Mở đầu
Nền kinh tế nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) đã đề ra đương lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ trương này được Đại hội VII, VIII, IX của Đảng tiêp tục khẳng định và bổ sung, và làm rõ thêm. Trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế nh
30 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1318 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iều thành phần, Đảng ta luôn khẳng định thành phần kinh tế Nhà nước mà cốt lõi là hệ thống doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là lực lượng vật chất quan trọng và công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, hơn 10 năm qua, từ năm 1991 đến nay, Chính phủ đã đẩy mạnh công cuộc đổi mới và tiến hành sắp xếp lại thành phần kinh tế quốc doanh nhằm nâng cao hiệu quả của khu vực này. Kết quả là kinh tế nhà nước đã vượt qua những thử thách, đứng vững và không ngừng phát triển, góp phần quan trọng vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước; đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, chuyển sang thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Tuy vậy vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường Đại hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay vẫn là vấn đề bức xúc. Vì vậy, việc tăng cường nghiên cứu vấn đề này là việc làm hết sức cần thiết. Với ý nghĩa đó, em chọn đề tài “Kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” làm đề tài Đề án kinh tế chính trị của mình. Tuy nhiên do có những hạn chế về trình độ, nhận thức, nguồn thông tin… nên những vấn đề được đề cập trong đề án này không tránh khỏi những thiếu sót.
Với ý thức cầu thị, em rất mong nhận được sự giúp đỡ, chỉ dẫn của thầy về những thiếu sót trong quá trình thực hiện đề tài. Em xin chân thành cảm ơn.
Phần nội dung
I. Tính tất yếu của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa .
1. Lý luận chung về kinh tế nhà nước.
Để xem xét một thành phần kinh tế nhà nước với tư cách là một quan hệ sản xuất trong đó quan hệ sở hữu có vai trò quyết định còn quan hệ quản lý và quan hệ phân phối có vai trò tác động tích cực. Trong nền kinh tế nhiều thành phần thì các quan hệ sở hữu không tồn tại dưới dạng thuần khiết cô lập mà chúng đan xen nhau. Dể xem xét một tổ chức kinh tế thuộc thành phần kinh tế nào, cần phải xem xét cụ thể lực lượng kinh tế nào kiểm soát và chi phối chúng.
Thành phần kinh tế nhà nước dựa trên cơ sở quan trọng là sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất. Ta phân biệt nhà nước với tư cách một lực lượng kinh tế kiểm soát nền kinh tế theo nguyên tắc của thị trường với nhà nước là một lực lượng chính trị với các phương tiện vật chất đảm bảo cho sự thống nhất đó, do vậy các cơ quan hành chính sự nghiệp không phải thành phần kinh tế nhà nước. Chỉ có sở hữu nhà nước với tư cách là một lực lượng kinh tế một chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường mới là sở hữu thuộc thành phần kinh tế nhà nước. Với quan niệm như vậy, thành phần kinh tế nhà nước bao gồm các yếu tố cấu thành như sau:
Yếu tố thứ nhất là hệ thống các doanh nghiệp nhà nước. Đây là các tổ chức kinh tế mà chủ sở hữu của nhà nước có thể là 100% hay chỉ là cổ phần khống chế, cổ phần đặc biệtcó quyền phủ quyết. Nhưng điểm cốt lõi của nó là nhà nước thông qua các đại diện sở hữu của mìnhtiến hành kiểm soát chi phối hoạt động của doanh nghiệp nhằm lấy đó làm công cụ can thiệp tích cực vào nền kinh tế, định hướng những cân đối lớn và hiệu quả chung.
Yếu tố thứ hai là hệ thống tài chính của nhà nước. Do nhà nước có vai trò trong đảm bảo công bằng nên tài chính nhà nước trở thành lực lượng kinh tế đáng kể. Từ ngân sách nhà nước có thể hình thành các luồng tài chính khác nhau nhưcho vay tín dụn, đầu t vào các doanh nghiệp không phải doanh nghiệp nhà nước để sinh lời, trợ cấp xã hội… Một phần tài chính nhà nước kể cả chi tiêu ngân sách thường xuyên trở thành lực lượng kinh tế lớn
Yếu tố thứ ba là hệ thống dự trữ, tài nguyên, đất đai, vùng biển, vùng trời thuộc quyền sở hữu nhà nước. Qua sự sở hữu đã làm cho nhà nước thực sự là chủ thể kinh tế mạnh không chỉ có khả năng tham gia vào các quá trình kinh tế mà còn có thể đóng vai trò điều tiết định hướng và kiểm soát các quá trình kinh tế đó.
Yếu tố thứ tư là hệ thống dịch vụ nhà nước kể cả dịch vụ thu phívà dịch vụ không thu phí như dịch vụ của ngân hàng nhà nước, dịch vụ hải quan, dịch vụ thị trường vốn… Với việc cung cấp các dịch vụ này làm cho tiềm lực kinh tế của nhà nước được nâng lên bội phần.
Như vậy, thành phần kinh tế nhà nước được hiểu theo nghĩa rộng rãi hơn nhiều so với quan niệm cho rằng chỉ nên giới hạn thành phần kinh tế ở các doanh nghiệp nhà nước. Với cách hiểu như vậy ta có thể đồng thời tái sản xuất được trong quá trình sản xuất và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong đó doanh nghiệp nhà nước là cốt lõi; giữ vị trí then chốt, đi đầu trong ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế – xã hội và chấp hành pháp luật
2. Tính tất yếu giữ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Trong quá trình thực hiện nền kinh tế nhà nước nhiều thành phần, Đảng ta luôn khẳng định nền kinh tế nhà nước mà cốt lõi là hệ thống doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là lực lượng vật chất quan trọng và công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Về mặt lý luận, vai trò chủ đạo do thành phần kinh tế đại diện cho phương thức sản xuất mới đang dần thay thế phương thức sản xuất cũ đảm nhiệm. Trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vai trò chủ đạo tất yếu được đặt lên vai thành phần kinh tế nhà nước.
Phương thức sản xuất chủ nghĩa mà chúng ta đang hướng tới sẽ là sự giải phóng quảng đại quần chúng nhân dân lao động khỏi áp bức bóc lột. Do đó nhà nước và thành phần kinh tế nhà nước đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động. Khác với thành phần kinh tế khác, thành phần kinh tế nhà nước xã hội chủ nghĩa chỉ có thể xuất hiện khi đa số nhân dân lao động giành được quyền chiếm hữu dưới hình thái nhà nước chứ không phải dưới hình thái một giai cấp. Có nghĩa là ẩn sau hình thái nhà nước thành phần kinh tế nhà nước ở nước ta vẫn còn chế độ sở hữu toàn dân, chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa.
Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần nhà nước không chỉ đại diện cho lợi ích nhân dân lao động mà còn đại diện cho lợi ích quốc gia. Về mặt kinh tế lợi ích của một quốc gia biểu hiện trước hết ở khả năng giải phóng sức sản xuất hiện có, ở việc sử dụng tốt nhất các nguồn lực và việc đem kết quả của việc sử dụng tốt nhất các nguồn lực phục vụ cho công dân nước mình. Do vậy nhà nước đã chủ trương tạo môi trường bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế cùng phát triển. Tuy nhiên đảng ta cũng khẳng định “Tiếp tục đổi mới và phát triển co hiệu quả kinh tế nhà nước dể làm tốt vai trò chủ đạo : Làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường hướng dẫn,hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý kinh tế vĩ mô, tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới”. Như vậy kinh tế nhà nước có khả năng điều tiết, chi phối hoạt động của các thành phần kinh tế khác, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo hướng đã định.
Với tổng thể tiềm lực kinh tế của mình, kinh tế nhà nước đủ sức trở thành lực lượng đi tiên phong trong công nghiệp hóa hiện đại hóa nhằm mở ra những phạm vi rộng lớn cho lực lượng sản xuất phát triển,và do đó có ưu thế hơn hản các thành phần kinh tế khác. Mặt khác thông qua vai trò điều tiết, định hướng, dẫn dắt, thành phần kinh tế nhà nước góp phần chi phốivà biến đổi các thành phần kinh tế khác trong quỹ đạo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế nhà nước giữ vững những vị trí then chốt, xương sống của nền kinh tế, chiếm tỉ trọng lớn trong tổng sản phẩm trong nước, trong thu ngân sách, kim ngạch xuất khẩu và công trình hợp tác đầu tư với nước ngoài. Do vậy đã thực hiện và giữ gìn trên thực tế bản chất xã hội chủ nghĩa của nhà nước.
Ngoài ra trong nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay, cũng có những doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò độc quyền nhất định giúp cho hệ thống kinh tế vừa theo đuổi lợi nhuận, vừa đạt hiệu quả xã hội và quốc phòng an ninh. Các doanh nghiệp nhà nước còn tập trung xây dựng những ngành trọng điểm, là nơi được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Doanh nghiệp nhà nước còn hoạt động ngoài mục tiêu lợi nhuận, đó là những mục tiêu xã hội như quốc phòng an ninh, ý nghĩa nhân đạo… Doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực này giúp nâng cao phúc lợi xã hội, khắc phục sự khác biệt giữa các vùng qua đó làm tăng tinh thần hòa hợp cộng đồng và ý thức đoàn kết dân tộc.
Một trong bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ rõ trong Đại hội IX: “Tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới”. Do vậy kinh tế nhà nước là thành phần tất yếu giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân phải gánh vác những vai trò nhiệm vụ hết sức nặng nề.
3. Vai trò của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trong hơn 10 năm qua, Đảng và nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp tích cực nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước. Trong bối cảnh kinh tế phức tạp, nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn gay gắt. Kinh tế nhà nước mà cốt lõi là doanh nghiệp nhà nước đã vượt qua những thử thách đứng vững và không ngừng phát triển, góp phần quan trọng vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước.Đưa nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội, chuyển sang thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3.1. Tính hai mặt trong vai trò kinh tế nhà nước.
Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được biểu hiện khá rõ ràng:
-Trước tiên, về mặt lương mà nói thì kinh tế nhà nước phải nắm bắt được một số lượng cần thiết bắt buộc các nguồn lực quan trọng là tài sản công và doanh nghiệp. Tài sản công hữu do nhà nước nắm và kinh tế nhà nước tạo ra phải chiếm ưu thế so với tổng số tài sản xã hội, và phải là lực lượng mở đường làm vai trò đầu kéo, hướng dẫn các thành phần kinh tế khác.
-Về mặt chất thì kinh tế nhà nước nắm được những ngành kinh tế, lĩnh vực hoạt động trọng yếu nhất có liên quan đến huyết mạch của nền kinh tế quốc dân, có tác dụng chủ đạo đối với xã hội, trong điều kiện cần thiết, khi mà kinh tế hàng hóa phát triển cao, kinh tế thị trường chưa đủ sức điều tiết thì kinh tế nhà nước là lực lượng đủ mạnh để có thể can thiệp kịp thời cho sự cân đối của nền kinh tế.
Nhìn lại hệ thống các doanh nghiệp nhà nước trong toàn quốc cũng như doanh nghiệp nhà nước ở các địa phương về các mặt như quy mô tài sản, sự đóng góp GDP, sự đóng gop vào tốc độ phát triển chung của nền kinh tế, sự nắm giữ các ngành kinh tế quan trọng (kể cả kinh tế quốc doanh độc quyền)… thì thấy được mặc dù có sự phân bố hẹp về số lương nhưng mức tăng trưởng của các doanh nghiệp nhà nước gần ngang bằng với mức tăng trưởng của nền kinh tế; và vị trí vai trò của doanh nghiệp nhà nước vẫn rất quan trọng và to lớn kết quả hoạt động của nó có tính quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội.
3.2. Vai trò chính trị của kinh tế nhà nước.
Mỗi chế độ xã hội bao giờ cũng có một phương thức sản xuất thống trị. Đó là một sự thật đã từng và sẽ tồn tại trong lịch sử. Trên cơ sở kinh tế đó mà dựng lên một thượng tầng kiến trúc, quan trọng nhất là chế độ chính trị thích hợp với nó. Các nhà lí luận và chính khách tư sản cũng tuyên bố công khai chế độ kinh tế của họ là chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa rằng quyền tư hữu là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm. chỉ có một chế độ kinh tế như vậy và chế độ chính trị thích ứng với nó mới đảm bảo quyền làm chủ của giai cấp tư sản.
Chúng ta đã lựa chọn chế độ chính trị. Là chế đọ xã hội chủ nghĩa kết quả tất yếu của một quá trình lịch sử đấu tranh lâu dài của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng; thì logic dẫn đến phải có mặt cơ sở kinh tế như trên để đảm bảo định hướng chính trị. đã lựa chọn
Nếu không xây dựng được một cơ sở kinh tế mà nền tảng kinh tế là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể vững chắc thì chế độ chính trị. đó sẽ không đứng vững, như tòa nhà dựng trên nền móng yếu. Chúng ta quyết tâm xây dựng một nền tảng như vậy, từ yếu tố thành mạch, từ yếu tố ít hiệu quả ít hiệu quả đến hiệu quả hơn.
Các doanh nghiệp nhà nước là những doanh nghiệp có tính xương cốt của nền kinh tế, hệ thônhg đó có vai trò định hướng chính trị. Xã hội cho toàn bộ nền kinh tế. Chúng ta xác định xây dựng chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa, mặc dù khuyến khích phát triển kinh tế nhiều thành phần nhưng vai trò của mỗi thành phần kinh tế à không giống nhảutong việc xây dựng chế độ xã hội mới. Các doanh nghiệp nhà nước phải nắm giữ những vị trí quan trọng nhất, những tài chỉ huy của nền kinh tế, điều chỉnh được các thành phần kinh tế khác và giữ quyền chi phối quyết định thuộc về nhà nước đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước.
Tất nhiên chúng ta phải ngày càng nâng cao tính hiệu quả của kinh tế nhà nước, làm nó ngày cacngf đóng vai trò thúc đẩy các thành phần kinh tế khác và toàn bộ kinh tế phát triển.
3.3. Vai trò kinh tế xã hội của thành phần kinh tế nhà nước.
Nghị quyết Đại hội lần thứ 3 ban chấp hành TW Đảng khóa IX đã xác định “ Doanh nghiệp nhà nước đã chi phối được các ngành, các lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế; góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế xã hội, tăng thế và lực cho đất nước. Doanh nghiệp nhà nước chiếm tỉ trọng lớn trong tổng sản phẩm trong nước, trong tổng thu ngân sách,kim ngách xuất khẩu và công trình hợp tác đầu tư với nước ngoài, là lực lượng quan trọng trong thực hiện chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai, đảm bảo nhiều sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, an ninh. Doanh nghiệp nhà nước ngày cacngf thích ứng với cơ chế thị trường, năng lực sản xuất tiếp tực tăng; cơ cấu ngày càng hợp lí hơn, trình độ công nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ; hiệu quả và sức mạnh cạnh tranh từng bước được nâng cao, đời sống người lao động từng bước được cải thiện hơn.
Doanh nghiệp nhà nước lại là lực lượng nòng cốt trong thành phần kinh tế nhà nước. Do vậy ta có thể khẳng định: thành phần kinh tế nhà nước có vai trò hết sức to lớn trong nền kinh tế đặc biệt là trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò đó được thể hiện qua nội dung sau:
Thứ nhất: Kinh tế nhà nước nó chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng giữ những vị trí then chốt nhất, đài chỉ huy, bánh lái của nền kinh tế. Mỗi quốc gia khi pất hiện chế độ kinh tế xã hội của mình đều phải xây dựng hệ thống các doanh nghiệp xương cốt của nền kinh tế. Việcnắm giữ những ngành trọng yếu đó để điều chỉnhnền kinh tế; đảm bảo tính định hướng chính trị. cho toàn bộ nền kinh tế; giúp cho nền kinh tế theo đúng mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai: Kinh tế nhà nước đảm bảo những điều kiện phát triển, đảm bảo cân đối cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. sứ mạng đó thể hiện trước hết kinh tế nhà nước mà cụ thể doanh nghiệp nhà nước nắm giữ gần như toàn bộ ngành công nghiệp điện lực; khai thác than; dầu khí; khai thác khoáng các loại; điện kim, sản xuất xi măng, phân bón, thuốc trừ sâu, vận tải đướng sắt, đường không, đường biển, thông tin bưu điện viễn thông, công nghiệp quốc phòng, một phần quan trọng nhất của cơ khí chế tạo… Nghĩa là hầu hết các ngành, các lĩnh vực then chốt, xương sống của nền kinh tế, hoặc những cơ sở hạ tầng dịch vụ quan trọng nhất đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động đều nằm trong doanh nghiệp nhà nước nói chung và kinh tế nhà nước nói riêng chưa kể trong lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng, kinh tế nhà nước cũng giữ vị trí chủ lực trên nhiều mặt, nhiều sản phẩm chủ yếu trực tiếp phục vụ đời sống hàng ngày của nhân dân.
Thứ ba: Kinh tế nhà nước phải đảm bảo nhận những trách nhiệm, những nhiệm vụ xã hội lớn, đồng thời thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các vùng lạc hậu. Với mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội mang lại những điều tốt đẹp cho con người và vì con người những nghĩa vụ xã hội đặt ra cho nhà nước không chỉ rất năng nề mà ngay trong mỗi bước phát triển của những nhiệm vụ đó phải từng bước được giải quyết. Hơin nữa do đặc thù của đất nước vừa trải qua cuộc kháng chiến lâu dài và gian khổ; ác liệt, chịu bao hi sinh và mất mát trong chiến tranh, hàng triệu thương binh, gia đình liết sĩ, những vùng căn cứ cách mạng, những vùng sâu, vùng xa nhiều khó khăn… Tất cả đòi hỏi nhà nước phải có chính sách đãi ngộ, có sự quan tâm giúp đỡ. Đặc biệt trong lĩnh vực công ích, những lĩnh vực phục vụ cho tòan bộ nền kinh tế quốc đânh bình thường như: kết cấu hạ tầng, vận tải hàng hóa… hoặc đảm bảo cho an ninh quốc phòng… Với các lĩnh vực này không thể kinh doanh đơn thuần nhằm mục tiêu lợi nhuận. Đảm bảo các mục tiêu xã hội và nhiệm vụ phổ biến của kinh tế nhà nước ở hầu hết các nước trên thế giới. Nhưng có thể nói ở nước ta, nhiệm vụ đó cũng nặng nề, khó khăn và cũng gay gắt hơn. Điều đó do điều kiện lịch sử đặc rhù và định hướng con đường phát triển của chunhgs ta chi phối
Thứ tư: Kinh tế nhà nước cụ thể là các doanh nghiệp nhà nước góp phần quan trọng vào tích lũy, đóng góp vào gân sách nhà nước, tổng sản phẩm trong nước, kim ngạch xuất khẩu và công trình hợp tác đầu tư với nước ngoài (năm 2000 đóng góp 39,5% GDP, 39,2% tổng thu ngân sách, trên 50% kim ngạch xuất khẩu cả nước)
Thứ năm: Kinh tế nhà nước của ta còn có sứ mênh rất lớn là tạo điều kiện và thúc đẩy toàn bộ quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mac-Lênin đã nói rất nhiều đến vai trò quyết định của công nghiệp trong quá trình cải tạo nông nghiệp và các ngành kinh tế khác. Đặc biệt ở nước ta từ sản xuất nhỏ, lạc hậu, nông nghiệp đi lên sản xuất lớn xã hội xn thì vai trò của công nghiệp càng to lớn. Vai trò của kinh tế nhà nước trong sự ngiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóađược thể hiện trên bốn yếu tố sau:
+ Cung cấp những trng thiết bị cho các ngành kinh tế trong quá trình phát triển và hiện đại hóa các thiết bị cho các ngành, các thành phần đó. Đương nhiên trong điều kiện hiện nay có vai trò của ngoại thương, của hợp tác quốc tế trong việc mua bán các thiết bị tiên tiến của nước ngoài. Nhưng vai trò của kinh tế nhà nước nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói rieng vẫn hết sức to lớn. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp nhà nước không ngừng đổi mới thực hiệnhiện đại hóa thiết bị của mình.
+ Kinh tế nhà nước là nhân tố kích thích, tác động vào các ngành, các thành phần kinh tế thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa. Đồng thời là tấm gương là hiện thân của trình độ tổ chức cao, của kĩ thuật hiện đại, của quản lý tiến bộ với các ngành các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế. Để thể hiện vai trò này, kinh tế nhà nước phải thực sự trở thành tấm gương sáng.
+ Kinh tế nhà nước mà cụ thể là doanh nghiệp nhà nước đóng góp tích lũy vào ngân sách nhà nước, tham gia vào thị trường tiền tệ, chứng khoán, tạo ra nguồn vốn để đầu tư vào các thành phần kinh tế. Đồng thời là nơi đào tạo, rèn luyện, bồi dưỡng lực lượng lao động kĩ thuật, lao động lành nghề, cán bộ quản lý cho các ngành, các thành phần kinh tế
+ Kinh tế nhà nước mà cụ thể là doanh nghiệp nhà nước trực tiếp là đối tác liên doanh, hợp tác thu hút vốn kĩ thuật, công nghệ tiên tiến của các nước để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nền kinh tế.
Thứ sáu: Trong điều kiện phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, thành phần kinh tế nhà nước còn là công cụ trong taynn, là hạt nhân nòng cốt trong việc liên doanh, liên kết, lôi cuốn các thành phần kinh tế khác vào quỹ đạo đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là vai trò, là sứ mệnh hết sức quan trọng của kinh tế nhà nước. Chủ trương đổi mới đúng đắn của Đảng và những biện pháp kịp thời của nhà nước về phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, chuyển sang kinh doanh trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã làm sống lại nền kinh tế và đã đưa đến những kết quả to lớn đó. Nhưng các thành phần kinh tế đó với bản chất kinh tế vốn có của nó nếu không có những tác động điều chỉnh có hiệu lực hình thànhì những yếu tố tự phát sẽ trỗi dậy và hậu quả sẽ khó lường hết được. Tuy nhiên thành phần kinh tế nhà nước luôn là đội quân chỉ huy hùng mạnh dược nhà nước sử dụng để tác động và điều khiển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Đay không chỉ đơn thuần là vai trò về kinh tế kĩ thuật mà có ý nghĩa của nó lớn hơn nhiều. Vượt ra ngoài phạm vi của những yếu tố kinh tế kĩ thuật.
Xác định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước theo những nội dung trên đây sẽ giúp chúng ta định hướng đúng việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, tổ chức kinh tế nhà nước hiện có, định hướng cho đầu tư của ngân hàng nhà nước và thiết lập các định chế yểm trợ cho sự phát triển chung.
II. Thực trạng của kinh tế nhà nước trong quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta.
1. Những mặt tích cực của kinh tế nhà nước trong thời gian qua.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, hơn 10 năm qua, hơn 10 năm qua từ năm 1991 đến nay Chính phủ đã đẩy mạnh công cuộc đẩy mạnh thành phần kinh tế nhà nước, trong đó cốt lõi là hệ thống doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả của thành phần kinh tế này.
Trong bối cảnh thế giới có nhiều phức tạp và nền kinh tế còn nhiều khó khăn gay gắt, kinh tế nhà nước đã vượt qua những thử thách, đứng vững và không ngừng phát triển, góp phần lớn vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, chuyển sang thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Như hội nghị lần thứ ba ban chấp hành TW Đảng khóa 9 đã khẳng định: Doanh nghiệp nhà nước đã chi phối được các ngành, lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế; góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thựcc hiện được vai trò chủ đạo,ổn định và phát triển kinh tế xã hội, tăng thế và lực của đất nước.
Trong hơn 10 năm qua kinh tế nhà nước nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng đã đạt được một số thành tựu cụ thể sau:
- Thứ nhất: giảm đáng kể số doanh nghiệp nhà nước ké hiệu quả và không cầnthiết nhưng khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn có tốc độ tăng trưởng cao, có đóng góp quan trọng vào nguồn thu ngân sách và tổn sản phẩm quốc nội.
Tính đến 5/2001 đã thu hẹp được hơn 50% số đầu mối các doanh nghiệp nhà nước, từ 12.300 doanh nghiệp xuống còn 5655 doanh nghiệp.
Tuy số doanh nghiệp nhà nước giảm xuống hơn 50%, song hệ thống doanh nghiệp nhà nước ngày càng được củng cố góp phần phát huy được vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Các doanh nghiệp nhà nước được tổ chức lại theo hình thức và cơ cấu: 17 tổng công ty 91; có76 tổng công ty 90 và trên 4000 doanh nghiệp nhà nước độc lập. Đến đầu năm 2000 cả nước đã sáp nhập 3100 doanh nghiệp, giải thể 3350 doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa 370 doanh nghiệp nhà nước. Nhờ vậy trình độ tích tụ và tập trung vốn trong doanh nghiệp nhà nước được nâng lên. Số doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới 1 tỉ đồng giảm, số doanh nghiệp nhà nước có vốn trên 10 tỉ tăng; sản xuất kinh doanh phát triển và hiệu quả được nâng lên rõ rệt. Tỉ trọng sản phẩm do các doanh nghiệp nhà nước đóng góp vào tổng sản phẩm trong nước, tổng thu ngân sách, kim ngạch xuất khẩu và hợp tác đầu tư nước ngoài liên tục tăng: năm 1991 là 36,5% GDP, năm 2000 đóng góp 39,5% GDP; 39,2% tổng thu ngân sách và trên 50% kim ngạch xuất nhập khẩu. Tỉ xuất lợi nhuận trên vốn nhà nước tăng từ 6,8% năm 1993 lên 12,3% năm 1998. Trong 5 năm 1991 – 1995 tốc độ tăng trưởng bình quân của kinh tế quốc doanh là 11,7%, gần gấp 1,5 lần tốc độ tăng trưởng bình quân của toàn bộ nền kinh tế và gần gấp 2 lần kinh tế ngoài quốc doanh. Trong giai đọan 1996 – 1999 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực và thiên tai liên tiếp xảy ra nên tốc độ tăng trưởng kinh tế nói chung giảm dần, song kết quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước vẫn cao hơn mức tăng trưởng của nền kinh tế, cụ thể năm 1998 GDP tăng gần 5%, trong khi tăng trưởng của các doanh nghiệp đạt 8% đến 9%.
-Thứ hai: đặi mới doanh nghiệp nhà nước làm giảm bớt những trợ cấp trực tiếp từ ngân sách nhà nước.
Trong thời kì 1998 – 2000 tỉ lệ các loại tài trợ của ngân sách nhà nước cho doanh nghiệp nhà nước dưới tất cẩ các dạng ( đầu tư cho xây dựng cơ bản, cấp vốn lưu động, bù lỗ, bù giá) tính trên GDP giảm từ 8,5% GDP xuống 0,5% GDP trong khi tỉ lệ đóng góp của doanh nghiệp nhà nước vào GDP lại tăng, từ 32,5% lên 39,5% GDP.
- Thứ ba: hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước được nâng cao hơn so với trước đây.
Điều này thể hiện ở việc tăng tỉ trọng doanh nghiệp nhà nước có lãi, giảm tỉ lệ doanh nghiệp thua lỗ, tăng số lãi tuyệt đối nói chung và lãi gộp ngân sách của doanh nghiệp nhà nước nói riêng, hiệu quả sử dụng vốn được nâng cao hơn.
+Số doanh nghiệp có lãi tăng, số doanh nghiệp thua lỗ giảm.
+hiệu quả sử dụng đồng vốn tăng lên: năm 1992 một đồng vốn nhà nước tạo ra 2,41 đồng doang thu, 0,07 đồng lợi nhuận, 0,18 đồng nộp ngân sách thì đến năm 2000 một đồng vốn nhà nước đã tạo ra 3,9 đồng doanh thu, 0, 4 đồng lợi nhuận, và 0,35 đồng nộp ngân sách. Tỉ suất lợi nhuận trên vốn đạt 19,8% trên doanh thu đạt 5,5%.
+ Mặc dù thuế suất của thuế lợi tức giảm song tỉ lệ thuế lợi tức trong tổng thu ngân sách của doanh nghiệp nhà nước tăng.
+Tuy nhiên nếu so sánh doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì tỉ suất lợi nhuận trên doanh thu của doanh nghiệp nhà nước còn thấp hơn rất nhiều so với tỉ lệ này của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Thứ tư: Quan hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước với doanh nghiệp nhà nước đã thay đổi theo hướng phân định rõ quyền quản lý nhà nước với quyền quản lý kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Tăng quyền tự chủ và quyền sản xuất kinh doanh và về tài chính của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp nhà nước từ đơn vị mang tính cấp phát sản xuất- giao nộp hoặc từ đưon vị hành chính sự nghiệp sang đơn vị kinh doanh có tư cách pháp nhân, tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của mình
+Phân định rõ quyền tự chủ của doanh nghiệp nhà nước đã dẫn đến việc giảm bớt sự can thiệp của các cơ quan nhà nước vào doanh nghiệp và đã giảm bớt số các cơ quan nhà nước, bộ chủ quản doanh nghiệp nhà nước, số lượng bộ chuyên ngành quản lý doanh nghiệp nhà nước đã giảm bớt.
+Hệ thống pháp luật về kinh tế đang được từng bước hoàn thiện, hệ thống pháp luật này đã bước đàu tạo ra những dòn bẩ kinh tế góp phần phát huy nội lực, đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng môi trường pháp lý an toàn, tạo điều kiện để các doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả. Hệ thống này cũng trở thành công cụ quan trọng để nhà nước quản lý điều tiết nền kinh tế bằng pháp luật.
-Thứ năm: Một số doanh nghiệp cổ phần hóa đã cho thấy xu hướng hoạt động có hiệu quả tốt hơn.
Kết quả bước đầu cho thấy các doanh nghiệp đã cổ phần hóa có kết quả hoạt động tốt hơn trước khi được cổ phần hóa. Các chỉ số lớn như doanh thu, tỷ lệ lợi nhuận, đóng thuế cho nhà nước và doanh thu cho người lao động đều tăng sau khi cổ phần hóa, hầu hết các doanh nghiệp này đều thu hút thêm lao động và huy động thêm nhiều vốn.
-Thứ sáu: Do ở nước ta nhà nước có vai trò to lớn trong việc đảm bảo công bằng nên tài chính nhà nước từng bước trở thành lực lượng kinh tế đáng kể, ngân sách nhà nước tăng, từ đó hình thành các nguồn vốn đầu tư vào các ngành, lĩnh vực khác nhau, một phần tài chính nhà nước, kể cả chi tiêu ngân sấch thường xuyên trở thành lực lượng kinh tế to lớn. Ngoài ra sở hữu đất đai, mặt biển, bầu trời cùng với dự trữ quốc gia đã làm cho nhà nước thực sự là chủ thể kinh tế mạnh không chỉ có khả năng tham gia vào quá trình kinh tế mà còn có thể đóng vai trò điều tiết, định hướng và kiểm soát các quá trình kinh tế đó.
Đạt được những kết quả trên là nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và nhà nước; sự chỉ đạo thực thiện kiên trì của Chính phủ và các cấp các ngành; sự cố gắng phấn đấu vượt qua khó khăn thử thách để vươn lên của cấc doanh nghiệp nhà nước của đội ngũ cán bộ quản lý và người lao động trong cơ chế mới.
Tuy nhiên , kinh tế nhà nước nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng còn nhiều mặt hạn chế yếu kém, có mặt rất nghiêm trọng.
2. Những mặt tồn tại, hạn chế của kinh tế nhà nước trong thời gian qua.
Nghị quyết hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành TW Đảng khóa IX đã xác định “ Doanh nghiệp nhà nước quy mô còn nhỏ, cơ cấu còn nhiều bất hợp lí, chưa thật tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt, nhìn chung trình độ kĩ thuật công nghệ lạc hậu, quản lý còn yếu kém, chưa thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh; kết quả sản xuất kinh doanh chưa tương xứng với nguồn lực đã có và sự hỗ trợ của đầu tư nhà nước, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp, nợ không có khả năng thanh toắntng lên, lao động thiếu việc làm và dôi dư còn lớn. Hiện nay doanh nghiệp nhà nước đang đứng trước thách thức gay gắt của yêu cầu đổi mới, phát triển và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Cụ thể kinh tế nhà nước mà cốt lõi là doanh nghiệp nhà nước có những hạn chế tồn tại sau:
Một là : Thành phần kinh tế nhà nước đã được điều chỉnh lại nhưng còn nhiều bất hợp lí:
Mặc du số doanh nghiệp nhà nước đã giảm đáng kể nhưng số doanh nghiệp nhà nước vẫn tiếp tục giàn trải ở một số ngành. Các địa phương đều có các doanh nghiệp nhà nước do địa phương quản lý. Đến năm 2000 cả nước có 5280 doanh nghiệp, trong đó bình quân mỗi doanh nghiệp chỉ có xấp xỉ 22 tỉ đồng, trong đó số doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỉ đồng chiếm khoảng 65,45%, số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỉ đồng chiếm 21%. Đặc biệt doanh nghiệp do địa phương quản lý, quy mô còn nhỏ bé hơn nhiều.Trong đó số doanh nghiệp có vốn 1 tỉ đồng còn chiếm tới hơn 30%.
Nhìn doanh nghiệp hoạt động chồng chéo về ngành nghề kinh doanh cấp quản lý. Doanh nghiệp nhà nước còn dàn trải trên tất cả các ngành nghề sản xuất kinh doanh đến thương mại, du lịch, dịch vụ gây tình trạng phân tán manh mún, nguồn vốn không thể tập trung vào những ngành lĩnh vực then chốt.
Hai là: trình độ kĩ thuật, công nghệ lạc hậudẫn đến năng lực cạnh tranh kém và thua thiệt trong việc hội nhập về kinh tế với khu vực và quốc tế.
Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước được trang bị máy móc thiết bịtừ nhiều nước và thuộc nhiều thế hệ khác nha, chủng loại khác nhau, má._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35845.doc