel không đầu tư thẳng từ Mỹ vào Việt Nam mà thông qua chi nhánh tại Hồng Kông. Hai nước châu Úc (New Zealand và Australia) chỉ chiếm 1% tổng vốn đăng ký.
Hiện đã có 15 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vốn đăng ký cam kết trên 1 tỷ USD tại Việt Nam .Đứng đầu là Hàn Quốc vốn đăng ký 13,5 tỷ USD, thứ 2 là Singapore 10,7 tỷ USD, thứ 3 là Đài loan 10,5 tỷ USD (đồng thời cũng đứng thứ 3 trong giải ngân vốn đạt 3,07 tỷ USD), thứ 4 là Nhật Bản 9,03 tỷ USD. Nhưng nếu tính về vốn thực hiện thì Nhật Bản đứng đầu với vốn giải ngân đạt gần 5 tỷ USD, tiếp theo là Singapore đứng thứ 2 đạt 3,8 tỷ USD. Hàn Quốc đứng thứ 4 với vốn giải ngân đạt 2,7 tỷ USD.
Trong nhưng năm đầu 90 thực hiện Luật Đầu tư, chủ yếu là dự án quy mô nhỏ và từ các quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc châu Á, như Hồng Kông, Hàn Quốc và Đài Loan. Cho tới hết năm 2007, vốn ĐTNN vào Việt Nam vẫn từ các nước châu Á mặc dù Đảng và Chính phủ đã có Nghị quyết 09 đã đề ra ba định hướng thu hút ĐTNN
Một số đối tác chính:
Nhật Dự báo từ nay đến 2010 Nhật Bản sẽ tiếp tục giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong đầu tư tại Việt Nam, tiếp theo là Hoa Kỳ và các nước EU.
Nhật Bản là quốc gia có vốn FDI thực hiện lớn nhất trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Nhật Bản cũng là nước cung cấp ODA nhiều nhất cho Việt Nam. Hai nước Nhật Bản và Việt Nam đang xây dựng quan hệ đối tác chiến lược sau chuyến thăm Nhật Bản của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng vào tháng 10 năm 2006. Chính phủ Nhật Bản đang có những chính sách hỗ trợ, thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài, trong đó coi Việt Nam là một địa bàn đầu tư quan trọng trong khu vực.
Các tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs) của Nhật Bản đang thực hiện chiến lược chuyển dịch đầu tư từ Trung Quốc sang một số nước khác trong khu vực theo mô hình “Trung Quốc + 1”, tạo cơ hội mới cho Việt Nam trong tăng cường thu hút đầu tư của Nhật Bản.
Việt Nam và Nhật Bản đang thực hiện Chương trình hành động Sáng kiến chung Việt – Nhật giai đoạn II nhằm giải quyết những vướng mắc, nâng cao khả năng cạnh tranh của môi trường đầu tư.
Trong thời gian tới, cần tập trung xúc tiến đầu tư của Nhật Bản vào các dự án công nghệ cao, chuyển giao công nghệ và kỹ thuật tiên tiến ; chú trọng thu hút FDI của Nhật vào Khu công nghệ cao Hòa Lạc theo thỏa thuận của hai Chính phủ trong chuyến thăm Nhật Bản của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam.
Tiến hành vận động đầu tư tại Nhật Bản theo hình thức mới, chọn các dự án trọng điểm để vận động các tập đoàn cụ thể của Nhật Bản đầu tư. Tổ chức cho đoàn doanh nghiệp hai nước thăm và tìm hiểu cơ hội đầu tư lẫn nhau.
Thúc đẩy và hỗ trợ các dự án lớn của Nhật Bản hiện đang trong quá trình đàm phán hoặc hình thành dự án.
Giải quyết tốt các vướng mắc cho các doanh nghiệp Nhật Bản hoạt động tại Việt Nam nhằm tạo thêm lòng tin của các nhà đầu tư Nhật Bản.
* Hoa Kỳ:
Hoa Kỳ là nước xuất khẩu tư bản lớn nhất thế giới. Việt Nam và Hoa Kỳ đã ký kết và đang thực hiện Hiệp định Thương mại (BTA). Mới đây Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam. Hai nước cũng đã thành lập Hội đồng Tư vấn cấp cao Việt Nam – Hoa Kỳ. Năm 2006, Hoa Kỳ đã có một số dự án đầu tư lớn tại Việt Nam, trong đó có dự án trị giá 1 tỷ USD của Tập đoàn Intel. Dự báo trong các năm tới, đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam sẽ tăng nhanh hơn các năm trước và Hoa Kỳ có thể vươn lên đứng hàng thứ hai sau Nhật Bản về vốn đầu tư vào Việt Nam.
Để thúc đẩy hợp tác đầu tư Việt Nam-Hoa Kỳ cần tổ chức triển khai các hoạt động sau:
- Tập trung vận động đầu tư đối với từng lĩnh vực, dự án trọng điểm và đối tác tiềm năng. Mở rộng, nâng cao hiệu qủa hợp tác xúc tiến đầu tư với các công ty tư vấn, xúc tiến đầu tư, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ của Hoa Kỳ. Thành lập tổ công tác liên ngành để thúc đẩy đàm phán, chuẩn bị một số dự án quan trọng.
- Hỗ trợ các dự án đầu tư của Hoa Kỳ đã được cấp giấy phép đầu tư hoặc đang đàm phán, chuẩn bị đầu tư bằng cách giải quyết sớm các vướng mắc trong hoạt động của các dự án đầu tư đã được cấp giấy phép.
- Tăng cường hợp tác nhằm nâng cao hiệu qủa thực hiện Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ nhằm khai thác tối đa những lợi ích từ việc triển khai Hiệp định này, giảm thiểu những tác động tiêu cực, đồng thời tăng cường thu hút đầu tư của Hoa Kỳ trên cơ sở đảm bảo sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động này.
- Tiếp tục tận dụng hoạt động của Hội đồng tư vấn Việt Nam - Hoa Kỳ để nghiên cứu, đề xuất cơ chế hợp tác mới nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Hoa Kỳ và giữa các doanh nghiệp hai nước. Nghiên cứu, đề xuất về các vấn đề tăng cường cạnh tranh và thúc đẩy quan hệ kinh tế song phương Việt Nam Hoa Kỳ, nhất là đẩy mạnh thu hút đầu tư của các công ty Hoa Kỳ và Việt Nam..
- Hiện nay, có khoảng 1,5 triệu Việt kiều đang sinh sống, làm ăn tại Hoa Kỳ. Nhiều người Việt đã trở thành những nhà kinh doanh thành đạt có khả năng đầu tư về nước; một số khác có trình độ kỹ thuật cao, đặc biệt trong các ngành khoa học tự nhiên, công nghệ... Do vậy, cần đẩy mạnh thu hút đầu tư của cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ theo hướng: (i) tiếp tục tăng cường các ưu đãi khuyến khích Việt kiều đầu tư về nước, đặc biệt trong các ngành công nghệ thông tin, giáo dục, y tế, nghiên cứu phát triển, du lịch, kinh doanh bất động sản....; (ii) tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho việc nhập cảnh, cư trú, đi lại và sinh hoạt của Việt kiều tại Việt Nam.
* Các nước EU:
Liên minh châu Âu (EU) coi trọng phát triển quan hệ hợp tác toàn diện với Việt Nam qua việc tăng viện trợ hợp tác phát triển, về thương mại và đầu tư trực tiếp. EU cũng là những nước kết thúc sớm nhất đàm phán với Việt Nam gia nhập WTO. Tuy nhiên đầu tư của EU vào Việt Nam cho đến nay chưa lớn. Dự báo trong các năm tới, đầu tư từ các nước EU sẽ gia tăng nhưng tốc độ gia tăng chậm hơn đầu tư từ Nhật Bản và Hoa Kỳ. Chủ yếu do dòng vốn đầu tư đang tập trung vào các thành viên mới của EU và do ở xa Việt Nam, chi phí vận chuyển cao, hiểu biết của cộng đồng doanh nghiệp các nước EU về Việt Nam còn ít.
- Định hướng thu hút đầu tư từ EU tập trung vào việc thu hút đầu tư của các công ty đa quốc gia (TNCs) vì các công ty này có khả năng tài chính mạnh, mạng lưới sản xuất và cung ứng sản phẩm toàn cầu. Trong EU cần tiếp tục thu hút ĐTNN từ các nước công nghiệp hàng đầu như Pháp, Anh, Đức.
- Tăng cường giới thiệu về chính sách và cơ hội đầu tư tại Việt Nam; tiếp tục xúc tiến các dự án mà các tập đoàn EU đi cùng Lãnh đạo các nước vào Việt Nam, nhất là trong lĩnh vực công nghiệp chế tạo, năng lượng, hoá chất, xây dựng, dịch vụ. Tăng cường công tác tổ chức hội thảo XTĐT tại Việt Nam cũng như tại một số nước EU, thực hiện việc tăng cường đại diện XTĐT tại một số nước EU.
- Thực hiện việc mở cửa lĩnh vực dịch vụ theo đúng cam kết; đối với một số dự án cụ thể, có thể xem xét cho phép đầu tư sơm hơn, đổi lại phía ta tranh thủ sự ủng hộ của Chính phủ và của các TNC's EU trong việc cung cấp ODA và các lợi ích thương mại.
Một số đối tác truyền thống:
* Đài Loan
Đài Loan tăng cường thực hiện Chính sách Hướng Nam, trong đó Việt Nam được coi là thị trường quan trọng về đầu tư và thương mại. Đây là thời cơ mới trong thu hút đầu tư của Đài Loan để có thể đẩy quy mô và hiệu quả của các dự án đầu tư sắp tới lên trình độ mới theo định hướng của ta. Tuy nhiên, việc tăng cường phát triển mối quan hệ nói trên luôn luôn gặp phải trở ngại từ phía Trung Quốc, điều này dự báo là công tác thu thút đầu tư và phát triển thương mại của Việt Nam từ Đài Loan sẽ gặp khó khăn hơn so với hơn 10 năm qua.
Trên cơ sở thế mạnh của Đài Loan, tập trung thu hút các nhà đầu tư Đài Loan vào các lĩnh vực sản xuất thép, cơ khí chế tạo, xe máy, xe đạp; các thiết bị điện, điện tử, linh kiện máy tính; xi măng; sợi tổng hợp, dệt, may, giày thể thao xuất khẩu; trồng và chế biến sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp và chế biến thực phẩm phục vụ xuất khẩu.
Đối với Đài Loan, cùng với việc tiếp tục chú trọng thu hút các Tập đoàn lớn cần coi trọng thu hút đầu tư của các xí nghiệp vừa và nhỏ của Đài Loan vì quy mô vốn và trình độ kỹ thuật của các xí nghiệp vừa và nhỏ của Đài Loan lớn hơn nhiều so với xí nghiệp cùng loại của Việt Nam. Việc tăng cường thu hút các xí nghiệp vừa và nhỏ của Đài Loan cũng phù hợp với Chính sách Công nghiệp hoá và tăng cường xây dựng ngành Công nghiệp phụ trợ của ta; đẩy mạnh hơn công việc hợp tác trong giáo dục đào tạo, nhất là trong lĩnh vực đào tạo kỹ thuật và quản lý xí nghiệp để tạo điều kiện nâng cao chất lượng đầu tư tại Việt Nam
Tiếp tục xây dựng và phát triển các mối quan hệ hợp tác hai bên cùng có lợi giữa các cơ quan Chính phủ quản lý đầu tư cũng như các tổ chức phi Chính phủ hai Bên.
Tăng cường phối hợp công tác với Văn phòng Kinh tế Văn hoá Đài Bắc tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, với Hiệp hội Thương nhân Đài Loan tại Việt Nam để hỗ trợ tháo gỡ những khó khăn, trở ngại của các nhà đầu tư Đài Loan trong quá trình đầu tư và kinh doanh tại Việt Nam. Thông qua những biện pháp này để khuyến khích họ mở rộng đầu tư, đầu tư mới và thu hút các doanh nghiệp mới của Đài Loan đầu tư vào Việt Nam.
* Hàn Quốc:
Vài năm gần đây Chính phủ Hàn Quốc kêu gọi mạnh mẽ các doanh nghiệp Hàn Quốc đầu tư vào Việt Nam và quyết định tăng ODA cho Việt Nam. Các doanh nghiệp Hàn Quốc rất quan tâm tới Việt Nam thể hiện qua số lượng khách Hàn Quốc vào Việt Nam tìm kiếm cơ hội đầu tư, kinh doanh ngày càng tăng. Năm 2006, Hàn Quốc dẫn đầu về đầu tư tại Việt Nam. Do có một số dự án lớn, trong đó có dự án trị giá 1,12 tỷ USD của Tập đoàn sản xuất thép POSCO. Trong những năm tới cần coi trọng thu hút đầu tư từ Hàn Quốc nhất là vào lĩnh vực công nghiệp chế tạo và công nghiệp phụ trợ.
Cũng như các nhà đầu tư Nhật Bản, các nhà đầu tư Hàn Quốc chịu ảnh hưởng của những nhà đầu tư đi trước, vì vậy, cần có biện pháp tích cực hỗ trợ các nhà đầu tư hiện đang kinh doanh ở Việt Nam, tạo tác động tích cực với các nhà đầu tư mới.
* Singapore:
Hiện có hơn 1.600 TNCs đặt trụ sở tại Singapore, cần khuyến khích các tập đoàn này đầu tư vào Việt Nam. Với điều kiện cơ sở hạ tầng phát triển (sân bay, cảng biển ...), Singapore có thể đóng vai trò điểm kết nối cho các nhà đầu tư nước ngoài tới Việt Nam và cũng như cho các nhà xuất khẩu Việt Nam đến các thị trường quốc tế.
Việt Nam và Singapore đang triển khai nghiên cứu đề án kết nối hai nền kinh tế. Hai nước cũng đã thỏa thuận thực hiện chương trình hợp tác xúc tiến và thúc đẩy đầu tư của nước thứ ba vào Việt Nam và Singapore mà cụ thể là Nhật Bản. Đây là yếu tố thuận lợi để thúc đẩy đầu tư của Singapore vào Việt Nam trong những năm tới.
Các lĩnh vực cần ưu tiên thu hút đầu tư từ Singapore là : công nghiệp điện tử, tin học, công thệ thông tin; các dự án công nghiệp dịch vụ có tỷ suất sinh lời cao như khách sạn-du lịch, bất động sản.
II.2. Triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh của các dự án ĐTNN.
Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã góp phần đáng kể trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội đất nước bằng việc tạo ra tổng giá trị doanh thu đáng kể, trong đó có giá trị xuất khẩu, cũng như đóng góp tích cực vào ngân sách và tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động, đóng góp ngày càng lớn vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của đất nước và thực sự trở thành bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế.
Vốn thực hiện: Ta có bảng sau:
Giai đoạn
Vốn thực hiện ( tỉ USD )
% tổng vốn đăng kí mới
Vốn Việt Nam (tỷ USD)
Vốn nước ngoài
( Tỷ USD)
1991-1995
7,1
7,1
1
6,1
1996-2000
13,5
64,8
1,4
12
2001-2005
14,3
64,8
1,7
12,6
2006-2007
8,7
27
1
7,7
Vốn thực hiện có xu hướng tăng qua các năm nhưng với tốc độ chậm trong khi vốn đăng ký và số lượng dự án cấp mới biến động tăng mạnh. Vốn thực hiện năm 2007 tăng 12% so với năm 2006, và sẽ là tiền đề cho việc giải ngân của 2 năm tới 2008 và 2009 tăng cao vì trong các dự án cấp mới trong 2 năm 2006 và 2007 có nhiều dự án quy mô vốn đăng ký lớn.
Mức doanh thu:
Bảng số liệu về mức đóng góp theo GDP của khu vực doanh nghiệp ĐTNN
Giai đoạn
1991-1995
1996-2000
2001-2005
2006-2007
Đóng góp trong GDP
6,3%
10,3%
14,6%
17%
Bảng số liệu về mức doa._.iếu đồng bộ, hoặc chưa có đủ điều kiện, nên công suất phát huy thấp…
Một điều đáng nói là giữa năng lực cán bộ tham gia quản lý và thực hiện các chương trình và dự án ODA còn yếu về nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng hợp tác quốc tế, nhất là về ngoại ngữ. Mặc dù được quan tâm tạo điều kiện và được đặc biệt ưu tiên đào tạo, nhưng một bộ phận cán bộ quản lý dự án vẫn còn nhiều mặt bất cập: thiếu sự hiểu biết về các chính sách thủ tục của các nhà tài trợ, thiếu năng lực gắn kết, vận dụng và thuyết phục các nhà tài trợ chấp nhận đề xuất hợp lý cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Do vậy, dẫn đến việc chuẩn bị nội dung dự án không ký, gây lung túng cho việc thực hiện, triển khai dự án. Đây là nguyên nhân làm cho việc giám sát dự án nhiều lúc còn bị buông lỏng.
Thứ năm, công tác theo dõi và đánh giá ODA còn hạn chế. Công tác theo dõi đánh giá các chương trình, dự án ODA, hoạt động của các ban quản lý dự án chưa được quan tâm đúng mức; chế độ báo cáo thanh quyết toán chính chưa được thực hiện nghiêm túc và thiếu các chế tài cần thiết. Suốt một thời gian dài, công tác theo dõi nguồn vốn ODA mới chỉ chủ yếu tập trung vào báo cáo khai thác tiến độ tình hình thực hiện để đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư nhằm giải ngân dự án; chỉ chú trọng nhiều trong khâu thu hút ODA chứ chưa chú ý thỏa đáng khâu thẩm định hiệu quả dự án, thiếu kiểm tra trong quá trình thực hiện dự án.
Nhiều cơ quan chủ quản ở cả Trung ương và địa phương chưa quản lý được các dự án của mình. Những quy định về báo cáo tình hình thực hiện các chương trình, dự án chưa được thực hiên nghiêm túc. Công tác giám sát quá trình thực hiện dự án ODA của các cán bộ quản lý ban ngành quản lý dự án, của tư vấn giám sát không hiệu quả do yếu kém về trình độ quản lý, chuyên môn kỹ thuật, thậm chí một số có tư cách đạo đức nghề nghiệp kém. Mặt khác, chất lượng của báo cáo của các ban quản lý chưa đảm bảo được yêu cầu và chưa sát với thực tế.
Lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương còn thiếu sự quan tâm đúng mức đến công tác đánh giá kết quả thực hiện các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA, không coi đó là nhiệm vụ thường xuyên và phải đưa vào công tác hàng năm. Trong khi đó tính đồng bộ các khâu cũng chưa được đảm bảo, khâu đánh giá hiệu quả các chương trình dự án ODA ở các giai đoạn vận hành đến nay vẫn chưa được quan tâm đúng mức, thiếu các văn bản pháp quy để các cấp, các ngành có thẩm quyền thực hiện.
Chưa có cơ chế, chế tài xử lý và chế độ khen thưởng cụ thể đối với các ban quản lý dự án và các cơ quan QLNN tham gia theo dõi, kiểm soát thực hiện đúng quy trình về thời gian và đảm bảo chất lượng của các báo cáo. Vì vậy, tình trạng vi phạm chế độ báo cáo còn xảy ra phổ biến, làm ách tắc thông tin phản hồi; mặt khác cũng chưa đưa ra được cơ chế kiểm soát trực tiếp, thẩm định lại chất lượng của các bản báo cáo cũng như cơ chế vận hành hệ thống thông tin trực tiếp từ cơ sở(từ các dự án đang thực hiện, đang vận hành và khai thác) tới các cơ quan QLNN về ODA.
( Nguồn: Trang 51- 53- Tạp chí Thông tin và dự báo kinh tế xã hội-9-2007)
2. Các nhà đầu tư:
Thứ nhất, thủ tục liên quan đến ODA do các nhà tài trợ đưa ra phức tạp và không thống nhất với nhau gây khó khăn cho các nước tiếp nhận. Hiện nay ngoài 22 nước thuộc OECD thực hiện tài trợ song phương, còn có các tổ chức quốc tế và hàng nghìn tổ chức phi chính phủ cũng tham gia vào hoạt động ODA. Mỗi nhà tài trợ này thường xây dựng một cơ chế tiếp nhận, sử dụng ODA riêng. Nước tiếp nhận ODA cần phải đáp ứng cùng một lúc các yêu cầu, thủ tục của nhiều nhà tài trợ. Đây là vấn đề khó khăn với các nước nghèo trong bối cảnh điều kiện kinh tế xã hội chưa phát triển và trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ còn hạn chế
Thứ hai, mức độ ưu đãi của ODA nhiều khi bị triệt tiêu bởi các điều kiện ràng buộc của nhà đầu tư đặt ra. ODA được coi là khoản tài trợ có ưu đãi ( hơn so với các khoản vay thương mại theo điều kiện thị trường) do có yếu tố không hoàn lại hay còn được gọi là thành tố hỗ trợ. Thành tố hỗ trợ của từng khoản ODA được xác định dựa trên các yếu tố : thời gian vay, thời gian ân hạn (thời gian không phải trả vốn gốc) và lãi suất cho vay, sao cho tổng thành tố hỗ trợ trong một khoản ODA theo yêu cầu của OECD phải không thấp hơn 25%. Tuy nhiên yếu tố không hoàn lại mới chỉ phản ánh mức độ danh nghĩa. Trên thực tế, rất có thể khoản ODA trở thành khoản vay đắt đỏ do những ràng buộn mà các nhà tài trợ đặt ra. Hầu hết các khoản ODA song phương đều được kèm theo các điều khoản phải mua hàng hóa hay dịch vụ, thuê chuyên gia tư vấn.. với giá rất cao của các nhà tài trợ. Cụ thể Bỉ, Đức, Đan Mạch yêu cầu các nước nhận tài trợ yêu cầu các nước nhận tài trợ phải mua 50% hàng hóa của mình, Canada yêu cầu cao hơn với tỷ lệ 65%. Mức trung bình của các nước OECD là 22%. Một số các nước ODA còn yêu cầu dự án ODA phải do các công ty của nước mình thực hiện ( điển hình là Nhật Bản). Những điều kiện ràng buộc kiểu như vậy đã làm giảm tính ưu đãi của ODA. Nhiều khoản viện trợ - nếu cân nhắc tính toán kỹ- có thể nghĩa vụ trả nợ còn cao hơn vay thương mại, nhưng các nước nghèo vẫn phải tiếp nhận, một phần vì nền kinh tế dã phụ thuộc vào viện trợ, một phần vì dự án ODA khi được triển khai đem lại nhiều lợi ích cho các nhà lãnh đạo.
Thứ ba, ODA nhiều khi được thực hiện theo ý tưởng của các nhà tài trợ chứ không phải chỉ là mong muốn của người nhận. Ngân hàng Thế giới cho rằng ODA thực sự phát huy hiệu quả một khi nó có thể đáp ứng được nhu cầu của các nước tiếp nhận, các nước nghèo phải phát huy được tính chủ động trong thu hút và sử dụng ODA. Tuy nhiên do năng lực yếu kém của các nước ODA, đặc biệt là ODA dành cho hỗ trợ kỹ thuật, được các nhà tài trợ thiết kế và trực tiếp quản lý.
Thứ tư, chính sách viện trợ của các nước giàu dành sự ưu tiên đặc biệt cho các nước nghèo, mà chưa quan tâm đến mức độ hấp thu ODA của các nước này. Chính sách ưu tiên viện trợ cho các nước nghèo thể hiện tính nhân đạo và mong muốn của cộng đồng quốc tế với sự phát triển của các nước này. Tuy nhiên ở đây xuất hiện một nghịch lý làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng ODA. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, tiền đóng vai trò quan trọng trong hoạt động viện trợ nhưng không phải là tất cả. Để đạt được mục tiêu của viện trợ thì cần có sự kết hợp hài hòa giữa tiền của nhà tài trợ và thể chế của nước tiếp nhận. Một khoản viện trợ sẽ phát huy tác dụng nếu nước tiếp nhận có cơ chế sử dụng hiệu quả. Thời gian qua, do các nhà tài trợ quá đề cao mục tiêu viện trợ cho các nước nghèo và dành cho một lượng lớn ODA, trong khi theo đánh giá chung, các nước nghèo đa phần có thể chế yếu kém. Đây là nguyên nhân quan trọng khiến cho các nước nghèo tuy nhận được nhiều viện trợ nhưng vẫn chưa thoát ra được cảnh đói nghèo như mong muốn của các nhà tài trợ và của chính các nước nghèo.
( Nguồn: Tạp chí Tài chính- 9-2007)
VIII. GIẢI PHÁP ĐẶT RA:
Thứ nhất, thay đổi nhận thức về quản lý và sử dụng vốn vay nước ngoài. Dưới góc độ QLNN. Nguồn gốc ODA là nguồn của ngân sách nhà nước. Nguồn vốn này phải được quản lý và sử dụng theo đung luật Ngân sách nhà nước và các quy định khác về chi tiêu công. Nhận thức đúng như vậy mơi giúp chúng ta đổi mới tư duy về quản lý và sử dụng vốn ODA. Do đó, (i) cần phải nhận thức một cách đầy đủ về vốn ODA từ cấp trực tiếp sử dụng và cấp đàm phán ký kết vốn vay; (ii)kiên quyết loại bỏ các dự án chạy theo phong trào;(iii) coi nguồn vốn ODA là một chất xúc tác hay là vốn mồi;(iv) cần phát huy mạnh vai trò của cơ quan chủ quản;(v) cần nghiên cứu đưa toàn bộ nguồn vốn này vào ngân sách nhà nước, sau đó sẽ được cấp phát thanh toán ra cho dự án theo kế hoạch hang năm được giao, đảm bảo quản lý chặt chẽ nguồn vốn ODA theo Luật Ngân sách nhà nước.
Thứ hai, hoàn thiện khung pháp lý nhằm tăng cường quản lý, huy động và sử dụng vốn vay nước ngoài. Tiến hành rà soát các quy định trong các văn bản pháp quy hiện hành để trên cơ sở đó nghiên cứu và trình Quốc hội xây dựng Luật hay Pháp lệnh về quản lý vay nợ và viện trợ nước ngoài của quốc gia nhằm nâng cao tính pháp lý và tính toàn diện trong công tác quản lý các khoản vay nợ và viện trợ nước ngoài. Nghiên cứu và sửa đổi một số nghị định có liên quan đến quản lý và sử dụng ODA, tạo sự hài hòa giữa thủ tục của phía các nhà tài trợ và phía Việt Nam. Tiến tới quản lý ODA dựa vào kết quả đầu ra. Kết quả của một chương trình, dự án ODA là nỗ lực đóng góp chung của nhà tài trợ cũng như bên thụ hưởng, do vậy quản lý vốn vay nước ngoài đầu tư phải hướng vào kết quả cuối cùng mà chương trình, dự án đó mang lại chứ không phải chỉ là đạt được những mục tiêu mà chương trình, dự án ODA đặt ra.
Thứ ba, xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch sử dụng vốn vay nước ngoài. ODA là nguồn vốn lớn có vai trò quan trọng tới phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cả trước mắt lẫn lâu dài. Bởi vậy việc huy động nguồn vốn này cần phải có chiến lược thu hút và sử dụng nguồn vốn này cần phải đáp ứng được các nhu cầu như: (i)Xây dựng quy hoạch vận đọng và sử dụng vốn ODA phải phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với tính chất và xu hướng phát triển của nguồn vốn, thể hiện được mối quan hệ giữa các ngành, các vùng; phải gắn kế hoạch sử dụng nhằm thực hiện đúng mục tiêu phát triển và công bằng xã hội.(ii), Xây dựng hệ thống tiêu chí ưu tiên vận động và sử dụng ODA một cách thống nhất, từ đó xác định được nhu cầu về ODA cho giai đoạn mới trên cơ sở cân đối các nguồn vốn khác cũng như khả năng cung cấp của các nhà tài trợ và khả năng tiếp nhận của ngành. (iii) Xác định rõ mối tương quan giữa vốn ODA với các nguồn vốn khác…
Song song với việc xây dựng chiến lược thu hút vốn ODA, cần phải có quy hoạch, kế hoạch sử dụng nguồn vốn này vì nó có vai trò rất quan trọng trong việc vận động, diều phối, sử dụng ODA. Quy hoạch, kế hoạch là cơ sở điều phối và sử dụng ODA nhưng cần phải liên tục cập nhật và điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế, phối hợp chặt chẽ với vận động, sử dụng nguồn vốn ODA với các nguồn vốn khác.
Thứ tư, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý với các đơn vị thụ hưởng nguồn vốn vay nước ngoài. Trong công tác quản lý vốn ODA, hệ thống quản lý điều phối viện trợ của Chính phủ bao gồm: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Noại giao, Ngân hang nhà nước và Văn phòng chính phủ, trong đó Bộ Kế hoạch và Đầu tư có vai trò làm đầu mối. Việc nâng cao sự phối hợp đồng bộ cho cơ chế quản lý thống nhất cho phép tăng cường và phát huy hiệu quả các nguồn lực, tránh tình trạng lãng phí do trùng lắp trong quá trình sử dụng vốn viên trợ, tạo cơ chế phối hợp thuận lợi và có hiệu quả trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án ODA.
Thứ năm, nâng cao năng lực cán bộ quản lý nguồn vốn vay nước ngoài. Quản lý dự án nói chung, dự án vốn vay nước ngoài nói riêng là một kỹ năng chuyên biệt, do đó, để đảm bảo cho việc nâng cao năng lực quản lý vốn vay nước ngoài, cần chuyên nghiệp hóa hoạt động quản lý dự án. Điều này có thể được triển khai trên cơ sở coi quản lý vốn dự án nước ngoài như một nghề nghiệp chuyên môn cần được cấp chứng chỉ, đưa quản lý dự án thành một môn học trong trường bên cạnh việc tổ chức các khóa học ngắn hạn về các kỹ năng quản lý dự án để dần dần xây dựng đội ngũ quản lý dự án chính quy lành nghề. Đây cũng là một hình thức nhằm tiết kiệm nguồn lực cho xã hội, tránh tình trạng mỗi một tổ chức khi thực thi một dự án lại phải hình thành một bộ máy riêng, giải tán nó khi kết thúc dự án và không có một cơ chế nào để tận dụng các kinh nghiệm về quản lý dự án trước đó.
Thứ sáu, tăng cường kiểm tra giám sát, kiểm toán việc sử dụng nguồn vốn vay nước ngoài. Các cơ quan thanh tra kiểm tra tài chính và kiểm toán nhà nước cần tăng cường công tác chuyên môn nghiệp vụ để thẩm định, đói chiếu, so sánh, phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, kiên quyết xuất toán các khoản chi sai mục đích, không đúng khối lượng, đơn giá, không đúng tiêu chuẩn định mức, vượt dự án lớn. Cần thực hiện chế độ trách nhiệm vật chất, kể cả trách nhiệm hình sự đối với nhà thầu, tư vấn giám sát trong việc xác nhận khối lượng thanh toán không trung thực, không đúng quy định; khắc phục những vi phạm trong công tác xác nhận khối lượng thanh toán để làm căn cứ kiểm soát chi và giải ngân vốn ODA, vốn đối ứng cho dự án ODA.
Mặt khác, Chính phủ cùng với các cơ quan chức năng cũng như tranh thủ sự hỗ trợ của các nhà tài trợ quốc tế, sớm xây dựng và ban hành bộ tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sự dụng ODA, bao gồm cả tiêu chuản định tính và định lượng. Đây là cơ sở cần thiết để tăng cường kiểm tra giám sát tiến trình thực hiện dự án ODA và là căn cứ để xem xét quyết định cho phép thực hiện dự án đầu tư. Từ đó, Chính phủ có thể từ chối những dự án đề xuất từ phía nhà tài trợ nếu xét thấy dự án không hiệu quả và thiếu tính bền vững.
( Nguồn: Trang 53-55- Tạp chí Thông tin và dự báo kinh tế xã hội-9-2007)
KẾT HỢP ODA VÀ FDI:
ODA và FDI là hai nguồn ngoại lực quý giá đối với các nước đang phát triển. Nhưng hiệu qủa sử dụng hai nguồn tài lực này phụ thuộc nhiều vào việc gắn kết chúng với nhau. Trong thời gian qua, công tác gắn kết hai nguồn lực này của Việt Nam còn chưa được quan tâm đúng mức. Biểu hiện cụ thể là Nhà nước thiếu định hướng kết hợp trong chính sách huy động chúng, công tác sử dụng còn thiếu đồng bộ, và đặc biệt tính hiệu qủa của việc vay và trả nợ vốn ODA chưa được đề cao. Để nâng cao hiệu qủa sử dụng hai nguồn vốn này, nhà nước cần có chính sách kết hợp sử dụng hài hòa hai nguồn vốn này, để chúng bổ sung cho nhau, và cộng hưởng với nhau thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển.
ODA và FDI là hai nguồn ngoại lực quan trọng góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia, đặc biệt đối với các nước chậm và đang phát triển. Tuy nhiên, không có nghĩa là nhịp độ phát triển kinh tế xã hội hoàn toàn tỷ lệ thuận với khối lượng ODA và FDI mà quốc gia đó thu hút được. Mấu chốt của vấn đề là ở chỗ chúng được sử dụng như thế nào. Lý thuyết cũng như thực tiễn chứng minh rằng vốn ODA và FDI sẽ phát huy tối đa sức mạnh nếu như chúng được sử dụng kết hợp và bổ trợ lẫn nhau. Bỡi lẽ, các dự án FDI chỉ có thể được triển khai hiệu qủa trên cơ sở có môi trường cần thiết cho việc tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, như cơ sở pháp lý, mặt bằng sản xuất, mạng lưới giao thông... Bên cạnh đó, các dự án FDI cũng cần phải có những yếu tố làm “đầu vào” và các yếu tố đảm bảo “đầu ra” cho quá tình sản xuất, như năng lượng, nước, dịch vụ về tín dụng, thanh toán... Nhà đầu tư nước ngoài hầu như không tự mang đến hoặc nhập khẩu được mà chủ yếu nhờ vào sự cung ứng của nước nhận vốn. Bài toán đặt ra cho các nước đang phát triển là muốn thu hút được nhiều vón FDI cần phải đáp ứng được những yếu tố tối cần thiết như trên trong khi điều kiện cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật còn yếu kém và nguồn nội lực đầu tư để cải thiện và xây dựng mới rất khan hiếm. Vấn đề chỉ có lời giải khi các quốc gia đang phát triển biết cách khai thác các nguồn lực tài chính bên ngoài, trong đó có vốn ODA. Vốn ODA, với đặc tính là khoản tài trợ có thời gian vay dài, lãi suất thấp hơn nhiều so với vốn vay thương mại, sẽ đáp ứng được một phần nhu cầu vốn để tạo dựng môi trường đầu tư hấp dẫn của các nước đang phát triển. Ngược lại, các dự án FDI hoạt động có hiệu quả, hoạt động xuất khẩu được thúc đẩy, sẽ là nguồn cung ngoại tệ chủ yếu trang trải những khoản ODA đến hạn. Chính vì thế, việc kết hợp sử dụng hai nguồn tài lực này cần thiết được đặt ra, và là yêu cầu đối với các nước đang phát triển.
Việt Nam thực hiện mở cửa kêu gọi các nhà đầu tư quốc tế dưới hình thức FDI kể từ năm 1987, và nối lại quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế (WB, IMF, ADB...) cũng như với các nước phát triển nhằm kêu gọi vốn ODA từ năm 1993. Kể từ đó đến nay, chúng ta đã thu hút được hơn 45 tỷ USD vốn FDI cam kết và 26 tỷ vốn ODA. Hai nguồn lực này trong thời gian qua đã giữ một vị trí không nhỏ và đang ngày càng trở nên hết sức quan trọng trong nền kinh tế quóc dân, đóng góp một cách toàn diện vào làm tăng trưởgn GDP, tăng nhanh xuất khẩu, tăng thu ngân sách nhà nước, và cải thiện đời sống của nhân dân. Thậm chí, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã được chính thức thừa nhận là một thành phần kinh tế kể từ năm 2001. Đạt được những thành tựu đó, một phần là do hai nguồn vốn này đã được sử dụng kết hợp tương đối hài hòa với nhau. Cụ thể biểu hiện trên một số giác độ sau:
Thứ nhất, trong những năm qua, một tỷ trọng lớn vốn ODA (khoang rhơn 50%) đã được ưu tiên đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế (xem bảng 1). Hàng loạt các công trình kết cấu hạ tầng quan trọng như mạng lưới giao thông, sản xuất và truyền tải điện, thông tin liên lạc, cấp thoát nước.. nhờ vốn ODA đã phục hồi, mở rộng và nâng cấp, tạo một bước mới về chất. Từ đó, chúng không những góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế xã hội Việt Nam phát triển mà còn trực tiếp tạo điều kiện thuận lợi cho thu hút nguồn vốn FDI.
Thứ hai, khu vực kinh tế FDI có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng, lớn hơn so với tốc độ tăng trưởng trung bình của nền kinh tế. Trong giai đoạn đầu, khu vực kinh tế này chủ yếu thực hiện chiến lược “thay thế nhập khẩu” với các sản phẩm sản xuất ra phục vụ nhu cầu tiêu dùng của thị trường nội địa. Nhưng những năm gần đây, có sự chuyển hướng khá tốt sang xuất khẩu. Tỷ lệ xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI trong tổng giá trị tài sản tăng nhanh, đến nay đã chiếm gần 54% (Xem bảng 2). Đồng thời các doanh nghiệp FDI góp phần tích cực thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của cả nước. Đây là dấu hiệu tốt, đúng hướng của khu vực kinht ế FDI, cũng là nguồn đảm bảo cho việc thanh toán và trả các khoản nợ nước ngoài của quốc gia khi đáo hạn, trong đó có vốn ODA.
Bảng 1: Tỷ trọng vốn ODA phân theo ngành trong các hiệp định đã ký
Đơn vị: Triệu USD
Ngành
Tỷ lệ (%)
1. Năng lượng điện
27,2
2. Giao thông vận tải
26,8
3. Tín dụng điều chỉnh cơ cấu
14,2
4. Nông gnhiệp
10,2
5. Cấp thoát nước
7,1
6. Lĩnh vực xã hội
6,8
7. Các ngành khác
7,8
Tổng cộng
100
Nguồn: tổng hợp từ Bộ Kế hoạch & Đầu tư và Bộ Tài chính
Thứ ba, ngoài xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, vốn ODA cũng được ưu tiên sử dụng trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế... Các dự án sử dụng vốn ODA trong lĩnh vực này góp phần đào tạo đội ngũ lao động trong tương lai có năng lực, trình độ và sức khỏe tốt phục vụ cho phát triển kinh tế một cách bền vững và là một yếu tố vô cùng quan trọng cho khu vực kinh tế FDI với các dự án đòi hỏi lao động có trình độ cao. Đây cũng là kinh nghiệm sử dụng hiệu quả vốn ODA mà một số nước đã làm.
Thứ tư, cộng đồng quốc tế đã có nhiều đánh giá khá tích cực về công tác quản lý và sử dụng vốn ODA của Chính phủ Việt Nam. Triển vọng vay ODA của Việt Nam trong thời gian tới là khá thuận lợi. Điều này cũng đã tạo dựng được lòng tin của các nhà đầu tư quốc tế về khả năng phát triển của kinht ế Việt Nam, giúp các nhà đầu tư vững tâm hơn khi xác định mục tiêu kinh doanh lâu dài tại Việt Nam.
Tuy nhiên, công tác sử dụng kết hợp hai nguồn ngoại lực này trong thực tiễn triển khai vẫn còn bộc lộ một số hạn chế sau.
Một là, thiếu định hướng rõ ràng trong việc kết hợp hai nguồn vốn. Sự kết hợp hai nguồn vốn trên chủ yếu vẫn mang tính tự phát, chưa trở thành nhận thức nhất quán của các cơ quan quản lý nhà nước có chức năng và các cán bộ chuyên trách, để từ đó đề ra chủ trương và chính sách hợp lý nhất trong thu hút và sử dụng chúng. Bằng chứng là, hiện nay chưa hề có văn bản pháp luật nào đề cập đến sự cần thiết phải kết hợp hai nguồn vốn này. Đồng thời các bộ phận quản lý ODA và FDI còn hoạt động khá độc lập với nhau. Có nghĩa là, công tác vận động ODA được tiến hành độc lập với thu hút và sử dụng vốn FDI.
Hai là, nhiều địa phương không thu hút hoặc thu hút được ít vốn FDI do cơ sở hạ tầng, yếu kém. Mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam là hạn chế sự phát triển mất cân đối giữa các vùng, miền. Chính vì thế, trong công tác thu hút vốn FDI, Chính phủ đã có chủ trương hướng các nhà đầu tư quốc tế đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, vào các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa... Tuy nhiên, các chính sách ưu đãi của Chính phủ chưa phát huy được tính năng tác dụng như mong muốn. Vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ bé, chưa đầy 8% tổng vốn FDI. Khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa thu hút được ít dự án FDI, thậm chí một số tỉnh miền núi hiện nay chưa có dự án đầu tư nước ngoài triển khai. Thực tế này tồn tại, theo các nhà đầu tư nước ngoài, chủ yếu là do điều kiện kinh tế xã hội của khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa còn quá khó khăn, không đảm bảo cho các nhà đầu tư tạo lợi nhuận. Hơn bao giờ hết, vốn ODA cần được ưu tiên để cải thiện môi trường kinh tế xã hội của các vùng, miền này. Các công trình xây dựng bằng vốn ODA sẽ là chất “xúc tác” vừa có tác dụng trước mắt, vừa tạo sơ sở lâu dài để thu hút các nhà đầu tư quốc tế nhằm khai thác tiềm năng sẵn có của các địa phương này, vì mục tiêu phát triển kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân.
Ba là, cơ cấu sử dụng vốn ODA mặc dù đã dành nhiều cho giáo dục, đào tạo nhưng vẫn chưa đủ, hiệu qủa sử dụng chưa cao. Kết quả là chúng ta vẫn thiếu nhiều lao động có trình độ.
Bảng 2: Xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI trong tổng kim ngạch cả nước
Đơn vị: Triệu USD
Năm
1995 – 2000
2001
2002
2003
2004
Cả nước
57.161
15.027
16.500
19.980
26.003
DN FDI
10743
3.560
4.500
10.000
14.267
Tỷ lệ %
18,8
23,7
27,3
50,0
54,8
Nguồn: tổng hợp từ Bộ Kế hoạch & Đầu tư và Bộ Thương mại
Bốn là, chúng ta đã thực hiện vay vốn ODA của các tổ chức tài chính quốc tế hơn một thập kỷ qua, lượng vốn vay cam kết đã lên đến con số 25 tỷ USD nhưng công tác đánh giá, đúc rút kinh nghiệm sử dụng vốn ODA vẫn chưa được tiến hành một cách tổng thể. Việc đo lường hiệu qủa sử dụng vốn ODA và xác định nguồn trả nợ vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Vấn đề này thực đáng lo ngại đối với Việt Nam khi mà thời gian trả nợ ODA đã bắt đầu.
Nguyên nhân của những bất cập trên đây có nhiều, cả về phía chủ quan và phía khách quan. Để tháo gỡ vấn đề, theo chúng tôi nên triển khai một số công tác sau:
Thứ nhất, cần sớm có quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội đất nước dài hạn.
Việc thiếu quy hoạch phát triển kinh tế xã hội đất nước một cách đồng bộ và dài hạn (khoảng 50 năm) trong thời gian gần đây đã được cấp, các ngành tổng kết báo cáo là một trong những nguyên nhân rất lớn gây khó khăn, cản trở trong phát triển nói chung, tạo ra những lãng phí trong sử dụng các nguồn, trong đó có cả nguồn vốn ODA và FDI. Nhiều công trình sử dụng vốn ODA dỡ bỏ hoặc chậm trễ thi công vì nhiều nguyên nhân, nhiều công trình hoàn thành đưa vào sử dụng nhưng phát huy hiệu quả thấp vì đồng bộ do chưa có quy hoạch...
Ở Việt Nam trong thời gian gần đây, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội còn ở tầm ngắn và trung hạn (dài nhất mới chỉ là 20 năm), các quy hoạch còn thếu đồng bộ. Theo chúng tôi, cần phải có sự đổi mới mạnh mẽ trong công tác xây dựng quy hoạch theo hướng tổng thể (trên phạm vi toàn quốc gia) và dài hạn. Sau khi bản quy hoạch phát triển kinh tế xã hội tổng thể và dài hạn hoàn thành, Quốc hội nên công bố chúng bằng một đạo luật. Quy hoạch tổng thể sẽ là một định hướng tốt cho công tác vận động vốn ODA và nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn FDI.
Thứ hai, cần có chiến lược thu hút và sử dụng ODA và FDI trong từng giai đoạn một cách đồng bộ, hợplý, gắn chặt với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của thời kỳ đó. Các chiến lược phát triển cụ thể là các bước đi cần thiết để đạt được mục tiêu tổng thể mà kế hoạch dài hạn đã vạch ra. Chiến lược phát triển có thể được thiết kế trong khoảng thời gian 5, 10 hay 20 năm phù hợp với từng ngành, vùng. Trong đó, chiến lược thu hút và sử dụng các nguồn vốn ODA và FDI nên theo hướng: i) Nằm trong tổng thể nhu cầu vốn phát triển kinh tế xã hội của đất nước; ii) Xác lập được danh mục ưu tiên sử dụng vốn ODA và dự án kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài theo ngành và vùng kinh tế với các khối lượng cần thiết, cụ thể; iii) Đề xuất được định hướng thu hút vốn từ các đối tác quốc tế, trong đó có xác định rõ đối tác chiến lược; iv) Đưa ra được các chính sách và giải pháp ưu tiên và khuyến khích thu hút và sử dụng vốn tương đối ổn định trên nhiều giác độ như miễn giảm thuế, ưu đãi giá thuê đất...; v) Nêu rõ các biện pháp về quản lý và thực hiện trả nợ nước ngoài.
Thứ ba, tiếp tục ưu tiên sử dụng vốn ODA cho các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, giáo dục, đào tạo và y tế. Tăng cường kiểm soát quá trình sử dụng vốn, tránh thất thoát và thường xuyên đánh giá tính hiệu quả xét cả về mặt kinh tế và xã hội của các dự án khi hiệu quả sử dụng vốn ODA cao hơn so với các nguồn tài trợ khác. Trong khâu đàm phán nên xác định rõ cơ quan chịu trách nhiệm quản lý vốn vay và nguồn trả nợ.
Thứ tư, cần đề ra chính sách ưu đãi cụ thể và thiết thực hơn nhằm khuyến khích các doanh nghiệp FDI thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu nhằm tạo cơ sở vững chắc cho công tác trả nợ. Nhưng không nên quy định cứng nhắc khiến cho các biện pháp ưu đãi có tác động ngược chiều trở thành các rào cản đầu tư.
Thứ năm, cần có biện pháp thiết thực kêu gọi vốn ODA song phương từ các nước có nhiều dự án FDI ở Việt Nam. Khi Việt Nam thoát khỏi nhóm các nước nghèo và kém phát triển, vốn ODA đa phương do các tổ chức tài chính quốc tế tài trợ sẽ giảm đi nhanh chóng. Do đó, cần có định hướng vận động ODA song phương ngay từ bây giờ, và nên hướng vào các nước có nhiều dự án FDI hiện đang hoạt động tại Việt Nam. Cần có những giải pháp ưu đãi cho các dự án FDI của các nước tài trợ nhiều vốn ODA cho Việt Nam. Các chính sách này phải được sử dụng thật khéo léo, không để xảy ra hiện tượng các nhà đầu tư quốc tế so bì về tính không công bằng trong chính sách đối Chính phủ Việt Nam.
(Nguồn: Tạp chí Kinh tế và Phát triển số 110, tháng 8/2006)
KẾT LUẬN
Ở Việt Nam hiện nay việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài đang được thực hiện dưới bốn hình thức cơ bản là viện trợ ODA, tín dụng thương mại, vốn đầu tư trực tiếp FDI, tín phiếu, trái phiếu, cổ phần, cổ phiếu trong đó FDI và ODA là hai nguồn quan trọng nhất . Đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài đang là một bộ phận quan trọng trong quan hệ kinh tế thế giới và là nhân tố quan trọng hàng đầu của nhiều nước nhằm hỗ trợ và giúp đỡ các nước nghèo phát huy được những lợi thế cạnh tranh của mình để rút ngắn được thời gian phát triển hơn nữa. Trong điều kiện quốc tế hóa, toàn cầu hóa như hiện nay nhu cầu đầu tư đang trở nên vô cùng cần thiết trước cuộc cách mạng khoa học công nghệ và phân công lao động quốc tế ngày càng gia tăng. Nhất là đối với các nước đang phát triển, nguồn vốn đầu tư nước ngoài đang là một nhân tố quan trọng trong việc hỗ trợ phát triển và tăng trưởng. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài giúp các nước nghèo có khả năng tập trung vào phát huy được các ngành thế mạnh của mình và kế thừa được thành tựu khoa học công nghệ của các nước đi trước. Bên cạnh đó đầu tư nước ngoài cũng là một trong các chỉ số quan trọng để đánh giá khả năng phát triển của một quốc gia cũng như tiềm năng của quốc gia đó trong việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài một cách hiệu quả.
Đất nước ta tiến hành công cuộc CNH-HDH, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa từ điểm xuất phát rất thấp về kinh tế, khoa học công nghệ, kỹ năng quản lý kém, đất nước nghèo nàn lạc hậu…Đảng và nhà nước ta đã đề ra được mục tiêu tổng quát là phải thoát ra được nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, ổn định tình hình kinh tế xã hội, chính trị, phấn đấu đưa đất nước vượt qua được tình trạng kém phát triển, đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng an ninh… Tất cả những mục tiêu trên nhằm tạo điều kiện cho đất nước phát triển hơn vào đầu thế kỷ IXX. Tuy nhiên để đạt được những mục tiêu trên không phải dễ dàng, nó đòi hỏi phải có nhiều biện pháp kết hợp để có thể nâng cao sức hấp dẫn và năng lực quản lý thực hiện dự án đầu tư từ đó đẩy mạnh khả năng thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư. Các quốc gia trên thế giới đặc biệt là các quốc gia đang phát triển đang đẩy mạnh khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài và Việt Nam đang là một trong số đó. Cuộc vận động thu hút đầu tư nước ngoài đang là hoạt động mới tại Việt Nam và nó đang được triển khai trong bối cảnh cạnh tranh rất gay gắt từ các nước khác trên thế giới do nhu cầu về vốn đầu tư rất cao, nó vượt xa dòng vốn đầu tư hiện có.
Đầu tư nước ngoài không phải là nhân tố duy nhất quyết định đến công cuộc CNH- HDH của đất nước. Nó cần phải kết hợp với rất nhiều các yếu tố khác để phát triển được các nguồn lực của đất nước. Môi trường đầu tư, đó là tổng thể các yếu tố liên quan đến điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, pháp luật…tạo nên những điều kiện thuận lợi và ưu thế cho các quốc gia thu hút một cách tốt nhất nguồn vốn bên ngoài.Tất cả các biện pháp hiện nay đang được nước ta thực hiện nhằm thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài như là luật đầu tư nước ngoài thông thoáng cởi mở, luật xuất nhập cảnh tạo điều kiện dễ dàng cho các nhà đầu tư đi lại, cư trú hành nghề và các chính sách ưu đãi khác…Quốc gia nào có môi trường đầu tư thuận lợi, thông thoáng sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài hơn, đặc biệt là khả năng sử dụng nguồn vốn một cách hiệu quả để đạt được các mục tiêu tăng trưởng sẽ có ưu thế cạnh tranh hơn rất nhiều trong con mắt của các nhà đầu tư.
Tuy nhiên không phải có nhiều vốn đầu tư nước ngoài thì nước đó sẽ phát triển nhanh và tăng trưởng mạnh. Chỉ khi nào nguồn vốn được sử dụng và phát huy hết hiệu quả của nó thì nó mới có ý nghĩa thiết thực trong việc hỗ trợ phát triển của một đất nước. Vì vậy chúng ta cần phải nâng cao được năng lực quản lý dự án đầu tư cũng như hiệu quả sử dụng vốn một cách hiệu quả nhất để có thể thu hút được nhiều hơn nữa vốn đầu tư để từ đó tập trung phát huy được tối đa sức mạnh của đất nước. Chúng ta phải triển khai nhiều hơn nữa các biện pháp nhằm nâng cao khả năng của đất nước trong cạnh tranh cũng như sử dụng nguồn vốn, đây cũng là một vấn đề được các cấp lãnh đạo quan tâm đến hiện nay.
Do thời gian và trình độ còn hạn chế nên bài viết của em không thể tránh khỏi những sai lầm và thiếu sót, em rất mong được sự giúp đỡ của cô để có thể hoàn thành tiểu luận của em một cách hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn cô trong thời gian qua đã đóng góp cho em nhiều ý kiến bổ ích để em có thể hoàn thành tốt bài tiểu luân của em.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7360.doc