Mở ĐầU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển chung của đất nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp. Trước mắt phấn đấu đến năm 2010 tỷ trọng trong GDP của dịch vụ là 42- 43%, công nghiệp - xây dựng là 40 - 41% và nông nghiệp là 16-17% [7]. Như vậy ngành kinh tế dịch vụ được coi là một trong những ngành kinh tế có vị trí quan trọng và có tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu nền kinh tế nước ta đến thời điểm
94 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1724 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Kinh tế dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đó.
Nếu so sánh với một số địa phương như: Hải Phòng, Nghệ An, Khánh Hòa v.v... thì Bà Rịa - Vũng Tàu là một trong những tỉnh có nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển các ngành dịch vụ như: Dịch vụ dầu khí, dịch vụ vận tải, dịch vụ thủy sản, dịch vụ du lịch, dịch vụ nông nghiệp, dịch vụ bưu chính viễn thông v.v...
Năm 2000 GDP tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đạt 41.359 tỷ đồng, tính theo bình quân đầu người là: 40.620.000 đồng/người/năm, cao nhất trong cả nước. Trong cơ cấu kinh tế nếu tính cả dầu khí thì: công nghiệp - xây dựng chiếm 81,5%, nông nghiệp chiếm: 4,06%, và dịch vụ chiếm 14,36%; nếu không kể dầu khí thì: công nghiệp - xây dựng: 47,26%, dịch vụ 41,17%, nông nghiệp 11,62% và là một trong 10 tỉnh đóng góp nguồn ngân sách lớn nhất cho nhà nước 20,01%, đứng thứ hai sau thành phố Hồ Chí Minh (33,05%) [2]. Đây là những thành tựu quan trọng để Bà Rịa - Vũng Tàu tiếp tục phát triển.
Tuy nhiên, với những kết quả đạt đựơc nêu trên, trong toàn bộ nền kinh tế thì các hoạt động kinh doanh dịch vụ vẫn chưa tương xứng với những tiềm năng, lợi thế mà ngành dịch vụ có thể khai thác, quá trình đầu tư để khai thác còn nhiều hạn chế trong các lĩnh vực như chính sách quản lý, mô hình phát triển, nguồn nhân lực, vốn, kỹ thuật v.v... Một số lĩnh vực dịch vụ mới chỉ khai thác được một phần rất nhỏ như: Dịch vụ dầu khí, dịch vụ vận tải, du lịch, nông nghiệp … Vì vậy, để phù hợp với mục tiêu kinh tế chung của cả nước đồng thời muốn phát triển ngành kinh tế dịch vụ đạt mức tỷ trọng cao trong cơ cấu của địa phương và để khai thác có hiệu quả các tiềm năng và lợi thế phát triển kinh tế dịch vụ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi cần phải có những đánh giá đúng mức về tiềm năng, lợi thế và thực trạng của kinh tế dịch vụ trong cơ cấu kinh tế, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế mà tỉnh đã đề ra, góp phần xác lập một cơ cấu kinh tế hợp lý của địa phương. Đây là lý do để tác giả chọn đề tài: "Kinh tế dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hiện nay".
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay đã có một số luận văn, luận án có liên quan đến đề tài được được bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh như: "Phát triển kinh tế du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu", Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế của Trần Quốc Nhật, 1995; "Nghiên cứu về đầu tư khai thác dầu khí" của TS. Trần Đức Chính, 2000; "Phát triển kinh tế du lịch của tỉnh Vĩnh Phúc - tiềm năng và giải pháp", Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế của Trần Ngọc Tư, 2000; "Kinh tế dịch vụ và dịch vụ du lịch tỉnh Ninh Bình", Luận văn thạc sĩ kinh tế của Phạm Xuân Thu, 1995; "Phát triển kinh tế du lịch ở Nghệ An", Luận văn thạc sĩ kinh tế của Hoàng Đức Cường, 1999... và một số bài viết trên các báo, tạp chí nghiên cứu của Trung ương và địa phương.
Song các luận văn, luận án, các bài viết nêu trên chỉ nghiên cứu về một ngành cụ thể trong kinh tế dịch vụ ở các địa phương khác, chưa nghiên cứu kinh tế dịch vụ từ góc độ một nhóm ngành trong cơ cấu kinh tế ở địa bàn cấp tỉnh. Đặc biệt là đối với kinh tế dịch vụ của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thì chưa có một công trình nào nghiên cứu trung tên với đề tài của luận văn này.
3. Mục đích, nhiệm vụ, giới hạn của luận văn
Mục đích, nhiệm vụ: Luận văn nghiên cứu những vấn đề chung về kinh tế dịch vụ và xác định vai trò, tầm quan trọng của kinh tế dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Phân tích thực trạng kinh tế dịch vụ của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong những năm qua để thấy được những thành tựu, những hạn chế, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế dịch vụ tại tỉnh trong những năm đầu thế kỷ XXI.
Giới hạn của luận văn:
Với một tỉnh có nhiều ngành nghề sản xuất kinh doanh với hàng trăm các hoạt động kinh doanh dịch vụ phục vụ cho các nhu cầu sản xuất, trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, tác giả không thể nghiên cứu toàn bộ các ngành kinh tế dịch vụ mà chỉ đi sâu nghiên cứu một số ngành dịch vụ chủ yếu trên địa bàn của tỉnh như: Dịch vụ dầu khí, dịch vụ thủy sản, dịch vụ du lịch, dịch vụ vận tải, dịch vụ nông nghiệp để làm rõ vai trò, thực trạng của kinh tế dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Về thời gian, luận văn chỉ nghiên cứu kinh tế dịch vụ của địa phương trong khoảng 10 năm từ 1991 - 2000.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Tác giả dựa vào cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, dựa vào chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước, của Đảng bộ và chính quyền tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, tham khảo có chọn lọc các công trình nghiên cứu, các bài viết của nhiều tác giả có liên quan đến đề tài.
Phương pháp nghiên cứu: Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu của môn kinh tế chính trị, phương pháp khảo sát thực tế, phân tích, so sánh, tổng hợp các kết quả nghiên cứu, từ đó đánh giá và giải quyết những vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của luận văn.
5. ý nghĩa của luân văn
Tuy nghiên cứu trong một phạm vi một địa bàn cấp tỉnh, song luận văn là một công trình nghiên cứu thực tế về phát triển kinh tế dịch vụ ở Bà Rịa - Vũng Tàu; luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các ngành, các cơ quan trong việc hoạch định các mục tiêu và phương hướng cũng như các giải pháp phát triển các ngành kinh tế dịch vụ và cho các đối tượng có liên quan khác.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
VAI TRò CủA KINH Tế DịCH Vụ TRONG NềN KINH Tế QUốC DÂN
Vấn đề lựa chọn một mô hình, một cơ cấu kinh tế cho hợp lý là một nội dung hết sức quan trọng có ý nghĩa quyết định quyết định đến sự tồn tại và phát triển của bất kỳ quốc gia nào. Thực tế những quốc gia chậm phát triển thường lựa chọn cho mình mô hình kinh tế theo cơ cấu: Nông nghiệp - Công nghiệp - Dịch vụ; nhiều quốc gia đã và đang phát triển lại thường chọn cơ cấu kinh tế: Công nghiệp - Dịch vụ - Nông nghiệp. Đặc biệt mấy chục năm lại đây nhiều nước lại chọn cho mình mô hình kinh tế theo cơ cấu: Dịch vụ - Công nghiệp - Nông nghiệp như Singapo, Hồng Kông, Đài Loan v.v... Việt Nam là một nước có nền kinh tế nông nghiệp còn tương đối lạc hậu, đã và đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do đó trong quá trình thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước chúng ta cần phải lựa chọn cho mình một mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế sao cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh đất nước, để rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới. Mục tiêu phát triển kinh tế mà Đảng ta đề ra trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX cũng ghi rõ: "Đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000. Tỷ trọng GDP của nông nghiệp 16 - 17%, công nghiệp: 40 - 41%, dịch vụ: 42- 43%" [11]. Rõ ràng kinh tế dịch vụ từ nay đến năm 2010 và những năm tiếp theo sẽ chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu kinh tế của đất nước và kinh tế dịch vụ sẽ giữ một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của nước ta.
1.1. KHáI NIệM DịCH Vụ Và KINH Tế DịCH Vụ
1.1.1. Khái niệm
a) Dịch vụ
Thuật ngữ "Dịch vụ" (Service) lúc đầu người ta dùng để chỉ các hoạt động cung ứng về mặt hậu cần cho quân đội, sau đó dần dần được sử dụng nhiều hơn trong kinh tế và trở thành tên gọi lĩnh vực kinh tế gồm một số ngành. Do những quan niệm khác nhau nên việc nhận dạng các hoạt động dịch vụ trong thực tiễn cũng khác nhau; cho đến những năm gần đây dịch vụ được hiểu theo một nghĩa rộng hơn, được coi là một lĩnh vực sản xuất mới, có tính tổng hợp cao. Đặc điểm chủ yếu của dịch vụ là gắn liền sản xuất với các ngành sản xuất và tiêu dùng. Dịch vụ dựa vào sản xuất, nhưng chính nó lại phục vụ đắc lực cho sản xuất phát triển. Một nước có trình độ phát triển càng cao thì ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng càng lớn.
C.Mác cho rằng, dịch vụ là con đẻ của sản xuất hàng hóa khi kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đòi hỏi phải có sự lưu thông trôi chảy, thông suốt, liên tục để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người, lúc đó ngành dịch vụ sẽ phát triển. Như vậy, bằng cách tiếp cận dưới góc độ kinh tế, C.Mác đã làm rõ nguồn gốc ra đời và động lực phát triển kinh tế dịch vụ. Ông viết: "Trong những trường hợp, mà tiền được trực tiếp trao đổi lấy một lao động không sản xuất ra tư bản, tức là trao đổi lấy lao động không sản xuất, thì lao động đó được mua với tư cách là một sự phục vụ... Lao động đó cung cấp những sự phục vụ không phải với tư cách một đồ vật mà với tư cách là một sự hoạt động" [19, tr. 576-577].
Trong học thuyết giá trị thặng dư của mình, C. Mác đã nói đến dịch vụ và so sánh dịch vụ ở Anh và ở Nga như sau: "ở nước Anh có rất nhiều người trong các ngành kinh tế phi nông nghiệp, trong ngành chế tạo cơ khí, thương nghiệp, vận tải v.v... chuyên việc chế tạo và cung cấp các yếu tố của ngành sản xuất nông nghiệp, điều mà nước Nga không có" [17, tr. 674]. Theo Mác thì cùng với sự phát triển chung của lực lượng sản xuất, tất yếu phải có một bộ phận lao động dịch vụ cho sản xuất được tách ra và thu hút ngày càng nhiều lao động xã hội, Mác viết: "Một bộ phận lớn của dân số phi nông nghiệp đang làm những lao động phục vụ cho nông nghiệp, cung cấp cho nông nghiệp tư bản bất biến (c) (mà cùng với sự tiến bộ của nông nghiệp, tư bản bất biến này lại tăng lên): tỷ dụ như: phân bón, khoáng chất, hạt giống nhập từ nước ngoài vào, máy móc các loại" [17, tr. 675]. Ngoài lĩnh vực phục vụ cho sản xuất ra còn lại là lĩnh vực phục vụ cho đời sống, phục vụ lưu thông thuần túy, phục vụ cho tiêu dùng của cải... thì lao động dịch vụ đó không phải là lao động sản xuất vật chất, Mác chỉ rõ: "Vấn đề ở đây hoàn toàn không phải là những sự phục vụ. Sự phục vụ chẳng qua chỉ là hiệu quả có ích của một giá trị sử dụng nào đó, dù đó là hàng hóa hay lao động" [18, tr. 360-361]. Hay nói gọn lại, dịch vụ là một lĩnh vực kinh tế - kỹ thuật tổng hợp, là cầu nối giữa sản xuất và sản xuất, sản xuất và tiêu dùng v.v... Dịch vụ là một ngành đa dạng, tổng hợp nó gắn liền với nhu cầu đời sống hàng ngày của mọi tầng lớp nhân dân. Nhân dân có thu nhập cao, đời sống văn minh hơn thì đòi hỏi các dịch vụ cao hơn. Vì thế, dịch vụ không chỉ là một ngành kinh tế - kỹ thuật mà còn mang tính mỹ thuật, nghệ thuật nhằm hướng dẫn thẩm mỹ hiện đại, phong cách và lối sống mới, giúp con người đạt tới đỉnh cao của đời sống vật chất và tinh thần.
Theo quan điểm của nhà kinh tế học Trung Quốc Lý Đại Văn thì dịch vụ là lấy hình thức lao động sống để đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của cuộc sống và sản xuất, thông qua các phương thức nào đó để nâng cao tất cả các hoạt động kinh tế của lao động sản xuất vàứ mức sống của con người, đồng thời cũng là sản phẩm của sức sản xuất và trình độ khoa học - kỹ thuật của loài người đã phát triển đến một giai đoạn nhất định [12]. Theo ông thì nội dung của dịch vụ bao gồm ba mặt: Thứ nhất, đối tượng của dịch vụ là các mặt của sản xuất và sinh hoạt; thứ hai, phương thức dịch vụ rất đa dạng căn cứ vào những đối tượng khác nhau, có phương thức dịch vụ mang tính sản xuất như: dịch vụ tiền tệ, vận chuyển, bảo hiểm, sửa chữa, xử lý số liệu dịch vụ ... và dịch vụ mang tính sinh hoạt như: du lịch, khách sạn, nhà hàng, mỹ viện, cắt tóc...; thứ ba, hiệu quả của dịch vụ vừa là để nâng cao tỷ lệ lao động sản xuất vừa để nâng cao mức sống con người. Ông cũng cho rằng, ngành dịch vụ là chỉ tất cả các hoạt động kinh tế khác, độc lập với nông nghiệp, khai thác khoáng sản, và ngành chế tạo. Phạm vi của nó rất rộng, chủ yếu bao gồm các ngành như: ngành giao thông vận tải, ngành thông tin bưu điện, ngành dịch vụ ăn uống, ngành cung cấp, tiêu thụ vật tư và kho tàng, ngành tiền tệ và bảo hiểm, ngành dịch vụ kỹ thuật tổng hợp, ngành dịch vụ thủy lợi, ngành đánh bắt cá và thủy lợi nông nghiệp, ngành bảo dưỡng đường bộ, đường thủy và đường không, ngành tổng điều tra địa chất, ngành phục vụ dân cư, ngành xây dựng các công trình công cộng và nhà ở, ngành vệ sinh môi trường, ngành thể thao và ngành phúc lợi xã hội, các cơ quan hành chính sự nghiệp nhà nước, các đoàn thể xã hội.
Theo quan điểm của các chuyên gia kinh tế của nước ta thì dịch vụ nói một cách tổng quát là mọi hoạt động kinh tế trừ nông nghiệp, khai mỏ, công nghiệp, xây dựng và điện - khí - nước theo cách phân loại của bảng phân loại tiêu chuẩn quốc tế các hoạt động kinh tế - ISIC (International Standard Industrial Calassification of all Economis). Dịch vụ được chia làm bốn nhóm lớn: Dịch vụ thương mại và tài chính, dịch vụ giao thông vận tải và liên lạc, dịch vụ quản lý công cộng và an ninh quốc phòng và nhóm các dịch vụ khác như: giáo dục, y tế và bảo vệ sức khỏe, các tổ chức tôn giáo và từ thiện, dịch vụ pháp lý, dịch vụ nội trợ sinh hoạt, điện ảnh, khách sạn, nhà hàng tiệm ăn... Cũng có những quan điểm cho rằng, dịch vụ là những hoạt động của những ngành phục vụ, tuy nhiên trong những năm gần đây phần lớn các nhà kinh tế đều nhất trí rằng, dịch vụ là cung ứng lao động khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu về sản xuất, kinh doanh, đời sống vật chất- tinh thần, các hoạt động ngân hàng, tín dụng, cầm đồ, bảo hiểm ... Trong Từ điển tiếng Việt thì định nghĩa: "Dịch vụ là những công việc phục vụ trực tiếp cho những nhu cầu nhất định của số đông, có tổ chức và được trả công" [38]. Trong kinh tế học hiện đại thì dịch vụ lại được quan niệm rộng rãi hơn, dịch vụ bao gồm các ngành, các lĩnh vực có tạo ra tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hay tổng sản phẩm quốc dân (GNP) từ các ngành sản xuất các sản phẩm vật chất như công nghiệp, nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp). Như vậy những ngành như vận tải bao gồm hàng không, xe lửa, ô tô, thông tin, bưu điện, lưu thông hàng hóa tư liệu sản xuất hoặc vật phẩm tiêu dùng, các lĩnh vực hoạt động như ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm v.v... đều thuộc lĩnh vực dịch vụ. Các chuyên gia kinh tế còn đánh giá sự khác nhau giữa hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ với hoạt động trong lĩnh vực sản xuất vật chất ở những điểm:
- Một là, các ngành sản xuất ra các sản phẩm vật chất thì các sản phẩm này có tính chất là cơ học, lý học, hóa học có các tiêu chuẩn như công xuất, mức tiêu thụ nhiên liệu, điện năng v.v... có thể xác định được, có thể sản xuất theo tiêu chuẩn hóa. Còn hoạt động của dịch vụ mà kết quả có thể quan niệm là "sản phẩm" do nó tạo ra để phục vụ thì khó có thể xác định cụ thể bằng tiêu chuẩn ký thuật, bằng các chất lượng được lượng hóa một cách rõ ràng. người được phục vụ chỉ có thể đánh giá bằng các giác quan như: nếm, ngửi, sờ mó, thích thú v.v... hoặc tốt hay xấu trên cơ sở cảm nhận thông qua thực tế hoặc danh tiếng đã được phục vụ.
- Hai là, hoạt động sản xuất chế tạo ra các sản phẩm vật chất. Các sản phẩm vật chất này có thể được cất giữ trong kho, có thể đem bán bằng cách vận chuyển đi các nơi để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng thông qua điều tiết cung - cầu trên thị trường. Hoạt động dịch vụ tạo ra "sản phẩm" tiêu dùng và đồng thời "sản phẩm "dịch vụ không thể cất giữ trong kho, để có thể dự trữ, để thay đổi theo sự thất thường của nhu cầu thị trường như sản phẩm vật chất. Hoạt động dịch vụ thường xuất hiện ở các địa điểm và thời điểm có nhu cầu cần được đáp ứng.
- Ba là, hoạt động sản xuất tạo ra sản phẩm vật chất có chất lượng cao tạo ra uy tín cho hãng sản xuất và kinh doanh, khách hàng có thể dựa vào nhãn hiệu, ký hiệu sản phẩm để lựa chọn sản phẩm mà không cần đến chủ của hãng sản xuất. Còn sản phẩm của hoạt động dịch vụ phụ thuộc rất cao vào chất lượng tiếp xúc, sự tương tác qua lại giữa người làm dịch vụ và người được phục vụ.ở đây không loại trừ phương tiện của hoạt động dịch vụ, những điều kiện sản phẩm kèm theo các dịch vụ bổ sung khác, những cái đọng lại làm cho người được phục vụ vẫn là quan hệ giao tiếp. Sự đáp ứng kịp thời những nhu cầu, yêu cầu và lòng mong muốn của khách hàng đối với những dịch vụ và những người làm dịch vụ trực tiếp phục vụ cho khách hàng.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây thì dịch vụ được hiểu một cách xơ cứng, máy móc và có những lệch lạc thậm chí còn sai lầm về bản chất của dịch vụ, quan điểm này coi nhẹ dịch vụ, cho đây là ngành sản xuất phi vật chất, không sáng tạo ra thu nhập quốc dân, lĩnh vực kinh tế này được hiểu một cách bó hẹp lại là dịch vụ cá nhân và dịch vụ xã hội mà quên đi dịch vụ phân phối và đặc biệt là dịch vụ đời sống xã hội. Dịch vụ được đồng nhất với sự phục vụ cho cá nhân, là những công việc phụ trợ ít quan trọng và cho rằng khi nào nền kinh tế đủ mạnh rồi hãy phát triển kinh tế dịch vụ, cứ sản xuất nhiều của cải vật chất tự khắc vấn đề dịch vụ khắc được giải quyết v.v... Như vậy, những quan điểm đó đã không đánh giá đầy đủ dịch vụ với tư cách là một phạm trù kinh tế và không thừa nhận quá trình tái sán xuất xã hội như một thể thống nhất biện chứng giữa giá trị sử dụng cuối cùng mang tính vật chất và phi vật chất.
Theo PGS.TS Trần Văn Chử thì: "Dịch vụ là những hoạt động lao động mang tính xã hội, tạo ra các sản phẩm hàng hóa không tồn tại dưới hình thái vật thể nhằm thỏa mãn kịp thời, thuận lợi và hiệu quả hơn các nhu cầu trong sản xuất và đời sống con người" [4, tr. 254].
Nhìn chung, cho đến nay khái niệm dịch vụ vẫn chưa được xác định một cách chính xác với đầy đủ cơ sở khoa học, bởi lẽ việc thâu tóm các hoạt động phong phú, đa dạng và rất khác nhau về bản chất của dịch vụ trong sản xuất và đời sống; đây là việc làm hết sức khó khăn, phức tạp. Cuộc tranh luận để đi đến thống nhất về khái niệm dịch vụ của các nhà lý luận, các chuyên gia kinh tế vẫn còn tiếp diễn. Song cho dù cuộc tranh cãi diễn ra thế nào đi chăng nữa thì cũng phải khẳng định một điều rằng dịch vụ không đơn thuần là một ngành phục vụ phụ trợ ít quan trọng v.v... mà đã thực sự trở thành một lĩnh vực kinh tế mũi nhọn có nhiều lợi thế quyết định đến sự phát triển của nhiều nền kinh tế trên thế giới.
b) Kinh tế dịch vụ
Theo quan điểm của chuyên gia kinh tế Trung Quốc thì kinh tế dịch vụ được coi là phạm trù kinh tế độc lập so với kinh tế nông nghiệp và kinh tế công nghiệp, nó thường được gọi là khu vực kinh tế thứ III hay sản nghiệp thứ III. Kinh tế dịch vụ có thể phân thành hai loại là hữu hình và vô hình: Hữu hình là chỉ thông qua lao động có tính phi sản xuất nhất định để phục vụ sản xuất và sinh hoạt, tạo nên một giá trị phụ thêm cho sản phẩm, từ đó nâng cao năng xuất lao động sản xuất, cải thiện và nâng cao mức sống con người. Còn vô hình là chỉ hình thức đặc thù nào đó, cung cấp những phương tiện và phương pháp cần thiết cho sản xuất và tiêu dùng, còn bản thân nó không trực tiếp tạo ra giá trị. Cùng với sự tiến bộ không ngừng của sức sản xuất xã hội và sự không ngừng đi sâu vào mối quan hệ giao lưu quốc tế tỷ trọng kinh tế dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân cũng không ngừng tăng lên, xu thế quốc tế hóa ngày càng được đẩy mạnh.
Các nhà lý luận kinh tế của nước ta thì cho rằng: kinh tế dịch vụ bao gồm những hoạt động phục vụ với tư cách là một bộ phận lao động xã hội, những công việc cận thiết cho các giai đoạn của quá trình tái sản xuất (sản xuât, trao đổi, phân phối, tiêu dùng). Dịch vụ là kết quả lao động có ích cho xã hội được thể hiện bằng những giá trị sử dụng nhất định nhắm đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống. Trong đó nhiều dịch vụ có tác dụng trực tiếp đến việc nâng cao hiệu quả sản xuất, chất lượng sản phẩm, chất lượng đời sống vật chất và văn hóa của xã hội loài người. Kinh tế dịch vụ là phương tiện hữu hiệu để thực hiện phương châm "vì con người" tạo ra những kỹ năng cho con người phát triển ngày một toàn diện.
Mặc dù các nhà kinh tế còn nhiều tranh luận trước khi đi đến thống nhất về khái niệm dịch vụ và kinh tế dịch vụ. Song trên thực tế kinh tế dịch vụ đã và đang đóng một vai trò hết sức quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia, kinh tế dịch vụ đã góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các nước và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thế giới. Do đó điều cần thiết là phải xác định được vai trò của kinh tế dịch vụ trong nền kinh tế - xã hội của đất nước để có những chiến lược, phương hướng, biện pháp nhằm phát triển lĩnh vực kinh tế mới mẻ này. Dĩ nhiên sự phát triển kinh tế dịch vụ của từng quốc gia phải dựa trên những ngành kinh tế cơ sở của nước đó và không thể một lúc có thể phát triển kinh tế dịch vụ theo ý muốn của mình được. Đồng thời phải dựa vào các điều kiện tự nhiên, nguồn nhân lực, và các lợi thế so sánh khác của quốc gia đó để phát triển kinh tế dịch vụ sao cho hợp lý.
Ngày nay với sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất cùng với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ thế giới, nhiều nước tùy thuộc vào đặc thù tiềm năng của mình đã cố gắng tìm cho mình nhóm kinh tế dịch vụ mũi nhọn khác nhau: những nước có nguồn tài nguyên khan hiếm, nhưng đã biết tận dụng lợi thế vị trí địa lý của mình để phát triển kinh tế dịch vụ thương mại và nhanh chóng trở thành các nước NICs như: Hồng Kông, Singapo; Hồng Kông đã trở thành một trung tâm thương mại, trung tâm "chuyển tải", trung tâm dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ sửa chữa tàu biển đã đem lại cho nước này một nguồn lợi lớn, hàng năm các nước này thu được những khoản lợi nhuận khổng lồ từ hoạt động buôn bán của các nước trên thế giới vì một lý do nào đó không buôn bán trực tiếp được với nhau, có thể nói Hồng Kông là một siêu thị lớn nhất thế giới. Cũng như Hồng Kông, Singapo biết phát huy lợi thế của mình nằm ở đầu mối giao thông giữa phương Tây và Viễn đông nên đã trở thành một trung tâm thương mại và dịch vụ ở châu á, trong mấy chục năm qua quốc gia nhỏ bé này trở thành thương cảng lớn thứ hai trên thế giới sau cảng Rotterdam của Hà Lan; cùng với sự phát triển của ngành dịch vụ Singapo trở thành một nước có nền kinh tế phát triển nhất trong khu vực. Đối với Thái Lan trong kế hoạch phát triển kinh tế của những năm 1980 - 1990 đã đặt vấn đề ưu tiên phát triển kinh tế dịch vụ lên hàng đầu, nhằm chuyển một nước có nền kinh tế nông nghiệp sang một nước kinh tế dịch vụ, đặc biệt Thái Lan đầu tư phát triển dịch vụ du lịch, do đó dịch vụ du lịch đã thu được nguồn lợi lớn nhất so với tất cả các loại dịch vụ khác, kinh tế dịch vụ đã đem lại thu nhập cao hơn cả ngành sản xuất gạo, được coi là ngành thu được nhiều ngoại tệ nhất trước đó. Ngoài ra, một số nước cũng đi vào phát triển kinh tế dịch vụ du lịch như Ôxtrâylia, Italia...
Theo các chuyên gia nghiên cứu kinh tế, trong thập niên 90 của thế kỷ XX, lao động trong lĩnh vực kinh tế dịch vụ ở các nước công nghiệp phát triển chiếm khoảng 75% tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế và đóng góp khoảng 60 - 70% GDP cho các quốc gia này. Ví dụ như mức độ đóng góp trong cơ cấu sản phẩm của kinh tế dịch vụ ở Singapo là 64,6%, Hồng Kông là 85,7%; Nhật Bản là 60,4%; Pháp là 60 % [4]. Rõ ràng kinh tế dịch vụ đã thực sự trở thành một nền kinh tế đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển nền kinh tế của mỗi nước. Có thể mô tả như sau:
CN > 30%
DV > 60%
DV < 30%
NN > 50%
NN <10%
CN 20%
1a. Những nước chậm phát triển 1b. Các nước công nghiệp phát triển
Biểu đồ 1.1: Tỷ trọng của kinh tế dịch vụ ở một số nước chậm phát triển và các nước công nghiệp phát triển
Như trên đã nói mỗi quốc gia dựa vào những tiềm năng, lợi thế của mình để phát triển kinh tế dịch vụ sao cho hợp lý thì phát triển một ngành nào thì cũng phải tính đến những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến ngành đó.
1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế dịch vụ
Có thể nói, để phát triển bất kỳ một ngành kinh tế, một lĩnh vực kinh tế nào đều phải có những yếu tố trực tiếp, hoặc gián tiếp hay nói cách khác phải có những điều kiện cần và đủ thì mới có thể thực hiện được. Theo các nhà kinh tế thì để phát triển kinh tế dịch vụ cần phải kết hợp hài hòa nhiều yếu tố mà trong đó các yếu tố không thể thiếu đó là nguồn lao động, tiếp đó là các điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật - vốn, điều kiện về tài nguyên, thiên nhiên, môi trường. Các yếu tố này sẽ tạo ra một hệ thống sản xuất dịch vụ (hệ thống Servuction) có thể mô tả theo biểu đồ 1.2.
Kết quả KDDV
Tài nguyên thiên nhiên môi trường
Con người (khách hàng và người phục vụ)
Điều kiện cơ sở vật chất
Dịch vụ
Biểu đồ 1.2: Các nhân tố ảnh hưởng đến kinh doanh dịch vụ
- Yếu tố con người: Trong hệ thống sản xuất dịch vụ con người có ảnh hưởng lớn đến chất lượng kinh doanh dịch vụ trong đó sự có mặt của khách hàng là tuyệt đối cần thiết, không có khách hàng thì dịch vụ không thể tồn tại, khách hàng là người tạo ra nhu cầu về dịch vụ, là yếu tố khởi đầu cho quá trình làm dịch vụ của những tổ chức, những xí nghiệp kinh doanh dịch vụ. Không có vật chất cũng sẽ không có cung ứng dịch vụ, sự cung ứng chỉ xảy ra khi có vật chất xuất hiện. Điều này khác hẳn về căn bản so với quá trình sản xuất ra sản phẩm vật chất ở chỗ không có hoặc chưa có nhu cầu người ta vẫn có thể sản xuất ra trước khi có nhu cầu, còn sản phẩm vật chất sản xuất ra nếu không tiêu dùng ở chỗ này thì người ta có thể vận chuyển đi tiêu dùng ở chỗ khác hoặc cất trữ hoặc để giành cho thời gian sau sẽ dùng. Còn hoạt động dịch vụ thì không có nhu cầu thì không có hoạt động dịch vụ và sẽ không thực hiện được giá trị dịch vụ. Vì vậy nếu trong lĩnh vực sản xuất vật chất việc tìm kiếm nhu cầu, thị trường là rất cần thiết để xây dựng chiến lược kinh doanh thì trong kinh doanh dịch vụ việc thực hiện Marketing dịch vụ càng có ý nghĩa quan trọng hơn nhiều để quá trình dịch vụ được diễn ra và giá trị dịch vụ được thực hiện.
Nếu sự có mặt của khách hàng là tuyệt đối cần thiết thì người phục vụ trong kinh doanh dịch vụ cũng vô cùng quan trọng, họ là nhân viên trực tiếp hay gián tiếp tham gia phục vụ các hoạt động trong các xí nghiệp, các tổ chức kinh tế; họ có thể là một người hay nhiều người, công việc của họ thường đòi hỏi phải tiếp xúc với khách hàng. Trong hệ thống làm dịch vụ nhân viên thường tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, và quan hệ với khách hàng, tìm kiếm các nhu cầu của khách hàng hoặc Marketing hỗn hợp giới thiệu, quảng cáo dịch vụ với khách hàng, để rồi sau đó bằng hệ thống cơ sở vật chất, các điều kiện cần thiết của xí nghiệp, đơn vị, sẽ có thể làm thỏa mãn nhu cầu khách hàng với một chất lượng dịch vụ tốt nhất, hoặc lôi kéo khách hàng tham gia vào hoạt động dịch vụ với một sự thỏa mãn nhu cầu nhất định mà có thể đem lại nhiều lợi thế, kinh tế cho đơn vị, xí nghiệp. Như vậy nhân viên tiếp xúc là một yếu tố chiếm vị trí quan trọng mà theo quan điểm kinh tế thì Marketing là tượng trưng cho đơn vị, xí nghiệp đặt ra trước mắt khách hàng. Nhân viên tiếp xúc là yếu tố đầu tiên cũng là yếu tố cuối cùng quyết định chất lượng kinh doanh dịch vụ, là yếu tố quyết định phong cách độc đáo của đơn vị kinh doanh dịch vụ. Do đó việc bố trí, sắp xếp số lượng nhân viên hợp lý, đây là một đòi hỏi hết sức nghiêm túc cho sự tồn tại và phát triển của một đơn vị, xí nghiệp. Nó còn có ỹ nghĩa quan trọng trong việc tham gia cạnh tranh khi kinh doanh dịch vụ.
- Yếu tố về các điều kiện về cơ sở vật chất - kỹ thuật - vốn: Đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế dịch vụ. Các điều kiện vật chất phục vụ cho kinh doanh dịch vụ bao gồm các điều kiện như: ăn, ở, giao thông vận tải, vận chuyển, các phương tiện phục vụ cho thông tin, liên lạc, các phương tiện quản lý... ở nhiều nước trong khu vực có một hệ thống các điều kiện cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ cho kinh doanh dịch vụ rất tốt như: Hà Quốc, Đài Loan, Thái Lan v.v... Với hệ thống nhà hàng, khách sạn sang trọng đạt các tiêu chuẩn cao phù hợp với từng đối tượng khách hàng, từng địa điểm phục vụ, các hệ thống sân bay, cầu cảng, thông tin liên lạc v.v... với hệ thống phương tiện phục vụ cực kỳ hiện đại, thuận tiện, phục vụ nhanh chóng và phục vụ tối đa cho các nhu cầu trong nhiều lĩnh vực với những chi phí cho hoạt động kinh doanh dịch vụ mà người được phục vụ có cảm giác thoải mái. Chính vì vậy mà hiệu quả kinh tế do kinh doanh dịch vụ mang lại trong GDP của các quốc gia kể trên là rất lớn. Ví dụ: Đài Loan: 54,8%, Thái Lan: 54,0%, Hàn Quốc: 65% v.v... [24].
Theo các chuyên gia kinh tế thì điều kiện cơ sở vật chất trong hệ thống dịch vụ vừa là cung cấp thông tin về dịch vụ cho khách hàng (giống như một tủ kính bày dịch vụ chào hàng) vừa là công cụ làm việc tốt (như một nhà máy chế tạo dịch vụ). Do vậy, cơ sở vật chất phải được trang bị tốt, được kết hợp hài hòa giữa tính dân tộc với tính hiện đại, các công cụ, thiết bị phục vụ phải được bố trí hợp lý, không khí thoáng mát, giao thông thuận tiện, môi trường nhân văn sinh động, hài hòa, phải luôn tạo ra cho khách hàng những cảm giác vừa khác lạ vừa quen thuộc, vừa cổ kính nhưng phải tân thời v.v… nhằm đáp ứng cho khách hàng một dịch vụ chất lượng cao, độc đáo, hấp dẫn, làm thỏa mãn, hài lòng khách hàng về mọi phương diện. Nói chung cơ sở vật chất thế nào thì số lượng dịch vụ, giá cả dịch vụ bán được sẽ như thế đó. Vì vậy nếu cơ sở vật chất được đầu tư thỏa đáng, phù hợp với khả năng thanh toán của khách hàng thì số lượng dịch vụ sẽ bán được nhiều hơn và có thể nâng giá cả của mỗi dịch vụ lên đến mức cao nhất. Khách hàng thỏa mãn, hài lòng trước một dịch vụ do nhân viên cung ứng dịch vụ chu đáo, do cơ sở vật chất đã được đầu tư thỏa đáng thì giá cả dịch vụ không còn là thách thức lớn với các nhà kinh doanh dịch vụ đặc biệt đối với đối tượng là khách hàng có thu nhập cao.
- Yếu tố tài nguyên, thiên nhiên, môi trường: Thực tế cho thấy, tài nguyên - thiên nhiên phong phú đa dạng, môi trường sinh thái có sức hấp dẫn cho khách hàng không chỉ nghỉ ngơi du lịch mà còn tận hưởng các yếu tố cảnh quan thiên nhiên - môi trường. Nguồn tài nguyên phong phú sẽ cho phép phát triển xây dựng các ngành kinh tế công nghiệp như: khai thác khoáng sản sẽ thu hút một lượng các nhà nghiên cứu, kỹ sư, công nhân cùng tham gia hoạt động do đó sẽ phát triển kinh tế dịch vụ hết sức thiết thực. Những quốc gia có nguồn tài nguyên như năng lượng, các loại kim loại quý thì ngành công nghiệp khai thác phát triển tốt sẽ kéo theo ngành kinh tế dịch vụ phát triển tương xứng đem lại nguồn lợi nhuận khá cao, ngoài ra có nguồn tài nguyên như vị trí địa lý, tài nguyên rừng, tài nguyên biển... sẽ phát triển các ngành dịch vụ như dịch vụ du lịch, giao thông vận tải dịch vụ phục vụ, nghiên cứu sinh vật v.v... Tóm lại, trong hoạt động kinh doanh dịch vụ những q._.uốc gia có nguồn tài nguyên - thiên nhiên phong phú, đa dạng, môi trường trong lành cùng với những điều kiện về môi trường xã hội đặc biệt là an ninh trật tự tốt cũng sẽ làm cho kinh tế dịch vụ phát triển một cách nhanh chóng.
Văn hóa được coi là một trong những yếu tố quan trọng trong kinh doanh dịch vụ. Nói đến văn hóa có nhiều cách hiểu khác nhau. Theo nghĩa rộng thì văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người lao động sáng tạo ra trong lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh định nghĩa: "Vì một lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát sinh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là vân hoá" [20, tr. 431]. Theo UNESCO thì văn hóa là một phức thể - tổng thể các đặc trưng – diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức, linh cảm... khắc hoạ nên bản sắc của một cộng đồng, gia đình, xóm làng, quốc gia; xã hội - văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật văn chương mà cả lối sống, những quyền con người; những hệ giá trị những truyền thống tín ngưỡng v.v... Về hình thức thì văn hóa có hai phạm trù là văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, nó phải được gìn giữ và phát triển; con người phải được giao lưu, hưởng thụ, và được kế thừa. Do đó để nâng cao yếu tố văn hóa trong kinh doanh dịch vụ, thì các tổ chức kinh doanh dịch vụ trước hết phải lựa chọn phương hướng kinh doanh có văn hóa, cái gì có lợi cho kinh doanh và văn hóa thì làm, nếu ảnh hưởng xấu đến các giá trị đạo đức văn hóa như thuần phong mỹ tục thì có lợi như thế nào cũng không làm, phát triển và bảo vệ những hàng hóa có bản sắc văn hóa dân tộc, hướng dẫn tiêu dùng, xây dựng tập quán tiêu dùng có văn hóa, giao lưu kinh tế đi đôi với giao lưu văn hóa, giáo dục văn hóa cho những người kinh doanh. Văn hóa nói chung, văn hóa truyền thống nói riêng có vai trò hết sức quan trọng trong kinh doanh. Văn hóa dân tộc là nguồn lực bên trong của kinh doanh nhất là kinh doanh dịch vụ. Bên cạnh các yếu tố kể trên được coi là các yếu tố bên trong, thì để làm tăng hiệu quả kinh doanh dịch vụ chúng ta cần phải kể đến các yếu tố bên ngoài đó là: Môi trường pháp luật, môi trường đầu tư, hệ thống thông tin trong nước và quốc tế ... Cơ chế quản lý của nhà nước, những định hướng chiến lược phát triển kinh tế dài hạn của đất nước, các yếu tố này có tác động mạnh đến việc nâng cao hiệu quả, lợi nhuận của các doanh nghiệp.
Tóm lại, để phát triển kinh doanh dịch vụ đưa kinh tế dịch vụ trở thành một lĩnh vực kinh tế chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu nền kinh tế thì các chính phủ, các nhà kinh tế phải xác định rõ những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển lĩnh vực kinh tế này đó là: Các yếu tố về tài nguyên - thiên nhiên - môi trường; điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật và các yếu tố xã hội (con người, văn hóa, v.v...). Từ đó có những chính sách, biện pháp phù hợp nhằm phát huy hiệu quả các yếu tố này.
1.2 Sự CầN THIếT KHáCH QUAN CủA VIệC PHáT TRIểN KINH Tế DịCH Vụ TRONG NềN KINH Tế NƯớC TA
1.2.1. Vai trò của kinh tế dịch vụ trong nền kinh tế nước ta
Đối với nước ta dịch vụ là một bộ phận hợp thành của nền kinh tế. Nếu coi nền kinh tế quôực dân là một khối thống nhất thì hai bộ phận hợp thành chủ yếu là các ngành sản xuất vật chất và và các ngành sản xuất dịch vụ. Vì vậy, dịch vụ có vai trò quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế quốc dân.
Thứ nhất: Sự phát triển kinh tế dịch vụ nó phản ánh trình độ cao của nền sản xuất xã hội, của sự phân công lao động ngày càng sâu sắc về mức sống của dân cư ngày ngày càng được nâng cao. Với tỷ trọng ngày càng lớn trong nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình phát triển nền sản xuất xã hội, dịch vụ đã và đang ngàng càng chiếm vị trí quan trọng trong cả hai chỉ tiêu chung của nền kinh tế là số lượng lao động trong các doanh nghiệp và tỷ trọng thu nhập quốc nội (GDP) hay tỷ trọng trong tổng sản phẩm quốc dân (GNP).
Phát triển kinh tế dịch vụ tạo ra công ăn việc làm, thực hiện phân phối lại thu nhập, đẩy mạnh kinh tế hàng hóa phát triển, đặc biệt nước ta có hàng triệu lao đông dư thừa trung bình mỗi năm chúng ta có khoảng 3 - 4 triệu lao động không có việc làm, do đó phát triển kinh tế dịch vụ sẽ là nơi thu hút một lượng lao động lớn, giải quyết thất nghiệp, giảm những tệ nạn xã hội, tạo ra nguồn thu nhập, cải thiện đời sống của bộ phận không nhỏ dân cư. Nếu năm 1990 cơ cấu lao động việc làm trong ngành dịch vụ chiếm 13,84% thì đến năm 1999 lên tới 20% trong khi trong công nghiệp - xây dựng chỉ tăng từ 13,92% năm 1990 lên 15,5% năm 1999 [2]. Trong chừng mực nhất định phát triển kinh tế dịch vụ còn có vai trò chống lạm phát, vì nó cân đối tiền - hàng cho đất nước. Dịch vụ giúp cho việc phát triển và ổn định thị trường, làm thay đổi căn bản cơ cấu của nền kinh tế. Dịch vụ là lĩnh vực đầu tư kinh doanh có hiệu quả nhanh. So với đầu tư vào kinh doanh ở lĩnh vực sản xuất ra sản phẩm vật chất thì đầu tư vào kinh doanh ở lĩnh vực dịch vụ nhìn chung dịch vụ không cần lượng vốn nhiều, nhưng lại có doanh thu nhanh và hiệu quả kinh doanh cao. Kinh tế dịch vụ là lĩnh vực rất năng động và có quy mô rộng do đối tượng phục vụ, thời gian phục vụ, không gian phục vụ cũng như tính đa dạng nhiều vẻ, phong phú về nhu cầu khách hàng, của các loại dịch vụ cần đáp ứng
Thứ hai: Dịch vụ trực tiếp góp phần phát triển sản xuất nhất là trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp - xây dựng. Là một nước có khoảng 75% là sản xuất nông nghiệp, do đó dịch vụ sẽ tham gia cung cấp các yếu tố đầu vào cho sản xuất nông nghiệp cũng như các yếu tố cho các hoạt động kinh doanh khác. Đồng thời dịch vụ còn tham gia vào quá trình tiêu thụ sản phẩm làm cho các ngành sản xuất, các doanh nghiệp tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn (giải quyết đầu ra). Như vậy dịch vụ được thực hiện trước, trong và sau khi tiêu thụ sản phẩm. Hay nói cách khác dịch vụ là cầu nối giữa các yếu tố "đầu vào" và "đầu ra" trong quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, nó thúc đẩy nền kinh tế phát triển năng động, hiệu quả và đảm bảo sự thuận tiện, phong phú và văn minh cho các lĩnh vực đời sống vật chất và tinh thần của xã hội.
Dịch vụ đóng vai trò thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong những thập niên đầu thế kỷ XXI nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu chung của đất nước, tham gia vào việc nâng cao dân trí và chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Thứ ba: phát triển kinh tế dịch vụ sẽ đảm bảo thỏa mãn đời sống xã hội về vật chất cũng như tinh thần được đúng nơi, đúng chỗ, kịp thời, thuận tiện, văn minh và phong phú. Phát triển kinh tế dịch vụ đúng mức sẽ giải quyết được nhiều vấn đề xã hội tạo ra những quan hệ mới trong đời sống xã hội. Dịch vụ còn đóng vai trò to lớn trong việc giải phóng phụ nữ một lực lượng lao động to lớn mà các nước văn minh đang có xu hướng tiến tới bình đẳng giữa nam và nữ, khai thác tiềm năng và sử dụng phù hợp có hiệu quả lực lượng lao động nữ ở cả lĩnh vực lao động trí óc và lao động chân tay nhất là trong điều kiện nước ta tỷ lệ lao động nữ chiếm hơn 50% trình độ kỹ thuật, tay nghề còn thấp do đó phát triển kinh tế dịch vụ sẽ giải quyết lượng lao động nữ vào các hoạt động dịch vụ sử dụng lao động chân tay là hết sức cấp thiết.
Dịch vụ còn là một bộ phận quan trọng trong kinh tế đối ngoại của nước ta trong quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế hiện nay nó góp phần tham gia vào các quá trình trao đổi mua bán các loại hàng hóa trong nước và quốc tế.
Có thể nói, dịch vụ là phương tiện hữu hiệu để thực hiện phương châm "vì con người" tạo khả năng cho con người phát triển toàn diện. Dịch vụ ra đời và phát triển cũng với đà phát triển của nền sản xuất xã hội, của sự phát triển phân công lao động xã hội. Nền kinh tế xã hội càng phát triển thì dịch vụ càng phát triển đa dạng phong phú và sự phát triển của dịch vụ là một chỉ tiêu phát triển kinh tế của một quốc gia về trình độ phát triển văn minh của xã hội.
Cho đến năm 2000 kinh tế dịch vụ ở nước ta đã đóng góp một tỷ trọng khá cao trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) (xem bảng 1.1 và 1.2).
Bảng 1.1: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) - theo giá hiện hành
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Năm
Lĩnh vực
Thực hiện năm 1999
Thực hiện năm 2000
Cơ cấu (%) năm 2000
Tổng số
399.943
444.139
100,00
Nông - lâm nghiệp - thủy sản
101.723
107.913
24,30
Công nghiệp - Xây dựng
137.959
162.595
36,61
Dịch vụ
16.260
173.631
39,09
Bảng 1.2: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) - theo giá cố định năm 1994
Đơn vị tính: tỷ đồng
Năm
Lĩnh vực
Thực hiện năm 1999
Thực hiện năm 2000
Năm 2000 so với năm 1999 (%)
Tổng số
256.272
273.582
106,75
Nông - lâm nghiệp-thủy sản
60.895
63.353
104,04
Công nghiệp - Xây dựng
88.047
96.916
110,07
Dịch vụ
103.330
113.313
105,57
Nguồn: Niên giám thống kê 2000.
Căn cứ vào bảng 1.1 và 1.2 thì khu vực dịch vụ năm 2000 đóng góp 173.631 tỷ đồng theo giá hiện hành và 113.313 tỷ đồng theo giá cố định 1994 và chiếm tỷ trọng cao nhất trong GDP.
Như vậy, kinh tế dịch vụ ở nước ta thực sự chiếm một vai trò quan trọng trong nền kinh tế xã hội. Theo các nhà kinh tế trong và ngoài nước thì con số này sẽ tiếp tục tăng cao trong những năm tiếp theo nhất là khi Việt Nam ký hiệp Hịnh thương mại Việt - Mỹ và tham gia APTA, WTO …
Bảng 1.3: Cơ cấu kinh tế quốc dân và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta từ năm 1992 đến năm 2000
Năm
Lĩnh vực
1992
1994
1996
1998
2000
Nông nghiệp
33,9
28,7
27,2
25,78
24,30
Công nghiệp - Xây dựng
27,3
29,6
30,7
32,49
36,61
Dịch vụ
38,8
41,7
42,1
41,75
39,09
Nguồn: Niên giám thống kê 2000.
Như vậy trong những năm đổi mới các ngành kinh tế quốc dân đã có sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng: nâng cao tỷ trọng và tốc độ phát triển của công nghiệp và dịch vụ giảm tỷ trọng của nông nghiệp; trong đó tỷ trọng kinh tế dịch vụ chiếm từ 39 - 43% trong cơ cấu GNP, mặc dù năm 2000 do những biến động kinh tế trong nước và quốc tế, tỷ trọng dịch vụ có phần giảm sút, song nó vẫn chiếm tỷ trong cao nhất. Từ những cơ sở lý luận và thực tế về vai trò của kinh tế dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân ở nước ta việc xác định mục tiêu, chiến lược phát triển ngành kinh tế dịch vụ là một đòi hỏi hết sức cấp thiết đối với sự phát triển nền kinh tế và cũng chính là một tất yếu khách quan để chúng ta thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
1.2.2. Phát triển kinh tế dịch vụ là một tất yếu khách quan trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam
Nước ta tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu. Vì vậy, việc lựa chọn một mô hình phát triển kinh tế, một cơ cấu kinh tế sao cho phù hợp là một việc rất quan trọng nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế đất nước. Những thập niên gần đây trong cơ cấu kinh tế của một số nước phát triển thể hiện rất rõ nét đó là tỷ trọng trong lĩnh vực kinh tế dịch vụ lớn hơn tỷ trọng trong khu vực công nghiệp, nông nghiệp cộng lại. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nhiều nước có thể chia thành bốn giai đoạn:
- Giai đoạn I: Nông nghiệp – Công nghiệp – Dịch vụ
- Giai đoạn II: Công nghiệp – Nông nghiệp – Dịch vụ.
- Giai đoạn III: Công nghiệp – Dịch vụ – Nông nghiệp.
- Giai đoạn IV: Dịch vụ – Công nghiệp – Nông nghiệp.
Trong công cuộc đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, trong đó cơ cấu nền kinh tế đã và đang chuyển dịch theo chiều hướng hợp lý, tiến bộ. Lực lượng lao động từ khu vực sản xuất nông nghiệp đã và đang chuyển dần sang khu vực công nghiệp và dịch vụ. Tỷ trọng dịch vụ và công nghiệp trong những năm qua tăng dần trong cơ cấu kinh tế (xem bảng 1.3).
Tuy nhiên, theo các nhà phân tích kinh tế thì tỷ trọng dịch vụ trong các ngành còn thấp chưa tương xứng với tiềm năng của một số ngành; ví dụ: dịch vụ trong nông nghiệp năm 1999 tổng giá trị sản xuất đạt 102.932,9 tỷ đồng trong đó trồng trọt chiếm 82.945,6 tỷ đồng, chăn nuôi 17.337,0 tỷ đồng còn các dịch vụ phục vụ trồng trọt và chăn nuôi chỉ chiếm 2.650,3 tỷ đồng. Như vật tỷ lệ dịch vụ trong nông nghiệp còn rất thấp khoảng 2% trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp. Do đó cần phải có những biện pháp cụ thể kịp thời để đưa nhanh tỷ lệ của dịch vụ trong kinh tế nông nghiệp và một số lĩnh vực kinh tế khác.
Xác định được vai trò vị trí và tầm quan trọng của kinh tế dịch vụ trong cơ cấu nền kinh tế nước ta. Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) đã đề cập đến vai trò của dịch vụ trong sản xuất và đời sống:
1. Phát triển rộng rãi các loại hình dịch vụ kỹ thuật phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân.
2. Kết hợp chặt chẽ giữa sản xuất và lưu thông dịch vụ trên địa bàn từng huyện, từng tỉnh, từng vùng kinh tế.
3. "Cho phép những nhà tư sản nhỏ … sản xuất kinh doanh trong một số ngành nghề thuộc khu vực sản xuất và dịch vụ ở những nơi cần thiết trong cả nước [8, tr. 60].
Trong Văn kiện Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam thì kinh tế dịch vụ lần đầu tiên được đặt ra như một bộ phận cấu thành của cơ cấu kinh tế. Trong khoa học kinh tế cũng như trong thực tiễn kinh doanh nội dung, phạm trù kinh tế dịch vụ cũng như tỷ trọng kinh tế dịch vụ có vị trí ngày càng quan trọng. Trước mắt nó có vai trò to lớn trong sản xuất, phân phối lưu thông và tiêu dùng có tính xã hội và có tính chất hệ thống. Văn kiện cũng xác định rõ chúng ta sẽ phải mở rộng kinh tế dịch vụ ở cả thành thị và nông thôn. Cần phát triển nhanh các dịch vụ như: vận tải, bưu điện, thông tin, ngân hàng, bảo hiểm, khoa học và chuyển giao công nghệ, các dịch vụ về quảng cáo tư vấn đầu tư pháp lý, xuất khẩu lao động và chuyên gia v.v... Trong kinh tế dịch vụ sự phát triển thương nghiệp nhiều thành phần được tự do lưu thông hàng hóa theo pháp luật coi đây là khâu quan trọng cần được tổ chức lại theo cơ cấu kinh tế mới.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII tháng 6/1996 cũng ghi rõ: "Phát triển nhanh du lịch - dịch vụ hàng không, hàng hải, bưu chính viễn thông, thương mại, vận tải, tài chính ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm, công nghệ, pháp lý v.v... và các dịch vụ phục vụ đời sống nhân dân. Từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch, thương mại - dịch vụ có tầm cỡ trong khu vực" [10] và mục tiêu chung là phải tập trung: "Phát triển mạnh các loại dịch vụ, mở thêm những loại hình mới đáp ứng nhu cầu đa dạng của sản xuất, kinh doanh và đời sống. Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong dịch vụ, giữ ổn định giá cả, nhất là đối với các mặt hàng và dịch vụ thiết yếu" [10].
Đặc biệt, trong mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nước ta từ nay đến năm 2010 và 2020 được Đảng ta đưa vào Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX (1/2001) là: "Phát triển manh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ: thương mại, kể cả thương mại điện tử, các loại hình vận tải, bưu chính viễn thông, du lịch, tài chính ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm, chuyển giao công nghệ, tư vấn pháp lý, thông tin thị trường v.v... sớm phổ cập sử dụng tin học và mạng thông tin quốc tế (Internet) trong nền kinh tế và đời sống" [11, tr. 179]. Và "toàn bộ các hoạt động dịch vụ tính theo giá trị gia tăng đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân 7 - 8% / năm và đến năm 2010 chiếm 42 - 43% GDP và 26 - 27% tổng số lao động" [11, tr. 179]. Như vậy so với 16 - 17% của nông nghiệp và 40 – 41% của công nghiệp thì dịch vụ được xây dựng là một ngành kinh tế có tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu kinh tế nước ta từ nay đến năm 2010.
Nếu từ thập niên 80 trở về trước chúng ta chưa thực sự quan tâm, thậm chí còn coi nhẹ ngành dịch vụ (theo ước tính của cơ quan thống kê Liên hợp quốc thì dịch vụ ở Việt Nam vào những năm 80 trở về trươc mới chiếm khoảng 13 - 15 % trong tổng sản phẩm kinh tế quốc dân (GNP)) thì hiện nay kinh tế dịch vụ được coi là một ngành kinh tế mũi nhọn có nhiều ưu điểm có khả năng thu hút một lượng lớn lao động xã hội nâng cao thu nhập góp phần cải thiện đới sống nhân dân đóng góp một phần lớn vào ngân sách nhà nước... Với yêu cầu phát triển nền kinh tế đất nước trong những năm đầu thế kỷ XXI đòi hỏi cấp bách của chúng ta là phải phát triển mạnh kinh tế dịch vụ với mục tiêu là:
- Dịch vụ phải trở thành một lĩnh vực kinh tế quan trọng của đất nước, nhằm thúc đẩy sản xuất và thúc đẩy quan hệ giao lưu trong và ngoài nước, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động, đáp ứng tốt hơn đời sống vật chất và văn hóa tinh thần của nhân dân, tức là dịch vụ phải nhằm trực tiếp nhu cầu của con người, phục vụ con người vì lợi ích của con người và do con người.
- Phát triển mạnh mạng lưới dịch vụ phục vụ cho các ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, và các ngành sản xuất khác; việc nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy sản xuất chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Đó là những dịch vụ hướng tới cả "đầu vào" và "đầu ra" của sản xuất như: cung ứng các loại vật tư phân bón, giống, thuốc trừ sâu, thủy lợi, bảo vệ thực vật, hỗ trợ chăn nuôi thú y, thông tin tư vấn, cố vấn, bồi dưỡng cán bộ, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, giao dịch, giới thiệu sản phẩm, tín dụng v.v...
- Đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ như: cung ứng tàu biển, hàng không, bưu điện, kiều hối, du lịch, hợp tác lao động, thông tin số liệu, bảo hiểm, an ninh tài sản v.v...
- Phát triển mạnh mạng lưới dịch vụ công cộng như: đi lại, nhà ở, văn hóa nghệ thuật, bảo vệ sức khỏe, bảo hiểm xã hội, dịch vụ tư vấn, đơn từ tố cáo, khiếu nại v.v... Các dịch vụ sinh hoạt như: ăn, ở, mặc, sửa chữa đồ dùng gia đình, cưới xin, làm đẹp v.v...
Với sự phát triển đa dạng, phong phú nhiều loại hình dịch vụ cùng với những điều kiện, những chính sách hợp lý thì mục tiêu đến năm 2010 kinh tế dịch vụ nước ta chiếm 42- 43% là hoàn toàn có cơ sở thực hiện.
Để thực hiện các mục tiêu phát triển các ngành dịch vụ cần phải có những nội dung cơ bản như:
Một là, dịch vụ phải được coi là một bộ phận của cơ cấu kinh tế là một trong những lĩnh vực kinh tế mũi nhọn của đất nước bởi vì: cơ cấu kinh tế có tác động quyết định đến tốc độ hiệu quả phát triển kinh tế đến toàn bộ tình hình kinh tế - xã hội. Nếu bố trí không hợp lý cơ cấu kinh tế sẽ dẫn đến những thiệt hại cho sản xuất và đời sống, gây lãng phí lao động xã hội và đương nhiên sẽ kìm hãm sự phát triển nền kinh tế; thực tế nước ta trong những năm trước đây là một bài học sống động để chứng minh cho điều này. Do vậy ở mỗi thời kỳ phát triển nhất định phải lựa chọn một cơ cấu kinh tế tương xứng lúc đó Nhà nước sẽ tập trung đầu tư và tài trợ trực tiếp cho những bộ phận quan trọng. Đồng thời, thông qua cơ chế chính sách sẽ hướng dẫn điều tiết mọi hoạt động kinh tế theo cơ cấu đó, tiếp tục xác định kinh tế dịch vụ là bộ phận quan trọng trong cơ cấu của nền kinh tế đất nước.
Hai là, phải thực hiện nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong các hoạt động dịch vụ. Hoạt động dịch vụ phải có nhiều thành phần kinh tế tham gia. Đó là biện pháp quan trọng nhất để khai thác mọi tiềm lực của các thành phần kinh tế, khả năng của mọi người dân vào việc phát triển kinh tế nói chung và dịch vụ nói riêng. Hơn nữa khu vực quốc doanh dù lớn mạnh đến đâu cũng không thể bao quát mọi hoạt động dịch vụ và đều kinh doanh có hiệu quả. Vì vậy, những hoạt động dịch vụ nào mà kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế hộ gia đình tiến hành có hiệu quả thì nhà nước sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển. Các cơ sở dịch vụ quốc doanh có thể thông qua hình thức góp cổ phần, liên doanh liên kết với các thành phần kinh tế khác để mở rộng hoạt động. Thực tế trong mấy năm gần đây thì các hoạt động dịch vụ ở các thành phần kinh tế tư nhân tỏ ra linh hoạt hơn, năng động và hiệu quả hơn so với khu vực tập thể và quốc doanh. Trong những năm tới cần phải tiếp tục xem xét để mở rộng phạm vi, quy mô hoạt động của kinh tế tư nhân trong các lĩnh vực như dịch vụ y tế, giáo dục đào tạo, văn hóa nghệ thuật, du lịch v.v...
Ba là, xây dựng và ban hành các văn bản pháp quy cho hoạt động kinh doanh dịch vụ. Đây là một điều hết sức cấp bách khi mà hiện nay các loại hình dịch vụ ở nước ta đang "bung ra" một cách nhanh chóng với nhiều hình thức, quy mô, phạm vi. Song những căn cứ pháp lý cho hoạt động dịch vụ lại chưa đầy đủ, thiếu chặt chẽ, dẫn đến xuất hiện nhiều mặt tiêu cực trong các hoạt động kinh doanh dịch vụ do đó cần phải quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ và lợi ích của các thành phần kinh tế khi tham gia thị trường dịch vụ; đảm bảo trật tự kỷ cương, giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong các hoạt động kinh doanh dịch vụ.
Bốn là, tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, nhằm mở rộng quyền chủ động cho các đơn vị, tổ chức và cá nhân trong kinh doanh dịch vụ tạo môi trường thuận lợi cho mọi loại hình hoạt động dịch vụ. Hiện nay các tổ chức, cơ sở kinh doanh dịch vụ tập thể, tư nhân đã thực hiện hạch toán và đang khẳng định sự tồn tại của mình trên thị trường dịch vụ; còn đối với các cơ sở quốc doanh cần phải tiếp tục đổi mới hơn nữa để có thể gắn dịch vụ với thị trường, chủ động mọi vấn đề có liên quan đến hoạt động dịch vụ đảm bảo kinh doanh phải có lãi và đóng góp đầy đủ cho ngân sách theo quy định của nhà nước. Trong những năm tiếp theo sẽ có nhiều cơ sở dịch vụ cổ phần ra đời, do đó cần phải quy địn rõ quyền hạn, trách nhiệm và lợi ích của hội đồng quản trị cũng như các quan hệ mới sẽ nảy sinh. Các cơ sở dịch vụ tư nhân cũng phải làm rõ mối quan hệ giữa chủ và thợ, nhà nước cần thông qua thuế, lãi xuất phải có sự phân biệt các thành phần tham gia dịch vụ để khuyến khích hoặc hạn chế các hoạt động dịch, hướng dẫn các hoạt động dịch vụ sao cho phù hợp với mục tiêu phát triển dịch vụ và trong cơ cấu nền kinh tế mới.
Năm là, chú trọng phát triển những lĩnh vực sản xuất tạo phương tiện hàng hóa phục vụ yêu cầu phát triển dịch vụ, đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác với các nước để tranh thủ nguồn vốn, kỹ thuật công nghệ nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ trong nước, từng bước hòa nhập thị trường dịch vụ trong nước với thị trường dịch vụ quốc tế, mua những dịch vụ có chứa hàm lượng kỹ thuật cao, giá thành hạ phục vụ cho sản xuất và đời sống; đồng thời bán những dịch vụ thế mạnh của đất nước mà thế giới ưa chuộng như: các loại thực phẩm chế biến thức ăn dân tộc, chữa bệnh bằng đông y, giao lưu văn hóa v.v...
Sáu là, đào tạo đội ngũ cán bộ biết kinh doanh dịch vụ có trình độ kỹ thuật tay nghề cao, khuyến khích mọi người có nguyện vọng và điều kiện ra nước ngoài học tập, tăng cường thuê chuyên gia mở các lớp đào tào dài hạn, ngắn hạn tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế về huyến luyện, đào tạo trao đổi, tham quan khảo sát về quản lý kinh doanh dịch vụ.
Tóm lại, để thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội nước ta trong những thập niên đầu thế kỷ XXI để tránh sự tụt hậu quá xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới để phù hợp với xu thế phát triển kinh tế - xã hội chung của các nước, đồng thời phù hợp với điều kiện của đất nước thì việc xác định một cơ cấu kinh tế hợp lý là một việc làm có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đặc biệt trong điều kiện nước ta và thế giới hiện nay, Việc xác định vai trò, vị trí của kinh tế dịch vụ trong cơ cấu nền kinh tế là sự cần thiết mang tính khách quan, đây là cơ sở khoa học để Đảng và Nhà nước ta tập trung đầu tư hỗ trợ nhằm phát triển có hiệu quả cao nhất lĩnh vực kinh tế mũi nhọn này.
Cùng với sự phát triển kinh tế chung của đất nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã và đang tìm những giải pháp kinh tế, những hướng đi thích hợp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phù hợp với điều kiện của địa phương cũng như phù hợp với các mục tiêu và phương hướng phát triển của nền kinh tế đất nước. Có thể nói rằng, Bà Rịa - Vũng Tàu là một tỉnh có rất nhiều tiềm năng và lợi thế về các điều kiện tự nhiên, xã hội, kinh tế để thúc đẩy phát triển nhanh chóng các ngành kinh tế, mà đặc biệt là lĩnh vực kinh tế dịch vụ. Vì vậy, việc xác định một cơ cấu kinh tế hợp lý có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trong những năm trước mắt và những năm tiếp theo.
Chương 2
NHữNG TIềM NĂNG, LợI THế Và THựC TRạNG KINH Tế DịCH Vụ ở TỉNH Bà RịA - VũNG TàU TRONG THờI Kỳ ĐổI MớI
2.1. NHữNG TIềM NĂNG Và LợI THế CHủ YếU CủA Bà RịA -VũNG TàU TRONG PHáT TRIểN KINH Tế DịCH Vụ
Bà Rịa - Vũng Tàu được thành lập năm 1991 với diện tích 1.975,14 km2 (chiếm 0,6% diện tích cả nước), dân số trên 78 vạn người (chiếm 0,92% dân số cả nước) bao gồm 7 đơn vị hành chính: Thành phố Vũng Tàu, thị xã Bà Rịa, huyện Côn Đảo, huyện Xuyên Mộc, huyện Châu Đức, huyện Long Đất, và huyện Tân Thành. ví trí của tỉnh nằm ở khu vực miền Đông Nam Bộ, phía Bắc và Tây Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, phía Tây Nam giáp Thành phố Hồ Chí Minh, phía Đông Bắc giáp tỉnh Bình Thuận, phía Nam và Đông Nam giáp biển Đông, đây là cửa ngõ ra Biển Đông của cả khu vực. Bà Rịa - Vũng Tàu được xác đinh là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế động lực của phía nam đất nước. Đây là khu vực kinh tế năng động với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm khá cao. Riêng Bà Rịa - Vũng Tàu sau 10 năm thành lập được xem là một trong số ít tỉnh, thành có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trong 4 năm cao nhất nước (15 - 20 %/năm), đứng sau Thành phố Hồ Chí Minh về nộp ngân sách nhà nước (20,01%), nếu năm 1992 thu nhập đầu người là 985 USD/người/năm (kể cả dầu khí) và 186 USD /người/năm (không kể dầu khí) thì đến năm 2001 đã lên tới 3.514 USD (kể cả dầu khí) và 876 USD (không kể dầu khí) và được coi là một tỉnh có thu nhập GDP trung bình đầu người cao nhất cả nước. Các mặt của đời sống xã hội được nâng cao, công – nông nghiệp, dịch vụ được phát triển, y tế, giáo dục được đầu tư đúng mức, các hoạt động xã hội được quan tâm ... có được những thành tựu kể trên là ngay từ khi mới thành lập cơ cấu kinh tế của tỉnh được xác định là: Công nghiệp - Dịch vụ - Nông nghiệp, tỷ lệ này năm 1992 là 80,4%; 13,8% và 3,37% (kể cả dầu khí), và đến năm 2000 là 81,5%; 14,36% và 4,06%. Nếu không kể dầu khí thì năm 2000 tỷ lệ này sẽ là: 47,6%; 41,6% và 11,62%, số lao động phục vụ trong các ngành công nghiệp - xây dựng là: 16%; dịch vụ 21% và nông nghiệp: 63%. Cơ cấu kinh tế này phù hợp với những tiềm năng lợi thế của tỉnh đã được duy trì trong nhiều năm.
a) Tiềm năng dầu khí và dịch vụ cho công nghiệp dầu khí
Theo tài liệu của tổng công ty dầu khí Việt Nam tại thềm lục địa phía Đông Nam bộ (chủ yếu tập trung tại Bà Rịa – Vũng tàu) có trữ lượng dầu khí lớn. Tại đây đã phát hiện nhiều mỏ có trữ lượng lớn như: Mỏ Bạch Hổ, mỏ Rồng, mỏ Đại bàng, Thanh Long trữ lượng công nghiệp của các mỏ này đạt trên 300 triệu tấn dầu thô, tỷ lệ khí đồng hành từ 150 - 180m3/ tấn. Cho phép khai thác sản lượng trên 20 triệu tấn / năm. Về khí thiên nhiên trữ lượng khoảng 200 - 300 tỷ m3, riêng mỏ Thanh Long có thể chứa khoảng 180 - 200 tỷ m3, tại khu vực lòng chảo Côn Sơn có hai mỏ khí với trữ lượng lượng khoảng 60 - 90 tỷ m3 cho phép khai thác 2 - 3 tỷ m3/năm. Kể từ khi thành lập đến cuối năm 1998 Vietsovpetro đã khai thác được 50 triệu tấn dầu khí và đến năm 2001 là 100 triệu tấn dầu. Hiện nay mỗi ngày hàng trăm m3 khí từ các mỏ được đưa vào bờ cung cấp khí cho các nhà máy điện Bà Rịa, Phú Mỹ cũng như cung cấp cho nhà máy khí hóa lỏng (Gas) Dinh Cố trên cơ sở đó sẽ phát triển xây dựng các dự án về công nghiệp năng lượng, công nghiệp phân bón, tổ hợp công nghiệp hóa dầu khí. Có thể nói, hiện nay ngành dầu khí là một ngành kinh tế mũi nhọn của nước ta nói chung và nguồn thu ngân sách lớn cho Bà Rịa - Vũng Tàu nói riêng. Đây là những tiềm năng to lớn để thúc đẩy các ngành công nghiệp khai thác, công nghiệp chế tạo, chế biến của Bà Rịa - Vũng Tàu mà đặc biệt là lợi thế để Bà Rịa - Vũng Tàu phát triển ngành kinh tế dịch vụ, phục vụ thăm dò bảo dưỡng, khai thác, chế biến, tiêu thụ dầu khí cũng như các dịch vụ hậu cần phục vụ đời sống sinh hoạt cho đội ngũ cán bộ, công nhân, kỹ sư, chuyên gia làm việc trong ngành dầu khhí. Nếu năm 1995 doanh thu của địa phương từ dịch vụ dầu khí là 700 tỷ đồng thì đến năm 2000 tổng doanh thu là 1.850 tỷ đồng, đây là một nguồn ngân sách lớn của địa phương để thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội.
b) Những tiềm năng phát triển các khu công nghiệp và hệ thống cảng sông, cảng biển
Tính từ năm 1996 đến 2001 trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã có đã có 5 khu công nghiệp được hình thành với diện tích gần 2000 ha, 46 dự án đầu tư. Và đến cuối 2001 Bà Rịa - Vũng Tàu có 71 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn lên tới 2,98 tỷ USD. Bà Rịa - Vũng Tàu còn có hệ thống đường bộ rất thuận lợi và đang nâng cấp tương đối hiện đại, như quốc lộ 51 từ thành phố Hồ Chí Minh qua Đồng Nai đi Bà Rịa - Vũng Tàu; đường quốc lộ 56 đi Đồng Nai, quốc lộ 58 đi Bình Thuận v.v... dọc theo trục các quốc lộ đang hình thành các khu công nghiệp lớn như Bà Rịa, Tân Thành, Long đất v.v... đây là những lợi thế để phát triển các ngành dịch vụ chuyên chở hàng hóa và hành khách đi các tỉnh lân cận đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh, khu công nghiệp Biên Hòa - Đồng Nai. Bà Rịa - Vũng Tàu còn có hệ thống sông dài, riêng sông Thị Vải chảy qua địa bàn tỉnh dài 25 km, rộng trung bình 600-800 m, sâu từ 10 – 12 m chảy song song với quốc lộ 51, rất thuận tiện xây dựng các cảng nước sâu cho tầu 30 - 35 ngàn tấn. Theo tính toán trên sông này có thể xây dựng được 8 khu cầu cảng với tổng công xuất khoảng 50 triệu tấn/ năm hiện nay đã đưa vào sử dụng cảng Bà Rịa Serece dài 132 m công xuất 1,2 triệu tấn/ năm, và hiện tại đã tiếp nhận 6 dự án xây dựng các cảng trên sông. Bà Rịa - Vũng Tàu còn có bờ biển dài khoảng 156 km, có nhiều vùng biển sâu, lăng gió rất thuận tiện để xây dựng hệ thống cảng biển. Khu vực của biển Sao Mai - Bến Đình có thể xây dựng cảng cho tàu chở Conteiner trọng tải đến 80.000 DWT và tàu dầu 200.000 DWT. Hiện nay đã đi vào hoạt động các cảng như: Cảng liên doanh dầu khí dài 1.278 m, cảng PTSC 250 m Cảng dầu K2 dài 330 m, cảng thương mại Cát Lở 250 m v.v... Tại Côn Đảo có vịnh Bến Đầm với chiều dài 4 km rộng 1,6 km sâu từ 6 - 18 m, diện tích đất khoảng 20 ha có thể xây dựng cảng cho tàu từ 1 - 5 vạn tấn, vịnh kín gió có thể khai thác quan._. chính phủ khác, phối hợp với Viện Kinh tế và Kế hoạch của Bộ Thủy sản để xây dựng quy hoạch tổng thể ngành thủy sản từ nay đến 2010, khảo sát và đánh giá các mô hình nuôi trồng thủy sản.
Xây dựng các đề án phục vụ đánh bắt, nuôi trồng, bảo quản và chế biến các loại hải sản sau khi thu hoạch.
Tiếp tục cụ thể hóa các chính sách của Đảng, Nhà nước và của địa phương nhằm phục vụ cho ngành thủy sản.
Các Sở, Ngành cần chủ động quan hệ hợp tác và thương mại quốc tế với các công ty, các tổ chức quốc tế nhằm tạo vốn, kỹ thuật công nghệ mới phục vụ cho việc nâng cấp và xây dựng mới các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ hậu cần thủy sản.
Tranh thủ sự giúp đỡ của các bộ chủ quản và địa phương để đẩy mạnh sự hợp tác với các nước trong khu vực và thế giới trong việc đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật cho ngành thủy sản. Đẩy mạnh công tác tiếp thị, quảng cáo để tìm kiếm thị trường trong và ngoài nước. ổn định và từng bước mở rộng thị trường châu á như: Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc v.v... Đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường châu Âu (EU) và thị trường Mỹ.
Tăng cường công tác khuyến ngư, bảo vệ các nguồn lợi thủy sản và phòng chống lụt bão, duy trì thường xuyên công tác an ninh quốc phòng nhằm bảo vệ an toàn sự xâm phạm về nguồn lợi thủy - hải sản.
Các biện pháp cơ bản trên đây vừa mang tính cấp bách vừa mang tính chiến lược lâu dài để phát triển ngành thủy sản và là cơ sở quan trọng cho sự tồn tại và phát triển ngành dịch vụ thủy sản trong tương lai của Bà Rịa - Vũng Tàu.
3.2.3. Các giải pháp chủ yếu phát triển dịch vụ du lịch
Trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam có ghi rõ: "Phát triển du lịch thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn; nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động trên cơ sở khai thác lợi thế và điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hóa, lich sử, đáp ứng nhu cầu du lịch trong nước và phát triển nhanh du lịch quốc tế sớm đạt trình độ phát triển du lịch của khu vực. Xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất, hình thành các khu du lịch trọng điểm, đẩy mạnh hợp tác, liên kết với các nước" [11, tr. 178-179]. Để thực hiện mục tiêu phát triển ngành du lịch và dich vụ du lịch đến năm 2005 do Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ III đề ra là đến năm 2005 dịch vụ du lịch đạt 800 tỷ đồng và tổng giá trị dịch vụ du lịch từ 2001 - 2005 là 3.245 tỷ đồng, tốc độ tăng trung bình năm là khoảng 10,9%. "Ra sức nâng cao hiệu quả kinh doanh du lịch. Hướng chính là khai thác triệt để điều kiện tự nhiên (biển, rừng, núi), đồng thời đầu tư hiện đại hóa dần các trọng điểm du lịch (bao gồm các hải đảo) … Đa dạng hóa sản phẩm du lịch, gắn phát triển du lịch sinh thái với du lịch lịch sử, du lịch văn hóa, gắn nghỉ ngơi với vui chơi giải trí" [32]. Do đó cần có những giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất: Tập trung mọi nguồn vốn trước hết là ngân sách nhà nước đầu tư cho các chương trình trọng điểm nhằm phát triển du lịch
Tỉnh cần sử dụng nguồn ngân sách tập trung để đầu tư vào công tác quy hoạch du lịch, xây dựng cơ sở hạ tầng trọng yếu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư trong các khu du lịch đã được quy hoạch.
ã Các dự án quy hoạch du lịch đến 2005 – 2010 bao gồm:
+ Khu du lịch thác Hòa Bình huyện Xuyên Mộc
+ Khu du lịch Láng Dài huyện Long Đất
+ Điều chỉnh quy hoạch chi tiết khu du lịch Chí Linh - Cửa Lấp thành phố Vũng Tàu.
+ Khu du lịch Cỏ ống huyện Côn Đảo.
ã Các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch.
+ Hai cầu tàu du lịch tại hai khu du lịch quy mô quốc gia là: khu du lịch Hoa Anh Đào huyện Long đất; khu du lịch Côn Đảo huyện Côn Đảo: tổng số vốn 49,6 tỷ đồng.
+ Cáp treo Núi Lớn – Núi Nhỏ (phần hạ tầng kỹ thuật) 63,8 tỷ đồng.
+ Khu du lịch bãi tắm Thùy Vân: 30 tỷ đồng
+ Hạ tầng khu công viên công cộng Bãi Trước 14,59 tỷ đồng.
+ Hạ tầng khu du lịch Núi Dinh 26,6 tỷ đồng.
+ Đường du lịch trung tâm thị trấn Long Hải 28,5 tỷ đồng
ã Các chương trình lớn của ngành du lịch:
+ Chương trình phát triển mạng lưới tuyên truyền, quảng bá toàn ngành.
+ Dự án công nghệ thông tin ngành du lịch.
Thứ hai: Về cơ chế đầu tư
Sở Kế hoạch - Đầu tư đề xuất, quy định chi tiết chính sách ưu đãi đầu tư du lịch trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, về giá cả và thủ tục thuê đất, các loại thuế trên cơ sở quy định của pháp luật hiện hành, đảm bảo nguyên tắc dễ thực hiện, thủ tục hành chính đơn giản thuận tiện cho các nhà đầu tư nhằm thu hút mạnh vốn đầu tư trong và ngoài nước. Đối với các dự án do các nhà đầu tư ngoài tỉnh xin đầu tư ở Chí Linh, Cửa Lấp, Núi Dinh, Sông Lô, Bình Châu … Các ban ngành hữu quan bao gồm Sở Kế hoạch - Đầu tư, Xây dựng, Du lịch, Địa chính, Nông nghiệp và phát triển nông thôn; trong phạm vi trách nhiệm của mình cần giải quyết thủ tục đất đai để các nhà đầu tư sớm triển khai dự án, ngành địa chính và nông nghiệp phát triển nông thôn tham mưu cho ủy ban nhân dân tỉnh phối hợp với các Bộ,Ngành chức năng sớm giải quyết các vướng mắc trong việc sử dụng đất rừng phòng hộ, rừng đặc dụng vào xây dựng các công trình du lịch.
Sở Kế hoạch - Đầu tư cần hoàn tất để trình ủy ban nhân dân tỉnh quy định thống nhất trong việc phối hợp quản lý dự án du lịch ngay từ khâu thỏa thuậnn địa điểm. Những dự án du lịch có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động kém hiệu quả sẽ thành lập tổ công tác liên ngành của tỉnh kiểm tra tình hình hoạt động, kiến nghị với Bộ Kế hoạch và Đầu tư giải quyết dứt điểm từng trường hợp nhằm làm lành mạnh hóa môi trường đầu tư của tỉnh.
Thứ ba: Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho du lịch
Ngành du lịch tham khảo hướng dẫn của Tổng cục Du lịch, xây dựng quy định tiêu chuẩn, trình độ đối với các chức danh trong các cơ sở kinh doanh nhằm chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công nhân viên ngành du lịch. Trước mắt tổ chức một lớp đào tạo ngắn hạn nghiệp vụ khách sạn cho các doanh nghiệp. Phối hợp với ngành văn hóa thông tin mở 1- 2 lớp bồi dưỡng trình độ kiến thức lịch sử cho cán bộ làm công tác thuyết minh tại các di tích lịch sử, các điểm tham quan. Xây dựng đề án đào tạo đội ngũ cán bộ nhân viên trong toàn ngành giai đoạn 2001 - 2005 phối hợp với Tổng cục Du lịch, các trường đào tạo nghiệp vụ du lịch tổ chức các khóa đào tạo dài hạn đội ngũ cán bộ quản lý nhân viên kỹ thuật có tay nghề cao, ngoại ngữ giỏi để kịp thời đáp ứng nguồn nhân lực trong những năm tới.
Thứ tư: Cải thiện môi trường tự nhiên và xã hội để phát triển du lịch
Ngành du lịch phối hợp với các ngành, địa phương xây dựng mô hình quản lý vệ sinh môi trường và giữ gìn trật tự anh ninh theo hình thức đóng góp kinh phí của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch. Ngành lao động, thương binh và xã hội phối hợp với công an tỉnh, huyện, thị lập phương án thu gom các đối tượng ăn xin, các tệ nạn xã hội có biện pháp phù hợp để xử lý các đối tượng này, Ngành thương mại phố hợp ngành Du lịch lên phương án bố trí các hộ bán hàng rong vào điểm tập trung, tổ chức bán các mặt hàng lưu niệm tại các điểm du lịch, giải tỏa di dời các hộ dân, các cơ sở sản xuất, kinh doanh dọc theo bãi biển vào phía trong tuyến đường ven biển để tạo cảnh quan du lịch. Ngành Văn hóa thông tin có kế hoạch trùng tu, tôn tạo các di tích lịch sử làm tốt công tác bảo tồn kết hợp phục vụ du lịch. Các địa phương tổ chức tuyên truyền sâu rộng trong dân cư về nếp sống văn minh, nét đẹp văn hóa, văn minh du lịch v.v... tạo ấn tượng tốt đẹp cho du khách đến tham quan du lịch tại tỉnh.
Thư năm: Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước về du lịch
Du lịch là một ngành kinh tế mang tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao, do đó nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch là nâng cao nhận thức trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, các đoàn thể chính trị trong sự nghiệp phát triển du lịch, giữ gìn môi trường tự nhiên, xã hội trong sạch, giáo dục nhân dân ý thức văn minh du lịch, quản lý đất đai quy hoạch du lịch… Chủ động đề xuất và tổ chức thực hiện các giải pháp phát triển du lịch tại địa phương.
Sở Du lịch làm đầu mối thường xuyên giữ mối liên hệ chặt chẽ với Tổng cục Du lịch và các tỉnh bạn, gắn kết quy hoạch phát triển của tỉnh với quy hoạch phát triển du lịch của vùng Đông Nam Bộ thể hiện qua việc triển khai các dự án du lịch, các loại hình du lịch.
Ban hành quy chế làm việc giữa cơ quan quản lý nhà nước với các doanh nghiệp nhà nước, trung ương và địa phương, phân định rõ chức năng quyền hạn của Sở, phạm vi trách nhiệm của doanh nghiệp trong các mặt: xây dựng chiến lược phát triển toàn ngành, các chỉ tiêu kế hoạch, nhân sự, tuyên truyền, quảng bá... Sở Du lịch thành lập tổ chức thanh tra du lịch theo quy định và hướng dẫn của Tổng cục Du lịch. Chuyển trung tâm tư vấn đầu tư phát triển du lịch thành "Trung tâm xúc tiến du lịch" có chức năng nghiên cứu, tư vấn, đầu tư và xúc tiến các hoạt động du lịch.
Xây dựng mô hình tổ chức bộ máy quản lý các bãi tắm công cộng, đề xuất phương án sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước về du lịch theo hướng sát nhập, cổ phần hóa nhằm nâng cao sức canh tranh của doanh nghiệp nhà nước trong kinh doanh du lịch.
Ngành du lịch phối hợp với ngành tư pháp, địa chính, xây dựng, nông nghiệp, tổ chức chính quyền, và chính quyền các huyện đề xuất ủy ban nhân dân tỉnh cải cách thủ tục hành chính để đầu tư kinh doanh du lịch, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và du khách tham gia du lịch.
Thứ sáu: Tuyên truyền, quảng bá du lịch
Trên thế giới nhiều nước có tiềm năng về du lịch đã không ngần ngại đầu tư khoản kinh phí lớn để phục vụ công tác tuyên truyền, quảng bá dưới nhiều hình thức, trong nước và thế giới. Do vậy ngành du lịch cần xúc tiến hoàn thành các chương trình hướng dẫn du lịch, xây dựng đĩa CD-ROM, hệ thống Panô, tuyên truyền cho hoạt động. Phối hợp với ngành khoa học, công nghệ và môi trường nghiên cứu lập trang Web-site du lịch Bà Rịa -Vũng Tàu.
Xây dựng chương trình tuyên truyền, quảng bá du lịch giai đoạn 2001 - 2005 gồm các công tác như: Xây dựng cơ sở dữ liệu du lịch, cung cập thông tin cho các báo, đài trung ương và địa phương. Tham gia hội chợ du lịch định kỳ do Tổng cục Du lịch tổ chức, tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí, thể dục, thể thao thu hút khách du lich trong các lễ hội; thực hiện các ấn phẩm du lịch, phối hợp với các tỉnh bạn tổ chức các hội thảo, hội chợ triển lãm về du lịch tại Vũng Tàu.
3.2.4. Một số giải pháp để phát triển các dịch vụ cho nông nghiệp trong giai đoạn 2001 – 2010
Trên cơ sở định hướng phát triển ngành nông nghiệp và nông thôn được ghi trong Văn kiện Đại hội IX của Đảng:
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hóa lớn phù hợp với nhu cầu thị trường, và điều kiện sinh thái của từng vùng, chuyển dich cơ cấu ngành, nghề, cơ cấu lao động, tạo việc làm thu hút nhiều lao động ở nông thôn. Chú trọng điện khí hóa, cơ giới hóa ở nông thôn; phát triển mạnh công nghiệp chế biến gắn với vùng nguyên liệu, cơ khí phục vụ nông nghiệp, công nghiệp gia công và dịch vụ; liên kết nông nghiệp – công nghiệp – dịch vụ trên từng địa bàn của cả nước... Phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Hình thành các khu vực tập trung công nghiệp, các điểm công nghiệp ở nông thôn, các làng nghề gắn với thị trường trong nước và xuất khẩu. Chuyển một phần doanh nghiệp gia công (may mặc, da giày) và chế biến nông sản ở thành phố về nông thôn. Có chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư của mọi thành phần kinh tế vào phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn [11, tr. 168-172].
Thứ nhất, về dịch vụ cung cấp giống. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần thực hiện việc rà soát lại toàn bộ các cơ sở kinh doanh dịch vụ nông nghiệp trong toàn tỉnh, trước hết là các cơ sở trực thuộc Sở quản lý để có kế hoạch xây dựng hoăùc thay đổi một số cơ sở kinh doanh dịch vụ theo những địa bàn phù hợp với đối tượng phục vụ. Đồng thời Trung tâm dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp của tỉnh lên kế hoạch tổ chức sắp xếp lại mạng lưới kinh doanh dịch vụ ở các đơn vị cấp huyện, xã, giao cho Phòng Nông nghiệp huyện phố hợp với các Ban Nông nghiệp cấp xã, phường để thực hiện việc cung cấp các loại giống cây trồng, vật nuôi, các dịch vụ bảo vệ, chăm sóc, kiểm dịch, thú y một cách đồng bộ chặt chẽ từ trên xuống; các cá nhân, hộ gia đình có thể nhận đại lý một số vật tư, thiết bị thuốc trừ sâu, thuốc thú y v.v… phục vụ nông nghiệp cho cấp huyện dưới sự giám sát và quản lý chặt chẽ của cơ quan chủ quản.
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn liên kết với Trung tâm nghiên cứu giống cây trồng miền Nam (trên địa bàn tỉnh) và các Trung tâm giống cây trồng, vật nuôi ở các địa phương khác để cung ứng trực tiếp các loại giống cây trồng vật nuôi theo đơn đặt hàng của nông dân, đảm bảo số lượng, chất lượng, uy tín và thời gian sản xuất; khắc phục hiện tượng nông dân tự phát đi mua các loại giống cây trồng vật nuôi kém chất lượng, tình trạng này đã xảy ra ở nhiều nơi trong tỉnh cũng như các địa phương khác trong cả nước.
Các cơ quan chức năng kiên quyết xử lý và xóa bỏ các cơ sở kinh doanh các loại giống cây trồng, vật nuôi không có nguồn gốc xuất xứ rõ rằng, không có giấy phép đăng ký kinh doanh. Đặc biệt là các cá nhân, hộ gia đình buôn bán các loại thuốc trừ sâu, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kích thích, các loại thức ăn gia súc, gia cầm… Hiện nay mạng lưới dịch vụ này các cơ quan chức năng trong tỉnh không kiểm soát hết.
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Phòng nông nghiệp các huyện hoàn thành đề án xây dựng một số trung tâm dịch vụ nông nghiệp ở các huyện có tỷ lệ nông nghiệp cao như: Long Đất, Xuyên Mộc, Châu Đức, Tân Thành; để cung ứng các loại thiết bị kỹ thuật, các loại vật tư, giống cây trồng, vật nuôi có chất lượng đủ số lượng… Hướng dẫn bà con nông dân cách trồng trọt, chăn nuôi, chăm sóc, thu hoạch bảo quản các loại nông sản.
Trung tâm dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp có thể kết hợp với một số địa phương trong tỉnh, chọn một số điểm để trình diễn các loại giống cây trồng, vật nuôi có năng xuất cao. Có kế hoạch trang bị cho nông dân những kiến thức tối thiểu về kỹ thuật nông nghiệp; cần theo dõi chặt chẽ và đánh giá kịp thời quá trình sản xuất của nông dân để có biện pháp đối phó, giải quyết khi có sự cố xảy ra.
Để thực hiện được hàng loạt công việc phục vụ trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh dịch vụ và quản lý nông nghiệp, đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ có trình độ kỹ thuật, có tay nghề cao, do đó phải có kế hoạch tăng cường bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, phải có đủ số lượng, chất lượng để thực hiện đồng bộ thường xuyên trên địa bàn toàn tỉnh. Hiện nay đội ngũ cán bộ trong ngành nông nghiệp của tỉnh còn thiếu và yếu, nên rất khó khăn trong việc thực hiện các nhiệm vụ của ngành nông nghiệp và đảm nhận các hoạt động kinh doanh dịch vụ nông nghiệp trong tỉnh.
Thứ hai, xây dựng một mạng lưới thu mua, bao tiêu các loại nông sản cho nông dân khi thu hoạch, đặc biệt là trong những thời điểm thu hoạch đại trà, tránh tình trạng tư nhân ép giá; đảm bảo cho bà con yên tâm trong quá trình sản xuất, xây dựng hệ thống kho chứa và áp dụng các biện pháp bảo quản hiện đại cho các loại nông sản sau khi thu hoạch. Mặt khác tạo ra cơ chế hợp lý khuyến khích nông dân tiêu thụ sản phẩm, tích cực tìm kiếm và mở rộng thị trường tiêu thụ.
Nhằm bảo vệ quyền lợi của người nông dân và an toàn lương thực, thực phẩm, chính quyền địa phương cần tiến hành các đợt kiểm tra và xử lý nạn hàng giả trong dịch vụ sản xuất nông nghiệp như phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc thú y, thức ăn gia súc, gia cầm và máy móc nông nghiệp.
Ngoài ra, để phát triển tốt ngành dịch vụ nông nghiệp ở nông thôn, tỉnh cần có các chủ trương khuyến khích, tạo điều kiện để phát triển các ngành thủ công mỹ nghệ ở nông thôn, nhằm tạo ra nhiều sản phẩm tiêu dùng và xuất khẩu, tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ khách tham quan du lịch; có thể giải quyết được số đông lao động và tận dụng được nhiều loại nguyên liệu tại chỗ, nâng cao thu nhập cải thiện đời sống nông dân. Tham khảo kinh nghiệm cvủa một số địa phương trong nước làm rất tốt công việc này như: Hà Tây, Bắc Ninh, Nam Định…
Thứ ba, địa phương cần có những chủ trương, chính sách đồng bộ trên tinh thần khuyến khích mọi người, mọi thành phần kinh tế cùng tham gia các hoạt động kinh doanh dịch vụ nông nghiệp góp phần phát triển nông thôn.
Trên đây là những giải pháp cơ bản để phát triển một số ngành dịch vụ trọng yếu trong lĩnh vực kinh tế dịch vụ của địa phương. Có thể nói, đây là những ngành kinh tế dịch vụ mũi nhọn có tính quyết định đến toàn bộ tỷ trọng của ngành dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Ngoài ra tỉnh cần phải có những giải pháp khác phối hợp với các ngành ở Trung ương để phát triển một số ngành dịch vụ như: Xây dựng hệ thống giao thông vận tải: đường không, đường biển, đường bộ, đường sắt v.v…; đầu tư xây dựng cơ sở vật chất để phát triển các ngành dịch vụ bưu chính viễn thông, bảo hiểm, thương mại, dịch vụ y tế, giáo dục v.v… nhằm đưa kinh tế dịch vụ lên một bước phát triển cao hơn trong cơ cấu kinh tế của tỉnh.
KếT LUậN
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn đất nước trong mấy thập niên gần đây, kết hợp với nghiên cứu những bài học kinh nghiệm về phát triển kinh tế của nhiều nước trong khu vực và thế giới, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những mục tiêu, chiến lược và các giải pháp để nhanh chóng thúc đẩy phát triển kinh tế dịch vụ đưa kinh tế dịch vụ lên chiếm vị trí xứng đáng trong cơ cấu kinh tế của đất nước. Thực tế cho thấy, phát triển kinh tế dịch vụ không chỉ đem lại nguồn ngân sách cho quốc gia mà còn góp phần quan trọng giải quyết các vấn đề xã hội như: giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp, nâng cao thu nhập, nâng cao đời sống nhân dân làm giảm tiêu cực xã hội, làm cho đời sống xã hội ngày được đáp ứng tốt hơn các nhu cầu về vật chất và tinh thần, làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội, góp phần mở rộng quan hệ giao lưu kinh tế, chính trị, văn hóa quốc tế. Phát triển kinh tế dịch vụ còn góp phần bảo vệ tài nguyên, thiên nhiên, môi trường sinh thái; bảo vệ duy trì và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc... góp phần vào sự văn minh tiến bộ của xã hội loài người.
Phát triển kinh tế dịch vụ cũng như phát triển các ngành kinh tế khác, nó đòi hỏi phải có các yếu tố cần thiết như: điều kiện tự nhiên, môi trường, yếu tố con người, các yếu tố về văn hóa v.v..., ngoài ra còn có các yếu tố cần thiết khác như: chế độ chính sách, hệ thống pháp luật phải hoàn thiện và đồng bộ.
Đối với nước ta, với nhiều tiềm năng và lợi thế to lớn về điều kiện tự nhiên, con người và các yếu tố khác. Do vậy trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài, phát triển kinh tế dịch vụ là một yêu cầu hết sức cần thiết, mang tính cấp bách nó quyết định quan trọng trong sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế - xã hội.
Trong các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế của một địa bàn cấp tỉnh thì việc xác định một cơ cấu kinh tế hợp lý là hết sức quan trọng và cần thiết. Căn cứ vào các điều kiện tự nhiên, xã hội và điểm xuất phát của Bà Rịa - Vũng Tàu trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI thì kinh tế dịch vụ được coi là một ngành kinh tế quan trọng, chiếm một tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế của địa phương. Là một tỉnh nằm ở miền Đông Nam bộ, nằm trong vùng trọng điểm kinh tế phía Nam; Bà Rịa - Vũng Tàu có nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển kinh tế, đặc biệt là phát triển các ngành dịch vụ. Với lợi thế là một tỉnh duy nhất trong cả nước có ngành khai thác dầu khí, phát triển ngành dịch vụ dầu khí sẽ đem lại nguồn thu ngân sách lớn cho địa phương; với bờ biển dài, lặng gió, trong và sâu có thể xây dựng nhiều hải cảng tầm cỡ quốc gia và quốc tế phục vụ cho giao thông vận tải và phục vụ thương mại trong nước và quốc tế; đồng thời rất thuận lợi trong việc phát triển ngành du lịch; Bà Rịa - Vũng Tàu có nhiều khu danh lam thắng cảnh với những di tích lịch sử, văn hóa có một không hai của quốc gia, có các khu rừng nguyên sinh trong đất liền và hải đảo, với nhiều loại động vật quý hiếm có thể phát triển du lịch sinh thái và nghiên cứu sinh vật. Với vùng biển rộng, sâu hệ sinh vật biển đa dạng, phong phú, nhiều loại hải sản có giá trị kinh tế cao, nên thúc đẩy tốt ngành khai thác thủy sản và dịch vụ thủy sản. Nông nghiệp tuy không phải là ngành kinh tế mũi nhọn, song do chủ yếu là trồng trọt các loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao như cao su, cà phê, tiêu... vì vậy giá trị sản xuất nông nghiệp hàng năm đem lại cho địa phương cũng không nhỏ; để nông nghiệp phát triển tốt thì ngành dịch vụ phục vụ nông nghiệp cũng phải phát triển tương xứng, và dịch vụ luôn luôn đi trước một bước để tạo điều kiện hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp phát triển.
Bà Rịa - Vũng Tàu có gần 80 vạn dân trong đó trên 50% dân số đang ở tuổi lao động mà phần lớn là lao động phổ thông nên không thể tham gia trực tiếp vào các ngành kinh tế có kỹ thuật cao, do đó phát triển dịch vụ là một đòi hỏi bức xúc để giải quyết việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, trong suốt 10 năm qua mặc dù đã có nhiều cố gắng để tìm ra những hướng đi thích hợp, nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng nền kinh tế và phát triển các hoạt động dịch vụ trên địa bàn và cũng đã đạt được những thành tựu quan trọng như đã nêu trên. Song những gì mà các ngành tham gia hoạt động dịch vụ làm được chưa thực sự tương xứng với những tiềm năng và lợi thế vốn có của mình, đặc biệt là lĩnh vực dịch vụ dầu khí, du lịch... Bước vào đầu thế kỷ XXI, để thực hiện các mục tiêu kinh tế của Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX và Đại hội tỉnh Đảng bộ Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ III thì việc thực thi những giải pháp chủ yếu nêu trên nhằm phát triển kinh tế dịch vụ là có tầm quan trọng nhất định đối với sự nghiệp phát triển kinh tế của địa phương.
MộT Số KIếN NGHị
* Đối với lĩnh vực dịch vụ dầu khí:
- Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Tổng công ty Dầu khí Việt Nam và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, nên có những cuộc họp định kỳ giữa lãnh đạo hai bên để đưa ra những quyết nghị cụ thể trong việc phối hợp, điều hòa sử dụng dịch vụ giữa các đơn vị trong ngành, địa phương và các địa phương khác.
- Tỉnh cần có những phương án xây dựng đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề làm dịch vụ theo các hướng mà địa phương có thể phát triển được, đồng thời có các khoản đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng dịch vụ, có cơ chế, chính sách nhằm thu hút các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ đầu tư vào Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Nhanh chóng xây dựng và đưa vào sử dụng một đốc tầu vừa phải khoảng 3.000 tấn để đảm bảo sửa chữa các tàu ngành dầu khí đang đóng trên địa bàn. Đây là cơ sở để mở rộng và phát triển dịch vụ sửa chữa và đóng mới tàu thuyền ở địa phương.
- Trong lúc đang khó khăn về vốn đề nghị Chính phủ cho địa phương được giữ lại phần thuế mặt đất, mặt biển, mặt sông của các xí nghiệp liên doanh trong một số năm (khoảng 4-5 triệu USD /năm) để đầu tư xây dựng các cơ sở hoạt động dịch vụ dầu khí.
* Đối với ngành dịch vụ du lịch:
- Đề xuất với Bộ Văn hóa thông tin, Bộ Thương mại, Tổng cục Du lịch để Bà Rịa - Vũng Tàu có thể đăng cai một số hoạt động như: hội chợ thương mại, các hoạt động văn hóa thể thao (Festival) tầm cỡ quốc gia và quốc tế nhằm thu hút khách du lịch và quảng bá du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Chính quyền địa phương nên nghiên cứu kết hợp với Công ty bay dịch vụ miền Nam mở thêm các chuyến bay dịch vụ du lịch tham quan các công trình biển, Côn Đảo và các địa phương khác trong nước kể cả quốc tế.
- Đề xuất với Trung ương tiếp tục đầu tư kinh phí cho địa phương hoặc địa phương được giữ lại một tỷ lệ ngân sách phải nộp cho Trung ương để đầu tư vào các công trình phục vụ du lịch.
- Tổng cục Du lịch, Bộ Văn hóa thông tin cần có những văn bản pháp lý hướng dẫn cụ thể các hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch nhằm khắc phục tối đa các tiêu cực trong kinh doanh dịch vụ du lịch.
* Đối với ngành thủy sản và nông nghiệp:
- Tỉnh cần có những chính sách ưu tiên phát triển như: Tiếp tục cho nông dân và ngư dân vay vốn, điều chỉnh lại mức lãi xuất và thời gian cho vay để nông dân có thể đầu tư trồng trọt các loại cây công nghiệp lâu năm, ngư dân có thể đóng mới các loại tàu đánh bắt xa bờ, có phương án để điều chỉnh việc thu mua của tư nhân trong việc tiêu thụ sản phẩm của bà con.
- Xây dựng các trung tâm dịch vụ phù hợp với từng địa bàn để cung ứng trực tiếp các thiết bị vật tư, phương tiện kỹ thuật phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và thủy sản tránh qua nhiều khâu trung gian làm tăng giá cả và chất lượng dịch vụ kém.
- ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu sớm triển khai dịch vụ Bảo hiểm xã hội cho nông dân trên địa bàn tỉnh như một số địa phương khác đã làm.
- Đề nghị các cơ quan chức năng trong tỉnh có những biện pháp cụ thể và kiên quyết để chấn chỉnh lại các cơ sở kinh doanh dịch vụ phục vụ nông nghiệp, ngư nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh.
Trên đây là một số kiến nghị nhằm phát triển hơn nữa các ngành kinh tế dịch vụ chủ yếu trên địa bàn tỉnh.
Bà Rịa - Vũng Tàu ngày nay đang trở thành một tỉnh có sức phát triển nhanh, mạnh và đa dạng về nhiều mặt của Việt Nam. Dựa trên những tiềm năng và lợi thế của mình Bà Rịa - Vũng Tàu đang vừa khai thác, xây dựng công nghiệp dầu khí hiện đại, vừa khai thác thế biển, thế núi liên hoàn; đồng ruộng tốt tươi để phát triển nghề nông, phát triển nghề thủy sản, phát triển cảng sông, cảng biển; phát triển kinh tế du lịch, giao lưu văn hóa với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong công cuộc đổi mới cơ cấu kinh tế, Bà Rịa - Vũng Tàu đang tiếp tục chuyển đổi, chỉ một thời gian nữa, các đường cao tốc, sân bay, bến cảng, các khu chế xuất, khu du lịch nghỉ ngơi quốc tế, các cửa hàng, siêu thị sẽ mọc lên nhiều hơn. Bà Rịa – Vũng Tàu vùng đất năng động, giàu tiềm năng đang chuyển mình, đang nỗ lực phấn đấu để mãi xứng đáng là một tỉnh nằm trong vùng trọng điểm kinh tế phía Nam và cả nước.
danh MụC tài liệu THAM KHảO
Bà Rịa - Vũng Tàu Đất và Người (2000), Nxb Văn Nghệ TP Hồ Chí Minh.
Bộ Tài chính - Viện Nghiên cứu tài chính, Niên giám thống kê năm 2000.
GS.TS. Chu Văn Cấp (2000), Tập bài giảng Lịch sử kinh tế quốc dân, Khoa kinh tế chính trị - Học Viện CTQG Hồ Chí Minh 2000.
PGS.TS Trần Văn Chử (2002), Kinh tế học phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 và 2020 (2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hoàng Đức Cường (1999), Phát triển kinh tế du lịch ở Nghệ An, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Nguyễn Tấn Dũng (2001), Đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, Tài liệu nghiên cứu Văn kiện Đại hội Đảng IX.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đại từ điển kinh tế thị trường (1998), Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa, Hà Nội.
GS.TS Nguyễn Điền (2001), "Phương hướng phát triển nông nghiệp Việt Nam trong 10 năm đầu thế kỷ XXI", Nghiên cứu kinh tế, (275).
PGS. Đào Duy Huân (1997), Kinh tế các nước Đông Nam á, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Trần Văn Khánh (2001), "Bà Rịa - Vũng Tàu chặng đường phấn đấu 10 năm", Tạp Chí cộng sản, (24), tr. 50.
Kinh doanh dịch vụ trong cơ chế thị trường (1994), Nxb Thống kê, Hà Nội.
C.Mác (1969), Học thuyết giá trị thặng dư, Nxb Sự thật, Hà Nội.
C.Mác (1973), Tư bản, tập 1, cuốn 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.
C.Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 26, Phần II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Ngọc Nhật (1995), Phát triển kinh tế du lich ở Bà Rịa - Vũng Tàu, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Nguyễn Đình Phan (1997), Về môi trường thể chế nhằm phát triển các hoạt động dịch vụ và sản xuất phi nông nghiệp ở nông thôn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
PGS.TS Bùi Tiến Quý (2000), Phát triển và quản lý nhà nước về kinh tế dịch vụ, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
Sở Du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu (2001), Chương trình phát triển ngành du lịch tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu 2000 – 2050.
Sở Nông nghiệp Bà Rịa - Vũng Tàu (2001), Chương trình phát triển ngành Nông nghiệp tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu 2001 - 2005.
Sở Thủy sản Bà Rịa - Vũng Tàu (2001), Chương trình phát triển ngành Thủy sản Bà Rịa - Vũng Tàu giai đoạn 2001 - 2050.
PTS Nguyễn Thị Xuân Thảo (1999), Phát huy những nhân tố ... trong kinh doanh dịch vụ ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
PGS.TS Lê Đình Thắng (1994), Dịch vụ nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
Võ Thị Thắng (1998), "Phát triển du lịch trong cơ chế thị trường hiện nay", Nghiên cứu trao đổi, (11).
Phạm Xuân Thu (1995), Những vấn đề về công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ở tỉnh Ninh Bình, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu (2001), Văn kiện Đại hội tỉnh Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ 3.
Trần Trác (2001), "Phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam", Nghiên cứu kinh tế, (270).
"Trích báo cáo của Tổng cục Thống kê" (2001), Con số và sự kiện, (1+2), tr. 4-11.
Trần Ngọc Tư (2000), Phát triển kinh tế du lịch Tỉnh Vĩnh Phúc - tiềm năng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Lê Nam Tư (2001), "Bà Rịa - Vũng Tàu nhìn từ điểm xuất phát mới", Báo Nhân Dân, ngày 18/12.
Lê Nam Tư (2001), "Thêm tám dự án nước ngoài đầu tư vào Bà Rịa - Vũng Tàu", Báo Nhân dân, ngày 24/12.
Từ điển tiếng Việt (1997), Viện Ngôn ngữ học - Nxb Đà Nẵng.
ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Trung tâm thông tin (1990), "Những vấn đề ở Việt Nam", trong sách: Kinh tế dịch vụ, tập 1.
ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Trung tâm thông tin (1990), "Quan điểm và thực tiễn ở nước ngoài", trong sách: Kinh tế dịch vụ, tập 2.
ủy ban nhân dân Bà Rịa - Vũng Tàu (1997), Chương trình phát triển ngành dịch vụ dầu khí trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giai đoạn 1995 - 2005.
Trần Vinh (2001), "Dịch vụ hậu cần nghề cá", Báo Nhân Dân, ngày 28/2.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2643.DOC