Kinh nghiệm và tình huống phá giá đồng tiền trong thương mại và bài học ở Việt Nam

Trường đại học Kinh tế quốc dân Khoa Thương mại và Kinh tế quốc tế TIỂU LUẬN Bộ môn Kinh tế quốc tế ĐỀ TÀI: “Kinh nghiệm và tỡnh huống phỏ giỏ đồng tiền trong thương mại và bài học ở Việt Nam” Giảng viờn: GS – TS Nguyễn Thường Lạng --------- a&b --------- HÀ NỘI 2010 Mục Lục Danh mục tài liệu tham khảo 1. Đỗ Đức Bình và Nguyễn Thường Lạng (Chủ biên), Giáo trình kinh tế quốc tế, NXB Lao động – Xã hội. 2. Nguyễn Thị Thư (2004), Tỷ giá hối đoái: chính sách và tác động của nó đối với ngọa

doc46 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1508 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kinh nghiệm và tình huống phá giá đồng tiền trong thương mại và bài học ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i thương qua thực tiễn phát triển kinh tế của một số nước, NXB Chính trị quốc gia. 3. TS. Hoàng Thế Thỏa: Xung quanh quyết định tăng giá đồng nhân dân tệ. 4. GS.TS Võ Thanh Thu: Quan hệ kinh tế quốc tế, NXB Thống kê, năm 2008. 5. ThS. Nguyễn Thị Kim Thanh: Chính sách tỷ giá với vấn đề tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Tạp chí ngân hàng tháng 10/2008. 6. GS.TS Nguyễn Thanh Tuyên: Nhìn lại các giải pháp kiềm chế lạm phát và triển vọng kinh tế. 7. TS Nguyễn Văn Tiến: ảnh hưởng của phá giá tiền tệ lên cán cân thương mại. 7. Phan Thị Bích Thủy: Những tác động của nhân dân tệ lên giá. Nghiên cứu trao đổi 11/5/2007. 8. Đặng Việt Phương: Tổng quan về kinh tế 2009 và khuyến nghị chính sách năm 2010. 9. Hạnh Bình: Điều chỉnh tỉ giá: Linh hoạt nhưng đừng gây sốc (Theo TuanVietNam) 10. PGS.TS Trần Hoàng Ngân- Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ Quốc gia, Phó hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế HCM: Việt Nam không nên phá giá tiền đồng (Theo Vnexpress 29/12/2009) Một số trang web: (Ngân hành nhà nước) (Bộ thương mại Việt Nam) Danh mục bảng biểu đồ thị Bảng 1: Ví dụ về khả năng có thể xảy ra với cán cân thương mại sau khi phá giá tiền tệ………………………………………………………………………… 14 Bảng 2: Tình hình đầu tư và xuất nhập khẩu của Trung Quốc năm 1994 - 1997 (Nguồn chính IMF.Internationa Financial Statistics T5/2001)……………….20 Bảng 3: Diễn biến tỷ giá, cán cân thương mại và dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc 2002-2007 (Nguồn: Indicators/2008/pdf/Prc.pdf) …………………………………………………22 Bảng 4: Tỷ giá và cán cân thương mại của Thái Lan từ năm 1998-2007 (Nguồn: Indicators/2008/pdf/tha.pdf)..........27 Bảng 5: Tỷ giá và lạm phát của Việt nam qua các năm 1989-1993…………...30 Bảng 6: Lạm phát và tỷ giá Việt nam qua các năm 1993-1996 (Nguồn: Tập san khoa học ngân hàng tháng 7/1995 đến tháng 12/1995 và từ số 1/1996 đến tháng 12/1996 và từ tháng 1/1997 đến tháng 12/1997)…………………………………31 Bảng 7: Số liệu xuất nhập khẩu qua các năm 1996-1997-2998 (đơn vị tính: triệu USD) (Nguồn: thời báo kinh tế Sài gòn của UBND Thành phố HCM qua các năm 1996-1997-1998)…………………………………………………………31 Đồ thị 1: Diễn biến tỷ giá năm 2007-2009 (Nguồn: Ngân hàng Nhà Nước) ............................................................................................................................34 Đồ thị 2: Kim ngạch xuất nhập khẩu của cán cân thương mại 2009 (Nguồn: Ngân hàng nhà nước)........................................................................................ 35 Đồ thị 3: Mô hình Swan Diagram……………………………………………...41 Danh mục các từ viết tắt 1. VND: Việt Nam đồng 2. USD: United States dollar (Đô la Mỹ) 3. CNY: Chinese Yuan Renminbi (Nhân dân tệ) 4. KRW: Korean Won (Won Hàn Quốc) 5. THB: Baht Thái 6. JPY: Japanese yen (Yên Nhật) 7. EUR: Euro 8. ASEAN: Association of Southeast Asian Nations (Hiệp hội các nước Đông Nam á) 9. CPI: Consumer Price Index (Chỉ số giá tiêu dùng) 10. GDP: Gross Domestic Product (Tổng thu nhập quốc nội) 11. REER: Real Effective Exchange Rate (tỷ giá thực đa phương) 12. WTO: World Trade Organization (Tổ chức thương mại Thế giới) 13. NHNN: Ngân hàng Nhà nước 14. NHTM: Ngân hàng Thương mại 15. NHTW: Ngân hàng Trung ương Lời mở đầu 1. Tính tất yếu của đề tài Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay việc buôn bán, giao lưu hàng hoá qua biên giới ngày càng phổ biến ở hầu hết các quốc gia. Thị trường thế giới ngày nay dần trở thành một tổng thể thống nhất trong đó các bộ phận của thị trường gắn kết và phụ thuộc chặt chẽ với nhau. Muốn tồn tại và phát triển mạnh mẽ trong xu hướng đó một quốc gia cần phải đưa ra những chính sách thương mại phù hợp cho quá trình hội nhập và nâng cao dần vị thế của quốc gia đó trên trường quốc tế. Mỗi nước và khối nước trên thế giới đều có những đồng tiền riêng phản ánh giá trị của nền kinh tế. Mối liên hệ kinh tế giữa các quốc gia với nhau thông qua quan hệ đầu tư, buôn bán dẫn đến sự trao đổi đồng tiền của quốc gia này với quốc gia khác. Qua thời gian đã hình thành nên giả cả trao đổi đồng tiền giữa các nước hay là tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái đóng vai trò như là một công cụ có hiệu lực, có hiệu quả trong việc tác động đến quan hệ kinh tế đối ngoại của mỗi nước đồng thời là yếu tố cực kỳ quan trọng đối với chính sách của một quốc gia. Đặc biệt là tại thời điểm tài chính toàn cầu rơi vào khủng hoảng với sự sụp đổ của các nền kinh tế lớn, sự giảm giá trị của USD có tác động rất lớn đến tâm lý nhà đầu tư cũng như sự phát triển kinh tế nói chung. Chính sách tỷ giá của một quốc gia càng cần phải linh hoạt để có những bước đi vững chắc làm thay đổi bộ mặt của nền kinh tế. Phá giá tiền tệ là một trong những biện pháp của chính sách thương mại quốc tế liên quan đến qui định của chính phủ trong chế độ tỷ giá. Việc áp dụng chính sách có hiệu quả cần phải phân tích tình hình thực tế, dựa trên những điều kiện kinh tế, chính trị phù hợp cả trong và ngoài nước, hạn chế các nguy cơ xấu xảy ra do chính sách này mang lại. Từ khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) Việt Nam trở thành một bộ phận không thể thiếu trong quá trình phân công lao động và chuyên môn hoá của thế giới. Là một nước đi sau và có nền kinh tế còn khó khăn, lạc hậu đòi hỏi Việt Nam phải học hỏi, vận dụng phù hợp kinh nghiệm của các nước đi trước. Để hội nhập ngày càng sâu hơn vào sân chơi quốc tế mà không bị lu mờ, chính phủ nước ta cần phải đưa ra các chính sách hiệu quả, phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam. Xuất phát từ những lý do trên mà em đã chọn đề tài: “Kinh nghiệm, tình huống phá giá đồng tiền trong thương mại và bài học đối với Việt Nam”. 2. Mục đích nghiên cứu Hiện nay, Việt Nam cũng như rất nhiều nước đang phát triển khác gặp phải vấn đề thâm hụt cán cân thương mại do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ làm cho các nước đều hạn chế nhập khẩu hàng hóa. Thêm vào đó là tình trạng giá cả bất ổn đặc biệt là thị trường dầu khí, thị trường vàng, bất động sản… Điều này đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách phải đưa ra các biện pháp hiệu quả nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế. Việc nghiên cứu đề tài này làm hiểu rõ hơn điều kiện cụ thể nền kinh tế của Việt Nam để áp dụng các chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa, mở rộng thị trường ra nước ngoài, hạn chế tình trạng thâm hụt cán cân thương mại. 3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những điều kiện và ảnh hưởng của chính sách phá giá tiền tệ tới thương mại quốc tế trong thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay. Với việc nghiên cứu chính sách của một số nước có như Trung Quốc, Singapo, Thái Lan sẽ cho ta cái nhìn tổng quan hơn và rút ra những bài học kinh nghiệm từ đó đưa ra giải pháp tốt nhất cho Việt Nam. 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện bằng phương pháp phân tích tổng hợp và so sánh đối chiếu. Chính sách phá giá sẽ được phân tích cụ thể dựa trên tình hình thực tế những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đối với sự phát triển của thương mại quốc tế, từ đó tổng hợp những điều kiện để thực hiện được chính sách này. Đối chiếu giữa lý luận và thực tế để tìm ra, giải quyết các khó khăn, thách thức khi thực hiện chính sách này. Đồng thời so sánh, đối chiếu với các nền kinh tế khác để rút ra những bài học thực tiễn để áp dụng thành công vào Việt Nam. Ngoài ra việc nghiên cứu đề tài cần sử dụng các phương pháp khác như thống kê, thu thập và phân tích số liệu... Đề tài đi sâu nghiên cứu những ảnh hưởng của chính sách phá giá tiền tệ vào nền kinh tế của một quốc gia trong đó đặc biệt là cán cân thương mại quốc tế. Bài viết cũng nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế trong việc sử dụng chính sách tỷ giá nhằm cải thiện cán cân thương mại từ đó rút ra được những bài học kinh nghiệm đồng thời đề xuất được các giải pháp khả thi cho Việt Nam, vượt qua thời kỳ khủng hoảng tài chính kinh tế hiện nay và đạt mức tăng trưởng nhanh hơn, mạnh hơn. 5. Kết cấu của đề tài Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo đề tài của em được trình bày thành ba phần như sau: Chương I: Tổng quan về phá giá tiền tệ. Chương II: Kinh nghiệm phá giá tiền tệ của một số nước và thực trạng thương mại quốc tế ở Việt Nam. Chương III: Những thách thức trong năm 2010 và giải pháp thực hiện có hiệu quả chính sách phá giá ở Việt Nam nhằm cải thiện cán cân thương mại. Nội Dung Chương I: Tổng quan về phá giá tiền tệ 1. Khái niệm và tác động của phá giá tiền tệ Cơ sở và mục đích của thương mại quốc tế đó chính là lợi thế so sánh và lợi thế nhờ quy mô. Sự khác biệt về tài nguyên thiên nhiên, trình độ sản xuất và điều kiện sản xuất dẫn tới sự khác biệt về chi phí sản xuất và giá cả sản phẩm giữa các nước. Thông qua trao đổi quốc tế, các nước có thể cung cấp cho nền kinh tế thế giới những loại hàng mà họ sản xuất tương đối rẻ hơn và mua của nền kinh tế thế giới những loại hàng tương đối rẻ hơn từ các nước khác. Những lợi ích thương mại này càng lớn khi kết hợp với lợi thế kinh tế nhờ quy mô. Thay vì mỗi nước phải có nhiều cơ sở sản xuất quy mô nhỏ không khai thác được công suất tối ưu, các nước khác nhau có thể hợp tác xây dựng những cơ sở sản xuất có qui mô lớn và mọi người đều được lợi do việc giảm bớt những chi phí về sản xuất. Trước hết, dựa vào lợi thế so sánh của mình các nước sẽ xuất khẩu những sản phẩm mà mình sản xuất tương đối có hiệu quả đó là những hàng hoá cần nhiều nguồn lực mà họ dồi dào và nhập khẩu những sản phẩm mà họ sản xuất tương đối kém hiệu quả hay đó là những hàng hoá cần nhiều nguồn lực mà họ không có nhiều. Do các nước có nguồn lực khác nhau, nên một nước có thể có nhiều lao động, tài nguyên phong phú nhưng thiếu vốn và trình độ công nghệ trong khi nước khác có ít lao động nhưng trình độ công nghệ cao nên khi tham gia vào thương mại quốc tế các nước có thể phát huy được lợi thế của mình. Bên cạnh đó, khi tham gia thương mại quốc tế khả năng tiêu dùng ở mỗi nước được mở rộng, mỗi người dân được cung cấp nhiều loại hàng hoá với chất lượng được cải thiện hơn, phong phú hơn và thoả mãn được những nhu cầu cao hơn. Mặt khác, dựa vào lợi thế kinh tế nhờ qui mô khi tham gia quan hệ thương mại quốc tế cũng thu được lợi ích, ngoài những lợi ích thu được từ lợi thế so sánh. Lợi thế qui mô giải thích tại sao các nước lại tiến hành thương mại trong ngành đó là việc một nước vừa xuất khẩu và nhập khẩu cùng một loại hàng hoá nào đó. Do ngày nay sự phát triển của các nước công nghiệp ngày càng trở nên giống nhau về trình độ công nghệ và các nguồn lực, lợi thế so sánh ở nhiều ngành không bộc lộ rõ nữa, cho nên để tiếp tục duy trì thương mại quốc tế lợi thế về qui mô thực hiện sự trao đổi nhiều chiều trong nội bộ ngành được coi là biện pháp chiến lược. Thông qua thương mại trong ngành, một nước cùng một lúc có thể giảm bớt số loại sản phẩm tự mình sản xuất và tăng thêm sự đa dạng của hàng hoá cho người tiêu dùng trong nước. Do sản xuất ít chủng loại hơn, nước đó có thể sản xuất mỗi loại hàng hoá ở qui mô lớn hơn, với năng xuất lao động cao hơn và chi phí thấp hơn. Vì vậy, người sản xuất sẽ có lợi nhuận cao hơn và người tiêu dùng cũng được lợi hơn bởi chi phí rẻ hơn và có phạm vi lựa chọn rộng hơn. Mọi quốc gia khi tham gia vào thương mại quốc tế đều có thể thu được lợi, những lợi ích cụ thể này lại phụ thuộc vào điều kiện và trình độ phát triển của từng quốc gia. Nhưng cho dù với bất kỳ quốc gia nào thì không thể phủ nhận lợi ích thu được từ thương mại quốc tế. Và việc sử dụng tỷ giá hối đoái vừa là chính sách, vừa là công cụ có tác động lớn tới quy mô và mức độ của những lợi ích này. Từ sự phân tích trên, chúng ta thấy rằng thương mại quốc tế đều mang lại lợi ích cho các quốc gia tham gia. Nếu các nước này biết khai thác các cơ sở thương mại của mình thì sẽ đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu và có thể đẩy nhanh quá trình phát triển nền kinh tế. Trước hết là hoạt động xuất khẩu, có tác động rất lớn đến phát triển kinh tế của đất nước. Hoạt động xuất khẩu kích thích các ngành kinh tế phát triển, góp phần tăng tích luỹ vốn, mở rộng sản xuất trong nước, nâng cao trình độ tay nghề và thói quen làm việc của những lao động trong sản xuất hàng xuất khẩu, tăng thu nhập, cải thiện mức sống của nhân dân. Bên cạnh đó, ngoại tệ thu được sẽ làm tăng nguồn dự trữ ngoại tệ giúp cho quá trình ổn định đồng nội tệ và chống lạm phát dẫn đến ổn định nền kinh tế. Vai trò của xuất khẩu còn thể hiện ở việc tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Điều đó tạo ra những lợi thế so sánh mới của một nước và thúc đẩy ngoại thương của nước đó phát triển. Khi mà xuất khẩu càng phát triển, càng có điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm và tăng khả năng cung cấp những nguồn lực khan hiếm cho quá trình sản xuất và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Đối với các nước đang phát triển thì xuất khẩu có thể nâng cao năng lực sản xuất trong nước, còn đối với các nước phát triển xuất khẩu có thể giải quyết được mâu thuẫn giữa sản xuất và thị trường. Với vai trò to lớn đối với nền kinh tế như vậy, các nước cần khai thác hợp lý những lợi ích thu được từ hoạt động xuất khẩu, nhất là trong giai đoạn đầu khi mới tham gia vào thương mại quốc tế. Song song với hoạt động xuất khẩu là hoạt động nhập khẩu. Nếu như xuất khẩu được coi là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế xã hội thì nhập khẩu lại được coi là nền tảng để thực hiện vai trò đó. Thực tế đã cho thấy, nhập khẩu có thể tác động trực tiếp đến sản xuất, kinh doanh và thương mại thông qua việc đổi mới trang thiết bị, công nghệ sản xuất, cung cấp các nguồn lực khan hiếm.... Đồng thời nhập khẩu còn giúp cho việc cải thiện và nâng cao đời sống dân cư của một nước bằng việc cung cấp nhiều hàng hoá hơn, chất lượng hơn và rẻ hơn. Tuy nhiên, không nên khai thác quá mức lợi ích của nhập khẩu, nếu không sẽ có thể biến quốc gia thành bãi thải của công nghệ lạc hậu, không thúc đẩy sản xuất trong nước, tạo tâm lý tiêu dùng trong nước không tốt... Tác động của tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái tới thương mại. Có thể nói, tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái là những công cụ kinh tế vĩ mô chủ yếu để điều tiết cán cân thương mại quốc tế theo mục tiêu định trước của một nước. Trước hết, tỷ giá và những biến động của tỷ giá có ảnh hưởng trực tiếp đến mức giá cả hàng hoá dịch vụ xuất nhập khẩu của một nước. Khi tỷ giá thay đổi theo hướng làm giảm sức mua đồng nội tệ, thì giá cả hàng hoá dịch vụ của nước đó sẽ tương đối rẻ hơn so với hàng hoá dịch vụ nước khác ở cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Dẫn đến cầu về xuất khẩu hàng hoá dịch vụ của nước đó sẽ tăng, cầu về hàng hoá dịch vụ nước ngoài của nước đó sẽ giảm và tạo ra sự thặng dư của cán cân thương mại. Ví dụ: Trước đây 1USD=14000 VND, một chiếc máy tính giá 750USD được nhập khẩu và tính ra đồng nội tệ của Việt Nam là 10.500.000VND. Đến nay, giả sử giá chiếc máy tính không đổi, trong khi tỷ giá thay đổi 1USD=19000 VND thì cũng chiếc máy tính đó được nhập khẩu và bán với giá 14.250.000VND. Giá đắt hơn, nhu cầu nhập máy tính sẽ giảm. Nhưng đối với xuất khẩu thì ngược lại khi tỷ giá 1USD=l4000 VND, giá xuất khẩu 1 tấn gạo với chi phí sản xuất là 3,5 triệu VND là 250USD, nhưng với chi phí sản xuất không đổi thì giá bán chỉ khoảng 184USD. Giá giảm cầu xuất khẩu sẽ tăng. Trong trường hợp ngược lại, khi tỷ giá biến đổi theo hướng làm tăng giá đồng nội tệ. Sự tăng giá của đồng nội tệ có tác động hạn chế xuất khẩu vì cùng một lượng ngoại tệ thu được do xuất khẩu sẽ đổi được ít hơn đồng nội tệ. Tuy nhiên, đây là cơ hội tốt cho các nhà nhập khẩu, nhất là nhập khẩu nguyên liệu, máy móc để phục vụ cho nhu cầu sản xuất trong nước. Đồng thời, lượng ngoại tệ chuyển vào trong nước có xu hướng giảm xuống làm khối lượng dự trữ ngoại tệ ngày càng bị xói mòn vì khuynh hướng giá tăng nhập khẩu để có được lợi nhuận, có thể gây nên tình trạng mất cân đối cán cân thương mại quốc tế. Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái không chỉ tác động trực tiếp đến ngoại thương thông qua sự tác động của nó đến xuất khẩu, mà còn tác động một cách gián tiếp đến ngoại thương thông qua sự tác động làm thay đổi luồng di chuyển tư bản ra vào quốc gia. Như khi tỷ giá thay đổi theo hướng giảm giá đồng nội tệ sẽ có tác động gia tăng việc thu hút đầu tư nước ngoài. Khi luồng vốn chảy vào trong nước sẽ tạo điều kiện mở rộng sản xuất trong nước, tránh được những rào cản của chính sách bảo hộ thương mại, sẽ đẩy mạnh hoạt động ngoại thương. Những tác động kể trên của tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái đến hoạt động ngoại thương nói riêng và nền kinh tế nói chung làm cho các nhà quản lý ở các quốc gia đều muốn quản lý, điều tiết tỷ giá và chính sách tỷ giá theo những mục tiêu kinh tế xã hội đã định. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu này chúng ta chỉ xem xét những ảnh hưởng của chính sách phá giá tiền tệ tới cán cân thương mại quốc tế. Trước tiên là những nét khái quát nhất về phá giá tiền tệ. Phá giá tiền tệ là việc giảm giá trị của đồng nội tệ so với các loại ngoại tệ so với mức mà chính phủ đã cam kết duy trì trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Việc phá giá VND nghĩa là giảm giá trị của nó so với các ngoại tệ khác như USD, EUR... Theo từ điển học và Bách khoa toàn thư Việt Nam phá giá tiền tệ là chính sách và biện pháp nhà nước chủ động giảm giá trị chính thức của đồng tiền bằng cách hoặc giảm hàm lượng vàng của đồng tiền đó, hoặc hạ tỉ giá của đồng tiền đó so với đồng tiền nước khác. Thông thường, nhà nước quyết định phá giá tiền tệ sau một thời gian thiếu hụt nghiêm trọng của cán cân thương mại và cán cân thanh toán, do xuất khẩu giảm, cạnh tranh kém, hay do lạm phát cao. Phá giá tiền tệ là hệ quả của tình trạng suy thoái kinh tế nghiêm trọng. Nói chung, phá giá tiền tệ thường có lợi cho xuất khẩu và bất lợi cho nhập khẩu. Các doanh nghiệp có quan hệ giao dịch trực tiếp hay gián tiếp với nước ngoài có điều kiện tăng xuất khẩu, vì giá hàng bằng tiền nước ngoài giảm xuống; ngược lại, nhập khẩu giảm do giá hàng nhập khẩu đắt hơn; các điều kiện thanh toán bằng ngoại tệ đắt hơn, vì hợp đồng nhập khẩu bằng ngoại tệ kí trước khi phá giá tiền tệ phải thanh toán sau khi phá giá. Khác với bán phá giá hàng hoá, trong phá giá tiền tệ giá bán không thấp hơn giá cả sản xuất. Giá bán ra thị trường nước ngoài có thể cao hơn giá của thị trường nội địa và bán phá giá tiền tệ xảy ra với tất cả hàng hoá một cách tự động. Cơ chế hoạt động của bán phá giá tiền tệ là lúc đầu đồng tiền mất giá trong nước, sau đó dần dần phá giá đồng tiền trong nước đối với ngoại tệ (mất giá so với ngoại tệ), sức mua của đồng tiền trong nước cao hơn ở thị trường nước ngoài do đồng tiền mất giá đối ngoại cao hơn mất giá đối nội. Trong thời điểm đó các doanh nghiệp sản xuất thanh toán nguyên liệu, tiền lương.... với số lượng đơn vị tiền tệ được ấn định trước khi phá giá đồng tiền. Đồng thời trong xuất khẩu thành phẩm, với số ngoại tệ thu được số lợi nhuận ngoại ngạch nhiều hơn bình thường. Để đẩy mạnh xuất khẩu, nhà xuất khẩu có thể bán hàng của mình trên thị trường nước ngoài với giá thấp hơn của đối thủ cạnh tranh bằng cách thu hẹp phần lợi nhuận ngoại ngạch. 2. Tác động của phá giá tiền tệ Trong ngắn hạn Khi giá cả và tiền lương tương đối cứng nhắc thì ngay lập tức việc phá giá tiền tệ sẽ làm cho tỷ giá hối đoái thực tế thay đổi theo, nâng cao sức cạnh tranh của quốc gia và có xu hướng làm tăng xuất khẩu ròng vì hàng xuất khẩu rẻ đi một cách tương đối trên thị trường quốc tế còn hàng nhập khẩu đắt lên tương đối tại thị trường nội địa. Tuy vậy có những yếu tố làm cho xu hướng này không phát huy tức thì: các hợp đồng đã thoả thuận trên cơ sở tỷ giá cũ, người mua cần có thời gian để điều chỉnh hành vi trước mức giá mới và quan trọng hơn là việc dồn các nguồn lực vào và tổ chức sản xuất không thể tiến hành nhanh chóng được. Như vậy trong ngắn hạn thì số lượng hàng xuất khẩu không tăng mạnh và số lượng hàng nhập khẩu không giảm mạnh. Nếu giá hàng xuất khẩu ở trong nước cứng nhắc thì kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng không nhiều đồng thời giá hàng nhập khẩu tính theo nội tệ sẽ tăng lên do tỷ giá đã thay đổi dẫn đến cán cân thanh toán vãng lai có thể xấu đi. Để phân tích tác động của tỷ giá hối đoái tới nền kinh tế ta đưa ra khái niệm khả năng cạnh tranh. Khả năng cạnh tranh = ePo/P. Trong đó: Po: giá sản phẩm ngoài tính theo giá thị trường nước ngoài. P: giá sản phẩm cùng loại sản xuất trong nước tính theo đồng nội tệ. e:tỷ giá hối đoái của đồng tiền nước ngoài tính theo đồng nội địa. Với P và Po không đổi khi E tăng, EPo sẽ tăng. Giá của sản phẩm nước ngoài trở nên đắt tương đối so với giá của sản phẩm trong nước và ngược lại, giá của sản phẩm trong nước trở nên rẻ tương đối so với sản phẩm nước ngoài. Sản phẩm trong nước do đó có khả năng cạnh tranh cao hơn xuất khẩu sẽ tăng (X tăng), nhập khẩu giảm đi (IMgiảm), điều này làm cho xuất khẩu ròng (NX= X_IM) tăng lên. Vì AD=C+I+G+NV nên NX tăng lên làm cho AD dịch phải, trên hình vẽ ta thấy sản lượng cân bằng Q tăng lên tỷ lệ thất nghiệp giảm. AD’ ADLR P AD 0 Q* Q Như vậy sự thay đổi tỷ giá hối đoái danh nghĩa và do đó tỷ giá hối đoái thực tế sẽ tác động đến cân bằng cán cân thương mại, do đó tác động đến sản lượng, việc làm giá cả. Trong trung hạn GDP hay chính là tổng cầu gồm các thành tố chi cho tiêu dùng của dân cư, chi cho đầu tư, chi cho mua hàng của chính phủ và xuất khẩu ròng. Việc phá giá làm tăng cầu về xuất khẩu ròng và tổng cung sẽ điều chỉnh như sau: * Nếu nền kinh tế đang ở dưới mức sản lượng tiềm năng thì các nguồn lực nhàn rỗi sẽ được huy động và làm tăng tổng cung. * Nếu nền kinh tế đã ở mức sản lượng tiềm năng thì các nguồn lực không thể huy động thêm nhiều và do đó tổng cung cũng chỉ tăng lên rất ít dẫn đến việc tăng tổng cầu kéo theo giá cả, tiền lương tăng theo và triệt tiêu lợi thế cạnh tranh của việc phá giá. Vì thế trong trường hợp này, muốn duy trì lợi thế cạnh tranh và đạt mục tiêu tăng xuất ròng thì chính phủ phải sử dụng chính sách tài khóa thắt chặt (tăng thuế hoặc giảm mua hàng của chính phủ) để tổng cầu không tăng nhằm ngăn chặn sự tăng lên của giá cả trong nước. Trong dài hạn Nếu như trong trung hạn, phá giá tiền tệ kèm theo chính sách tài khóa thắt chặt có thể triệt tiêu được áp lực tăng giá trong nước thì trong dài hạn các yếu tố từ phía cung sẽ tạo ra áp lực tăng giá. Hàng nhập khẩu trở nên đắt tương đối và các doanh nghiệp sử dụng đầu vào nhập khẩu sẽ có chi phí sản xuất tăng lên dẫn đến phải tăng giá; người dân tiêu dùng hàng nhập khẩu với giá cao hơn sẽ yêu cầu tăng lương và gây áp lực làm cho tiền lương tăng. Cuối cùng việc tăng giá cả và tiền lương trong nước vẫn triệt tiêu lợi thế cạnh tranh do phá giá. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy lợi thế cạnh tranh do phá giá bị triệt tiêu trong vòng từ 4 đến 5 năm. * ảnh hưởng của phá giá tiền tệ tới cán cân thương mại: Do giá cả hàng hoá không co giãn trong ngắn hạn, nên phá giá tiền tệ làm cho tỷ giá thực tăng; tỷ giá thực tăng kích thích tăng khối lượng xuất khẩu và hạn chế khối lượng nhập khẩu, tức cải thiện sức cạnh tranh thương mại quốc tế. Căn cứ vào kết luận này, nhiều người đã lầm tưởng và cho rằng, cán cân thương mại cũng được cải thiện khi phá giá tiền tệ. Thực ra không nhất thiết phải như vậy. Để thấy được ảnh hưởng của phá giá lên cán cán cân thương mại là như thế nào, chúng ta sử dụng phương pháp tiếp cận Marshall - Lerner dưới đây. Trước hết, cần thấy rằng cán cân thương mại được biểu thị bằng giá trị (chứ không phải khối lượng) hàng hoá xuất khẩu và nhập khẩu. Nếu giá trị xuất khẩu lớn hơn giá trị nhập khẩu thì cán cân thương mại thặng dư và ngược lại. Chúng ta biểu diễn cán cân thương mại tính bằng nội tệ như sau: TB = P.XV - E.P*.MV (1) Trong đó: P là giá hàng hoá xuất khẩu tính bằng nội tệ; XV là khối lượng xuất khẩu; E là tỷ giá, bằng số đơn vị nội tệ trên một đơn vị ngoại tệ; P* là giá hàng hoá nhập khẩu tính bằng ngoại tệ; MV là khối lượng nhập khẩu. Gọi giá trị xuất khẩu tính bằng nội tệ là X, ta có: X = P.XV; giá trị nhập khẩu tính bằng ngoại tệ là M, ta có: M = P*.MV. Phương trình (1) được viết lại như sau: TB = X - E.M (2) Lấy đạo hàm hai vế phương trình (2), ta được: dTB = dX - E.dM - M.dE (3) Chia hai vế phương trình (3) cho mức thay đổi tỷ giá dE, ta được: (4) Chúng ta định nghĩa: - Hệ số co dãn xuất khẩu Ex: Biểu diễn tỷ lệ % thay đổi giá trị xuất khẩu khi tỷ giá thay đổi 1%. Nghĩa là: ố (5) - Hệ số co dãn nhập khẩu Em: Biểu diễn tỷ lệ % thay đổi giá trị nhập khẩu khi tỷ giá thay đổi 1%. Nghĩa là: ố (6) Thay giá trị của các phương trình (5) và (6) vào (4), ta được: (7) Giả sử trạng thái ban đầu của cán cân thương mại là cân bằng, tức: TB = X - E.M = 0, hay X/E.M = 1 Phương trình (7) được viết lại như sau: (8) Từ phương trình (8) cho thấy: Nếu trạng thái ban đầu của cán cân thương mại là cân bằng, thì theo Marshall-Lerner khi phá giá nội tệ sẽ làm cho: - Cải thiện cán cân thương mại, tức dTB/dE > 0, chỉ khi tổng số của “hệ số co dãn xuất khẩu” và “hệ số co dãn nhập khẩu” lớn hơn 1; nghĩa là chỉ khi: (Ex+Em)>1. - Thâm hụt cán cân thương mại, tức dTB/dE < 0, khi (Ex+Em)<1. - Cán cân thương mại không thay đổi khi (Ex+Em)= 1. Điều kiện Marshall-Lerner được minh hoạ thông qua cách giải thích tại bảng dưới đây với các khả năng có thể xảy ra đối với cán cân thương mại của Việt Nam trước và sau khi phá giá VND. Giả sử tỷ giá trước khi phá giá là 15.000VND/USD và sau khi phá giá là 18.000VND/USD. Giả thiết, giá của một đơn vị hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam không đổi và là 2.000 VND; giá của một đơn vị hàng hoá nhập khẩu cũng không đổi và là 2 USD. Trước khi phá giá 1 USD = 15.000 VND, cán cân thương mại cân bằng. Tiêu chí Số lượng Giá TB - VND TB - USD VN Exports 150 2.000 VND 300.000 VND 20 USD VN Imports 10 2 USD 300.000 VND 20 USD Trade balance 0 0 Khả năng 1: Phá giá VND, từ 15.000 VND/USD lên 18.000 VND/USD, làm cho cán thương mại bị thâm hụt. VN Exports 160 2.000 VND 320.000 VND 17,78 USD VN Imports 9 2 USD 324.000 VND 18,00 USD Trade balance - - - 4.000 VND - 0,22 USD Hệ số co dãn: Ex = 0,355, Em = 0,578; Ex+Em = 0,933 TB thâm hụt Khả năng 2: Phá giá VND, từ 15.000 VND/USD lên 18.000 VND/USD, không ảnh hưởng đến cán cân thương mại. VN Exports 162 2.000 VND 324.000 VND 18 USD VN Imports 9 2 USD 324.000 VND 18 USD Trade balance - - 0 VND 0 USD Hệ số co dãn: Ex = 0,422 , Em = 0,578; Ex + Em = 1 => TB cân bằng Khả năng 3: Phá giá VND, từ 15.000 VND/USD lên 18.000 VND/USD, cải thiện được cán cân thương mại. VN Exports 180 2.000 VND 360.000 VND 20 USD VN Imports 8 2 USD 288.000 VND 16 USD Trade balance - - +72.000 VND + 4 USD Hệ số co dãn: Ex = 1, Em = 1,222; Ex+Em = 2,222 > 1 => TB cải thiện Bảng 1: Ví dụ về khả năng có thể xảy ra với cán cân thương mại sau khi phá giá tiền tệ. Từ bảng cho thấy 3 khả năng có thể xảy ra đối với cán cân thương mại sau khi phá giá nội tệ. Một thực tế rằng, phá giá nội tệ tạo ra hiệu ứng tăng khối lượng xuất khẩu và hạn chế khối lượng nhập khẩu, song xét về mặt giá trị thì cán cân thương mại không nhất thiết phải được cải thiện. Điều này xảy ra là vì: phá giá tiền tệ tạo ra hiệu ứng lên giá cả và hiệu ứng lên khối lượng. Cụ thể là: a/ Đối với cán cân thương mại tính bằng VND: TBVND = P.XV - E.P*.MV - Hiệu ứng khối lượng: Phá giá làm cho khối lượng xuất khẩu tăng, tức XV tăng; khối lượng nhập khẩu giảm, tức MV giảm. XV tăng và MV giảm làm cho TBVND được cải thiện. - Hiệu ứng giá cả: Phá giá, tức E tăng; E tăng làm cho giá cả hàng hoá nhập khẩu tính bằng nội tệ tăng, tức E.P* tăng; E.P* tăng làm cho TBVND xấu đi. b/ Đối với cán cân thương mại tính bằng USD: - Hiệu ứng khối lượng: Giống như đối với TB bằng VND. - Hiệu ứng giá cả: Phá giá, tức làm cho E tăng; E tăng làm cho giá cả hàng hoá xuất khẩu tính bằng ngoại tệ giảm, tức E/P giảm; E/P giảm làm cho TBUSD giảm. Hiệu ứng ròng của cán cân thương mại (được cải thiện hay trở nên xấu đi) phụ thuộc vào tính trội của hiệu ứng khối lượng hay hiệu ứng giá cả. Từ bảng cho thấy: - Khả năng thứ nhất phản ánh tính trội của hiệu ứng giá cả. Điều này có nghĩa là cho dù khối lượng xuất khẩu tăng và khối lượng nhập khẩu giảm cũng không đủ để bù đắp cho giảm giá trị xuất khẩu tính bằng ngoại tệ và tăng giá trị nhập khẩu tính bằng nội tệ. Kết quả là TB từ trạng thái cân bằng trở nên thâm hụt và tổng trị số: (Ex+Em) = 0,933 < 1. - Khả năng thứ hai phản ánh tính trung hoà của hai hiệu ứng. Điều này có nghĩa là khối lượng xuất khẩu tăng và khối lượng nhập khẩu giảm vừa đủ để bù đắp cho giảm giá trị xuất khẩu tính bằng ngoại tệ và tăng giá trị nhập khẩu tính bằng nội tệ. Kết quả là trạng thái cân bằng của TB được duy trì và tổng trị số: (Ex+Em) = 1. - Khả năng thứ ba phản ánh tính trội của hiệu ứng khối lượng. Điều này có nghĩa là sau khi phá giá, khối lượng xuất khẩu tăng và lượng nhập khẩu giảm thừa đủ để bù đắp cho hiệu ứng giá cả. Kết quả là TB được cải thiện và tổng trị số: (Ex+Em)= 2,222 > 1. Như vậy, phá giá tiền tệ chắc chắn làm cho khối lượng xuất khẩu tăng và khối lượng nhập khẩu giảm, nhưng cán cân thương mại không nhất thiết vì thế mà được cải thiện. 3. Tại sao phải phá giá tiền tệ Trên thị trường quốc tế, một trong những yếu tố để đánh giá nền kinh tế đó là sự lành mạnh của tiền tệ. Nó phải có sức mua theo đúng chức năng của tiền. Nhưng đến lúc nào đó, đồng tiền có giá trị lớn hơn mức cần thiết thì điều gì sẽ xẩy ra? Ta hãy coi vàng, đô la hoặc 1 ngoại tệ nào đó có tính thanh khoản cao trên thị trường. Ta không thể dễ mua chúng hơn là bán chúng đi để mua những hàng hóa khác phục vụ cho xã hội. - Dự trữ vàng và ngoại tệ sẽ thâm hụt thay vào đó là 1 lượng hàng hóa phải nhập khẩu dẫn đến cán cân thanh toán lệch, nhập siêu tăng. - Lượng hàng hóa nhập siêu này lại rẻ hơn tương đối so với hàng hóa sản xuất trong nước: vậy là kìm hãm nền sản xuất trong nước. Riêng hai tác hại này thôi cũng sẽ kéo nền kinh tế thụt lùi, dần dần sẽ biến thành một nền kinh tế phụ thuộc nước ngoài. Lúc này nhà nước sẽ làm 1 động tác là phá giá đồng nội tệ, hình thức trả giá cao hơn cho vàng, ngoại tệ, để nhằm tạo tương quan mới về giá cho những hàng hóa khác khi quy chiếu sang đồng nội tệ (đắt hơn). Riêng ._.theo quy luật cung - cầu, việc này sẽ lại khơi thông luồng chảy ngoại tệ, vàng theo chiều ngược vào trong, tạo rào cản chỉ số giá giữa hàng hóa trong nước và nhập khẩu, làm hàng xuất khẩu có lợi thế về giá cả..... Việc phá giá đồng tiền, thường là gắn giá trị đồng tiền của mình với USD nhằm mục đích tăng cường lợi thế cho các nhà xuất khẩu, giảm nhập khẩu. Lấy ví dụ điển hình là Việt Nam, là nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và xuất khẩu đóng một vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng cao sẽ khiến nền kinh tế này ngày càng mạnh thêm, và theo quy luật, đồng tiền của chúng ta sẽ ngày càng mạnh hơn trước so với USD (điều này chỉ có tính tương đối, nó còn phụ thuộc vào lượng tiền lưu thông). Đến lúc này, nếu không thực hiện việc phá giá đồng tiền, cán cân thương mại có thể bị lệch kép. Thứ nhất, vì nguyên liệu cùng các chi phí sản xuất trong nước được tính bằng tiền đồng trong khi xuất sang Hoa Kì chúng ta lại thu về USD nên tiền đồng tăng giá so với USD sẽ khiến sức cạnh tranh của hàng hóa giảm. Thứ hai, cũng vì nguyên nhân trên mà hàng hóa nhập khẩu từ bên ngoài sẽ tăng khả năng cạnh tranh, đe dọa đến nền sản xuất còn non yếu trong nước. Vì vậy giải pháp tất yếu là phải gắn một tỉ giá cố định giữa hai đồng tiền. Tuy nhiên, việc này chỉ nên thực hiện trong giai đoạn đầu của thời kì phát triển chứ không nên áp dụng dài hạn. Một nền kinh tế thị trường phải là nền kinh tế mà ở đó tiền tệ cũng phải diễn biến theo thị trường và phải có sự canh tranh bình đẳng, lành mạnh giữa các quốc gia, ngoài ra việc phá giá đồng tiền còn khiến các nước nhập khẩu có thể áp đặt lên chúng ta nhiều loại thuế khác. Tóm lại chính phủ sử dụng biện pháp phá giá tiền tệ do những nguyên nhân sau đây: * Chính phủ sử dụng biện pháp phá giá tiền tệ để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn so với cơ chế để nền kinh tế tự điều chỉnh theo hướng suy thoái (vì khả năng cạnh tranh kém nên cầu xuất khẩu ròng giảm dẫn đến tổng cầu giảm) đi kèm với mức lạm phát thấp kéo dài cho đến khi năng lực cạnh tranh tăng lên (do tiền lương, giá cả giảm xuống đến mức có khả năng cạnh tranh). Chính phủ các nước thường sử dụng chính sách phá giá tiền tệ khi có một cú sốc mạnh và kéo dài đối với cán cân thương mại. * Trong trường hợp cầu về nội tệ giảm thì chính phủ sẽ phải dùng ngoại tệ dữ trữ để mua nội tệ vào nhằm duy trì tỷ giá hối đoái và đến khi ngoại tệ dự trữ cạn kiệt thì không còn cách nào khác, chính phủ phải phá giá tiền tệ. 4. Điều kiện áp dụng phá giá tiền tệ Bán phá giá tiền tệ có thể tiếp tục cho đến khi mất giá trong nước tăng bằng mất giá đối ngoại của đồng tiền. Đồng thời tiền của nước mà hàng hoá xuất sang không bị phá giá hoặc phá giá ở mức thấp. Bán phá giá tiền tệ chỉ có thể xảy ra trong môi trường: 1) Mất giá đối ngoại của đồng tiền phải cao hơn mất giá đối nội; 2) Các nước nhập khẩu hàng hoá của nước có đồng tiền không đồng thời phá giá đồng tiền của mình, hoặc phá giá ở mức thấp hơn; 3) Các nước không dùng những biện pháp chống phá giá hoặc không áp dụng bán phá giá hối đoái. Bất kì chính sách nào cũng có cái lợi và có cái hại. Chính sách phá giá tiền tệ cũng vậy, nó là một con dao hai lưỡi đối với nền kinh tế. Một mặt phá giá tiền tệ làm tăng xuất khẩu, giảm nhập khẩu cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Nhưng mặt khác chính sách này có thể mang tới những rủi ro nếu không được tính toán cụ thể, như tình trạng lạm phát, nợ nước ngoài (gồm cả nợ của khu vực công và tư) tăng, thu nhập quốc dân tính theo ngoai tệ giảm, tài sản trong nước bị giảm giá dẫn đến bị nước ngoài thâu tóm, uy tín trên trường quốc tế bị ảnh hưởng,… Điều kiện Marshall-Lerner phát biểu rằng, để cho việc phá giá tiền tệ có tác động tích cực tới cán cân thanh toán, thì giá trị tuyệt đối của tổng hai độ co dãn theo giá cả của xuất khẩu và độ co dãn theo giá cả của nhập khẩu phải lớn hơn 1. Phá giá dẫn tới giảm giá hàng xuất khẩu định danh bằng ngoại tệ, do đó nhu cầu đối với hàng xuất khẩu tăng lên. Đồng thời, giá hàng nhập khẩu định danh bằng nội tệ trở nên cao hơn, làm giảm nhu cầu đối với hàng nhập khẩu. Hiệu quả ròng của phá giá đối với cán cân thanh toán tùy thuộc vào các độ co dãn theo giá. Nếu hàng xuất khẩu co dãn theo giá, thì tỷ lệ tăng lượng cầu về hàng hóa sẽ lớn hơn tỷ lệ giảm giá; do đó, kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng. Tương tự, nếu hàng nhập khẩu co dãn theo giá, thì chi cho nhập khẩu hàng hóa sẽ giảm. Cả hai điều này đều góp phần cải thiện cán cân thanh toán. Nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, hàng hóa thường không co dãn theo giá cả trong ngắn hạn, bởi vì thói quên tiêu dùng của người ta không thể thay đổi dễ dàng. Do đó, điều kiện Marshall-Lerner không được đáp ứng, dẫn tới việc phá giá tiền tệ chỉ làm cho cán cân thanh toán trong ngắn hạn xấu đi. Trong dài hạn, khi người tiêu dùng đã điều chỉnh thói quen tiêu dùng của mình theo giá mới, cán cân thanh toán mới được cải thiện. Mục tiêu của phá giá tiền tệ là nhằm tăng xuất khẩu, giảm nhập khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Tuy nhiên muốn tăng xuất khẩu không chỉ có giá cạnh tranh, mà phải có đường cầu co dãn đủ lớn. Điều kiện Marshall-Lerner chỉ ra rằng cần thiết phải có độ co giãn đường cầu hàng xuất khẩu cộng với độ co giãn của đường cầu hàng nhập khẩu phải lớn hơn 1- nghĩa là người dân trong nước sẵn sàng chuyển từ sử dụng hàng hóa nhập khẩu giá cao sang dùng hàng nội địa giá thấp hơn, đồng thời người nước ngoài cũng sẵn sàng chuyển sang sử dụng hàng nhập khẩu từ nước phá giá tiền tệ do giá cả trở nên rẻ đi. Thêm vào đó, thời điểm phá giá cũng là một vấn đề. Nếu giá hàng nhập khẩu đang thấp và có xu hướng hạ thì việc phá giá mới có tác dụng vì sau khi phá giá, giá hàng nhập khẩu sẽ không bị tăng đột ngột, qua đó hạn chế sự tăng giá của hàng nội địa do giảm thiểu ảnh hưởng giá cả của nguyên liệu đầu vào nhập khẩu, cuối cùng là hạn chế mặt trái của phá giá là lạm phát tăng. ở các nước đang phát triển, do nhiều yếu tố đầu vào của sản xuất trong nước là nhập khẩu, các chi phí sản xuất đều có liên hệ với ngoại tệ, nên việc phá giá đồng nội tệ sẽ gây ra tăng chi phí sản xuất trong nước, gây ra tình trạng lạm phát. Một điều kiện nữa để phá giá là một quỹ dự trữ ngoại tệ phải đủ lớn. Khi tiến hành phá giá, thị trường có xu hướng tích trữ ngoại tệ nhiều hơn nhằm đảm bảo an toàn tài sản, do đó phải có một quỹ dự trữ đủ lớn nhằm can thiệp kịp thời, đảm bảo duy trì tỷ giá đúng kế hoạch, tránh bị phá giá quá mức sẽ gây bất ổn kinh tế. Chương Ii: Kinh nghiệm, bài học phá giá tiền tệ của một số nước và thực trạng ở Việt Nam. Khủng hoảng tài chính tiền tệ của các nước Châu á năm 1997 – 1998 các chuyên gia kinh tế cho rằng một trong những nguyên nhân bùng nổ cuộc khủng hoản của chính sách tỷ giá hối đoái cố định và sự vận hành yếu kém của hệ thống ngân hàng. Thật vậy nền kinh tế ASEAN trong một thời gian tương đối dài duy trì chính sách tỷ giá hối đoái ổn định. Sự thật là việc duy trì tỷ giá cố định trong thời gian dài đã làm cho các đồng tiền ASEAN tăng tỷ giá cao không thực chất so với USD. Tỷ giá cố định keó dài tạo ra sự cường thịnh giả tạo cho nền kinh tế, khiến các đồng vốn tiếp tục đổ mạnh vào các nước ASEAN thông qua dòng vốn FDI và phải điều chỉnh tỷ giá các đồng vốn này tự ồ ạt rời khỏi ASEAN. Mặt khác, sự cao giá không thực chất của các đồng tiền này triệt tiêu các động lực kích thích tăng trưởng xuất khẩu vốn đã không mạnh mẽ của kinh tế ASEAN. Chính sách tỷ giá đặc biệt mâu thuẫn với cơ chế tự do hóa di chuyển vốn trong nền kinh tế ASEAN. Đây là dị dạng của một vài cơ chế chính sách tiền tệ làm suy yếu năng lực kiểm soát của các dòng vốn. Cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay đã khiến cho nhà tiêu dùng các nước thắt chặt hầu bao, cũng khiến cho việc xuất khẩu của Châu á gặp nhiều khó khăn. Nhiều quốc gia Châu á đang làm mất giá đồng tiền của mình như một phương pháp cứu khu vực xuất khẩu bị đình trệ. Đồng Won Hàn Quốc, đồng đôla Singapo, đồng đôla Ôxtrâylia liên tục mất giá kể từ đầu năm 2009 và xu hướng này rõ ràng sẽ còn tiếp diễn. Bởi đằng sau tình trạng xuất khẩu giảm sút của Châu á chính là cuộc khủng hoảng tín dụng làm suy yếu sức mua hàng hóa ở Mỹ và Châu Âu. Nhiều quốc gia giờ rơi vào tình thế khó khăn và bắt đầu tiết kiệm. Tuy nhiên, chưa chắc đã là thực sự khôn ngoan khi dựa vào phương pháp làm mất giá nội tệ để kích thích xuất khẩu trong thực tế này. Để đưa ra chính sách phù hợp nhất ta sẽ nghiên cứu kinh nghiệm áp dụng phá giá tiền tệ của một số nước đồng thời xem xét nền kinh tế hiện nay để có những biện pháp tốt nhất với Việt Nam. 1. Kinh nghiệm phá giá trong thương mại của một số nước 1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc Ngày 1-1-1994, đồng CYN chính thức bị tuyên bố phá giá mạnh từ 5,8 CYN/USD xuống 8,7 CYN/USD, và thống nhất các mức giá thành một tỷ giá chung. Tuy nhiên, tỷ giá danh nghĩa bắt đầu lên giá chậm chạp và cuối cùng ổn định ở mức 8,3 CYN/USD. Để giảm bớt tác động của sự thay đổi trong chính sách tỷ giá lên thị trường tiền tệ, vào thời kỳ này chính phủ Trung Quốc đã ban hành một loạt những biện pháp hỗ trợ và quản lý ngoại hối như: thực hiện chế độ ngân hàng kết hối, xoá bỏ sự găm giữ ngoại tệ và tăng giá ngoại hối của các công ty, xây dựng thị trường giao dịch ngoại tệ liên ngân hàng; cải tiến cơ chế hình thành tỷ giá hối đoái; xoá bỏ kế hoạch mang tính mệnh lệnh đối với thu chi ngoại hối… kết hợp với kiểm soát chặt chẽ của ngân hàng trung ương Trung Quốc. Đối với công ty nước ngoài, Trung Quốc yêu cầu phải có bảng cân đối ngoại tệ hàng năm. Đối với các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài phải có giấy phép đổi ngoại tệ mạnh sang CYN. Còn đối với doanh nghiệp nhà nước, yếu cầu phải nộp 100% ngoại tệ thu được thay vì 50% trước đây. Tuy nhiên, Trung Quốc đã có những điều chỉnh quản lý ngoại hối lỏng hơn như: cho phép các công nước ngoài từng bước được giao dịch, mua bán ngoại tệ mạnh, tạo điều kiện để đồng CYN xâm nhập mạnh hơn vào thị trường tiền tệ, tài chính thế giới… Kết quả của điều chỉnh và phá giá mạnh đồng CYN trong thời kỳ này của Trung Quốc đã giúp nước này không chỉ thu được những lợi ích trong ngắn hạn, nhanh chóng đẩy mạnh xuất khẩu, chiếm lĩnh nhiều thị phần quan trọng trên thị trường quốc tế, mà còn tạo cơ sở để Trung Quốc duy trì chính sách tỷ giá ổn định trong một thời gian dài, giảm thiểu những rủi ro hối đoái và tạo môi trường hấp dẫn thu hút mạnh các nguồn đầu tư nước ngoài : Bảng 2: Tình hình đầu tư và xuất nhập khẩu của Trung Quốc năm 1994 - 1997 Năm FDI- tỷ USD Lạm phát(%) XK- tỷ USD NK- tỷ USD 1994 33,79 24,2 121,0 115,2 1995 35,84 16,9 148,8 129,1 1996 40,18 8,3 151,2 138,9 1997 44,23 8,3 182,9 142,2 Nguồn chính IMF.Internationa Financial Statistics T5/2001 Dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính châu á năm 1997, môi trường kinh tế quốc tế đã có nhiều biến động đáng kể. Các nước bị khủng hoảng rơi vào tình trạng suy thoái, mức sống của người dân bị sụt giảm đáng kể. Cuộc khủng hoảng này đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế và thương mại toàn cầu chậm lại. Trung Quốc không phải là một ngoại lệ. Xuất khẩu và đầu tư nước ngoài giảm mạnh. Vấn đề sản xuất dư thừa ngày càng trở nên trầm trọng trong các ngành công nghiệp chế biến. Giá thị trường liên tục giảm xuống và dần dần xuất hiện những dấu hiệu giảm phát. Trước tình hình đó, chính phủ Trung Quốc đã có chủ trương không phá giá đồng CNY, tỷ giá vẫn giữ ở mức 8,28 CNY/USD, với biên độ giao đông là nhỏ. Nhờ đó mà những tác động của cuộc khủng hoảng khu vực Châu á đối với nền kinh tế Trung Quốc và cả nền kinh tế thế giới đã ít nghiêm trọng hơn. Để bảo vệ đồng CNY trước tác động của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, năm 1998 Trung Quốc đã quay trở lại kiểm soát chặt chẽ thị trường ngoại hối, giảm nguy cơ đầu cơ và găm giữ ngoại tệ, tăng dự trữ ngoại tệ. Thu nhập ngoại tệ của các doanh nghiệp bắt buộc phải bán cho những ngân hàng đã được chỉ định trước, việc bán ngoại tệ cũng phải có hoá đơn theo quy định mới được rút, thậm chí các nhà đầu tư nước ngoài cũng phải bán ngoại tệ cho các ngân hàng Trung Quốc để đổi lấy một lượng CNY nhất định sử dụng trong lãnh thổ nước này. Song song với việc quản lý chặt chẽ thị trường ngoại hối, để giảm bớt sức ép đối với xuất khẩu và sự tăng trưởng của nền kinh tế, Trung Quốc còn phối hợp với các chính sách kinh tế như nới lỏng chính sách tiền tệ và kích cầu. Trong năm này, Trung Quốc đã liên tiếp 3 lần hạ lãi suất tiền cho vay và tiền gửi bằng đồng CNY, lãi suất chiết khấu cũng giảm 1,91%, đồng thời với việc giảm cả lãi suất với các loại tiền gửi bằng ngoại tệ, hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp, kích thích tiêu dùng ở các tầng lớp dân cư... Theo các chuyên gia hàng đầu về kinh tế thì cho rằng với tỷ giá hiện nay đồng CNY đã bị đánh giá thấp khoảng 30% so với các đồng tiền khác, theo nhận định của Mỹ là 40% và theo Eu thì tỷ lệ này là 20%. Theo họ với tỷ giá thấp, đã tạo ra những lợi thế thương mại bất bình đẳng cho hàng Trung Quốc tràn ra thị trường quốc tế, làm suy yếu sức cạnh tranh của các nhà xuất khẩu khác. Cùng với những lợi thế về tài nguyên và nhân lực, việc duy trì tỷ giá hối đoái không cân đối giữa CNY và USD trong lúc USD đang giảm đi tương đối so với các đồng tiền khác đang giúp các nhà xuất khẩu của Trung Quốc có lợi thế trong cuộc chiến giá cả và nâng cao tính cạnh tranh thu hút đầu tư của nước này. Còn về quan điểm của phía Trung Quốc lại trái ngược với các nước, họ cho rằng đồng CNY không những không giảm giá mà trái lại còn đang lên giá so với các đồng tiền khác. Theo nhận định của Trung Quốc thì về danh nghĩa trong giai đoạn 1994-2002, đồng CNY đã tăng 5,1% so với đồng USD, tăng 17,9% so với đồng Euro và tăng 17% so với đồng yên Nhật, nếu tính đến yếu tố lạm phát thì mức tăng thực tế của đồng CNY so với các đồng tiền này là 18,5%; 39,4%; 62,9%. Mặc dù có những quan điểm trái ngược nhau, thực tế đã cho thấy cho tới nay việc điều chỉnh tỷ giá và chính sách tỷ giá trong thời gian qua đã tạo ra khả năng góp phần giảm tác động trước những cú sốc từ bên ngoài và đạt được thành tựu to lớn kể từ năm 1997. Trong năm 2002, tổng doanh số thương mại của Trung Quốc đạt 620,79 tỉ USD, trong đó xuất khẩu tăng 22,3%, đạt 325,57 tỉ USD; nhập khẩu tăng 21,2%, đạt 295,22 tỉ USD. Thặng dư thương mại đạt 30,33 tỉ so với 22,6 tỉ USD trong năm 2001. Dự trữ ngoại tệ đạt mức cao kỷ lục là 286,4 tỉ USD. Tốc độ tăng trưởng trung bình của nền kinh tế Trung Quốc là 8%/năm, và cao nhất trên thế giới. Mặt khác, đồng CNY hiện đang mạnh lên so với đồng USD. Tuy chưa phải là đồng tiền có thể chuyển đổi hoàn toàn, nhưng nó đang ngày càng được sử dụng nhiều ở bên ngoài biên giới Trung Quốc, đặc biệt là dọc biên giới Trung Quốc với các nước Đông Nam á. Theo tính toán hiện có khoảng 30 tỷ CNY đang lưu hành ở bên ngoài Trung Quốc, điều này chứng tỏ niềm tin của quốc tế vào kinh tế Trung Quốc. Và đồng CNY được dự đoán là sẽ đóng vai trò khu vực lớn hơn đồng Euro, có thể trở thành đồng tiền dự trữ thay thế các đồng tiền quốc tế khác ở Châu á. Bên cạnh những thành tựu đạt được một phần là nhờ vào chính sách tỷ giá hiện nay, thì vẫn còn những hạn chế. Khi mà đồng tiền giảm giá, nó làm cho các khoản vay bằng ngoại tệ của nước đó và rủi ro của đầu tư trong tương lai tăng lên khi các nhà đầu tư dự kiến tăng về tính không ổn định của tỷ giá hối đoái. Hiện nay, nợ quá hạn của Trung Quốc đã lên đến mức 1.800 tỷ nhân dân tệ, tương đương 140% GDP so với mức 88% trong năm 1996. Và những khoản nợ khó đòi tập trung ở bốn ngân hàng lớn của Trung Quốc: đó là những ngân hàng hiện nay mất khả năng thanh toán xét trên phương diện kỹ thuật. Kể từ 1998 đến nay, Trung Quốc đã bỏ ra 200 tỷ USD để tái cấp vốn và mua lại các khoản nợ khó đòi của các ngân hàng. Mặc dù hiện nay Trung Quốc đang phải đối mặt với tình hình tài chính bất ổn, nhưng chính phủ Trung Quốc vẫn hết sức thận trọng tránh làm tổn hại đến xuất khẩu. Theo cảnh báo của các nhà nghiên cứu kinh tế, rằng việc điều chỉnh giá trị của đồng nhân tệ có thể làm cho kinh tế Trung Quốc "mất ổn định" do khuyến khích các luồng vốn đầu tư, làm tăng sư phụ thuộc của nền kinh tế vào yếu tố bên ngoài nhất là khi hiện nay có tới 50% hàng xuất khẩu là của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đây chính là sự mâu thuẫn mà việc lựa chọn chính sách tỷ giá phải đối mặt. Theo nhận xét của Hiệp hội các doanh nghiệp của Mỹ (NAM), so với giá trị thực của nó, CNY đang giảm đi mất 40% và chính điều này đã tạo ra một môi trường kinh doanh không công bằng, trong đó, hàng nhập khẩu từ Mỹ trở nên quá đắt và mất đi tính cạnh tranh trên thị trường. Theo các nhà phân tích, một minh chứng cho thấy đồng tiền CNY đang bị Chính phủ nước này “dìm giá” chính là sự tăng lên đột biến trong nguồn ngân sách quốc gia. Đất nước được đánh giá là khá thành công trong lĩnh vực xuất khẩu này đã trở thành “miếng nam châm” thu hút lượng lớn ngoại tệ (Bảng 2). Các chuyên gia công nghiệp Mỹ nói rằng sở dĩ có được điều này là vì các nhà sản xuất Trung Quốc có lợi thế về đồng tiền, được duy trì trong một chế độ hối đoái rẻ theo kiểu nhân tạo so với USD, như vậy giúp làm cho giá các mặt hàng xuất khẩu trở nên rẻ hơn. Trước tình hình này, Mỹ và các đối tác thương mại lớn khác của Trung Quốc đã gây sức ép để đồng nhân dân tệ tăng giá. Cuối cùng Trung Quốc đã phải điều chỉnh tỷ giá vào năm 2005. Bảng 3: Diễn biến tỷ giá, cán cân thương mại và dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc 2002-2007 Năm E (CNY/USD) CCTM (triệu USD) Dự trữ ngoại tệ (triệu USD) 2002 8,2770 44.167 286.407 2003 8,2770 44.652 403.251 2004 8,2768 58.982 609.932 2005 8,1943 134.189 818.872 2006 7,9734 217.746 1.066.340 2007 7,6075 315.381 1.528.250 (Nguồn: Indicators/2008/pdf/Prc.pdf) Chế độ tỷ giá của Trung Quốc từ 7/2005 đến nay: Năm 2005, Ngân hàng Trung ương (NHTW) Trung Quốc đã công bố thay đổi chế độ tỷ giá. Tỷ giá sẽ được xác định dựa trên một rổ các đồng tiền (Basket) nhưng các thành phần và tỷ trọng các đồng tiền không được đưa ra trong lần công bố này. Đồng thời với việc neo tỷ giá theo một rổ tiền tệ, NHTW Trung Quốc cho phép biên độ dao động hàng ngày của các tỷ giá song phương là 0,3%. Ngày 9/8/2005, trong bài phát biểu khai mạc trụ sở thứ 2 của NHTW tại Thượng Hải, Thống đốc NHTW Trung Quốc ZhouXia Chuan đã công bố 11 đồng tiền trong rổ, trong đó các đồng tiền chính là đôla Mỹ, Euro, Yên Nhật và đồng Won Hàn Quốc và các đồng Bảng Anh, Ruble Nga và Baht Thái cũng có mặt trong rổ tiền tệ nhưng có tỷ trọng nhỏ hơn nhiều. Tuy nhiên, căn cứ vào số liệu thực tế của tỷ giá đa phương danh nghĩa CNY, Guonan và McCauley đã cho rằng tỷ giá này đã dao động với biên độ 2%/ năm (B - Band) và mức độ thay đổi theo ngày là 0,06% (C - Crawl). Có thể thấy rằng, chế độ tỷ giá của Trung Quốc là một dạng của chế độ tỷ giá BBC (Basket, Band and Crawl Regime) - là chế độ tỷ giá dựa vào rổ tiền tệ với biên độ dao động rộng được điều chỉnh định kì). So với lý thuyết thì biên độ dao động của tỷ giá (B-band) là khá nhỏ chỉ là 2%/ năm. Mặc dù tỷ giá song phương CNY/USD giảm giá nhưng tỷ giá đa phương danh nghĩa của CNY lại có xu hướng tăng dần. Như vậy, Trung Quốc vẫn duy trì được lợi thế cạnh tranh thương mại quốc tế so với các quốc gia bạn hàng. Do đó, đã góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế và thặng dư của cán cân thương mại của Trung Quốc. Có nhiều áp lực phải đánh giá lại đồng nhân dân tệ, nhất là sự mất giá gần 40% của USD trong 8 năm qua thể hiện sự không tương xứng với những ngoại tệ chủ chốt, trong khi Trung Quốc và nhiều nền kinh tế mới nổi lại neo tỉ giá với USD vốn đang trượt giá để hỗ trợ xuất khẩu. Kể từ đợt điều chỉnh cuối cùng vào tháng 7/2005, đồng nhân dân tệ đã tăng khoảng 20% so với USD, nhưng mức tăng này vẫn thấp, nhất là sau đợt đổ vỡ tín dụng tại Mỹ vào cuối năm 2007 và dẫn đến khủng hoảng toàn cầu. Tại trong nước, việc duy trì đồng nhân dân tệ yếu tuy có tác dụng thúc đẩy xuất khẩu của Trung Quốc, nhưng lại đã tạo sự cạnh tranh khốc liệt về giá cả giữa các doanh nghiệp Trung Quốc với nhau, mà hậu quả là nhiều mặt hàng không đảm bảo chất lượng, nổi bật là máy tính và một số đồ điện dân dụng, đây là những mặt hàng cần đến nguồn nguyên liệu thô, nhất là kim loại và chất dẻo, trong khi nguồn nguyên liệu này ngày càng khan hiếm và đắt đỏ. Sản xuất tăng mạnh, hàng hóa bán được nhiều, thị trường chứng khoán tăng mạnh và có vẻ đang phát triển bong bóng, nhưng nguy hiểm hơn là lợi nhuận giảm mạnh và điều này làm tăng xác suất phá sản doanh nghiệp. Suy cho cùng, việc duy trì đồng nhân dân tệ yếu quá lâu hoàn toàn không có lợi cho chính nền kinh tế Trung Quốc, và điều này buộc Chính phủ Trung Quốc phải can thiệp để tăng giá bản tệ với mục tiêu chính là giảm bớt rủi ro đối với kinh tế trong nước. Do đồng nhân dân tệ được định giá thấp 20-30% so với USD, việc tăng giá đồng nhân dân tệ thêm 3,4% chẳng có nghĩa lý gì so với mức tăng giá đồng tiền này trong 12 tháng năm 2009. Bộ Thương mại Trung Quốc cho biết, với giá trị xuất khẩu trong năm 2009 đạt 1.201,7 tỷ USD, nước này đã vượt qua Đức để trở thành quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới. Số liệu thống kê cũng cho thấy kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc tăng 21% trong tháng 1/2010. Lượng hàng hóa nhập khẩu thậm chí còn tăng gấp 4 lần con số này. So với cùng kỳ 2009, tổng giá trị nhập khẩu tháng 1 của Trung Quốc tăng tới 86%. Thống đốc Ngân hàng Trung ương Trung Quốc Chu Tiểu Xuyên vừa cho biết, nước này sẽ cẩn trọng trong việc đánh giá lại giá trị đồng Nhân dân tệ (CNY), trong bối cảnh sức tăng trưởng các nền kinh tế lớn trên thế giới vẫn còn chậm chạp sau khi trải qua khủng hoảng. Ông Chu Tiểu Xuyên gọi hành động neo giá đồng nhân dân tệ so với đồng USD mà Bắc Kinh đã và đang thực hiện là "một cơ chế tỷ giá hối đoái đặc biệt" nhằm phản ứng với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Đồng thời Ông khẳng định, cơ chế này sớm hay muộn cũng bị bãi bỏ, nhưng Trung Quốc sẽ rất cẩn trọng và khôn ngoan trong việc lựa chọn thời điểm thích hợp. Mặc dù không đưa ra thời gian biểu cho việc duy trì tỷ giá hối đoái hiện nay, nhưng Trung Quốc khẳng định việc đánh giá lại đồng nhân dân tệ chỉ có thể được thực hiện sau 2 hoặc 3 năm nữa, khi thị trường xuất khẩu toàn cầu hồi phục hoàn toàn sau khủng hoảng. Chính phủ Trung Quốc sẽ tiếp tục thực thi chính sách tiền tệ nới lỏng vừa phải, song đồng thời theo sát các diễn biến lạm phát và những thay đổi của các chỉ số kinh tế khác. Ông lưu ý rằng việc kiểm soát lạm phát trong năm nay sẽ hết sức phức tạp. Theo lãnh đạo Ngân hàng Trung ương Trung Quốc cho biết, khó khăn hiện nay của các nhà hoạch định chính sách là dự đoán được mọi tình huống có thể xảy ra và những thay đổi về chỉ số. Nhằm đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và đưa đất nước thoát khỏi suy thoái kinh tế, cuối năm 2008, Trung Quốc đã điều chỉnh chính sách tiền tệ từ "siết chặt" sang "nới lỏng vừa phải " và triển khai gói kích thích kinh tế trị giá 4 nghìn tỷ CNY (585 tỷ USD). Trong năm 2009, Chính phủ đã "bơm" tổng cộng 9,6 nghìn tỷ CNY cho nền kinh tế dưới dạng các khoản vay mới, tăng gần gấp đôi so với năm trước đó. Theo các chuyên gia, mặc dù xuất khẩu Trung Quốc trong năm 2009 đã giảm 4% so với GDP cả nước, nhưng chính sự ổn định tỷ giá và gói kích thích kinh tế khổng lồ Chính phủ Trung Quốc tung ra đã giúp cho kinh tế nước này vẫn giữ được đà tăng trưởng. Theo số liệu mà Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc thông báo, tăng trưởng GDP của nước này trong quý IV/2009 đạt 10,7%, cao nhất từ năm 2007 trở lại đây. Tính chung trong cả năm 2009, GDP Trung Quốc tăng trưởng 8,7%, vượt xa mục tiêu đầu năm là 8% mà Thủ tướng Ôn Gia Bảo đã đề ra. Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu tác động tới các nền kinh tế, cũng như những khó khăn trên thị trường nội địa, Chính phủ Trung Quốc đã lường trước tình hình, đưa ra các quyết sách quan trọng để tất cả đồng tâm, đồng lòng vượt qua khó khăn. Các biện pháp này đã chặn đứng đà suy giảm và Trung Quốc trở thành nước đầu tiên thoát khỏi suy thoái. Các nhà kinh tế cho rằng, đồng NDT của Trung Quốc được định giá thấp hơn thực tế từ 20-40%, tạo cho Bắc Kinh lợi thế bất công trong hoạt động thương mại quốc tế. Rất nhiều chuyên gia kinh tế và các nhà lãnh đạo, trong đó có cả Tổng thống Mỹ Barack Obama đã lên tiếng kêu gọi Trung Quốc phải thực hiện việc đánh giá lại đồng CYN vì cho rằng việc quốc gia này neo tỷ giá đồng NDT với đồng USD đã tạo lợi thế về xuất khẩu, qua đó hỗ trợ cho các nhà xuất khẩu của Trung Quốc khi giao dịch với các nền kinh tế khác trên thế giới. Thậm chí có nhiều ý kiến cho rằng, việc Trung Quốc tiếp tục không chịu tăng giá đồng NDT đã gây phương hại tới nhiều nước đang phát triển vốn lấy xuất khẩu để phát triển kinh tế, chứ không chỉ có Mỹ. Nhiều nhà kinh tế trên thế giới nhận định rằng trong năm 2010 Trung Quốc có thể sẽ để đồng nhân dân tệ tăng giá để kiềm chế lạm phát khi xuất khẩu tăng mạnh và áp lực từ phía quốc tế ngày một nhiều. Dự báo năm 2010, đồng nhân dân tệ có thể tăng giá thêm khoảng 5%. 1.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc Hàn Quốc từng được biết đến như một trong những nước nông nghiệp nghèo nhất thế giới. Cho đến năm 1962, khi bắt đầu bước vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm lần thứ nhất (1962 -1966), GDP bình quân đầu người là 87 USD đã phản ánh rằng Hàn Quốc vẫn chưa thể thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu sau gần thập kỷ nỗ lực khôi phục lại nền kinh tế đã bị tàn phá nặng nề bởi cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai và tiếp đó là cuộc chiến Nam - Bắc Triều Tiên. Thế nhưng chỉ hơn 25 năm sau, vào cuối thập kỷ 80, Hàn Quốc đã đạt được những thành tựu kinh tế được cả thế giới biết đến như “Kỳ tích trên sông Hàn”. Đó là một quá trình phi thường đã nhanh chóng giúp cải tạo nền kinh tế Hàn Quốc, đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử của đất nước. Để có được một Hàn Quốc như ngày nay, Chính phủ Hàn Quốc đã áp dụng hàng loạt các biện pháp nhằm quản lý, điều tiết nền kinh tế, trong đó đặt trọng tâm là hướng về xuất khẩu. Chính sách hướng về xuất khẩu: Trong những năm 60, nền kinh tế Hàn Quốc đang phải đối mặt với những khó khăn lớn; không có thị trường trong nước cho các loại hàng hóa sản xuất, tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn. Để đối phó với vấn đề này, Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện chính sách hướng về xuất khẩu với 2 bước đi quan trọng đó là khuyến khích và tăng cường tiết kiệm thông qua việc tăng lãi suất, cải thiện thâm hụt thương mại bằng việc phá giá đồng nội tệ. Bên cạnh đó, Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện hàng loạt biện pháp nhằm hỗ trợ xuất khẩu như giảm thuế nhập khẩu, hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp xuất khẩu một cách hợp lý, ưu đãi về tài chính cho các ngành công nghiệp mũi nhọn, điều chỉnh chế độ tỷ giá linh hoạt, mục tiêu xuất khẩu được cụ thể hóa bởi Chính phủ và khen thưởng, động viên từ Tổng thống Hàn Quốc. Sau hàng loạt những chính sách của Chính phủ, kết quả đạt được là hết sức khả quan. Hàn Quốc trở thành một trong những quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất thế giới với kim ngạch xuất khẩu tăng từ 41 triệu USD năm 1960 lên 1.048 triệu USD vào năm 1970. Năm 2009 khủng hoảng tài chính thế giới đe dọa không ít nền kinh tế, nhưng thị trường Hàn Quốc vẫn có tăng trưởng so chính sách tỷ giá phù hợp của chính phủ. Ngày 2/3, tỷ giá hối đoái của đồng won Hàn Quốc so với đồng USD đã lên tới 1.570,3 won/USD, giảm 36,3 won so với phiên giao dịch trước và là mức thấp nhất kể từ 11 năm qua. Tính từ đầu năm 2009 tới nay, đồng won đã mất 19,8% giá trị, mức giảm cao nhất trong số các đồng nội tệ trên thế giới. Nhiều chuyên gia cho rằng, nếu không giải quyết các khoản nợ ngắn hạn thì đồng won sẽ tiếp tục mất giá so với đồng USD. Trong năm 2008, đồng won đã giảm giá khoảng 26% và từ đầu năm 2009 đến nay tiếp tục giảm 20%, trở thành một trong những đồng tiền mất giá nhanh nhất thế giới. Còn ngày 13/03 năm 2008, tỷ giá hối đoái giữa KRWvà USD chỉ có 978,7 KRW/USD. Mất giá đồng won đã thúc đẩy mạnh mẽ xuất khẩu của Hàn Quốc. Mặc dù chịu ảnh hưởng của cơn bão tài chính, tiêu dùng trên các thị trường chính như Mỹ và Trung Quốc bị thu hẹp, lượng giao dịch toàn cầu bị giảm mạnh, tuy nhiên hàng xuất khẩu chủ yếu của Hàn Quốc như ti vi, bán dẫn, điện thoại di dộng, màn hình tinh thể lỏng, xe hơi, đóng tàu vẫn chiếm ưu thế trên thị trường thế giới. Thành công từ chính sách tỷ giá: Để có được những kết quả trên, Hàn Quốc đã khá thành công trong việc sử dụng công cụ tỷ giá hối đoái để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thông qua chiến lược hướng vào xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Từ thực tiễn thành công của Hàn Quốc, một số kinh nghiệm được rút ra như sau: Một là, Hàn Quốc là tấm gương kiên nhẫn theo đuổi chính sách phá giá tiền tệ để tăng trưởng xuất khẩu. Đối với một quốc gia phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu các mặt hàng máy móc, nguyên liệu, thiết bị và công nghệ cũng như vay nợ nước ngoài để đầu tư thì việc phá giá tiền tệ có thể làm giảm tăng trưởng do tác động làm cản trở đầu tư lớn hơn khuyến khích xuất khẩu. Tuy nhiên, sự khôn ngoan của Hàn Quốc chính là việc mở rộng xuất khẩu ở quy mô lớn kết hợp với các nhân tố khác làm giảm chi phí nhập khẩu và gánh nặng nợ. Thực tế cho thấy, sau khi phá giá mạnh đồng Won Hàn Quốc đã tăng cường năng lực sản xuất và đẩy mạnh xúc tiến thương mại nên đã đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao. Hai là, tỷ giá KRW/USD được điều chỉnh theo hướng giảm giá trị đồng nội tệ trong một thời gian dài song song với quá trình Hàn Quốc chuyển từ chế độ tỷ giá cố định sang thả nổi. Nghệ thuật phá giá tiền tệ ở Hàn Quốc chính là nhờ sử dụng linh hoạt các yếu tố thị trường và chỉ điều chỉnh khi cần thiết. Chính phủ Hàn Quốc đã rất chủ động tạo ra các điều kiện thuận lợi để đảm bảo tỷ giá KRW/USD không cản trở tới hoạt động xuất khẩu: khi USD lên giá, chính phủ để thị trường tự điều tiết, còn khi USD giảm giá, Chính phủ đã tăng cung đồng KRW nhằm có lợi cho xuất khẩu. Ba là, sau việc phá giá tiền tệ, Hàn Quốc đã có biện pháp thích hợp để loại bỏ khả năng giảm giá kéo dài của nội tệ và sau đó củng cố các nhân tố thị trường khác giúp cho tỷ giá duy trì ở mức độ ổn định. Sự ổn định của tỷ giá KRW/USD đạt được là do Chính phủ Hàn Quốc đã duy trì được một biên độ dao động ổn định suốt trong thời gian dài. Điều này thực sự có lợi cho nhà đầu tư trong nước và thu hút vốn đầu tư củ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25788.doc
Tài liệu liên quan