Lời mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
Liên bang Nga là một quốc gia rộng lớn nhất thế giới với diện tích bằng một phần sáu thế giới nằm trên hai châu lục, một đất nước giàu tài nguyên, dân số đông, nhưng gần đây tăng chậm. Một cường quốc về văn hóa và khoa học. Nền kinh tế trải qua nhiều biến động của thập kỉ 90 của thế kỉ XX nhưng đang dần lấy lại vị trí cường quốc. Liên bang Nga là thành viên chính của Liên bang Xô Viết (Liên Xô) đã dành những thành tựu về kinh tế, với sản lượng nhiều ngành đứng
57 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1850 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Kinh tế Liên bang Nga những năm đầu thế kỷ XXI. Quan hệ thương mại Việt-Nga, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đầu thế giới, trở thành siêu cường, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Nhưng bước sang thập kỉ 90 nền kinh tế – chính trị – xã hội gặp nhiều khó khăn, trở ngại lớn mà đỉnh điểm là sự tan rã của nhà nước Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô Viết vào năm 1991 dẫn tới các nước đòi tách ra trở thành các quốc gia độc lập. Nền kinh tế của Liên bang Nga cũng như các nước cộng hoà khác bước vào thời kỳ khủng hoảng (cả thập kỷ 90) của thế kỷ XXI. Nhưng từ sau năm 2000 nền kinh tế Nga đã bước vào kỷ nguyên mới, với những quyết sách đúng đắn, năng động, Tích cực của chính phủ, nền kinh tế tiếp tục đi lên để lấy lại vị trí cường quốc.
Sau khi Liên bang Xô Viết sụp đổ, Liên bang Nga với tư cách là người thừa kế địa vị pháp lý của Liên Xô cũ, từ đó quan hệ giữa Việt Nam và Liên bang Nga được nối tiếp mối quan hệ Việt – Xô trước đây, nhưng với những khó khăn chủ quan và khách quan, sau những năm 90 mối quan hệ này bị thu lại đột ngột, kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam sang Nga chỉ chiếm 2% bởi nhiều lý do cho nên phải tìm cách mở rộng mối quan hệ hợp tác này - Điều mà hai bên đặc biệt quan tâm trong những năm đầu thế kỷ XXI. Lịch sử quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga đã trải qua hơn một nửa thế kỷ. Tình hữu nghị giữa nhân dân Nga và nhân dân Việt Nam, được hình thành từ những năm tháng khó khăn khi Việt Nam còn đang đấu tranh giành tự do độc lập, đã vượt qua thử thách nặng nề. Ngày hôm nay chúng ta có thể tự hào nói rằng, trong những chiến thắng và thành quả lao động vinh quang của nhân dân Việt Nam có sự đóng góp không nhỏ của nước Nga anh em. Trong thời kỳ xây dựng hoà bình với sự giúp đỡ nhiều mặt về đào tạo, giáo dục, kinh tế, quốc phòng, khoa học… cho Việt Nam sau một thời gian tương đối ngắn đã xây dựng được hơn 300 công trình kinh tế quốc dân mà trong số đó cho đến nay vẫn đóng vai trò then chốt đối với nền kinh tế đất nước.
Quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga hiện trạng đang mang tính chất đối tác chiến lược. Điều đó được thể hiện qua những tiếp xúc chính trị thường xuyên – những chuyến thăm lẫn nhau giữa người đứng đầu chính phủ hai nước, sự phối hợp hành động giữa hai bộ ngoại giao (đặc biệt sau hai chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Liên Bang Nga V.Putin năm 2001 và chuyến thăm của thủ tướng nước ta Nguyễn Tấn Dũng tháng 9/ 2007). Mối quan hệ Việt – Nga là tiếp nối mối quan hệ Việt – Xô trước đây, và đã được nâng lên tầm cao mới đối tác chiến lược và lợi ích của hai bên hợp tác ngày càng cao, phát triển toàn diện: kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học, kỹ thuật, du lịch… Là sinh viên khoa Quan hệ Quốc tế, với mong muốn được hiểu kỹ hơn về nước Nga, một đất nước giàu có, hùng vĩ, một dân tộc tài năng với nền văn hoá và khoa học vĩ đại, người dân cần cù, tốt bụng, một cường quốc kinh tế và muốn mở rộng mối quan hệ hợp tác giữa Liên bang Nga với Việt Nam trong khung cảnh thế giớ hiện nay, chính vì lý do đó tôi đã chọn đề tài: Kinh tế Liên bang Nga những năm đầu thế kỷ XXI. Quan hệ thương mại Việt – Nga làm khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích và yêu cầu
Phân tích và đánh giá các nguồn lực tự nhiên và xã hội ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế Liên bang Nga.
Thực trạng nền kinh tế Liên bang Nga những năm đầu thế kỷ XXI và mối Quan hệ Thương mại Việt – Nga.
Đánh giá về triển vọng hợp tác Thương mại hai nước và đề xuất một số giải pháp thúc đẩy Quan hệ Thương mại Việt – Nga.
3. Giới hạn đề tài
Do thời gian nghiên cứu có hạn, vấn đề thì rộng và khó nên đề tài chỉ là bước đầu nghiên cứu về nền kinh tế Liên bang Nga những năm đầu thế kỷ XXI và mối Quan hệ Thương mại Việt – Nga.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp được áp dụng trong nghiên cứu đề tài:
Phương pháp thống kê.
Phương pháp so sánh.
Phương pháp phân tích, tổng hợp.
Phương pháp biểu đồ.
5. Cấu trúc đề tài
Gồm có ba phần:
Phần mở đầu.
Phần nội dung có ba chương:
+ Chương 1: Các nguồn lực tự nhiên và xã hội ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế Liên bang Nga.
+ Chương 2: Kinh tế Liên bang Nga những năm đầu thế kỷ XXI. Thực trạng quan hệ thương mại Việt – Nga.
+ Chương 3: Triển vọng và một số giải pháp thúc đẩy quan hệ thương mại Việt – Nga.
Phần kết luận.
Phần Nội Dung
Chương 1
Các nguồn lực tự nhiên và xã hội ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế Liên Bang Nga
1.1. Đất nước rộng nhất thế giới – nguồn tài nguyên khổng lồ
1.1.1. Đất nước rộng nhất thế giới
Liên bang Nga là quốc gia rộng lớn nhất trong 15 quốc gia thuộc Liên bang Xô Viết trước đây với diện tích 17.075.200 km2 có vị trí địa lý trải qua hai châu lục. Lãnh thổ trải dài trên phần lớn đồng bằng Đông Âu và 2/3 lãnh thổ nằm ở Bắc á. Liên bang Nga có đường biên giới dài xấp xỉ chiều dài đường xích đạo, hơn 40.00km, đất nước trải dài trên 11 múi giờ. Tiếp giáp với nhiều quốc gia gồm 14 nước Âu - á: Na Uy, Phần Lan, Estonia, Ba Lan, Belarus, Ukraina, Gruzia, Azerbaizan, Kazahstan, Trung Quốc, Mông Cổ, Bắc Hàn, Latvia, Litva. Tiếp giáp hai đại dương lớn là Bắc Băng Dương và Thái Bình Dương, ngoài ra còn giáp biển Caxpi, biển Đen, biển Bantích.
Liên bang Nga nằm ở bán cầu Bắc, nên có thể quan hệ với các nước Châu âu, các nước Châu á và Bắc Mỹ. Đây là những khu vực có diện tích rộng lớn, dân số đông, tiềm lực kinh tế mạnh. Đó là nguồn lực tự nhiên rất thuận lợi có thể giúp Nga tận dụng mở rộng quan hệ kinh tế với bên ngoài. Đặc biệt là khu vực Tây Âu, phần phía Đông nước Nga cách xa những trung tâm kinh tế của đất nứơc nhưng lại có nhiều triển vọng trong việc phát triển mối quan hệ ngoại thương đặc biệt sẽ có vai trò nhất định trong chiến lược kinh tế của các nước APEC. Một khu vực phát triển kinh tế sôi động nhất hứa hẹn trong thế kỷ XXI. Ngoài ra dọc bờ biển Nga có nhiều hải cảng lớn và nổi tiếng phía bắc như: Xanhpetécbua, áckhanghenxơ, Muốcmanxơ; và các cảng phía đông: Nakhotka, Nagadan, Vlađivôtstốc…Qua các hải cảng Bắc, Nga có thể buôn bán với các nước Đông, Tây Âu ra các nước ven bờ Đại Tây Dương và nhiều nơi khác. Nga còn nằm trên con đường giao thông đường bộ quốc tế: Đường xuyên á từ Liên bang Nga sang các nước Mông Cổ, Trung Quốc, Việt Nam và các nước Đông Nam á và từ Nga sang các nước Đông – Tây Âu, nối liền trong khung cảnh của sự liên kết kinh tế- khoa học - kỹ thuật - chuyển giao công nghệ và sự hội nhập của nền kinh tế thế giới. Đây là một lợi thế để Nga có thể mở rộng giao lưu, hợp tác kinh tế quốc tế với nhiều nước, nhiều khu vực tạo cơ hội đẩy nhanh sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên trong quá trình hội nhập quốc tế thì vị trí này cũng gây cho Nga nhiều khó khăn trong việc bảo đảm toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc phòng và chủ quyền quốc gia vì lãnh thổ quá lớn.
1.1.2. Sự đa dạng về địa hình
Địa hình đa dạng gồm đồng bằng, cao nguyên và vùng núi.Trên phần lãnh thổ địa hình chia làm hai phần rõ rệt là dòng sông Ênitxây làm danh giới tự nhiên thành hai miền Đông và Tây khác nhau.
Phía Tây: Đại bộ phận là đồng bằng và vùng trũng bao gồm đồng bằng Đông Âu, là miền đất cổ, ổn định có khả năng phát triển nông nghiệp là vùng tập trung dân cư, văn hoá, khoa học, các cơ sở kinh tế. Có dải đất đen (khoảng 10 triệu ha) kéo dài từ Uraina sang Nga, đây là loại đất tốt thích hợp với sinh thái của nhiều cây trồng khó tính như lúa mì, củ cải đường…Vùng phía Bắc của đồng bằng trước kia là khu vực băng hà bao phủ, đến nay vẫn còn nhiều dấu tích: đầm lầy, hồ,… Đất sấu thích hợp với cây trồng khó tính, cần trình độ thâm canh cao.
Đồng bằng Tây Xibia chủ yếu là đầm lầy, nông nghiệp chỉ tiến hành ở miền Nam, Vùng phía bắc là đầm lầy không thuận lợi để phát triển nông nghiệp muốn trồng trọt được phải tiến hành cải tạo. Vùng này cũng là nơi có nhiều thảo nguyên, đồng cỏ thuận lợi cho việc phát triển chăn nuôi và ở đây còn tập trung nhiều rừng, khoáng sản, đặc biệt là dầu mỏ, khí đốt quan trọng của Nga.
Phía Đông: Phần lớn là núi và cao nguyên như các dãy núi Yablonovoi cao 2034 m, núi Beluha cao 4506 m, núi Colum cao 1962 m… gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế- xã hội của vùng. Khu vực này không thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, bù lại là nơi có nguồn tài nguyên giàu có nhất nước Nga (than đá, dầu mỏ, sắt, kẽm, thiếc, vàng, kim cương…), lâm sản và trữ năng thủy điện lớn, tuy nhiên vì địa hình núi cao hiểm trở, đi lại khó khăn nên công việc thăm dò khai thác gặp nhiều trở ngại.
Tóm lại địa hình nước Nga rất đa dạng tuy nhiên nổi bật là chia thành miền Tây và miền Đông. Để phát triển kinh tế - xã hội thì địa hình miền Tây chủ yếu là đồng bằng, bình nguyên sẽ thuận lợi hơn so với miền Đông toàn là núi và cao nguyên đi lại khó khăn. Địa hình thấp dần từ Đông sang Tây tạo nên những nét khác nhau về trình độ phát triển kinh tế của hai vùng.
1.1.3. Khí hậu nhiều kiểu đa dạng thay đổi theo địa hình
Khí hậu nhiều kiểu khác nhau thay đổi từ nơi này đến nơi khác, do lãnh thổ rộng lớn kéo dài từ miền cực từ khoảng vĩ tuyến 820 bắc đến 420 bắc, gần hai phần năm diện tích nước Nga có nhiệt độ trung bình tháng giêng xuống - 300c một số vùng Xibia về mùa đông có khi nhiệt độ xống tới - 700c. Lượng mưa trung bình năm từ 500 – 700 mm (phần Châu Âu thuộc Nga), từ 50 – 100 mm (Viễn Đông và Xibia) 700 mm (đồng bằng phía đông Châu Âu), từ 1.000 – 2.000 mm (núi Capcadơ, Antai, phía nam Viễn Đông), ngoài ra 80% lãnh thổ Liên Bang Nga nằm trong các đới khí hậu ôn đới phía tây ôn hòa hơn, phía đông là khí hậu lục địa. Phần lớn phía bắc thuộc đới khí hậu cực và cận cực, lạnh giá hầu như quanh năm, 4% diện tích lãnh thổ phía nam thuộc khí hậu cận nhiệt. Điều kiện tự nhiên của Liên Bang Nga có nhiều thuận lợi đối với sự phát triển kinh tế, tuy vậy khó khăn cũng không ít. Đất nước rộng lớn, núi và cao nguyên chiếm nhiều diện tích, vùng phía bắc lạnh giá, tài nguyên giàu nhưng phân bố chủ yếu ở vùng núi, gây khó khăn trong khai thác và vận chuyển.
Nước Nga có nhiều kiểu khí hậu khác nhau, tuy nhiên phần lớn lãnh thổ có khí hậu ôn đới lục địa (80% khí hậu đất nước) với nhiệt độ chênh lệch giữa các vùng rất lớn. Vùng cực Bắc là bình nguyên giá lạnh, lớp đất dưới bề mặt hầu như đóng băng quanh năm, vùng rừng Taiga phía Nam có mùa đông khắc nghiệt và mùa hạ ngắn, vùng thảo nguyên và miền trung Nga có mùa đông rất lạnh mùa hạ khô và nóng, vùng giữa biển Đen và biển Caxpi có khí hậu Địa Trung Hải, vùng Kaliningrat có khí hậu ôn hoà.
Đặc điểm khí hậu của Liên bang Nga ít thuận lợi cho sản xuất kinh tế cũng như hoạt động sinh hoạt, sức khoẻ vì nhiệt độ luôn xuống dưới nhiều độ âm, hơn nữa thời tiết còn khô lạnh do vào mùa đông cao áp hoạt động mạnh. Ngoài ra kiểu thời tiết này còn cản trở việc đi lại của nhân dân vì đất đai bị đông cứng thường xuyên, những khi băng tan hình thành bùn lầy đã làm tê liệt đường giao thông. ở những đất nước như vậy thì phương tiện đi lại chủ yếu là máy bay và đường sắt.
1.1.4. Mạng lưới thủy văn
Nước Nga có hơn 120.000 sông và gần 2 triệu hồ, đa số chảy theo hướng kinh tuyến, có khối lượng dòng chảy 4.262km2, đứng thứ hai thế giới sau Braxin. Các dòng sông ở nước Nga giữ vai trò rất quan trọng về giá trị giao thông, nơi định cư và khai khẩn kinh tế các vùng đất mới, nhiều thành phố, trung tâm công nghiệp, du lịch được xây dựng bên bờ các dòng sông xanh biếc.Tính trung bình lượng nước theo đầu người có gần 30.000m3/năm, trong khi đó người dân châu Âu có 4.200m3/năm, trung bình người dân trên trái đất là 9.000m3/năm. Nhưng phân bố dòng chảy trên lãnh thổ Nga lại không đồng đều: Vùng lưu vực Bắc Băng Dương và Thái Bình Dương, nơi dân cư thưa thớt, lại chiếm tới 87% toàn bộ dòng chảy trên mặt đất và nước ngầm. Nước Nga có trên 500 sông, tàu có thể đi lại đựợc với tổng chiều dài 300.000km. Hiện nay Nga mới chỉ khai thác dưới 10% nguồn năng lượng của các sông. Nga còn có nhiều hồ với tổng số 2 triệu ha hồ tự nhiên và nhân tạo, có 12 hồ tàu có thể chạy đựợc, trong đó hồ Baikan là hồ nổi tiếng lớn nhất (hồ nước ngọt sâu nhất thế giới với chiều sâu 1.700m, diện tích 35.000km2, chiếm tới 80% trữ lượng nước các hồ ở Nga, chứa 23.000 km3 nước ngọt chiếm 20% trữ lượng nước ngọt của thế giới). Ngoài hồ Baikan, trên đất nước Nga còn có rất nhiều hồ khác, ở phía bắc chủ yếu là hồ băng hà, đầm lầy.
Dòng sông Vonga dài 3690 km là biểu tượng của nước Nga, sông bắt nguồn từ vùng núi Vanđai, chảy qua vùng đồng bằng rộng lớn, ít thác ghềnh hai bên bờ sông là những cánh đồng rộng lớn mênh mông trù phú, có thời gian đóng băng ngắn và có nhiều thành phố đẹp nổi tiếng nổi bật nằm trên bờ sông trong số đó là những trung tâm khoa học, công nghiệp, du lịch của Nga - thành phố Vôngagrat, Samara, Xaratop trên sông Vonga.Trữ năng thuỷ điện của các dòng sông lên tới 320 triệu KW có thể cung cấp nguồn điện năng lớn cho đất nước (hiện nay khai thác một phần không đáng kể).
Tài nguyên khoáng sản
Rất ít các quốc gia trên thế giới có thể so sánh với Nga về sự giàu có của tài nguyên khoáng sản. Nhiều loại tài nguyên khoáng sản có trữ lượng đứng đầu thế giới hoặc chiếm tỷ lệ lớn. Chính sự kết hợp hiếm có về quy mô lớn và đa dạng của sự giàu có trong lòng đất đã đảm bảo tiềm lực tài nguyên thiên nhiên tổng hợp rất lớn của đất nước Nga. Trước hết là dự trữ than khổng lồ trên đất nước mà các loại khoáng sản khác không sánh nổi về số lượng. Nguồn dự trữ này được thăm dò khai thác một phần không đáng kể. Trữ lượng than đá 6.000 tỉ tấn (tính đến độ sâu 1800 m), đứng đầu thế giới, trữ lượng này đảm bảo nguồn than đá cho nước Nga trong nhiều thập kỉ.
Tài nguyên kim loại đen, kim loại màu và kim loại hiếm cũng có khả năng đáp ứng nhu cầu của đất nước trong thời gian dài. Liên bang Nga có trữ lượng quặng sắt 70 tỉ tấn, đứng thứ hai thế giới. Nước Nga có vùng mỏ quặng sắt lớn nhất là mỏ Cuôcxcơ. Các mỏ độc nhất vô nhị về chất lượng thuộc tỉnh Nôrinxcơ. Một nguồn thu đáng kể là về ngoại tệ là vùng mỏ kim cương của tỉnh Iacút, vùng Xibia và Viễn Đông.
Dầu mỏ đứng thứ hai thế giới với trữ lượng 8,5 tỉ tấn, khí đốt 50.000 tỉ m3, các mỏ dầu và khí lớn, tập trung ở đồng bằng Tây Xibia, dãy Uran và Đông Xibia. Các loại tài nguyên khác như đồng, niken, vàng, kali, vonfram… cũng có trữ lượng nhất nhì thế giới. Mức độ đảm bảo cho nước Nga nguồn dự trữ một số loại khoáng sản: dầu mỏ: 40 năm, khí đốt: 84 năm, than đá: 180 năm, quặng sắt: 42 năm, …. Liên bang Nga có diện tích rừng đứng đầu thế giới (chiếm 20% với 886 triệu ha), trong đó rừng khai thác 764 triệu ha, chủ yếu là rừng Taiga.
Liên bang Nga là đất nước rộng lớn, nguồn tài nguyên khổng lồ đây là yếu tố vô cùng thuận lợi để phát triển kinh tế. Sự giàu có này đảm bảo cho nước Nga trở thành cường quốc kinh tế.
1.2. Một quốc gia đông dân, một cường quốc văn hóa và khoa học
1.2.1. Dân số
Liên bang Nga là nước đông dân, đứng thứ 7 trên thế giới về dân số sau Trung Quốc, ấn Độ, Hoa Kỳ và Inđônêxia, Braxin, Pakitstan. Nga cũng là nước có nhiều dân tộc (160 dân tộc khác nhau), theo điều tra dân số năm 2002 thì 79,8% là người Nga; 3,8% là người Tatar; 2% là người Ukrain; 1,2% là người Bashkir; 1,1% người Chuvash; 0,9% người Chechen; 0,8 người Armenia và 10,3% còn lại gồm những người không rõ sắc tộc, thiểu số. Khi Liên bang Xô Viết tan dã, dân số Liên bang Nga năm 1991 là gần 150 triệu người, sau hơn một thập kỉ không tăng mà lại giảm xuống 145,5 triệu người năm 2000; 143,1 triệu người năm 2003; 142,8 triệu người năm 2006. Theo dự báo của Uỷ ban Thống kê nhà nước Liên bang Nga, năm 2010 số dân khoảng 136 triệu người và 2015 sẽ là 131,5 triệu người. Dân số ngày càng giảm đây cũng là vấn đề quan tâm lớn của nhà nước, chính vì thế mà Tổng thống V. Putin đã đưa ra một loạt các biện pháp mới nhằm tăng dân số, tăng cường sức khoẻ, kéo dài tuổi thọ cho người dân Nga đặc biệt ở vùng nông thôn. Vì vậy năm 2007 dân số Liên bang Nga đã tăng. Kết cấu dân số, tỷ lệ nữ luôn cao hơn nam 52/48 (1946) do hậu quả chiến tranh và đó cũng là sự cống hiến to lớn của Liên Xô cho loài người trong thế chiến II. Nga có tỉ lệ dân sống thành phố trên 73%, đa số dân Nga sống ở thành phố nhỏ, trung bình và vệ tinh.
Sự phân bố dân cư không đều. Mật độ dân số trung bình là 9 người/ km2, con số này thậm chí còn ít hơn vì thực tế dân cư rất thưa thớt trong những vùng địa cực và vùng Taiga, dân số Liên bang Nga phần lớn sống ở các trục đường giao thông. Phần châu âu nước Nga được coi là nơi tập trung dân số của đất nước.
1.2.2. Văn hoá khoa học
Liên bang Nga là một trong những nước có nền văn hoá vĩ đại, nổi tiếng của thế giới. ở bất cứ lĩnh vực nào từ khoa học, kỹ thuật, kiến trúc, nghệ thuật tạo hình, văn học, điện ảnh…Nga đã cống hiến cho nhân loại những nhân vật kiệt xuất, những quần thể kiến trúc đẹp kỳ vĩ. Liên bang Nga có nhiều công trình kiến trúc như quần thể Cung điện Kremli, Cung điện mùa Đông, Viện bảo tàng Erơmitadơ… những tác phẩm văn hóa đồ sộ: Chiến tranh và Hòa bình, Sông Đông êm đềm, Thép đã tôi thế đấy. Những tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng, các công trình khoa học lớn có giá trị, nhiều nhà bác học thiên tài nổi tiếng của thế giới M.V. Lômônôxốp, Đ.I Menđêleep. Những trường đại học danh tiếng Đại học Tổng hợp Quốc gia mang tên Lômônôxốp, Học viện Quốc tế… Liên bang Nga là nước đầu tiên đưa người lên vũ trụ, Nga rất mạnh về khoa học cơ bản, người dân có trình độ học vấn cao.
Có thể nói, nền khoa học là tài sản quốc gia của Nga, là nhân tố chính để tăng trưởng đất nước vì thế Liên Xô đã là siêu cường kinh tế thế giới những thập kỉ 60,70 của thế kỉ XX. Nga có đội ngũ cán bộ khoa học, kĩ sư, kĩ thuật viên lành nghề, công nhân bậc cao và những chuyên gia độc nhất vô nhị.Trình độ cao của nền khoa học Nga được khẳng định bằng những dự báo về số lượng khá lớn kết quả các công trình liên quan tới các ngành vật lí, hóa học đại cương, hóa học kĩ thuật, luyện kim, năng lượng, khoa học địa chất … Nga có tiềm lực to lớn được tích lũy từ lâu và chứng tỏ sự cần thiết phải duy trì và tiếp tục phát triển nó để phục vụ cho nền kinh tế quốc dân và bước vào nền kinh tế tri thức hiện nay. Đây là yếu tố thuận lợi để phát triển kinh tế và thu hút đầu tư nước ngoài trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay.
Với nguồn lực tài nguyên khổng lồ, nguồn nhân lực có trình độ cao, nền văn hoá và khoa học vĩ đại đó là điều kiện cơ bản đảm bảo cho sự phát triển kinh tế của Liên bang Nga trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Tuy vậy, trong lĩnh vực khoa học Liên bang Nga cũng có nhiều bất cập, khó khăn. Chảy máu chất xám, một số nhà khoa học và chuyên gia giỏi đã ra nước ngoài, độ tuổi già trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Kinh phí cho công tác nghiên cứu khoa học và thử nghiệm có phần hạn chế, tiền lương còn thấp. Tất cả những điều này nhà nước Nga cần tính toán cẩn thận trong chiến lược phát triển khoa học và kinh tế những năm tới.
Chương 2
Kinh tế Liên Bang Nga những năm đầu thế kỉ XXI. Thực trạng Quan hệ Thương mại Việt – Nga
2.1. Kinh tế Liên Bang Nga những năm đầu thế kỉ XXI
2.1.1. Kinh tế Liên Bang Nga trước năm 1990
2.1.1.1. Cách mạng tháng Mười thành công 1917,
nhà nước công - nông đầu tiên trên thế giới ra đời gọi là Liên bang Cộng Hoà XHCN Xô Viết (Liên Xô). Nước Nga lúc đó là một thành viên của Liên Xô và đóng vai trò chính để tạo dựng Liên bang Xô Viết trở thành siêu cường.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Tốc độ sản xuất công nghiệp tăng trung bình từ 1950 - 1970 là 10%, sản xuất công nghiệp tăng bình quân là 4%. Khối lượng công nghiệp tăng đáng kể: 1913 nước Nga TBCN sản xuất 4% sản lượng công nghiệp thế giới, đến 1970 Liên Xô sản xuất 20% sản lượng công nghiệp thế giới.
Nhiều ngành công nghiệp vào loại bậc nhất nhì thế giới và trở thành cường quốc kinh tế hùng mạnh. Năm 1975 sản xuất thép 145.000.000 tấn. Sản xuất dầu 520.000.000 tấn, khai thác quặng sắt 293.000.000 tấn. Sản xuất điện 1038 tỷ Kwh, bông 7.000.000 tấn. Nhiều công trình đồ sộ ra đời (với nhiều công sức và tiền của). Nhà máy thuỷ điện có công suất lớn nhất thế giới: Bratxcơ 45 Mkw trên sông Anggara, Kratxnoiac trên sông Ênitxây 6 Mkw. Đường sắt xuyên Xibia (BAM - công trường thế kỷ), ống dẫn dầu Hữu Nghị chuyển dầu từ Liên Xô sang các nước Đông Âu với giá bao cấp. Đường tải điện Hoà Bình cung cấp sang các nước Đông Âu.
- Cơ cấu kinh tế: Chú ý phát triển công nghiệp đặc biệt là công nghiệp nặng chiếm 3/4 tổng sản lượng công nghiệp phần còn lại là công nghiệp nhẹ, dịch vụ, nông nghiệp chiếm tỷ lệ thấp.
- Tổ chức sản xuất: Hình thành các tổ hợp sản xuất liên ngành, các liên hợp sản xuất Công - Nông nghiệp, các liên hợp khoa học – sản xuất quy mô lớn nhưng không đồng bộ. Phân bố lực lượng sản xuất cơ bản, trước tập trung ở vùng đồng bằng Đông Âu, nay đã có sự chuyển lớn theo 3 hướng: Về phía Đông, xuống phía Nam, lên phía Bắc, nhiều thành phố công nghiệp khoa học đã mọc lên từ đây, kinh tế trở nên phồn vinh hơn.
Đời sống người dân được đảm bảo, cuộc sống rất thanh bình hàng hoá rẻ với giá bao cấp của nhà nước. Sở hữu vật chất: chỉ có hai hình thức toàn dân và tập thể. Lao động: tuần lễ làm việc 5 ngày - nghỉ thứ 7, chủ nhật. Liên Xô có đội ngũ cán bộ khoa học, trường đai học, viện nghiên cứu vào loại tầm cỡ thế giới nhưng thiên về khoa học cơ bản. Vì tất cả những điều này có thể nói Liên Xô đã trải qua thời kỳ hoàng kim, là chỗ dựa cho nhiều dân tộc nhiều quốc gia.
2.1.1.2. Một thời chao đảo, một cuộc thử nghiệm đầy chông gai, Liên bang Xô Viết tan dã và sự ra đời cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG)
Sau 60 năm đạt nhiều thành tựu rực rỡ, nền kinh tế Liên Xô ở thập kỷ 70 càng bộc lộ nhiều điểm yếu do cơ chế kinh tế cũ tạo ra, nền kinh tế mất cân đối nghiêm trọng trên nhiều lĩnh vực, nợ nước ngoài và lạm phát tăng nhanh dẫn đến chất lượng cuộc sống nhân dân ngày càng giảm sút. Thập kỷ 80, Liên Xô đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế theo chiều sâu, chú trọng đến vị trí của khoa học - kỹ thuật, mở rộng quan hệ đối ngoạivà cố gắng cải tổ cơ chế kinh tế lỗi thời để tạo động lực phát triển kinh tế mới và thập kỷ 80 đầy thử thách đã trôi qua với kết quả không mấy phấn khởi.
- Về thực trạng kinh tế – xã hội. Tốc độ phát triển kinh tế chậm dần, sản xuất trì trệ GDP giảm 4,5% năng suất lao động xã hội giảm 3%, thu nhập quốc dân giảm 4%. Khủng hoảng kinh tế, chính trị bao trùm toàn bộ nền kinh tế, lạm phát ở mức kỷ lục (19%), thiếu máy móc, giá cả leo thang (trước 1990 giá 1 lít xăng: 0,5 rúp, cuối năm 1991: 20 rúp/ lít).
Vấn đề nợ nước ngoài trở nên rất gay gắt (60 tỷ USD), Liên Xô trở thành con nợ lớn trên thế giới mà chưa tìm được nguồn vốn vay, ngân hàng không có tiền.
- Nông nghiệp: Từ 1975 - 1976 sản lượng ngũ cốc nhiều năm đạt 230.000.000 tấn/năm, nhưng những năm cuối thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90 phải nhập lương thực. Hoa quả chín không người thu hoạch (khoai tây thu hoạch 18% tổng diện tích trồng, rau quả 50%, củ cải đường 52%), sản lượng thịt, sữa năm 1990 giảm 10 - 11% và càng giảm nhiều so với những năm trước.
- Hoạt động ngoại thương. thâm hụt hơn 5 tỷ USD, do giảm xuất dầu, tăng nhập ngũ cốc, hàng tiêu dùng.
- Dân số và việc làm: Toàn Liên Bang có 135.700.000 lao động làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân. Năm 1990 - 1991 có 1.000.000 người thất nghiệp, đến đầu 1992 lên 2.500.000 người do sa thải công nhân, giảm biên chế trong các tổ chức nhà nước do không phù hợp với nhu cầu nền kinh tế thị trường. Trên thị trường hàng hoá khan hiếm, mức sống người dân giảm sút nhanh chóng đồng rúp mất giá, tệ nạn xã hội tăng mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc lên cao đỉnh điểm dẫn tới cuộc chiến đẫm máu hàng trăm ngưòi chết, hàng triệu người bị thương, nhiều làng mạc thành phố trở nên điêu tàn (Kadăcxtan, Grudia, Karabac…)
Năm 1991, cuộc khủng hoảng kinh tế chính trị chuyên quyền ở Liên Xô lên tới đỉnh điểm, sự tan dã liên tiếp các thiết chế nhà nước Liên Bang cũ mà thể hiện ở cuộc chính biến ngày 19 – 8 - 1991 đã kết thúc sự tồn tại của Liên bang Xô Viết. Cuối năm 1991 một quốc gia lớn nhất đã từng là siêu cường trong trật tự thế giới cũ biến mất khỏi bản đồ thế giới. Tại phần lục địa này xuất hiện một thực thể mới: “Cộng đồng các quốc gia độc lập SNG” ký ngày 21- 12- 1991 tại Anma Ata, những người lãnh đạo các quốc gia này đã ký 6 văn kiện của hiệp định thành lập cộng đồng, còn 3 nước vùng cận Bantích: Látvia, Litvia và Ettônia đã tách thành những quốc gia riêng từ năm 1990. Còn Grudia không tham gia.
Mỗi nước là một quốc gia độc lập, tự mình điều khiển hướng đi, tốc độ phát triển, thực hiện cải cách. Các nước xây dựng quan hệ kinh tế với nhau trên nguyên tắc độc lập, bình đẳng cùng có lợi.
2.1.2. Kinh tế Liên bang Nga trong những năm 1990
Bức tranh kinh tế của Nga những năm thập kỷ 90 thật ảm đạm. Các nét đặc trưng của bức tranh này là tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng kéo dài với những đặc điểm sau:
- Nền kinh tế tăng trưởng âm
Bảng 2.1: Mức tăng trưởng GDP qua các năm (%)
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
-13,0
-19,0
-12,1
-12,3
-4,1
-3,5
0,8
-4,8
3,2
10,2
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, 2001
Liên tục trong một thập kỷ, mức tăng trưởng kinh tế của Nga luôn ở mức âm. Năm 1997 kinh tế của Liên bang Nga mới bắt đầu có mức tăng trưởng dương 0,8% thì đến tháng 8/1998 lại lâm vào khủng hoảng, một cuộc khủng hoảng sâu sắc khiến nước Nga gặp phải những khó khăn. Năm 1996 tiềm lực kinh tế của Liên bang Nga chỉ bằng 40% so với tháng 12/1991.
Nếu tính chung giai đoạn 1986 - 1996 thì tỷ trọng kinh tế của Liên bang Nga giảm gần một nửa, từ mức chiếm 2,7% GDP toàn thế giới xuống còn 1,8%. Phải đến năm 1999 và năm 2000, nước Nga mới bắt đầu có mức tăng trưởng dương (năm 1997 cũng có tăng trưởng dương).
- Cơ cấu kinh tế: Nông nghiệp: 7%; Công nghiệp: 38%; Dịch vụ: 55% (1995). Tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp liên tục giảm sút qua các năm. Sản xuất công nghiệp của Nga suy giảm nặng nề. Trên thực tế, những ngành công nghệ độc lập của Nga ngày càng mất dần uy tín, Nga trở thành đất nước cung cấp nguyên vật liệu cho phương Tây. Trong giai đoạn 1991- 1995, tỷ lệ sản xuất công nghiệp so với GDP giảm từ 48% xuống còn 39%. Sản xuất trong giai đoạn này suy giảm đặc biệt là các ngành công nghiệp nhẹ giảm 84%, chế biến giảm 44% và chế tạo máy dân dụng giảm 57%. Đáng chú ý là các ngành chế tạo máy và luyện kim tốc độ suy giảm mạnh, rõ rệt. Năm 1998, sản xuất công nghiệp giảm 5%.
Về nông nghiệp, là một đất nước có quỹ nông nghiệp lớn song tình hình kinh tế khó khăn cũng khiến nền nông nghiệp suy giảm trầm quan trọng. Thậm chí, nước Nga phải rơi vào cảnh thiếu lương thực và cần tới viện trợ lương thực của Mỹ và EU.
Về kim ngạch ngoại thương, kinh tế suy giảm kéo theo sự sụt giảm trong kim ngạch ngoại thương. Lấy ví dụ trong năm 1995 kim ngạch xuất khẩu đạt 81,1 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu 69%. Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu đạt 105,6 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu đạt 49,5 tỷ USD.
- Lạm phát ở mức cao
Vào cuối thời Liên Xô cũ, trong hoàn cảnh kinh tế khủng hoảng, Ngân hàng Trung ương đã không thể kiểm soát được quá trình lưu thông tiền tệ, tiền phát hành tràn lan không có cơ sở kinh tế khiến đồng Rúp liên tục mất giá, tốc độ bội chi tiền mặt tăng nhanh, quan hệ tiền hàng mất cân đối nghiêm trọng đã có những tác động tiêu cực đến sản xuất và đời sống. Lượng tiền lưu thông liên tục tăng qua các năm. Tốc độ lạm phát liên tục tăng , thậm chí có lúc lên tới 3 con số. Nước Nga thực sự đã rơi vào tình trạng siêu lạm phát. Có những thời điểm lạm phát tăng theo từng tháng. Năm 1991, lạm phát là 138,1%. Tháng 12/1991, chỉ số giá cả là 282,6 thì sang tháng 1/1992 đã là 941,0; tức là tăng 230% chỉ trong 1 tháng.
- Ngân sách thâm hụt
Sau khi Liên Xô cũ sụp đổ, ngân sách nhà nước vẫn tiếp tục thâm hụt do các doanh nghiệp nhà nước vẫn được cấp những khoản tín dụng ưu đãi một cách ồ ạt. Nguồn thu chủ yếu của ngân sách là thuế từ các doanh nghiệp không được cải thiện.
- Nợ trong và ngoài nước tăng mạnh
Tính đến ngày 1/1/1999, tổng nợ nước ngoài là 140,8 tỷ USD. Nếu tính cả các khoản nợ trong nước được quy theo ngoại tệ thì tổng nợ Chính phủ lên tới 158,8 tỷ USD, dịch vụ nợ đến hạn phải trả là 9 tỷ USD.
Với các chủ nợ nước ngoài, Liên bang Nga luôn khó khăn trong quá trình đàm phán nợ, Chính phủ Nga liên tiếp thất bại với các nhà tín dụng thương mại nước ngoài, đẩy các ngân hàng Nga vào một tình thế khó khăn hơn trước, một số ngân hàng Nga bị phong toả tài sản tại nước ngoài.
- Mức lương trung bình của cán bộ công nhân là 65 USD/tháng trong khi con số này ở Estonia, một nước tách khỏi Liên Bang từ năm 1991 ở tận 300 USD.
- Trừ một số thành phố lớn, còn nói chung, các cơ sở hạ tầng (bệnh viện, đường sắt, trường học…) đều xuống cấp nghiêm trọng.
- Đời sống xã hội ngày càng khó khăn do mất mát quá nhiều về vật chất và tinh thần, mâu thuẫn chính trị xã hội sâu sắc cộng thêm nạn tham nhũng do lạm phát quá cao, sản xuất ngưng trệ và khủng bố vẫn chưa chấm dứt. Vị trí vai trò của nước Nga trên trường quốc tế giảm sút.
2.1.3. Kinh tế Liên bang Nga từ sau năm 2000
Là thời kỳ sau khi tổng thống V. Putin lên nắm quyền. Nhìn nhận một cách khách quan, kể từ khi Tổng thống Putin lên nắm quyền đến nay, nền kinh tế Nga cũng đã có một số dấu hiệu tích cực đáng khích lệ. Đặc biệt là năm 2000 đã đánh dấu nét khởi sắc mới trong nền kinh tế Nga.
2.1.3.1. Tổng quan
- Tăng trưởng kinh tế nhanh, những tiến bộ của nền kinh tế Nga trong 8 năm qua thực sự gây ấn tượng: GDP đã tăng khoảng 70%, công nghiệp tăng trưởng 75%, đầu tư tăng 125%, giành lại vị thế của Nga là một trong 10 nền kinh tế hàng đầu của thế giới.Tốc độ tăng trưởng cao của GDP, đầu tư cơ bản, các chỉ tiêu kinh tế đối ngoại và mức sống của dân cư được cải thiện là những thành tựu đáng được ghi nhận. Nếu mức tăng trưởng kinh tế trong năm 1999 đạt 3,2% thì năm 2000, mức tăng GDP đạt tốc độ cao là 7,6%, cho đến năm 2001 đạt 5,0%, năm 2003 đạt 7,3%; trong hai năm 2004 và 2005 đạt 7,5%, đến năm 2006 mức tăng GDP là 6,7% có giảm chút ít. Trung bình tám năm cầm quyền của tổng thống Putin mức độ tăng GDP là 7%.
Bảng 2.2: Tăng trưởng kinh tế những năm gần đây (%)
2001
2003
2004
2005
2006
2007
5,0
7,3
7,5
7,5
6,7
8,1
Nguồn: PGS. TS Ông Thị Đan Thanh, Địa lý kinh tế xã hội thế giới, Nhà xuất bản ĐHSP Hà Nội, 2007
Biểu đồ tăng trưởng kinh tế
Biểu đồ 2.1: Tăng trưởng kinh tế những năm gần đây (%)
- Thu nhập thực tế của người lao động mỗi năm tăng 10 - 20%. Trong 8 năm thu nhập thực tế đã tăng gấp đôi trong khi đói nghèo giảm 50%. Tỷ lệ dân cư sống ở mức đói nghèo giảm từ 30% năm 2000 xuống 14% năm 2008.
Tiền lương trung bình ._.tăng từ 90 USD năm 2000 và lên tới 500 USD năm 2008. Lương hưu trung bình cũng tăng năm 2000 là 33 USD đến năm 2008 là 140 USD, điều quan trọng là tiền lương và lương hưu tăng nhanh hơn lạm phát.
- Sản lượng các ngành tăng: Các con số thống kê về nền kinh tế năm 2000 là những con số rất đáng khích lệ:
Sản lượng công nghiệp tăng 10%. Cuộc khủng hoảng tài chính 1998 ở Nga đã thúc đẩy ngành công nghiệp phát triển. Theo thống kê Liên Bang, tăng trưởng công nghiệp đạt 11,9% (2000) song giảm xuống ở hai năm tiếp theo. Tăng trưởng công nghiệp đạt những đỉnh cao mới từ năm 2003 và đạt 6,3% năm 2007. Khai thác dầu đạt trên 500 triệu tấn (2007), năng xuất: 9,3 triệu thùng/ngày đưa Liên bang Nga trở thành nước có sản lượng dầu và năng xuất đứng đầu thế giới vượt qua Arâpxêut. Luyện kim đen, chế tạo máy (đặc biệt trong các ngành đòi hỏi hàm lượng khoa học), sản xuất giấy… tăng đáng kể. Đầu tư cơ bản tăng gần 20%. Sản lượng nông nghiệp tăng 3 - 4%.
Về Cơ cấu kinh tế: nông nghiệp: 5.2%; công nghiệp: 34.1%; dịch vụ: 60.7%(2005).
Biểu đồ cơ cấu kinh tế
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu kinh tế của Nga (%).
- Lưu thông hàng hoá bán lẻ tăng 8,9%. Xuất nhập khẩu tăng 11%, trong đó riêng xuất khẩu hàng hoá tăng gần 40%.
Đồng Rúp ổn định, tỷ giá trong năm 2000 được giữ ổn định ở mức 28 Rúp/USD cho đến nay (2008).
- Mức độ lạm phát giảm dần. Dự trữ ngoại tệ tăng, mặc dù phải dành khoản đáng kể để trả nợ nước ngoài đến hạn và trước hạn, từ chỗ là “con nợ khổng lồ” Nga đã khiến giới tài chính thế giới phải ngạc nhiên khi trả 23,5 tỷ USD cho các chủ nợ câu lạc bộ Pari. Đến tháng 6/2006 Nga đã thanh toán xong các khoản nợ nước ngoài (160 tỉ USD là món nợ của Liên Xô cũ và 10 năm thập kỉ 90).
- Nga có tổng dự trữ ngoại tệ đứng thứ ba thế giới sau Trung Quốc, Nhật Bản. Năm 2007 dự trữ vàng và ngoại tệ của Nga đạt 480 tỷ USD mức cao kỷ lục từ trước đến thời điểm này.
Bảng 2.3: Tổng dự trữ ngoại tệ của Liên bang Nga (tỷ USD)
1998
12,22
1999
12,45
2000
22,97
2001
36,62
2002
32,2
2003
84
2004
125
2005
188
2007
480
Nguồn: PGS. TS Ông Thị Đan Thanh, Địa lý kinh tế xã hội thế giới, Nhà xuất bản ĐHSP Hà Nội, 2007
Biểu đồ Tổng dự trữ ngoại tệ của Liên bang Nga (tỷ USD)
Biểu đồ 2.3: Tổng dự trữ ngoại tệ của Liên bang Nga.
- Tổng kim ngạch ngoại thương ngày càng tăng (USD): năm 1998 xuất 88.2 tỉ, nhập 70 tỉ; năm 2000 xuất 106 tỉ, nhập 49 tỉ; năm 2004 xuất 178.2 tỉ, nhập 93 tỉ ; Năm 2005 xuất 245 tỉ, nhập 125 tỉ USD; Năm 2006 xuất 317.6 tỉ, nhập 171.5 tỉ . Trong quan hệ buôn bán với các nước, Liên bang Nga luôn ở vị thế xuất siêu.
Mỹ và các nước phương Tây đã công nhận Nga là nước có nền kinh tế thị trường từ năm 2002, điều đó rất thuận lợi cho Liên bang Nga trong hội nhập kinh tế quốc tế và với tư cách đầy đủ nằm trong nhóm G8.
Vị trí, vai trò của Liên bang Nga trong nền kinh tế và chính trị thế giới ngày càng tăng qua việc giải quyết các vấn đề quốc tế.
Đời sống nhân dân từng bước được nâng lên, GDP bình quân đầu người tăng nhanh như ở bảng sau:
Bảng 2.4: GDP bình quân theo đầu người qua các năm (Đơn vị: USD)
1998
1.442
1999
1.323
2000
1.783
2001
2.140
2002
2.240
2003
3.022
2004
3.904
2005
5.280
2007
8.400
Nguồn: PGS . TS Ông Thị Đan Thanh, Địa lý kinh tế xã hội thế giới, Nhà xuất bản ĐHSP Hà Nội, 2007
Biểu đồ GDP bình quân theo đầu người
Biểu đồ 2.4: GDP bình quân theo đầu người (USD)
2.1.3.2. Nguyên nhân thành công và chiến lược kinh tế mới
- Nguyên nhân thành công
Có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan mang đến thành tựu kinh tế lớn của Liên bang Nga: Năm 2007 Liên bang Nga đứng vào hàng ngũ 7 nước có nền kinh tế mạnh nhất thế giới. Nga đang phấn đấu đến năm 2015 đứng vào hàng ngũ 5 nước đứng đầu thế giới (thông điệp Liên Bang của tổng thống Nga năm 2007).
Về khách quan, do giá xăng dầu trên thế giới tăng đột biến đã đem lại lợi ích rất lớn cho Nga, bởi vì Nga là nước xuất khẩu dầu lửa lớn. Năm 1998 giá dầu trên thị trường là 10 USD/thùng, nhưng hiện nay 2008 giá dầu gần đạt ngưỡng 120 USD/thùng. Lần đầu tiên kể từ khi cải cách thị trường Nga đạt mức thặng dư thương mại kỷ lục 61 tỷ USD. Đây là điều kiện quan trọng góp phần giải quyết những khó khăn trong những năm vừa qua chưa giải quyết được như tăng đầu tư trong nước, giải quyết những vấn đề xã hội như trả nợ lương, tăng lương.v.v.
Thứ hai, cuộc khủng hoảng năm 1998 đã khiến đồng Rúp Nga mất giá nặng nề song đã tạo lợi thế cho hoạt động xuất khẩu, từ đó khuyến khích được sản xuất trong nước, khuyến khích đầu tư.
Bên cạnh đó giá nguyên liệu thế giới tăng lên nhanh chóng như than, sắt, thép. Nước Nga còn xuất khẩu các ngành công nghệ cao: hàng không, vũ trụ…
Về chủ quan, đường lối cải cách của Tổng thống Putin đã từng bước hạn chế được những khiếm khuyết trước đây, đặc biệt trong điều hành kinh tế vĩ mô của Nhà nước, tạo ra những động lực mới cho phát triển kinh tế. Đường lối cải cách của Tổng thống Putin trước hết vẫn khẳng định tiếp tục công cuộc cải cách kinh tế thị trường mà cựu Tổng thống Yelsin đã tiến hành nhưng bước đi và phương pháp tiến hành thận trọng hơn, tăng cường vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, duy trì sự ổn định chính trị để phát triển kinh tế.
Nhằm đạt được mục tiêu trên Tổng thống Putin đã có hàng loạt các chính sách và biện pháp cải cách đúng đắn và phù hợp như:
Cải cách hành chính nhằm nâng cao quyền lực của Nhà nước Trung ương, khắc phục sự chia rẽ giữa các vùng và địa phương. Ngay sau khi nhận chức hai tháng, Tổng thống đã thực hiện cuộc cải cách hành chính bằng việc thành lập bảy vùng trực thuộc Trung ương, đại diện của Tổng thống được cử xuống để lãnh đạo các vùng này. Xoá bỏ quyền là thượng viện đương nhiên của các Tỉnh trưởng, ra sắc lệnh mới: Tổng thống có quyền cách chức các Tỉnh trưởng mà điều này trước kia không có. Thông qua các biện pháp cải cách hành chính như vậy đã nâng cao thực sự quyền lực của Nhà nước Trung ương, tạo điều kiện ổn định chính trị, thống nhất mục tiêu chung của cải cách.
Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế dài hạn. Đây là điều trước đây Chính phủ đã không làm được. Có một chiến lược phát triển rõ ràng mới có thể thống nhất được sự đồng bộ giữa mục tiêu và các biện pháp thực hiện.
Tiếp tục phát triển kinh tế thị trường, đồng thời với việc tăng cường điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Nhà nước trở thành người điều tiết và quản lý có hiệu quả toàn bộ hoạt động của nền kinh tế, tránh tình trạng phát triển vô Chính phủ, buông lỏng mọi hoạt động của quản lý kinh tế. Xác định rõ vai trò của Nhà nước điều tiết đến mức nào, tuân thủ nguyên tắc “Nhà nước ở mức cần thiết và tự do ở mức cần thiết”.
Nga trở thành siêu cường nhờ một chính sách mà theo đó chính phủ kiểm soát phần lớn ngành dầu khí và doanh thu từ ngành này. Nga hiện là nước xuất khẩu dầu khí lớn thứ 2 thế giới.
Các biện pháp và chính sách cải cách tập trung giải quyết các vấn đề cấp bách đang đặt ra cho nền kinh tế. Trước hết, kích thích đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Giải quyết những vấn đề xã hội, từng bước nâng cao mức sống của nhân dân, giữ vững ổn định xã hội.
Tăng sự kiểm soát của nhà nước đối với các phương tiện thông tin đại chúng và các tổ chức phi chính phủ, tái lập quyền kiểm soát của nhà nước đối với các ngành kinh tế chiến lược.
Nền kinh tế đã vượt qua khủng hoảng và đang đi lên để lấy lại vị trí cường quốc. Năm 2000 Liên bang Nga bắt đầu vào thời kì mới với những quyết sách đứng đắn, năng động, tích cực của chính phủ. Nền kinh tế Nga đã vượt qua khủng hoảng, đang trong thế ổn định và đi lên. Đất nước đang trở lại là một cường quốc kinh tế. Vị trí của Nga ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế qua việc giải quyết các vấn đề chính trị, an ninh, kinh tế lớn của thế giới và tổ chức các hội nghị quốc tế, đặc biệt là Hội nghị Thượng đỉnh nhóm G8 được khai mạc tại Xanh Pêtécbua tháng 7/2006 mà Nga làm chủ tịch.
- Chiến lược mới kinh tế mới của Liên bang Nga sau năm 2000 và những năm tiếp theo
Các chiến lược cơ bản của chính phủ là chương trình kinh tế mới của Liên bang Nga thực hiện từ giữa năm 2000 như: Đưa nền kinh tế từng bước thoát khỏi khủng hoảng; Tiếp tục xây dựng nền kinh tế thị trường; Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 7%; ổn định đồng Rúp; Kiềm chế lạm phát; Nâng cao đời sống của nhân dân; Mở rộng ngoại giao, coi trọng châu á; Đảm bảo toàn vẹn lãnh thổ và quyền lợi dân tộc Nga; Về lãnh thổ hành chính chia thành 7 vùng liên bang; Lấy lại vị trí cường quốc…
Chiến lược đến năm 2020 tăng trưởng kinh tế đạt 7%, đưa đồng Rúp trở thành ngoại tệ mạng có khả năng chuyển đổi trên thế giới, nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo toàn vẹn lãnh thổ và quyền lợi của dân tộc, lấy lại vị trí cường quốc kinh tế. Liên bang Nga là nước giàu có: giàu tài nguyên thiên nhiên với tiềm lực lớn về dân số và lao động của dân cư Nga, tiềm lực khoa học và kĩ thuật cao, tiềm lực về kinh tế, một cường quốc quân sự hùng mạnh và các thành tựu xã hội đạt đựơc. Đó là tài sản vô giá của quốc gia để đảm bảo Nga lấy lại vị trí cường quốc kinh tế.
Nhờ những bước đi chiến lược đúng đắn, đất nước đã vượt qua khỏi khủng hoảng, vực dậy lại nền kinh tế đưa nền kinh tế phát triển trở lại. Cùng với đó là đời sống nhân dân được nâng lên, tình hình chính trị xã hội ổn định.
2.2. Quan hệ Thương mại Việt – Nga
2.2.1. Tiến trình phát triển quan hệ thương mại Việt – Nga
2.2.1.1. Giai đoạn 1991- 1999
Sự kiện Liên bang Liên Xô cũ tan rã, khối SEV giải thể vào năm 1991 đã ảnh hưởng to lớn đến tình hình kinh tế nói chung, cũng như tình hình ngoại thương của Việt Nam nói riêng.
Trước hết, thị trường mới cho hàng công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp (hàng may mặc, giầy da, mây tre, mỹ nghệ) lâu nay là những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu sang Liên Xô và Đông Âu vẫn chưa thể tìm ngay được để thay thế. Tình trạng đình đốn sản xuất ảnh hưởng đến việc làm của hàng chục vạn người lao động ở các ngành nói trên. Năm 1991 dự kiến xuất khẩu sang Liên Xô cũ khoảng 1 tỷ USD, trong đó hàng nông lâm sản chiếm 25%, gia công trong công nghiệp nhẹ chiếm 22%… nhưng thực tế tổng mức chu chuyển chỉ đạt 465 triệu USD, trong đó xuất khẩu đạt 214 triệu USD.
Bên cạnh đó còn có những khó khăn khác như điều kiện mậu dịch của Việt Nam xấu đi trong buôn bán với Liên Xô, vì theo cơ chế thị trường thì giá hàng xuất khẩu phải giảm khoảng 20 - 30%, trong khi giá hàng nhập khẩu vẫn như cũ. Việc thanh toán bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi cũng sẽ làm cho giá thành nhập khẩu từ Liên Xô tăng lên. Ngoài ra, trong quan hệ thanh toán do chưa có cơ chế thanh toán và thiếu ngoại tệ nên giữa ta, Liên bang Nga và các nước SNG chủ yếu thực hiện hàng đổi hàng. Nhưng việc đổi hàng cũng gặp không ít khó khăn. Nhiều đơn vị kinh tế cùng nhau ký kết được những hợp đồng hàng đổi hàng mà theo tính toán có lợi cho cả hai bên, nhưng những hợp đồng này nhiều khi không thực hiện được do chính sách của Liên bang Nga có sự thay đổi (về thuế hoặc các qui định về mặt hàng được phép xuất, nhập khẩu), hoặc do vận tải: nhiều năm ta luôn giao hàng theo điều kiện FOB, mua hàng theo điều kiện CIF và nhận được nhiều ưu đãi của bạn trên cơ sở Hiệp ước Thương mại hàng hải ký ngày 12/3/1958, giờ đây, chúng ta xuất hàng theo điều kiện CIF và phải tự bỏ ngoại tệ để nhập hàng về theo điều kiện CIF trong hoàn cảnh ngoại tệ mạnh trở nên khan hiếm đối với cả hai bên; hơn thế, Nga ở quá xa nên chi phí vận tải lớn dẫn đến giá thành cao hơn nhiều so với hàng nhập từ các nước châu á.
Như vậy, từ chỗ là thị trường xuất nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam, Liên bang Nga đã mất hẳn vai trò dẫn đầu trong kim ngạch ngoại thương của Việt Nam. Đây thực sự là giai đoạn khó khăn nhất trong quan hệ kinh tế – thương mại giữa Việt Nam và Liên bang Nga.
Tuy nhiên, khoảng thời gian tạm thời bị thu hẹp đã nhanh chóng được khắc phục. Ngay từ tháng 6 năm 1992 Việt Nam và Liên bang Nga đã ký được Biên bản về hợp tác thương mại. Theo biên bản này, các thanh toán hàng hoá theo mọi hợp đồng được thực hiện theo giá hiện hành của thế giới và bằng ngoại tệ có khả năng chuyển đổi. Như vậy, quan hệ thương mại giữa hai nước được thiết lập dựa trên nguyên tắc bình đẳng, trao đổi ngang giá, cùng có lợi.
Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Liên bang Nga đã tăng dần lên, đặc biệt từ năm 1997 đến năm 1999. Năm 1999 tuy xuất khẩu có giảm đi chút ít nhưng nhập khẩu vẫn tăng. Để đạt được kết quả đó, ngoài những nguyên nhân chủ quan do nỗ lực của cả hai phía còn có nguyên nhân khách quan không kém phần quan trọng: đó là ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á vào năm 1997. Khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á khiến chúng ta một lần nữa nhận ra tầm quan trọng của thị trường các nước Đông Âu và Liên Xô cũ, đồng thời cũng cho ta thấy một thực tế là quá phụ thuộc vào một thị trường nào dù quy mô lớn đến đâu cũng sẽ đưa đến những khó khăn lớn khi thị trường đó có sự xáo động.
Cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hoá với Nga trong giai đoạn này vẫn thiên về nhập khẩu là chủ yếu, mặt hàng nhập khẩu chủ yếu trong giai đoạn này là những mặt hàng mà Việt Nam có nhu cầu lớn nhưng chưa có khả năng sản xuất như ô tô, xe máy, thiết bị, phụ tùng, nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho sản xuất của các ngành công nghiệp trong nước. Trong số 11 mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của giai đoạn này là khối lượng nhập khẩu máy móc thiết bị, phương tiện vận tải nguyên vật liệu nhìn chung tăng dần qua các năm, đặc biệt là sắt thép các loại, nhôm, phân bón, chất dẻo. Hàng tiêu dùng chủ yếu là vải may mặc và xe máy nguyên chiếc nhưng khối luợng nhập khẩu không lớn lắm.Từ năm 1996 trở đi, một số mặt hàng như phân bón, sắt, thép có khối lượng nhập khẩu tăng nhanh, trong khi các mặt hàng ô tô nguyên chiếc và xăng dầu các loại lại giảm xuống.
Về xuất khẩu, kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và Liên bang Nga cũng tăng dần qua các năm. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang thị trường Nga trong giai đoạn này chủ yếu vẫn là hàng nông sản, hàng tiểu thủ công nghiệp và hàng gia công chế biến.
Giai đoạn 1992 - 1995 có khối lượng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Nga có sự biến động thất thường. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là quan hệ buôn bán Việt – Nga mới bước đầu được khôi phục, nên nhìn chung chưa ổn định, lượng hàng hoá trao đổi không nhiều. Năm 1998 chúng ta xuất khẩu thêm một số các mặt hàng mới là giầy dép, hạt điều. Các hàng gạo, cà phê, hàng dệt may có kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng, trong đó gạo, cà phê có tốc độ tăng khá cao (tương ứng 45% và 74%/năm). Một số mặt hàng như cao su, rau quả, chè lại có xu hướng giảm. Về cơ bản, các sản phẩm xuất khẩu của chúng ta vẫn ở dạng thô, hàm lượng công nghệ thấp, chất lượng chưa cao, bao bì mẫu mã còn kém hấp dẫn. Đó là những nguyên nhân làm giảm khả năng canh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường Nga nói riêng và thị trường thế giới nói chung. Hiện nay các mặt hàng xuất khẩu sang Nga dần được đa dạng hơn như xuất khẩu các mặt hàng thuỷ hải sản…
Chuyến thăm chính thức Liên bang Nga của chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam – Trần Đức Lương tháng 8 năm 1998 là một mốc quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới được mở rộng trong quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa hai nước. Trong thời gian này đã mở ra những hy vọng mới, lạc quan hơn về khả năng hợp tác toàn diện Việt Nam – Liên bang Nga, trong đó có hợp tác thương mại đầu tư ngày càng được mở rộng.
2.2.1.2. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay
Cho đến trước năm 2000, quan hệ thương mại Việt Nam – Liên bang Nga vẫn chưa có những thay đổi đáng kể. Một bước ngoặt quan trọng trong quan hệ Việt – Nga nói chung và quan hệ thương mại nói riêng, được đánh dấu bằng sự kiện Thủ tướng Chính phủ CHXHCN Việt Nam Phan Văn Khải sang thăm Nga vào tháng 9 năm 2000. Trong chuyến thăm này một loạt Hiệp định đã được ký kết, tạo cơ sở pháp lý cho việc mở rộng hợp tác hợp tác song phương. Chuyến thăm chính thức Việt Nam của Tổng thống Nga V. Putin vào 3/2001 lần 1, lần 2 vào tháng 11 năm 2006 với việc Tuyên bố chung Nga – Việt và một loạt các Hiệp định được ký kết lại một lần nữa củng cố và tạo dựng thêm cơ sở pháp lý cho một số lĩnh vực hợp tác mũi nhọn, nhất là phát triển hợp tác thương mại. Tháng 9 năm 2007 thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đến thăm chính thức Nga theo lời mời của Tổng thống V. Putin càng thắt chặt thêm tình hữu nghị hợp tác thương mại giữa hai nước.
Chiều 11/9/2007, tại điện Cremli, Tổng thống Liên bang Nga tiếp Thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng (ảnh: P. Tuấn)
Theo số liệu của Bộ Phát triển Kinh tế Nga hoạt động ngoại thương giai đoạn 2000-2007 diễn ra trong bối cảnh hiệu quả kinh doanh tăng cao và nhu cầu nội địa được mở rộng, trong điều kiện tình hình kinh tế thế giới hết sức thuận lợi. Kim ngạch ngoại thương năm 2005 tăng lên đến hơn 1 tỷ USD , tăng 15%, so với những năm 90 khi kim ngạch thương mại là 350 - 400 triệu USD. Tốc độ tăng trưởng ngoại thương năm 2005 được giải thích bởi khối lượng xuất khẩu giảm do giá trên thị trường của các mặt hàng năng lượng và các mặt hàng khác giảm.
Nhìn chung theo đánh giá của Bộ phát triền kinh tế Nga thì kim ngạch ngoại thương năm 2008 sẽ tăng lên. Cho đến năm 2006 kim ngạch xuất nhập khẩu đạt gần 500 tỷ USD.
Xuất khẩu từ 2000 – 2001 đạt khối lượng cao nhất, tuy nhiên năm 2001 nhập khẩu tăng với tốc độ cao. Trong bối cảnh giảm tỷ giá của đồng Rúp thì hiệu quả của các thương vụ xuất khẩu tăng lên đáng kể. Mặc dù nhu cầu trong nước ngày càng lớn, song lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu không ngừng tăng đã làm cho hạn ngạch xuất khẩu trong công nghiệp phát triển khai thác và trong các ngành kinh tế mũi nhọn.
Bộ Phát triển Kinh tế và Thương mại Liên bang Nga cho biết, kim ngạch buôn bán giữa hai nước trong năm 2001 đạt hơn 517 triệu USD, tăng 60% so với năm trước đó. Khối lượng trao đổi hàng hoá giữa Việt Nam và Nga 6 tháng đầu năm 2002 đạt gần 330 triệu USD, tăng 40% so với cùng kỳ năm 2001, trong năm 2002 - 2003, con số này tăng lên 700 - 800 triệu USD; năm 2004 đạt 820 triệu USD, đến năm 2006 con số này là 650,9 triệu USD.
Bảng 2.5: Kim ngạch ngoại thương Việt Nam – Liên bang Nga
(Đơn vị: Triệu USD)
Năm
Kim ngạch XK của Việt Nam
Kim ngạch NK từ Nga
Tổng Kim nghạch XNK
1996
85
186,5
271,5
1997
125
158
283
1998
126,2
216,3
342,2
1999
115
245,6
360,6
2000
123
240,5
363,5
2001
195
376,8
571,8
2002
187,4
501
688,4
2003
160
492
652
2004
170
650
820
2006
349,3
303,6
652,9
Nguồn: Trung tâm Thông tin Thương mại – Bộ Công Thương – 2007
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt - Nga
Biểu đồ 2.5: Kim ngạch ngoại thương Việt Nam - Liên bang Nga (triệu USD)
Năm 2006, Việt Nam nhập khẩu từ Nga khoảng 349,3 triệu USD và Việt Nam xuất khẩu sang Nga 303,6 triệu USD. Cũng như trước đây, Việt Nam nhập khẩu của Nga chủ yếu là máy móc, thiết bị toàn bộ cho ngành điện và khai thác dầu lửa, ô tô tải và phụ tùng, kim loại đen và các sản phẩm kim loại, phân hoá học, sản phẩm hoá học và dầu mỏ. Bộ phát triển Kinh tế và Thương mại Nga cho rằng, mức độ gia tăng khối lượng hàng xuất khẩu của Nga sang Việt Nam còn hạn chế vì phí vận tải rất tốn kém, hơn nữa có sự cạnh tranh quyết liệt từ phía Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, các nước Tây Âu và Mỹ. Nga nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu là nguyên liệu như cao su, dược thảo, đồ gia vị, các mặt hàng thực phẩm như chè, cà phê, gạo, thịt, mì ăn liền và nhu yếu phẩm. Trong năm 2000, Liên bang Nga đứng thứ 21 về xuất khẩu và đứng thứ 14 về nhập khẩu của Việt Nam, còn quá thấp so với tiềm năng và thế mạnh của hai nước.
Do bối cảnh kinh tế thế giới và khu vực sẽ còn suy giảm, ảnh hưởng không nhỏ đến sự tăng trưởng xuất khẩu của các mặt hàng chủ yếu như dệt may, da giầy, hàng điện tử, hàng nông sản,… thì việc đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Nga là một công việc trọng tâm. Điều này xuất phát từ thực tế là sau một thời gian dài suy thoái, thì nền kinh tế Nga đã đạt được thành tựu tăng trưởng bền vững trong gần 8 năm trở lại đây. Cụ thể, GDP năm 2003 tăng 7,3%; năm 2004 và năm 2005 mức tăng là 7,5%; năm 2006 đạt 6,7%; năm 2007 đạt 8,1%. Điều này có nghĩa là thị trường Nga ngày càng phát triển ổn định và Nga sẽ là một thị trường có triển vọng đang lên và nhu cầu chắc chắn vẫn tiếp tục tăng. Mặt khác, việc đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường này không những giúp nước ta có thêm thị trường để phát triển sản xuất, mà còn có thể giảm mạnh được tỷ lệ nhập siêu đã quá lớn hiện nay.
Quan hệ thương mại kim ngạch trao đổi hai bên từ chỗ 350 – 400 triệu USD vào những năm 90 và đã lên tới hơn 1 tỷ USD năm 2005, trung bình tăng 15%/ năm và Việt Nam luôn là nước nhập siêu. Nhưng từ năm 2006 trở lại đây tỷ lệ nhập siêu giảm đi đáng kể.
2.2.2. Các mặt hàng xuất nhập khẩu chủ yếu của Nga sang Việt Nam
2.2.2.1. Xuất khẩu
Bảng 2.6: Một số mặt hàng xuất khẩu chính của Nga sang Việt Nam( 2006)
Mặt hàng
Trị giá (Nghìn USD)
Tốc độ tăng trưởng từ 2002-2006 (%)
Tổng xuất khẩu
303.630
5
Nhiên liệu thô, dầu khí, sản phẩm chưng cất
106.429
57
Sắt thép
82.109
- 4
Thiết bị cho lò phản ứng hạt nhân, nồi hơi, nồi chưng cất, thiết bị và máy móc,…
19.886
2
Phân bón
12.017
- 8
Thiết bị điện, điện tử
10.616
23
Nguồn: Bộ Công Thương, Trung tâm Thông tin Thương mại, 2007
Nhờ việc giá khí thiên nhiên tăng cho nên thu nhập ngoại tệ từ việc xuất khẩu gas trong những năm gần đây sẽ tăng. Tuy nhiên, do giá của các mặt hàng năng lượng khác giảm nên tổng mất mát từ việc thay đổi giá của nhiên liệu khoáng đạt 3,2 tỷ USD.
2.2.2.2. Nhập khẩu:
Khối lượng nhập khẩu tăng tạo điều kiện ổn định tỷ giá ngoại tệ và củng cố đồng rúp, thống nhất thuế nhập khẩu, dẫn đến giảm lượng thuế trong giá các mặt hàng nhập khẩu, mở rộng tiêu dùng trong nước và nhu cầu đầu tư.
Bảng 2.7: Những mặt hàng nhập khẩu chính của Nga từ Việt Nam năm 2006
Các sản phẩm chính
% Tổng NK (nghìn USD)
Tăng trưởng (2002 – 2006)
Các sản phẩm chính (% của KNNK theo lĩnh vực)
Tổng nhập khẩu
137,727,919
31%
Nhập khẩu từ Việt Nam
349,295
(0,25%)
45%
Cá, tôm, cua, ghẹ, động vật mềm…
106,173
(30,39%)
159%
Cá phi lê, miếng tươi hay đông lạnh (83,77%), cá xông khói, cá thịt ăn kiêng (7,74%); loại khác (8,48%)
Giày dép
41,745
(11,95%)
93%
Giày da (62,21%); giày dép vải bố (18,09%); giày dép đế bằng nhựa và cao su (16,47%); loại khác 3,33%)
Càfê, trà và gia vị
41,738
(11,95%)
26%
Càfê (70,27%); trà (24,53%); tiêu bột và tiêu hạt (4,9%); gia vị khác (0,29%)
Các loại quần áo, trang phục
25,891
(7,41%)
92%
Quần áo nam nữ (52,1%); Vest nam nữ 24,6%; loại khác (7,95%)
Ngũ cốc
17,974
(5,15%)
3%
Gạo (100%)
Nguồn: Bộ Công Thương, Trung tâm Thông tin Thương mại, 2007
Nga nhập khẩu chủ yếu là máy móc và thiết bị mà tỷ trọng của các mặt hàng này năm 2002 chiếm 37 tỷ USD, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm 2001, nhập khẩu các sản phẩm chế tạo máy tăng 28,8%. Năm 2001, nhập khẩu máy móc, thiết bị và các phương tiện vận tải đạt 14 tỷ USD, tăng 31,7%, trong đó, nhập khẩu ô tô con tăng 1,6 lần, đạt 115 chiếc và nhập khẩu xe ô tô tải tăng 1,6 lần. Năm 2006 kim ngạch nhập khẩu 164,7 tỷ USD.
2.2.3. Cơ cấu xuất nhập khẩu
Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Nga đã và đang có sự chuyển biến theo hướng đa dạng hơn so với trước, bởi ngoài các mặt hàng truyền thống như nông sản thì hiện nay Việt Nam xuất sang Nga cả những mặt hàng hải sản và thủ công mỹ nghệ, những mặt hàng truyền thống. Nhìn chung hàng hoá của Việt Nam xuất sang Nga phần lớn là những mặt hàng có mức thuế thấp, việc xuất khẩu những mặt hàng này có lợi thế nhất định cho các doanh nghiệp Việt Nam. Các mặt hàng chủ lực của Việt Nam chủ yếu là hải sản, giầy dép, hàng dệt may, cà phê, hạt tiêu, điều, gạo, cao su, chè, rau quả, hàng thủ công mỹ nghệ.
Bảng 2.8: Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Nga (triệu USD)
Mặt hàng
2004
2005
2006
2007
Hải sản
10,9
21,0
128,7
118,6
Giày dép
8,1
4,7
18,7
28,3
Dệt may
44,8
29,8
62,4
78,3
Thủ công mỹ nghệ
2,7
3,1
4,0
10,0
Rau quả
0,8
12,8
22,0
22,4
Hạt tiêu
6,2
6,0
8,1
13,1
Hạt điều
4,4
9,2
18,1
21,6
Gạo
29,3
10,8
17,3
13,4
Chè
6,8
6,8
10,1
11,8
Cà phê
0,2
0,7
12,6
27,6
Nguồn: Bộ Công Thương, Trung tâm Thông tin Thương mại, 2007
Các mặt hàng từ Nga được nhập khẩu về Việt Nam, với một nền kinh tế phát triển, Nga có khả năng cung cấp cho Việt Nam rất nhiều hàng hoá quan trọng từ máy móc thiết bị đến nguyên liệu cần thiết. Chính vì vậy khi mở rộng quan hệ với Nga thì Việt nam có thể nhập trực tiếp các mặt hàng đó.
Bảng 2.9: Các mặt hàng nhập khẩu chính của Việt Nam từ Nga (TriệuUSD)
Mặt hàng
2004
2005
2006
2007
Xăng dầu
0,1
129,9
128,7
162,7
Phân bón
69,5
42,8
53,3
55,7
Gỗ và các sản phẩm gỗ
2,7
2,1
1,6
2,0
Nguyên phụ liệu dệt may
1,2
1,0
0,9
0,2
Sắt thép
329,7
405,7
141,4
179,3
Linh kiện điện tử
2,2
0,4
1,3
0,4
Ôtô nguyên chiếc
23,2
13,9
7,1
4,4
Hoá chất
0,7
1,7
5,5
3,7
Nguồn: Bộ Công Thương, Trung tâm Thông tin Thương mại, 2007
2.2.4. Đánh giá chung
2.2.4.1. Trong giai đoạn trước
Nhìn chung nhịp độ tăng trưởng thương mại giữa hai nước vẫn chưa bằng thời kỳ còn tồn tại Liên Xô và càng chưa tương xứng với quan hệ truyền thống và tiềm năng của hai nước. Quan hệ buôn bán hai chiều giữa Việt Nam và Liên bang Nga từ năm 1991 đến nay có thời kỳ giảm, có thời kỳ tăng đáng kể, nhưng nếu so sánh với trị giá xuất khẩu và trị giá nhập khẩu của cả nước thì mức độ buôn bán hai chiều giữa Việt Nam và Liên bang Nga còn ở mức độ quá thấp. Vì sao Việt Nam và Liên bang Nga, cả hai nước có tiềm năng lớn về sản xuất hàng hoá, nhưng kim ngạch buôn bán giữa hai nước còn ở mức độ thấp, nhất là thời kỳ đầu của những năm 90. Tình hình này có thể được giải thích bằng những lý do cơ bản sau:
Trong giai đoạn đầu của những năm 90 (1991-1993), quan hệ Việt Nam – Liên bang Nga, trong đó có quan hệ kinh tế – thương mại bị ngưng trệ. Nguyên nhân của sự ngưng trệ này là do chính sách đối ngoại mà theo đó mọi quan hệ kinh tế của Nga thời kỳ này chỉ chú trọng tới quan hệ với các nước châu Âu - Đại Tây Dương, mà trước hết là Mỹ, nghĩa là chính sách đối ngoại “định hướng Đại Tây Dương”, còn quan hệ với các nước bạn bè truyền thống trong đó có Việt Nam gần như bị lãng quên. Nga đã coi Việt Nam như một nước cần phải trả nợ, chứ không phải một đối tác để làm ăn. Việt Nam khi đó rất khó khăn trong việc tìm kiếm các đối tác thương mại mới, cho nên đã nhanh chóng mở rộng quan hệ thương mại của mình với các nước láng giềng trong khu vực.
Về nhập khẩu từ Nga, nhìn chung có tiến triển tốt, (trừ năm 1995 bị giảm mạnh tới 49,9% so với năm 1994), không phải do Việt Nam không có khả năng mua hàng hoá của Nga theo giá cả thế giới, mà là do: sự giảm sút của các xí nghiệp Nga trước đây vẫn sản xuất hàng xuất khẩu sang Việt Nam, tính cạnh tranh gay gắt ở thị trường Việt Nam, chất lượng hàng hóa của Nga thường thua kém so với hàng hoá của các nước tư bản đang được lưu thông trên thị trường Việt Nam, thuế xuất khẩu, chi phí vận tải hàng hoá ở Nga cũng cao, hơn nữa khả năng tự trang trải về tài chính của các doanh nghiệp Nga thời kỳ đó quả thực rất khó khăn.
Những phân tích ở trên chứng tỏ rằng quan hệ thương mại Việt Nam – Liên bang Nga là quan hệ hợp tác truyền thống, sau thời kỳ Liên Xô tan rã, mà cụ thể là giai đoạn 1991-1999, do những hoàn cảnh lịch sử, chính trị, kinh tế của mỗi nước mà quan hệ thương mại giữa hai nước tạm thời bị thu hẹp. Hiện nay Việt Nam đang là một trong những bạn hàng chính của Nga ở Đông Nam á, chiếm khoảng 15% khối lượng buôn bán hai chiều giữa Nga với khu vực Đông Nam á, và 20% buôn bán của Nga với ASEAN. Nhu cầu về hàng hóa trên thị trường đối với hai nước rất lớn, Việt Nam vẫn là một thị trường quan trọng và có nhiều triển vọng đối với các sản phẩm xuất khẩu truyền thống của Nga, như máy móc, thiết bị, phụ tùng, phương tiện vận tải, dầu lửa, sắt thép, phân bón, bông sợi… Riêng kim loại đen và phân bón chiếm tới hơn 50% nhập khẩu của Việt Nam từ Nga. Ngược lại, Việt Nam cũng là nguồn cung cấp nhiều sản phẩm truyền thống mà thị trường Nga vốn ưa thích như: lương thực, thực phẩm, cao su, chè, cà phê, rau quả nhiệt đới, giầy dép, hàng may mặc, hàng thủ công mỹ nghệ… Tuy nhiên, Nga là thị trường ngày càng khó khăn hơn cho doanh nghiệp Việt Nam vì khó thâm nhập và có độ rủi do cao.
2.2.4.2. Trong giai đoạn hiện nay
Kim ngạch thương mại hai chiều vượt được 1 tỷ USD năm 2005 nhưng sau đó lại theo chiều đi xuống và năm 2007 khó đạt được con số 1 tỷ USD. Nga cũng chỉ có 40 dự án đầu tư vào Việt Nam. Vì thế hai nước xác định đạt kim ngạch 5 tỷ USD vào năm 2010 USD.
Trong giai đoạn 1991- 2006, Việt Nam và Nga đã ký 50 văn kiện hợp tác song phương. Quan hệ Việt Nam và Nga đã có bước phát triển tích cực. Kim ngạch thương mại hai nước năm 2006 đạt 800 triệu USD, Việt Nam xuất sang Nga chủ yếu là hạt điều, hoa quả, cà phê, gạo, thuỷ sản đông lạnh, hàng dệt may, giầy dép và nhập khẩu từ Nga các mặt hàng sắt, thép, phân bón, xăng dầu và máy thiết bị … Dầu khí và năng lượng là lĩnh vực hợp tác truyền thống và hiệu quả đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách hai nước và là hướng ưu tiên trong quan hệ thương mại của hai nước.
Để tăng cường sự có mặt của hàng hóa của Việt Nam tại Nga và ngược lại, các khoá họp thường niên của Uỷ ban liên chính phủ được tổ chức lần lượt ở hai nước nhằm báo cáo tình hình quan hệ hai bên, đồng thời đưa ra các biện pháp cấp thiết nhằm tăng cường quan hệ thương mại hai bên. Chúng ta có thể tin tưởng vào tương lai tốt đẹp của quan hệ thương mại Việt Nam – Liên bang Nga trong những năm tới.
Hiện nay năm 2008 tổng thống mới đắc cử ông Đ.Medvedev do tổng thống Putin bổ nhiệm đang thiết lập một chính sách kinh tế, ngoại thương mới. Hi vọng quan hệ hợp tác thương mại song phương giữa hai nứơc sẽ đẩy lên một tầm cao mới. Chuyến thăm của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vào tháng 9 năm 2007 đã thắt chặt mối quan hệ truyền thống giữa hai nước, và chắc chắn tình hợp tác hữu nghị sẽ đựơc nâng lên một tầm cao mới. Buôn bán hai chiều Việt – Nga sẽ đạt 5 tỷ USD như chuyến thăm Liên bang Nga của thủ tướng nước ta 9/2007 đã đề ra.
Chương 3
Triển vọng và một số giải pháp thúc đẩy quan hệ Thương mại Việt – Nga
3.1. Triển vọng hợp tác Việt – Nga
3.1.1. Những căn cứ
Để có thể đánh giá một cách chính xác triển vọng hợp tác kinh tế – thương mại giữa hai nước Việt Nam và Liên bang Nga, chúng ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28534.doc