Kinh tế hộ nông dân & nguồn vốn để phát triển kinh tế hộ nông dân

A. Mở đầu Là một nước nông nghiệp, trong quá trình Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Hơn mười năm qua, thực hiện đường lối chính sách đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định rõ tầm quan trọng của nông nghiệp nông thôn Việt Nam. Mặc dù còn có nhiều khó khăn nhưng Đảng và Nhà nước vẫn cố gắng đầu tư cho lĩnh vực này bằng các nguồn vốn: ngân sách Nhà nước, vốn từ các thành phần kinh tế khác, đầu tư từ nước ngoài nhưng trong đó ngân sách Nhà nước có vai trò lớn nhất ( chiếm 2

doc13 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1961 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Kinh tế hộ nông dân & nguồn vốn để phát triển kinh tế hộ nông dân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
7% tổng đầu tư ), đồng thời có các chính sách ưu tiên và điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp nông thôn ở nước ta. Theo định hướng phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta, kinh tế hộ nông dân và nền kinh tế nhiều thành phần tồn tại lâu dài trong quá trình Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, mội thành phần kinh tế đều có vai trò, vị trí quan trọng và đều được khuyến khích phát triển theo định hướng XHCN. Có thể thấy rằng kinh tế hộ nông dân không thể tách rời nền kinh tế quốc dân, nó chính là bộ phận quan trọng hợp thành của nền kinh tế quốc dân. Với mong muốn tìm hiểu rõ hơn về loại hình kinh tế này nên em đã chọn đề tài tiểu luận: “Kinh tế hộ nông dân và nguồn vốn để phát triển kinh tế hộ nông dân”. Trong phạm vi của tiêu luận em chỉ đi vào phân tích những khái niệm cơ bản về loại hình kinh tế hộ nông dân và nguồn vốn ( nguồn vốn tài chính ) để phát triển nó mà không đi sâu vào phân tích những vấn đề khác. Kết cấu của tiểu luận gồm 2 phần: 1. Vấn đề phát triển kinh tế hộ nông dân 2. Vấn đề nguồn vốn để phát triển kinh tế hộ nông dân. Do kiến thức còn hạn hẹp nên chắc chắn tiểu luận của em không thể tránh được những hạn chế và thiếu sót. Em kính mong các thầy cô xem xét và góp ý. Em xin chân thành cám ơn!. b. Nội dung 1. Vấn đề phát triển kinh tế hộ nông dân: Khái niệm và phân loại hình thức kinh tế hộ nông dân: Khái niệm và những đặc trưng cơ bản của kinh tế hộ nông dân: Từ lâu chúng ta quan niệm: Hộ gia đình ở nông thôn làm nông nghiệp được gọi là nông hộ. Phát triển kinh tế hộ nông dân là phát triển kinh tế gia đình nông dân. Hầu như tất cả các hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp ở nông thôn chủ yếu được thực hiện thông qua hoạt động của nông hộ. Từ đó ta có thể hiểu kinh tế hộ nông dân ( kinh tế nông hộ ) là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền sản xuất xã hội trong đó các nguồn lực như đất đai, lao động, tiền vốn và tư liệu sản xuất được coi là của chung để tiến hành sản xuất. Những thành viên trong nông hộ có cùng chung một ngân quỹ, cùng ở, sinh hoạt chung một nhà. Mọi quyết định sản xuất kinh doanh và đời sống phụ thuộc vào chủ hộ. Được Nhà nước thừa nhận và hỗ trợ tạo điều kiện để phát triển. Do vậy hộ không thuê lao động, không có khái niệm tiền lương và không tính được lợi nhuận, địa tô và lợi tức. Nông hộ chỉ có thu nhập của tất cả các hoạt động kinh tế. Đó là sản lượng thu được hàng năm của hộ trừ đi chi phí mà hộ đã bỏ ra phục vụ sản xuất. Kinh tế nông hộ tồn tại độc lập với các phương thức sản xuất xã hội, nên khi phương thức xã hội nào đó bị thủ tiêu thì kinh tế nông hộ vẫn tồn tại. Nó có một số đặc trưng cơ bản là: Có sự thống nhất chặt chẽ giữa quyền sở hữu với quá trình quản lý sử dụng các yếu tố sản xuất do sở hữu trong nông hộ là sở hữu chung. Mặt khác do sở hữu trong nông hộ dựa trên cơ sở kinh tế chung và chung một ngân quỹ nên hiệu quả sử dụng lao động trong kinh tế nông hộ cao. Lao động quản lý và lao động trực tiếp trong nông hộ có sự gắn bó chặt chẽ. Trong nông hộ, chủ hộ thường vừa là người điều hành quản lý đồng thời lại là người trực tiếp tham gia lao động sản xuất nên tính thống nhất giữa lao động quản lý và lao động trực tiếp cao. Do kinh tế nông hộ thường được tổ chức với quy mô nhỏ hơn các loại hình doanh nghiệp nông nghiệp khác nên sự điều hành sản xuất và quản lý cũng đơn giản gọn nhẹ. Đồng thời thời tăng khả năng thích nghi và tự điều chỉnh rất cao. Nếu gặp điều kiện thuận lợi thì hộ tập trung nhân lực, thậm chí còn bớt khẩu phần tất yếu của mỗi thành viên để mở rộng quy mô sản xuất. Còn nếu gặp khó khăn thì thu hẹp quy mô sản xuất bằng cách quay về sản xuất tự cung tự cấp. Có sự gắn bó chặt chẽ giữa quá trình sản xuất với lợi ích của người lao động. Do mọi thành viên trong nông hộ gắn bó với nhau cả trên cơ sở kinh tế và huyết tộc nên kết quả sản xuất kinh doanh ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích kinh tế thực sự trở thành động lực thúc đẩy phát triển sản xuất của mỗi cá nhân, là nhân tố nâng cao hiệu quả sản xuất của kinh tế nông hộ. Sự phân loại kinh tế nông hộ: Kinh tế nông hộ được chia thành bốn loại căn cứ vào tính chất, đặc diểm sau: a) Căn cứ vào mục tiêu và cơ chế hoạt động: Hộ nông dân hoàn toàn tự cấp không phản ứng với thị trường: loại hộ này có mục tiêu là tối đa hoá lợi ích, tự cấp tự túc những sản phẩm cần thiết để phục vụ trong gia đình. Hộ nông dân bắt đầu có phản ứng với thị trường: loại hộ này còn gọi là “ nửa tự cấp ”, ở đây hộ có phản ứng với thị trường , giá cả nhưng ở mức độ thấp. Hộ nông dân sản xuất hàng hoá là chủ yếu: loại hộ này mục tiêu là tối đa hoá lợi nhuận được biểu hiện rõ rệt và họ có phản ứng gay gắt với thị trường vốn, đất đai, lao động... b) Theo tính chất sản xuất: Hộ thuần nông: là loại hộ chỉ thuần tuý sản xuất nông nghiệp. Nông hộ kiêm: là loại hộ vừa làm nông nghiệp vừa làm nghề tiểu thủ công nghiệp. Nông hộ chuyên: là loại hộ làm dịch vụ kỹ thuật cho nông nghiệp ( cơ khí, mộc, rèn, sản xuất vật liệu xây dựng, vận tải...) Nông hộ buôn bán: loại hộ này tập trung ở nơi đông dân cư, họ có quầy hàng riêng hoặc buôn bán ở chợ. Các loại hộ trên không ổn định mà có thể thay đổi khi điều kiện cho phép. c) Căn cứ vào mức thu nhập của nông hộ: Hộ giàu Hộ khá Hộ trung bình Hộ nghèo Hộ đói Sự phân biệt này thường dựa vào quy định chung hoặc quy định riêng ở từng địa phương. d) Căn cứ vào tính chất ổn định của tình trạng ăn ở và canh tác: Hộ du canh du cư Hộ du canh định cư Hộ định canh du cư Hộ định canh định cư Sư phân loại này tồn tại ở các huyện vùng cao phía Bắc, ở Tây Nguyên... 1.2. Vai trò và ý nghĩa của việc phát triển kinh tế hộ nông dân với ngành nông nghiệp – nông thôn Việt Nam Muốn phát triển nông nghiệp – nông thôn không thể không bàn đến nông dân, nhất là với các nước chưa phát triển như nước ta.Nông dân quản lý và sử dụng đại đa số các nguồn lực sản xuất: đất đai, lao động, tư liệu sản xuất ( chiếm khoảng 80% dân số và trên 70% lao động xã hội ). Mức GDP trong nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn 35% so với tổng thu nhập . Do đó khi nghiên cứu nền kinh tế quốc dân ta không thể không nghiên cứu kinh tế hộ nông dân ( kinh tế nông hộ ). Kinh tế nông hộ đã góp phần làm tăng nhanh sản lượng sản phẩm cho xã hội như lương thực, thực phẩm, các sản phẩm cây công nghiệp, nông sản xuất khẩu...ở nước ta, kinh tế nông hộ tuy quy mô còn nhỏ, phân tán và lượng vốn còn ít nhưng đã cung cấp cho xã hội: + 95% sản lượng thịt. + 90% lượng trứng. + 93% sản lượng rau quả. + Sản xuất nông hộ chiếm 48% giá trị tổng sản lượng của ngành nông nghiệp. Góp phần sử dụng đầy đủ và có hiệu quả các yếu tố sản xuất như đất đai, lao động, tiền vốn và tư liệu sản xuất. Tăng thêm việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân ở nông thôn. Bằng nhiều biện pháp cụ thể, Đảng và Nhà nước ta đã tạo điều kiện cho kinh tế nông hộ phát triển: mở rộng quyền tự chủ kinh doanh cho nông hộ, giảm bớt những thủ tục phiền hà trong việc huy động vốn để phát triển kinh tế....Kinh tế nông hộ nhờ đó mà cũng đã có một số thay đổi lớn, làm cho sản lượng lương thực qua các năm không ngừng tăng lên. Giá trị nông sản xuất khẩu tăng gần 6 lần trong 10 năm đổi mới: từ 542 triệu USD( 1987 ) lên 3.200 triệu USD( 1996 ) chiếm 45% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước ( Theo đánh giá của Ban nông nghiệp TW ). 2. Vấn đề nguồn vốn trong phát triển kinh tế nông hộ: 2.1. Vai trò của nguồn vốn trong để phát triển kinh tế nông hộ: Xét trong phạm vi doanh nghiệp, vốn là toàn bộ giá trị tài sản được thể hiện dưới dạng tài sản cố định và tài sản lưu động. Còn ở đây, với phạm vi đề cấp là nguồn vốn để phát triển kinh tế hộ nông dân thì vốn được hiểu là giá trị của tất cả các tài sản đầu vào dùng trong quá trình sản xuất của nông hộ. Hay nói một cách khác là toàn bộ khả năng của nông hộ dùng vào quá trình tái sản xuất.Khả năng đó được thể hiện dưới hình thức: tiền, tài sản, sản phẩm dùng vào sản xuất được sản xuất ra trước đó. Đó là kết quả của quá trình sản xuất trước là chủ yếu. Do vậy ta cũng có thể hiểu vốn của nông hộ để phát triển kinh tế là sản phẩm của quá trình tái sản xuất của kinh tế nông hộ. Vốn có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế hộ nông dân. Nhờ có vốn mà hộ nông dân đã có thể đầu tư lớn hơn vào tái sản xuất mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế, đa dạng hoá sản phẩm...Ngoài ra, người nông dân còn tạo được những điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất: Khắc phục được những hạn chế rủi ro do thiên nhiên gây ra bằng cách xây dựng các công trình thuỷ lợi, hệ thông tưới tiêu... Giải quyết vấn đề cải tạo đất đai ( chua phèn, nhiễm mặn...) Mua những loại giống tốt cho năng suất cao. Mở rộng sản xuất bằng việc trồng thêm các loại cây ăn quả, chăn nuôi các loại gia súc gia cầm... Phân loại nguồn vốn để phát triển kinh tế hộ nông dân: Theo tính chất sở hữu: - vốn tự có - vốn đi vay Theo hình thái biểu hiện: - Vốn bằng tiền. - Vốn bằng hiện vật. Theo mục đích sử dụng: - vốn dùng vào sản xuất - vốn dùng cho đời sống và tiêu dùng khác Theo thời hạn vốn vay: - vay ngắn hạn - vay trung hạn - vay dài hạn. Trong những năm gần đây, kinh tế hộ nông dân với chiều hướng ngày càng được mở rộng và phát triển có hiệu quả, nên việc huy động tạo được nguồn vốn cần thiết và hợp lý để phát triển sản xuất có ý nghĩa quan trọng đối với từng hộ nông dân. Trên cơ sở đó, Đảng và Nhà nước đã có những chính sách, cụ thể, đặc biết là chính sách mở rộng cho vay, mượn vốn, mở rộng tín dụng nông thôn để tạo điều kiện cho các nông hộ có điều kiện phát triển sản xuất. 2.2. Cách thức huy động và tạo nguồn vốn để phát triển kinh tế hộ nông dân: Khi hộ nông dân muốn tiến hành phát triển sản xuất kinh tế, ngoài các yếu tố đặc thù cơ bản của ngành nông nghiệp sản xuất ( ruộng, đất đai, lao động, tư liệu sản xuất...) thì hộ nông dân còn cần phải có nguồn tài chính thích hợp với quy mô sản xuất của mình. Để tạo được nguồn tài chính đó, hộ nông dân có thể huy động, tạo ra từ các nguồn chủ yếu sau: Phần tiết kiệm từ quá trình sản xuất của hộ Tiết kiệm = thu nhập - tiêu dùng Như phạm vi đề cập ban đầu về nguồn vốn của hộ nông dân, thì tiền, tài sản, sản phầm dùng vào sản xuất được sản xuất ra trước đó, đó là kết quả của quá trình sản xuất trước là chủ yếu. Do vậy, nếu như nông hộ tiết kiệm được một khoản tài chính lớn do biết cách tiêu dùng hoặc hạn chế dùng thì họ sẽ dành được một khoản tiền lớn để đầu tư vào sản xuất, phát triển kinh tế. Nó đồng nghĩa với họ tạo được ra một nguồn vốn lớn cho sản xuất từ tiết kiệm. Vốn vay Đối với nguồn vốn này khi huy động phải tính toán dựa trên nhu cầu cần thiết và đảm bảo tính hiệu quả của việc sử dụng vốn vay, có phương án chủ động chi trả, chi khi đến thời han yêu cầu hay thoả thuận. Khi huy động loại vốn này, hộ nông dân cần phải có: đơn từ, thế chấp, xem xét lãi suât vay, thời hạn vay, lượng vay... Hộ nông dân có thể vay vốn từ các nguồn: + Tổ chức tín dụng chính thống: Đó là các tổ chức được Nhà nước thừa nhận và có chức năng kinh doanh tiền tế. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn: đây là tổ chức lớn nhất cung ứng vốn cho nông dân với tư cách tổ chức kinh doanh tiền tệ hợp pháp. Kho bạc Nhà nước ( với tư cách là một công cụ tài chính ): Từ 1992, đựoc Nhà nước giao nhiệm vụ quản lý và cho vay các nguồn tài trợ của Nhà nước, tổ chức quốc tế ... cho các dự án ( việc làm, xoá đói giảm nghèo, lao động nữ...) Ngân hàng Công thương Việt Nam Theo tài liệu thống kê 1996, doanh số cho vay cả hộ nông dân để phát triển kinh tế ( % ) là: - Ngân hàng Nông nghiệp : 86,8% - Kho bạc Nhà nước: 13% - Ngân hàng Công thương: 0.2% + Tổ chức, cá nhân không chính thống: đây là hình thức tồn tại khá phổ biến ở nông thôn nước ta: Các tổ chức kinh doanh ( thường cho vay tiền với lãi suất cao hơn mức quy định của Nhà nước ). Chơi hụi, chơi họ ... Vay cá nhân ( cũng với lãi suất cao )... Vốn từ thừa kế tách hộ: loại vốn này không phải ai cũng có. Nó phụ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng nông hộ và không phải lúc nào nó cũng thể hiện dưới dạng vốn bằng tiền ( nó có thể là tư liệu sản xuất, ruộng đất đai...). Vốn từ các nguồn đầu tư, tài trợ: đây cùng là loại vốn không phải hộ nông dân nào cũng có. Nguồn vốn này phụ thuộc vào sự phân bổ của Ngân sách Nhà nước, các dự án, chương trình đầu tư của các tổ chức nước ngoài và thường ưu tiên dành cho những vùng nông thôn khó khăn những hộ nông dân nghèo cần vốn để phát triển sản xuất hoặc những hộ nông dân có những sáng kiến mang lại hiệu quả kinh tế cao... Tuy nhiên, khi hộ nông dân đã huy động được vốn thì vấn đề đặt ra lúc này là vốn đó sẽ phải được phân phối và sử dụng như thế nào để đảm bảo tính hiệu quả của việc sử dụng vốn, đặc biệt là với những nguồn vốn vay. 2.3. Phương thức phân phối và sử dụng nguồn vốn để phát triển kinh tế hộ nông dân: Quá trình sử dụng vốn xét về mặt bản chất chính là quá trình thực hiện chuyển vốn bằng tiền của các nông hộ thành vốn hiện vật để tạo nên những yếu tố cơ bản của sản xuất, kinh doanh hàng hoá nông nghiệp. Như vậy quá trình sử dụng vốn đầu tư phát triển kinh tế hộ nông dân là duy trì tiềm lực sẵn có của đất đai hoặc tiềm lực lớn hơn cho diện tích đất đai cố định nhằm nâng cao sản lượng hàng hoá nông nghiệp phục vụ cho múc đích của hộ nông dân. Với mục đích phân phối và sử dụng vốn có hiệu quả, hộ nông dân cần phải xác định rõ: Đầu tư vốn vào cái gì? Đầu tư vốn như thế nào? Số lượng vốn là bao nhiêu? Khi người nông dân vay vốn để phát triển kinh tế thì họ đã hình thành nên một mối quan hệ giữa: người cho vay ( các tổ chức tài chính kinh doanh tiền tệ – chủ nợ ). người đi vay ( hộ nông dân – người nợ). Khi đã hình thành mối quan hệ này thì hộ nông dân không được phép tự mình quyết sử dụng nguồn vốn vay mà nó còn phụ thuộc vào chủ nợ. Bởi vì, khi hộ nông dân muốn vay vốn để phát triển kinh tế thì nguồn vốn cho vay lúc này có danh nghĩa là vốn vay để phát triển sản xuất, nó phân biệt với các loại vốn vay không dành cho mục đích này, hộ nông dân sẽ phải làm các thủ tục lập một dự án hay phương án sản xuất, kinh doanh cụ thể, nói một cách rõ ràng cách thức, kế hoạch sản xuất, số lượng vốn hoặc loại vốn dự tính cần vay,...sau khi lập xong phương án sản xuất hộ nông dân trình xin cấp vốn. Lúc này, trách nhiệm của người cho vay sau khi xác định rõ loại vốn vay họ sẽ tiến hành bước thẩm đinh dự án trên các yêu cầu: + tính khả thi của dự án + khả năng bảo toàn vốn của dự án sau khi đã thẩm định xong thì các ngân hàng cho vay quyết định giải ngân theo dự án với người vay. Còn về phía người vay, hộ nông dân thì có trách nhiệm : phải tổ chức, triển khai, thực hiện dự án sản xuất đúng như đơn xin vay vốn. Trong quá trình thực hiện dự án nếu có gì thay đổi thì phải thông báo kịp thời tới ngân hàng. Có trách nhiệm nộp lãi và hoàn trả vốn tuỳ theo thời hạn quy định của ngân hàng ( theo tháng, quý, năm hoặc hết chu kỳ vay... ) Ngoài ra, để đảm bảo quyền lợi của mình, các ngân hàng cho vay cùng cử người hướng dẫn cách thức phân phối sử dụng vốn đúng mục đích, kiểm tra việc tiến hành thực hiện dự án để đảm bảo đồng vốn mình cho vay được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả. Thông thường các ngân hàng phân phối nguồn vốn cho vay tới hộ nông dân dưới 3 dạng: vốn ngắn hạn ( vốn vay dưới 1năm) vốn trung hạn ( vốn vay dưới 3 năm) vốn dài hạn ( vốn vay trên 3 năm) ở đây các hộ nông dân sử dụng vốn tuỳ vào mức thu nhập của từng hộ: Đối với loại hộ nghèo và hộ đói: nguồn vốn vay chủ yếu được dùng vào cải thiện mức sống, thoát khỏi tình trạng hộ nghèo và đói, tạo điểm khởi đầu để phát triển sản xuất từ đó phát triển kinh tế. Họ không có những dự án lớn mà thường là những dự án quy mô nhỏ, đòi hỏi nguồn vốn không nhiều, quay vòng vốn nhanh. Đó thường là những hình thức sản xuất đơn giản đòi hỏi ít đầu tư: nuôi lợn, gia cầm, trồng cây ăn quả ngắn ngày..., bên cạnh đó họ có thể trích một phần nhỏ để ổn định cuộc sống đảm bảo cho nhu cầu sống của mỗi thành viên trong nông hộ. Những hình thức sử dụng vốn này có thể chưa có lãi cao, thu nhập chưa lớn song nó lại mang lại hiệu quả cao trong việc tạo nên một nguồn tích luỹ ban đầu, là cơ sở cho quá trình tái đầu tư vào phát triển sản xuất, kinh tế cho những hộ này. Đồng thời nó đảm bảo cho quyền lợi của ngân hàng cho vay thu hồi được tiền vốn và đảm bảo lãi bởi vì đây thường là những nguồn vốn vay ngắn hạn. Đối với loại hộ khá và hộ giàu: vốn được dùng nhằm mục đích mở rộng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế hộ nông dân sang kinh tế trang trại vừa, lớn hoặc nhỏ tuỳ vào điều kiện hoàn cảnh của từng hộ. Do họ đã có tiềm lực kinh tế ban đầu khá vững chắc nên vốn này sẽ chỉ dành cho mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế. Có thể đầu tư vốn vào: giống: tìm chọn những giống cây trồng, vật nuôi... mới có năng suất cao, hiệu quả kinh tế lớn áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong chăn nuôi, trồng trọt, bảo quản chế biến sau thu hoạch để nâng cao năng suất, đảm bảo chất lượng sản phẩm, đảm bảo giá trị của sản phẩm. đầu tư xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng một cách khoa học ( cải tiến chuồng trại, đưa kỹ thuật hiện đại vào áp dụng một cách phù hợp...) nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. ngoài ra một số hộ nông dân còn sử dụng vốn để tự đầu tư thành lập khâu bao tiêu sản phẩm sau thu hoạch, thiết lập những kênh phân phối, đại lý giới thiệu và bán sản phẩm với phạm vi rộng... Để làm được điều nay, hộ nông dân đòi hỏi phải có một nguồn tài chính đủ lớn và mạnh, các ngân hàng cung cáp cho các hộ này nguồn vốn dài hạn hoặc trung hạn sau khi đã thẩm định và xét duyệt dự án, tính khả thi của dự án. đối với hộ nông dân thuộc diện hộ trung bình: mục đích sử dụng vốn cũng nhằm mở rộng phát triển kinh tế nhưng quy mô chưa thật lớn như hộ giàu và khá do sự chênh lệch về kinh tế. Các hộ này cũng sử dụng vốn để cải tiến kỹ thuật sản xuất, chọn lựa tìm kiếm những giống mới cho năng suất chất lượng cao, một phần dành đầu tư vào cở sở hạ tầng, tiến tới loại hộ khá và giàu. Các hộ nông dân muốn phát triển kinh tế có hiệu quả thì cần phải nhận thức được tầm quan trọng cuả vốn để từ đó có được phương thức phân phối và sử dụng đúng đắn và hợp lý. C. Kết luận Trong quá trình tồn tại và phát triển và phát triển, các nông hộ đều có chung mong muốn: làm sao để đảm bảo có đủ ăn đủ mặc, mức thu nhập luôn ổn định, hoàn thành các nghĩa vụ với gia đình và xã hội, thời gian nghỉ ngơi giải trí tăng lên, lao động ít vất vả hơn... Tuy nhiên khi xã hội phát triển, nền kinh tế thị trường và công nghệ khoa học kỹ thuật phát triển thì một số mục tiêu trên có thể thay đổi cho phù hợp song cho dù thế nào thì các hoạt động phát triển kinh tế cùng đều nhằm phục vụ cho những nhu cầu cơ bản trên. Hộ nông dân muốn phát triển kinh tế thì ngoài các yêu cầu cơ bản của một ngành sản xuất nông nghiệp còn đòi hỏi phải có nguồn tài chính để bổ xung hỗ trợ cho hoạt động mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế. Chính vì vậy mà họ rất cần sự quan tâm giúp đỡ của Đảng và Nhà nước cũng như các cấp các ngành có liên quan. Người nông dân Việt Nam vốn cần cù chịu khó, nếu như được quan tâm tạo điều kiện vay vốn, hỗ trợ về khoa học kỹ thuật... thì sẽ tạo ra nguồn đóng góp quan trọng thúc đẩy quá trình Công nghiệp hoá - hiện đại hoá của đất nước. Qua tiểu luận này, đã giúp em thấy được vai trò quan trọng của nguồn tài chính trong phát triển kinh tế nói chung và kinh tế hộ nông dân nói riêng cũng như vai trò quan trọng của việc phát triển kinh tế hộ nông dân trong nền kinh tế quốc dân. Mục lục TT Trang A. Mở đầu 1 B. Nội dung 2 1. Vấn đề phát triển kinh tế hộ nông dân 2 1.1. Khái niệm kinh tế hộ nông dân và hình thức phân loại kinh tế hộ nông dân 2 1.2. Vai trò và ý nghĩa của việc phát triển kinh tế hộ nông dân đối với ngành Nông nghiệp - nông thôn Việt Nam. 4 2. Vấn đề nguồn lực vốn để phát triển kinh tế hộ nông dân 5 2.1. Vai trò của nguồn vốn để phát triển kinh tế nông hộ 5 2.2. Các thức huy động và tạo nguồn vốn để phát triển kinh tế nông hộ 6 2.3. Phương thức phân phối và sử dụng nguồn lực vốn để phát triển kinh tế nông hộ. 8 C. Kết luận 12 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docG0079.doc
Tài liệu liên quan