Kinh doanh & biện pháp phát triển kinh doanh của Doanh nghiệp (lấy nhà hàng Nhật Hồng làm ví dụ)

LỜI NÓI ĐẦU Kinh doanh nhà hàng trên địa bàn thành phố Hà nội ngày nay đang cạnh tranh một cách khốc liệt. Theo kết quả điều tra gần đay nhất doanh thu các nhà hàng, khách sạn năm 1997 bằng 70% doanh thu năm 1996 và bằng 60% so với năm 1995. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh doanh trong lĩnh vực này, tình hình kinh doanh năm 1998 đến năm 2000 không khả quan hơn năm 1996 và 1997. Nhà hàng Nhật Hồng trực thuộc công ty thương mại khách sạn Đống đa có nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực này như

doc63 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1342 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kinh doanh & biện pháp phát triển kinh doanh của Doanh nghiệp (lấy nhà hàng Nhật Hồng làm ví dụ), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng cũng cần được nghiên cứu để hoàn thiện hơn. Xuất phát từ yêu cầu đào tạo của viện Đại học mở và tình hình thực tế của đơn vị mà tôi chọn đề tài "Kinh doanh và biện pháp phát triển kinh doanh của doanh nghiệp (lấy nhà hàng Nhật Hồng làm ví dụ) " làm luận văn tốt nghiệp Luận văn được hoàn thành với sự giúp đỡ trực tiếp của PGS-PTS Nguyễn Duy Bột. Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó, và rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc. Chương I NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KINH DOANH THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. A- KINH TẾ THỊ TRƯỜNG THEO ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA I. KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Công cuộc bắt đầu từ đổi mới từ ý kiến của quần chúng đã bắt đầu xoá bỏ bao cấp qua giá, đã khắc phục một bước kiểu phân phối định lượng theo chủ nghĩa bình quân. Nhưng những thay đổi này chưa đủ lực để xoá bỏ hẳn cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trước đây mà nó chỉ mang tính chất cục bộ không thể hiện hiệu lực cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân nhưng có tính khái quát và đầy đủ lý luận. Trước tình hình này Đảng và các nhà khoa học đã tổng kết và nâng nên thành lý luận, đường lối, chính sách. Sự nghiệp đổi mới chính thức được khẳng định từ Đại hội VI (tháng 12 năm 1986) và tiếp tục nâng nên ở đại hội VII của Đảng cộng sản Việt nam. Nền kinh tế nước ta có những bước chuyển biến nhanh chóng, từ một nền kinh tế hiện vật, chúng ta chuyển sang nền kinh tế hàng hoá, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, định hướng lên xã hội chủ nghĩa. Hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải năng động thích nghi với cơ chế thị trường. Muốn vậy đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải có kiến thức hiểu biết nhất định về cơ chế thị trường. 1. Khái niệm về cơ chế thị trường: Trong nền kinh tế thị trường các quan hệ kinh tế của cá nhân các doanh nghiệp đều biểu hiện qua mua bán hàng hoá dịch vụ trên thị trường. Thái độ cư xử của từng thành viên tham gia thị trường là hướng vào tìm lợi ích của mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường hay "Bàn tay vô hình" theo Adam Smith. Kinh tế thị trường xuất hiện như là một nhu cầu khách quan không thể thiếu được của nền kinh tế hàng hoá phát triển. Song không nên đồng nhất nó với nền kinh tế hàng hoá. Nếu xét về mặt lịch sử thì nền kinh tế hàng hoá có trước nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế hàng hoá ra đời thì nền kinh tế thị trường cũng xuất hiện nhưng không có nghĩa đã là nền kinh tế thị trường. Với sự tăng trưởng của nền kinh tế hàng hoá thị trường được mở rộng phong phú, đồng bộ, các quan hệ thị trường tương đối hoàn thiện thì mới có kinh tế thị trường. Vậy kinh tế thị trường không phải là một giai đoạn độc lập đứng ngoài kinh tế hàng hoá mà là giai đoạn phát triển cao của nền kinh tế hàng hoá. Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức xã hội. Trong đó sản xuất, trao đổi , phân phối, tiêu dùng đều gắn chặt với thị trường. Sản xuất ra sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ gì, khối lượng là bao nhiêu, sản xuất bằng cách nào, ai sẽ nhận hàng hoá dịch vụ sau sản xuất... Tất cả đều xuất phát từ nhu cầu thị trường thông qua thị trường. Thị trường là trung tâm của toàn bộ quá trình sản xuất và tái sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ cho xã hội thị trường là tập hợp tất cả các sự thoả thuận, thông qua đó người bán và người mua tiếp xúc với nhau để trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Trong thị trường người bán và người mua hàng hoá và dịch vụ tác động lẫn nhau hình thành nên cung - cầu hàng hoá và dịch vụ. Sự tương tác giữa cung - cầu hàng hoá và dịch vụ trên thị trường hình thành nên giá cả thị trường. Thị trường thừa nhận hàng hoá và dịch vụ là do người sản xuất cung ứng có phù hợp với nhu cầu của xã hội hay không, thị trường đã thực hiện giá trị của hàng hoá và dịch vụ. Cơ chế thị trường là cơ chế tinh vi của nền kinh tế theo quy luật khách quan của thị trường (quy luật giá trị, qui luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh và các quy luật tiền tệ). Trong sự liên kết các cá nhân và các doanh nghiệp lại với nhau trên thị trường thông qua giá cả và số lượng mua bán. Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Trong đó các cá nhân người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau đều thông qua mua bán hàng hoá dịch vụ trên thị trường để xác định 3 vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế. Và thái độ cư xử của từng thành viên hay của từng chủ thể kinh tế là hướng vào tìm kiếm lợi ích của chính mình theo sự dẫn dắt của giá cả thị trường. 2. Các bộ phận cấu thành cơ chế thị trường. Lịch sử phát triển của xã hội chứng minh rằng cơ chế thị trường và cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hoá hiệu quả nhất chính Adam Smit cũng đã phát hiện ra cơ chế đó. Cơ chế mà ông gọi là " bàn tay vô hình". Cơ chế thị trường bao gồm những nhân tố cơ bản là: cung - cầu - giá cả. Như vậy nghiên cứu thị trường chính là nghiên cứu quan hệ Cung - cầu và giá cả hình thành trên thị trường để đảm bảo kinh doanh có lợi nhuận cao. a) Cầu và các nhân tố ảnh hưởng Trước hết cầu là nhu cầu thể hiện ra trên thị trường (bắt nguồn từ giá người mua, người có tiền). Nhu cầu thể hiện ra trên thị trường là nhu cầu có khả năng thanh toán bằng tiền thông qua việc mua hàng hoá. Nhu cầu tồn tại mãi mãi nhưng cầu chỉ tồn tại trên thị trường. Nhu cầu là một phạm trù khách quan biểu thị sự mong muốn, sự tiêu dụng. Không có tiêu dùng thì không có nhu cầu. Tiêu dùng tạo ra nhu cầu, ngoài thị trường cầu không tồn tại. Để hình thành cầu có hai điều kiện: Nhu cầu và tiêu dùng đảm bảo. Cầu ví như cầu nối giữa nhu cầu và tiêu dùng. Vậy cầu đối với một hàng hoá được định nghĩa như là những số lượng khác nhau và hàng hoá đó mà ngươì tiêu thụ mua khỏi thị trường ở tất cả những giá thay đổi khác nhau có thể có. Những yếu tố điều kiện khác giữ nguyên hoặc cân bằng. Định nghĩa trên nhằm làm nổi bật lên mối liên hệ giữa những giá khác nhau có thể có của một hàng và những số lượng của hàng hoá đó mà người tiêu thụ sẽ đem ra khỏi thị trường. Nếu biểu diễn cầu bằng đồ thị với 2 yếu tố liên quan với nhau là giá cả và khối lượng, nhu cầu được xác định trên hình vẽ. AQ P AS Q Hình I Khi nghiên cứu cầu cần hiểu được các nhân tố chủ yếu tác động lên cầu đó là: + Trình độ sản xuất. Quy mô của sản xuất càng lớn thì nhu cầu càng nhiều. + Tiến bộ khoa học kỹ thuật. Các nhân tố khoa học như cơ giới hoá sản xuất, tự động hóa sản xuất. + Nhân tố tự nhiên: Thời vụ, hạn hán, bão lụt... + Nhân tố xã hội: đình công, bãi công... + Quy mô tiêu dùng. Quy mô tiêu dùng xã hội và qui mô tiêu dùng sản xuất về một hàng hoá nào đó. Quảng cáo là một hình thức tạo ra nhu cầu, chức năng của quảng cáo là thông tin kích thích người mua hàng. Yêu cầu của quảng cáo là: - Đập vào trực giác người mua. - Gây chú ý người mua từ đầu đến cuối - Có 6 hình thức quảng cáo: Panô áp phích vô tuyến, đài , báo chí in tờ quảng cáo, quảng cáo qua người bán hàng. Cầu có đặc điểm luôn biến động. Chính vì vậy khi nghiên cứu tới cầu cần phải thường xuyên chú ý tới các nhân tố tác động tới nó. Tính quy luật của nhu cầu trên thị trường: Nhu cầu là yếu tố quyết định thị trường trong doanh nghiệp, nếu nắm được nhu cầu và có các chính sách biện pháp hợp lý để khai thác các nhu cầu thì cũng có nghĩa là quá trình kinh doanh an toàn và thu được kết quả. Nhu cầu thị trường không nên đồng nhất với nhu cầu có khả năng thanh toán , trong quản lý kinh tế người ta hết sức chú ý tới nhu cầu có khả năng thanh toán. Song trong kinh doanh người ta lại rất chú ý tới nhu cầu của thị trường. + Nhu cầu của thị trường là nhu cầu của người tiêu dùng về một loại hàng nào đó mà người tiêu dùng sẵn sàng mua, sẽ mua. + Nhu cầu của thị trường hình thành trên cơ sở của nhu cầu tự nhiên và nhu cầu có khả năng thanh toán. Nếu như cầu do 2 yếu tố ý muốn (nhu cầu) và khả năng chính (tiền đảm bảo nhu cầu) khống chế thì về giá cung cũng vậy ý muốn sẵn sàng đưa ra trên thị trường một loại hàng hoá nào đó và có khả năng kỹ thuật, lao động, tiền vốn... để đưa hàng hoá ra thị trường khống chế cung. Khả năng về tài nguyên, trình độ kỹ thuật, trình độ người sản xuất quản lý... quyết định cung. Vậy cung hàng hoá được định nghĩa là những số lượng khác nhau của một hàng hoá nhất định và những người bán sẵn sàng và có khả năng cung ứng ra thị trường ở những giá khác nhau. Do đó cung hàng hoá phản ánh mối quan hệ trực tiếp trên thị trường của 2 biểu số lượng hàng cung uứng và giá cả trong một thời gian nhất định. Cung chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố sau: + Các nhóm nhân tố thuộc về trình độ và quy mô của sản xuất. Trình độ sản xuất càng cao thì quy mô sản xuất càng rộng thì cung trên thị trường càng lớn. Yếu tố này tác động thường xuyên đến khối lượng và chất lượng của cung. + Trình độ phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ. Đây là yếu tố quan trọng nó mang tính đặc trưng rất nhanh tiến độ khoa học kỹ thuật để phục vụ kịp thời nhu cầu. + Điều kiện và tài nguyên thiên nhiên hệ thống kết cấu hạ tầng vật chất. + Cầu và giá cả trên thị trường. + Khi nói đến cung phải nhắc đến cầu. Cung là một trong những yếu tố cấu thành thị trường. Cung không phải là yếu tố riêng lẻ mà nằm trong tổng thể gắn liền với nhau. Trong cơ chế thị trường và sự vận động của cung - cầu - giá cả hoàn toàn diễn ra một cách tự nhiên mà không có sự bắt buộc hay điều khiển tập trung của bất cứ ai. Thị trường là một cơ chế tự điều chỉnh. Cung và cầu chịu ảnh hưởng rất nhiều yếu tố và để phản ứng lại chúng vận động theo nhiều cách khác nhau. c) Giá cả thị trường và quan hệ cung cầu. Quan hệ cung cầu hàng hoá là nhân tố trực tiếp tác động đến mức độ lớn tới sự hình thành và sự biến động của giá cả thị trường, các nhân tố khác tác động đến giá cả hoặc là thông qua quan hệ cung cầu hoặc nằm trong khống chế của quan hệ cung cầu đối với giá cả. Cơ sở của giá cả thị trường là chi phí lao động xã hội cần thiết nhưng nó không có nghĩa là chi phí lao động xã hội cần thiết quyết định giá cả thị trường. Giá cả thị trường phụ thuộc vào các yếu tố sau: - Chi phí lao động xã hội cần thiết. - Giá trị đồng tiền. - Quan hệ cung cầu - Tình hình cạnh tranh. Thị trường dùng giá cả để điều tiết cầu của người tiêu dùng với cung của kỹ thuật sản xuất xã hội. Giá cả là "hàn thử biểu" duy nhất giữa cung với cầu hàng hoá, sự vận động của giá cả trên thị trường trực tiếp phụ thuộc vào tình trạng và diễn biến của quan hệ cầu. Nói khác đi mối quan hệ cung cầu hàng hoá là nhân tố trực tiếp sau cùng quyết định mức xu thế vận động của giá cả thị trường. Nếu cung lớn hơn cầu trên phạm vi tổng thể hàng hoá và của từng loại hàng hoá thì giá cả có xu hướng giảm xuống, sức mua của tiền tệ tăng, nhu cầu có khả năng thanh toán được mở rộng. Nếu cung nhỏ hơn cầu thì xu thế tất yếu nảy sinh tăng lên của giá cả. Cung của hàng hoá nói chung và của từng loại hàng hoá tăng nhanh. Mối liên hệ căn bản bền vững lặp đi lặp lại không ngừng của cung và cầu dẫn đến quy luật cung cầu là quy luật kinh tế của lưu thông hàng hoá của thị trường cung cầu. Cầu và cung vận động ngược chiều nhau do tác động của sự thay đổi giá cả. + Cầu và giá cả vận động ngược chiều nhau. + Cung và giá cả thị trường vận động cùng chiều nhau. Ta biểu diễn cung - cầu với mối quan hệ đến giá cả như sau: S D P D D- đường cầu S S - Đường cung Po - giá cân bằng cung cầu 0 S Q D Sự vận hành của thị trường thông qua giá cả lại bao hàm những thông tin cần thiết cho các doanh nghiệp cho quá trình tái sản xuất xã hội về quan hệ cung cầu và về khối lượng cơ cấu hàng hoá trên thị trường. Trên thị trường sự cân đối cần thiết giữa cung và cầu luôn bị vi phạm. Kinh tế thị trường buộc người sản xuất người buôn bán phải năng động ứng xử kịp thời với những tình huống của thị trường. Trong ki nh doanh việc phân hoá giá là chính sách rất lớn và là chiến lược trong kinh doanh. Ta xác định giá của sản phẩm làm nhiều cấp loại 1-2-3... đối với mỗi sản phẩm có độ nhu cầu co giãn khác nhau giá hạ lượng tiêu thụ càng lớn, giá cao thì tiêu thụ ít. Như vậy giá cả thị trường là phạm trù trung tâm của thị trường là bàn tay vô hình điều tiết nền sản xuất xã hội và kích thích nền sản xuất thông qua giá cả thị trường. Thị trường thực hiện chức năng điều tiết và kích thích của mình cung cầu là phạm trù kinh tế lớn nhất bao trùm thị trường. Quan hệ cung cầu trên thị trường là yếu tố quan trọng nhất và trực tiếp quyết định giá cả thị trường. d) Cạnh tranh: Đó là sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường, nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình. Có 3 dạng cạnh tranh: cạnh tranh giữa những người bán với nhau, cạnh tranh giữa những người mua với nhau, cạnh tranh giữa người mua và người bán. Trong cơ chế thị trường cạnh tranh là bất khả kháng. Và cạnh tranh có 4 chức năng sau: + Cạnh tranh làm cho giá cả hàng hoá dịch vụ giảm xuống. + Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải tối ưu hoá các yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh. + Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải không ngừng áp dụng kỹ thuật mới, công nghệ tiến bộ. + Cạnh tranh là công cụ tước quyền thống trị về mặt kinh tế trong lịch sử. Cạnh tranh được xét ở nhiều khía cạnh: cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh không hoàn hảo, cạnh tranh tự do, cạnh tranh thuần tuý, cạnh tranh phi giá cả, cạnh tranh mang tính chất độc quyền, cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh. Bốn nhân tố trên có quan hệ mật thiết với nhau như là bốn khâu trong một guồng máy. Giá cả là nhân tố của thị trường, cung cầu là trung tâm và cạnh tranh là linh hồn, là sức sống của thị trường. 3. Bản chất của cơ chế thị trường Kinh tế thị trường là kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà ở đó quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm, phân chia lợi ích, thiết lập các quan hệ kinh tế do các quy luật của thị trường có điều tiết chi phối. Về cơ bản, cơ chế thị trường là cơ chế giá cả tự do mà nó có đặc trưng cơ bản sau: + Việc phân bố sử dụng các nguồn tài nguyên là khan hiếm như: lao động, vốn, tài nguyên, thiên nhiên... cơ bản được quyết định một cách khách quan, thông qua sự hoạt động của các quy luật kinh tế, đặc biệt là qui luật cung cầu. + Tất cả các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế đều được tiền tệ hóa. + Tự do lựa chọn sản xuất kinh doanh và tiêu dùng từ phía các nhà sản xuất và những người tiêu dùng thông qua các mối quan hệ kinh tế. + Động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và lợi ích kinh tế được biểu hiện tập trung ở mức lợi nhuận. + Thông qua sự hoạt động của các qui luật kinh tế, đặc biệt là sự linh hoạt của hệ thống giá cả, nền kinh tế thị trường luôn duy trì được cân bằng giữa sức cung và sức cầu của tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ ít gây ra được sự thiếu thốn và khan hiếm hàng hoá. + Cạnh tranh là môi trường là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy năng suất lao động và tăng hiệu quả của sản xuất. Tuy nhiên cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường thường dẫn tới hai khuynh hướng đều nguy hiểm: độc quyền và phá sản. + Kinh tế thị trường luôn tạo ra cơ hội cho mọi người sáng tạo, tìm cách cải tiến lề lối làm việc có hiệu quả hơn. + Kinh tế thị trường chỉ chú ý đến nhu cầu có khả năng thanh toán chứ không phải nhu cầu nói chung. + Ngoài ra nảy sinh khuynh hướng xã hội thị trường. Chạy theo nếp sống tiêu sài mà không chú ý mức tới y tế giáo dục. Kinh tế thị trường bất lực. Trước các hậu quả do nó gây ra như: ô nhiễm, môi trường, phá hoại môi sinh, tệ nạn xã hội. Mặc nhiên cơ chế thị trường ngày nay đã đưa người tiêu dùng lên vị trí hàng đầu. Nhờ sự phát triển của lực lượng sản xuất mới và nảy nở các nhu cầu mới, đa dạng. Cơ chế thị trường có xu hướng thoả mãn nhu cầu không ngừng biến đổi của các nhóm dân cư sao cho phù hợp với lối sống văn hoá của họ, thay cho nguyên tắc sản xuất và cung ứng hàng loạt bất chấp nhu cầu. Nhà doanh nghiệp trong cơ chế thị trường đóng vai trò trung tâm. Doanh nghiệp thương mại là đầu mối là trung gian, là cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng. II. CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG CÓ SỰ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Thực tế cho thấy kinh tế tự nhiên đã từng tồn tại qua các phương thức sản xuất khác nhau. Nó không phát sinh cùng với nền sản xuất hàng hoá, mà nó được hình thành sau đó khi nền sản xuất hàng hoá phát triển với qui mô toàn xã hội, đã đạt được dưới phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã biến nền kinh tế cơ bản thành nền kinh tế thị trường. Sự xuất hiện nền kinh tế thị trường là một bước nhảy vọt của nền kinh tế hàng hoá. Có nhiều người cho rằng kinh tế thị trường ở chủ nghĩa tư bản có 2 đặc tính là cạnh tranh và xã hội hoá. Họ còn nêu ra rằng kinh tế thị trường ở chủ nghĩa tư bản có một số khuyết tật như hối lộ, tham nhũng... Những nhận thức đó đã làm cho chúng ta hiểu không đúng về bản chất và đặc điểm của nền kinh tế thị trường nói chung. Có thể khẳng định rằng , kinh tế thị trường ở thời điểm nào cũng gắn liền với cạnh tranh cũng gây ra hối lộ và tham nhũng. Tuy nhiên ở mỗi phương thức sản xuất khác nhau thì mức độ đó được biểu hiện ở các mức độ khác nhau. Ta có thể nói cạnh tranh là qui luật của kinh tế thị trường nhưng chỉ ở chủ nghĩa tư bản mới thể hiện một cách gay gắt, ác liệt đến mức tàn bào. Mặt khác xã hội hoá sản xuất không phải là đặc điểm riêng của chủ nghĩa tư bản. Hơn thế nữa đến các phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa đích thực thì sự phát triển của lực lượng sản xuất ở chủ nghĩa xã hội còn cao hơn nhiều trình độ xã hội hoá ở chủ nghĩa tư bản. Do nền kinh tế thị trường tồn tại qua nhiều phương thức sản xuất khác nhau cho nên sự vận dụng và quản lý nó trong môi trường XHCN trước hết chúng ta phải bản chất của kinh tế thị trường. Trước kia người ta hay nói đến việc quản lý nền kinh tế dưới hình thức trực tiếp bằng các mệnh lệnh, kế hoạch cứng nhắc thì ngày nay lại điều tiết nền kinh tế (hay quản lý nền kinh tế) gián tiếp thông qua các công cụ kinh tế đó là các chính sách của Nhà nước như chính sách tài chính tín dụng, chính sách giá cả. Ở nước ta hiện nay các nhà kinh tế đang nói về nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước định hướng đi lên XHCN. Đây là vấn đề hết sức mới mẻ và có nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên có thể khẳng định: ở mỗi nước khác nhau thì có điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau và do vậy nền kinh tế thị trường cũng có dạng tồn tại cụ thể khác nhau. Không thể có nền kinh tế thị trường ở nước này là bản sao cho nền kinh tế thị trường ở nước khác. Và trong muôn vàn các đặc tính có thể dùng làm tiêu thức để phân biệt nền kinh tế thị trường này với nền kinh tế thị trường khác phải nói đến mục đích chính trị, xã hội mà chính phủ lựa chọn làm định hướng cho sự vận động của nền kinh tế thực chứng. Khi nền kinh tế được điều khiển đến các mục tiêu mong muốn như: công bằng và hiệu quả tăng trưởng bền vững, trong sạch môi trường và môi sinh, xã hội văn minh, xã hội chủ nghĩa. Tức là khi nền kinh tế ấy được nhận thức trên bình diện chuẩn tắc thì lúc ấy ý nghĩa chính trị xã hội của nó mới được bộc lộ ra, đồng thời lúc đó các quan hệ cung - cầu - giá cả sẽ được vận dụng để đạt đến mục tiêu kinh tế xã hội. Có thể nói nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước định hướng đi lên xã hội chủ nghĩa là vấn đề mới mẻ. Vậy nó có thể tồn tại thật không? và nó đang thể hiện như thế nào ở Việt nam? Trước hết ta phải hiểu điều đó theo sự phân tích khoa học. 1. Bản chất của chủ nghĩa xã hội: Có nhiều ý kiến hiểu về chủ nghĩa xã hội, điều đó cũng không ngạc nhiên vì cùng một đối tượng nghiên cứu các nhà khoa học có thể tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Xã hội chủ nghĩa là một ý tưởng, một khát vọng của nhân dân về một xã hội tự do bình đẳng , bác ái, giàu có và phồn vinh. Hay xã hội chủ nghĩa là một hình thái kinh tế xã hội xét từ góc độ của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Như vậy nếu ta tuân thủ theo nguyên tắc logic được rút ra từ các cách hiểu trên thì có thể nói rằng :" Xã hội chủ nghĩa là định hướng chính trị xã hội của nền kinh tế xét từ góc độ kinh tế." 2. Bản chất của cơ chế quản lý kinh tế. Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển theo một khuynh hướng mong muốn khi có một cơ chế phù hợp. Cơ chế đó một mặt tuân thủ theo qui luật kinh tế khách quan, mặt khác phải có được một hệ thống các công cụ và chính sách quản lý kinh tế phù hợp. Vậy ta có khái niệm là: "Cơ chế quản lý kinh tế là khái niệm dùng để chỉ phương thức mà qua đó chính phủ (nhà nước) tác động vào nền kinh tế để định hướng nền kinh tế tự vận động đến mục tiêu đã định" . Từ khái niệm này ta thấy nó bao hàm các điểm sau: + Cơ chế kinh tế là phuơng thức tự vận động của nền kinh tế, là biểu tượng của nhân tố khách quan. + Cơ chế quản lý kinh tế là phương thức tác động của nhà nước nhằm định hướng kinh tế: đó là nhân tố chủ quan. + Nhà nước tác động vào nền kinh tế thông qua cơ chế kinh tế chứ không tác động trực tiếp vào nền kinh tế. Do đó nếu như các luận cứ trên đây là đúng thì sự xuất hiện của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước định hướng lên xã hội chủ nghĩa là hoàn toàn logic và có thể phát triển như sau: " Nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước định hướng lên xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận động theo cơ chế hỗn hợp và được định hướng bởi lí tưởng của chủ nghĩa xã hội" Đương nhiên có thể có nhiều nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (hiện nay có hai kiểu ở Việt nam và Trung quốc) trong trường hợp đó các nhà khoa học sẽ phải tìm hiểu các tiêu thức để phân biệt sự khác nhau giữa hai nền kinh tế này. Ở nước ta hiện nay nền kinh tế chưa được hình thành đầy đủ mà chỉ đang trong quá trình ra đời. Trong sự nghiệp đổi mới nhân dân ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Kinh tế có tốc độ tăng trưởng khá và liên tục đẩy lùi được lạm phát, tăng được kim ngạch xuất khẩu, bắt đầu có tính hữu nội bộ. Tuy nhiên nền kinh tế nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp bé nhỏ, cơ sở hạ tầng kém phát triển, khả năng kìm hãm lạm phát chưa vững chắc, hệ thống ngân hàng tài chính - tiền tệ chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước. Mặt khác ta lại thấy nền kinh tế thị trường nói chung không tồn tại một cách độc lập, mà vận động trong phương thức sản xuất nhất định chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa xã hội (hoặc cái này hoặc cái kia). Với chủ nghĩa xã hội nền kinh tế thị trường vận hành trong điều kiện lịch sử mới là: có những nước XHCN và các hình thức sở hữu đa dạng, trong đó quốc doanh đóng vai trò chủ đạo. Hiện nay ở nước ta đã và đang giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong việc hình thành nền kinh tế thị trường định hướng lên xã hội chủ nghĩa. Vì nền kinh tế thị trường nếu tự vận động theo quy luật của chính nó thì một mặt thúc đẩy khoa học và công nghệ phát triển nhưng mặt khác nó cũng gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho một nền kinh tế ( như khủng hoảng kinh tế). Sự tàn phá môi trường, môi sinh, sự phân hoá dân cư thành các tầng lớp có thu nhập khác nhau, sự mất thăng bằng giữa người giầu, người nghèo, giữa những người có điều kiện thuận lợi với người ít có điều kiện. Do vậy muốn điều khiển được nền kinh tế vận động đến các mục tiêu mong muốn phải nhận thức được trạng thái của nền kinh tế thông qua cơ chế quản lý. Trước hết là một hệ thống chính sách phù hợp, Nhà nước có thể điều tiết một số lĩnh vực kinh tế chủ yếu sử dụng đòn bẩy kinh tế chủ yếu như giá cả "bàn tay vô hình" thuế và "bàn tay hữu hinh" ( vai trò của nhà nước) để đảm bảo sự phát triển của nền kinh tế thực hiện tốt những kế hoạch và chiến lược mục tiêu kinh tế xã hội. B- QUÁ TRÌNH KINH DOANH THƯƠNG MẠI I. KHÁI NIỆM DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI 1. Khái niệm doanh nghiệp thương mại Thương mại hình thành và phát triển dựa trên cơ sở của sự phát triển lực lượng sản xuất đến mức sản xuất xã hội trở thành sản xuất hàng hoá mà sản xuất hàng hoá là tiền đề của thương mại. Sản xuất ra hàng hoá là sản xuất ra sản phẩm để bán, để trao đổi. Từ đó có thể nói: " Kinh doanh thương mại là dùng tiền của, công sức vào việc buôn bán hàng hoá nhằm mục đích biến lợi". " Doanh nghiệp thương mại là các đơn vị kinh doanh ( Tổng công ty, công ty, xí nghiệp) với hệ thống kho tàng, bến bãi, trạm, cửa hàng của mình để thực hiện chức năng mua bán hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp thương mại thực chất là doanh nghiệp lưu thông hàng hoá và dịch vụ". 2. Vấn đề cơ bản của doanh nghiệp thương mại: Để có hàng hoá doanh nghiệp thương mại phải quan hệ với doanh nghiệp sản xuất (công nghiệp, nông nghiệp...) và nhập khẩu. Mặt khác để bán được hàng hoá các doanh nghiệp phải quan hệ với các khách hàng của mình. Khách hàng mua hàng hoá với mục đích giá trị sử dụng của hàng hoá. Họ chỉ có thể thoả mãn khi hàng hoá có chất lượng cao, (chất lượng tốt) số lượng đầy đủ, giao hàng nhanh chóng và thanh toán thuận tiện. Họ cũng chỉ trả tiền khi hàng hoá bán thuận tiện, được phục vụ văn minh. Đối với doanh nghiệp thương mại có ba vấn đề cơ bản luôn luôn đặt ra và doanh nghiệp luôn phải giải quyết trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh của mình. - Kinh doanh cái gì? mặt hàng nào? khối lượng bao nhiêu? cơ cấu mặt hàng như thế nào ? ở đâu thích hợp có lợi và lâu dài? - Kinh doanh bằng cách nào? Đây là vấn đề thuộc về phương pháp, biện pháp, nghệ thuật tiến hành kinh doanh để sử dụng nguồn vốn ban đầu là ít ỏi, kết hợp với sử dụng lao động trong doanh nghiệp ra sao cho có lợi nhất để thực hiện các mục tiêu của kinh doanh. - Bán hàng cho ai? Tức là hàng hoá sản xuất ra đáp ứng nhu cầu cho khách hàng nào, ở đâu, khối lượng, cơ cấu hàng hoá và thời gian cần phải có hàng hoá để bán ra. Doanh nghiệp kinh doanh cần phải biết được mục tiêu của khách hàng, đó là công dụng của hàng hoá để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng. Doanh nghiệp thương mại chỉ có thể bán được hàng hoá khi hàng của mình đáp ứng được đòi hỏi khachs hàng về mẫu mã chất lượng, số lượng đồng bộ kịp thời và ở những địa điểm thuận lợi đối với khách hàng. Mặt khác với giá cả hàng bán phải được khách hàng chấp nhận với những dịch vụ phục vụ khách hàng cả trước và sau khi bán một cách kịp thời văn minh có tác dụng thu hút được khách hàng đến với doanh nghiệp ngày càng đông. Phải quan niệm khách chính là sống để tồn tại và phát triển doanh nghiệp. Đáp ứng đầy đủ kịp thời nhất nhu cầu hàng hoá cho khách hàng là một phương tiện quan trọng nhất để đạt được mục đích của doanh nghiệp. II. QUÁ TRÌNH KINH DOANH THƯƠNG MAI: 1. Kinh doanh và các quy luật cần chú ý trong kinh doanh: Kinh doanh là việc thực hiện tốt một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích thu lợi nhuận. Trong kinh doanh các doanh nghiệp cần chú lý các qui luật sau: a. Qui luật cạnh tranh: Quy luật này đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn vươn lên, giật lấy toàn bộ hoặc một phần nào đấy của thị trường để tồn tại, tăng trưởng và phát triển. Quá trình cạnh tranh thường được sử dụng tổng hợp bằng nhiều thủ đoạn: bằng công nghệ, bằng qui luật hành chính, quân sự, bằng các yếu tố bất ngờ, bằng các thủ đoạn ma giáo, bằng việc làm liên kết , liên doanh hay bằng yếu tố trường vốn, chấp nhận chịu lỗ ở giai đoạn này để lãi ở giai đoạn khác. b. Quy luật tăng lợi nhuận: Quy luật này là bằng các giải pháp kỹ thuật, quản lý và giá cả, các giải pháp đổi mới kỹ thuật đã được sử dụng phổ cập trong cạnh tranh, còn các phương pháp quản lý là nhằm loại bỏ các sở hở, yếu kém trong quá trình tổ chức và vận hành, nhờ đó doanh nghiệp có thể hạ giá thành. Các giải pháp về giá là các giải pháp nhằm đa dạng hóa giá bán (bán lẻ, bán buôn trả tiền một lúc, bán buôn trả tiền sau, tăng giá bán buôn trong khuôn khổ được thị trường chấp nhận để thu được mức lợi nhuận cho mỗi chu kỳ kinh doanh là lớn nhất. c. Quy luật kích thích sức mua: Đó là các biện pháp tăng cường hoạt động siêu thị để nâng cao sức mua của khách hàng hoặc sử dụng biện pháp ngừng bán hoặc bán nhỏ giọt trong một thời gian ngắn để gây ấn tượng thiếu hàng thiếu khách hàng phải có tư tưởng dự trữ. d. Qui luật cung - cầu - giá cả Qui luật cung cầu không tồn tại độc lập riêng rẽ mà thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau trên cùng một thời gian cụ thể. Trong thị trường quan hệ cung cầu là quan hệ bản chất, thường xuyên lặp đi lặp lại, khi tăng, khi giảm tạo thành qui luật trên thị trường. Khi cung - cầu gặp nhau giá cả thị trường được xác lập , đó là mức giá cả bình quân không đứng yên mà nó luôn luôn giao động trước sự tác động của lực cung và lực cầu trên thị trường. Sự thay đổi này là do rất nhiều nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp tác động đến cầu, đến cung cũng như kỳ vọng của người sản xuất, người kinh doanh và cả của khách hàng. Điều này đòi hỏi chủ doanh nghiệp phải nắm được các nhược điểm cân bằng kinh tế đã có đối sách kinh doanh thích hợp. e. Qui luật người mua: Khi một người mua một sản phẩm nào đó cho mình thì đó là sản phẩm phù hợp với trí tưởng tượng của họ. Do vậy mà chỉ bán cái mà thị trường cần hơn là bán cái mà thị trường có. Người mua luôn quan tâm đòi hỏi người bán phải quan tâm đến lợi ích của họ, phải có trách nhiệm với họ cả sau khi bán. Tức là trong kinh doanh phải giữ chữ "tín". f. Qui luật giá trị: Qui luật giá trị yêu cầu sản xuất và lưu thông hàng hoá phải đưa trên cơ sở giá trị lao động xã hội cần thiết trung bình để sản xuất và lưu thông hàng hoá vào trao đổi ngang giá. Việc tính toán chi phí lưu thông và sản xuất bằng giá trị bởi đòi hỏi của thị trường của xã hội là với nguồn lực có hạn phải sản xuất bao nhiêu của cải vật chất cho xã hội là nhiều nhất. Hay là chi phí cho một đơn vị sản phẩm là ít nhất với điều kiện sản xuất ra sản phẩm chất lượng nhất. Đây là điều kiện buộc nhà sản xuất, nhà kinh doanh phải biết tiết kiệm chi phí, phải không ngừng cải tiến kỹ thuật công nghê, đổi mới sản phẩm đổi mới kinh doanh dịch vụ để thoả mãn tốt nhu cầu khách hàng để bán được nhiều hàng hoá dịch vụ. 2. Các quá trình của hoạt động kinh doanh thương mại: Kinh doanh thương mại là việc đầu tư tiền của vào công sức để mua bán hàng hoá để kiếm lời. Trong kinh doanh thương mại có thể chia ra làm 4 quá trình sau mà nhà doanh nghiệp cần phải biết. a. Nghiên cứu và dự báo thị trường: Thị trường hàng hoá là tổng hợp các mối quan hệ mua bán trao đổi tiêu thụ hàng hoá bằng tiền. Thêm thị trường hàng hoá thường có các y._.ếu tố: hàng - tiền - người mua - người bán tham gia vào hoạt động. Trong đó người mua, người bán cạnh tranh nhau hình thành nên giá cả thị trường. Việc nghiên cứu thị trường là một xuất phát điểm của các kế hoạch chính sách kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại. Bất kỳ loại doanh nghiệp nào kinh doanh loại hàng hoá nào đi nữa cũng phải nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường là việc làm cần thiết đầu tiên đối với mỗi doanh nghiệp khi bắt đầu kinh doanh, đang kinh doanh hay muốn mở rộng kinh doanh. Mục đích của việc nghiên cứu thị trường là nghiên cứu xác định khả năng tiêu thụ loại mặt hàng trên địa bàn xác định, trên cơ sở đó nâng cao khả năng cung cấp thoả mãn nhu cầu thị trường. * Nội dung nghiên cứu thị trường: Nghiên cứu thị trường gồm có: nghiên cứu khái quát và nghiên cứu chi tiết. - Nghiên cứu khái quát thị trường bao gồm các bước sau: Bước 1: Nghiên cứu qui mô thị trường hàng hoá phải tìm được một số lượng người tiêu dùng, tổng số lượng và cơ cấu của hàng hoá tiêu thụ trên thị trường trong từng khoảng thời gian, doanh số tiêu thụ của doanh nghiệp kỳ trước và của doanh nghiệp kinh doanh cùng loại mặt hàng. Nghiên cứu cơ cấu thị trường về mặt địa lý là nghiên cứu tìm thị trường chính, thị trường phụ, thị trường mới, nghiên cứu cơ cấu của hàng hoá , những chủng loại hay danh điểm mặt hàng cụ thể về khả năng tiêu thụ của từng đối tượng khách hàng, từng khu vực bán hàng và từng thời gian nghiên cứu sự vận động của thị trường hàng hoá, tính chất của loại hàng. Đặc biệt là tính chất kỹ thuật sử dụng, sử dụng lần đầu, sử dụng bổ sung hay sử dụng thay thế. Bước 2: Nghiên cứu các nhân tố của môi trường sản phẩm hàng hoá như môi trường kinh tế, pháp luật, công nghệ. Và các nhân tố khác như dân cư, văn hoá, xã hội, tập quán truyền thống , tâm lý... Đây là những nhân tố môi trường nhưng có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tiêu thụ hàng trong từng thời gian. Khi nắm vững được các nhân tố này thì có kế hoạch thích ứng phát triển doanh nghiệp và đề ra các chính sách như chính sách phân phối, giá cả, quảng cáo... để đẩy mạnh khả năng tiêu thụ. - Nội dung của nghiên cứu chi tiết thị trường: là nghiên cứu từng loại hàng hoá cụ thể và khả năng thay thế hàng hoá. Nghiên cứu chi tiết phải trả lời các câu hỏi: ai là đối tượng mua? Mua bao nhiêu? Cơ cấu loại hàng? Mua ở đâu? Mua dùng làm gì? Sở thích, thị hiếu, lứa tuổi, nghề nghiệp, trình độ nghề nghiệp, trình độ văn hoá, thói quen của dân cư như thế nào?... Trong điều kiện kinh tế thị trường cũng cần phải nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, tức là các đơn vị kinh doanh cùng loại mặt hàng và phương pháp đáp ứng nhu cầu khách hàng của họ. * Phương pháp nghiên cứu thị trường Trong doanh nghiệp thương mại người ta thường dùng phương pháp nghiên cứu thị trường qua các bước : Bước 1: Giai đoạn thu thập thông tin Giai đoạn này người ta thường dùng phương pháp nghiên cứu tài liệu hay còn gọi là nghiên cứu tại bàn. Đó là cách thu thập thông tin qua sách báo, bản tin kinh tế, báo chí quảng cáo, tạp chí thương mại, niên giám thống kê, và các ấn phẩm có liên quan đến loại mặt hàng mà doanh nghiệp có kinh doanh. Đó là khả năng tiêu thụ mặt hàng của khách hàng, khả năng cung cấp nguồn hàng. Nghiên cứu tại bàn cũng có thể nghiên cứu những tài liệu ở chính bản thân doanh nghiệp nếu như đã có những tài liệu liên quan đến việc mua bán các mặt hàng cần nghiên cứu. Nghiên cứu tại bàn cho phép ta nhìn được khái quát thị trường mặt hàng ta cần nghiên cứu. Để tiếp tục đi sâu thu thập thông tin người ta cần dùng phương pháp nghiên cứu hiện trường. Nghiên cứu hiện trường có thể bằng cách thông qua những khách hàng như tham quan, điều tra trọng điểm, đặt các câu hỏi để điều tra, phỏng vấn theo phiếu điều tra, hội nghị khách hàng, hội chợ Triển lãm. Nghiên cứu hiện trường cũng có thể nghiên cứu tại ngay bản thân doanh nghiệp. Ở các kho, trạm, cửa hàng quầy. Thông qua việc tiếp xúc hàng ngày với khách hàng, nhân viên bán hàng, các phụ trách quầy hàng, cửa hàng có các thông tin khác cụ thể, đa dạng hơn về khách hàng mà doanh nghiệp cần biết. Bước 2: Giai đoạn xử lý thông tin Xử lý thông tin là tiến hành tổng hợp, phân loại phân tích, kiểm tra để xác định tính chính xác của các thông tin riêng lẻ. Loại trừ các thông tin nhiễm để xác định được thị trường mục tiêu các kế hoạch và chính sách cũng như biện pháp để tiến hành kinh doanh mở rộng, khuyếch trương các loại hàng ở giai đoạn bão hoà. Bước 3: Giai đoạn ra quyết định Việc xử lý các thông tin cũng chính là lựa chọn để ra những quyết định. Tuy nhiên các quyết định của doanh nghiệp phải được quán triệt đến từng bộ phận cụ thể thực hiện. Các quyết định trước khi thực hiện phải được dự tính các mặt hàng thuận lợi, cũng có khó khăn. Phải có các biện pháp để phát huy các thuận lợi, đồng thời có các biện pháp cụ thể khắc phục khó khăn ở hững nơi thực hiện để quyết định được chấp hành nghiêm chỉnh. * Dự báo thị trường ở doanh nghiệp thương mại Việc nghiên cứu thị trường nhằm để dự báo thị trường hàng hoá phục vụ cho kinh doanh. Đối tượng và phạm vi dự báo thị trường gồm thị trường nguồn hàng và thị trường bán hàng. Thị trường nguồn hàng là nguồn hàng mà doanh nghiệp có khả năng mua trong kỳ thị trường bán hàng là nhu cầu về loại hàng hoá mà khách hàng có khả năng mua trong kỳ. Xác định rõ phạm vi thị trường và vấn đề thời hanh của dự báo. Cụ thể có các phạm vi dự báo sau: - Dự báo ngắn hạn - Dự báo trung hạn - Dự báo dài hạn Phương pháp dự báo thị trường gồm nhiều hình thức khác nhau như: Phương pháp chuyên gia, điều tra, thống kê kinh nghiệm, thống kê toán, dự báo ngoại suy, phương pháp thử nghiệm. Tuỳ theo hướng thông tin của thị trường hàng hoá và đặc điểm của thị trường hàng hoá mà muốn nhấn mạnh một điều là: Dự báo vẫn chỉ là dự báo, có tính khả thi hay không là nhờ phần lớn vào cơ sở của dự báo và khả năng thực hành của doanh nghiệp. Nghiên cứu và dự báo thị trường là việc làm quan trọng của doanh nghiệp thương mại, còn quan trọng hơn các cơ quan quản lý hành chính kinh tế. Nó cho phép nắm bắt được thông tin chính xác đầy đủ kịp thời về thị trường để xác định sản xuất kinh doanh tạo một bước tiền đề cho cả quá trình kinh doanh tiếp theo. b. Quá trình tổ chức thu mua tạo nguồn hàng Trên cơ sở nắm chắc nhu cầu thị trường, các doanh nghiệp thương mại phải xác định được nguồn hàng để thoả mãn nhu cầu đó. Đối với các DNTM kinh doanh trong nền kinh tế thị trường cần tìm hiểu các nguồn sau: - Nguồn tồn kho đầu kỳ - Nguồn hàng thu gom không tập trung: Nguồn này được xác định trên cơ sở số liệu cụ thể về hàng hoá thu gom, danh mục mặt hàng giá cả. - Nguồn hàng thu gom tập trung: Nguồn này được hình thành đối với các doanh nghiệp Nhà nước. - Nguồn hàng trôi nổi: Đây là nguồn hàng mua được trên thị trường của đơn vị tiêu dùng hoặc đơn vị kinh doanh bán ra. Đối với nguồn hàng này phải xem xét kỹ lưỡng chất lượng hàng hoá, giá cả hàng hoá, cũng như nguồn gốc xuất xứ của hàng hoá. - Nguồn hàng theo mối quan hệ kinh doanh: Đó là liên doanh liên kết với đơn vị khác, nguồn hàng tự sản xuất khai thác, nguồn hàng đặt và thu mua, nguồn hàng của đơn vị cấp trên, nguồn hàng nhận đại lý, nguồn hàng ký gửi. Nguồn hàng nói chung được thể hiện ra những khả năng về vật tư có thể huy động vào quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Khả năng này thực hiện nhờ vào các hoạt động khai thác nguồn hàng của doanh nghiệp. Đó là một quá trình liên tục từ khi tìm hiểu khả năng, nghiên cứu tìm hiểu thị trường, cho đến các hợp đồng mua bán, vận chuyển, tiếp nhận... Muốn làm tốt công tác này DNTM cần thoả mãn tốt các yêu cầu sau: - Chủ động mua tạo nguồn từ trong nước - Phải lấy mục đích phục vụ bán hàng làm mục đích, phải coi đây là một mắt xích quan trọng trong phân phối và lưu thông hàng hoá. - Phải tích cực biến các nguồn hàng có khả năng hình thành nguồn hàng thực hiện. - Chấp nhận đúng đắn các chế độ chính sách của Nhà nước về quản lý kinh tế, tài chính, giá cả. - Thường xuyên theo dõi kiểm tra đánh giá tình hình về thu mua tạo nguồn hàng để tìm ra các khó khăn vướng mắc, từ đó có các biện pháp tích cực để khắc phục. Công tác thu mua tạo nguồn ở doanh nghiệp thương mại có nội dung rất lớn từ việc xác định nhu cầu đặt hàng, đến xác định thị trường mua hàng tổ chức ký hợp đồng mua hàng và thực hiện hợp đồng mua hàng. c. Khâu chuẩn bị hàng để bán. Việc chuẩn bị hàng để bán là khâu hoạt động tiếp tục của quá trình sản xuất trong khâu lưu thông (ở các kho thành phẩm). Các nghiệp vụ của việc chuẩn bị hàng hoá để bán bao gồm: - Tiếp nhận hàng mới về - Phân loại hàng hoá - Nêu nhãn hiệu sản phẩm hàng hoá - Bao gói lại hàng hoá - Sắp xếp hàng hoá ở kho - Bảo quản hàng hoá - Chuẩn bị đồng bộ các lô hàng - Vận chuyển hàng đến địa điểm theo yêu cầu của khách hàng Như vậy khâu chuẩn bị hàng hoá là cả một quá trình hoạt động dài đòi hỏi các DNTM phải thường xuyên quan tâm. Nếu làm tốt khâu này sẽ cho phép DNTM bán hàng có chất lượng cao, đảm bảo nhu cầu của khách hàng, gây được chữ tín trong kinh doanh. Để thực hiện tốt quá trình này, đòi hỏi DNTM không lao động trực tiếp ở kho hàng mà còn phải tổ chức tốt công tác nghiên cứu thị trường, nghiên cứu nhu cầu mặt hàng về các sản phẩm của doanh nghiệp. Mặt khác khâu chuẩn bị hàng tốt thì sẽ tạo ra khả năng xuất bán nhanh, tránh phải để khách chờ khi giao nhận, giải phóng nhanh mặt hàng bằng cho phép thực hiện tiết kiệm diện tích chống hao hụt lớn khi thực hiện dự trữ trong kho. d. Quá trình tổ chức bán hàng Bán hàng ra là khâu cuối cùng, trực tiếp thực hiện chức năng lưu thông, phục vụ sản xuất và đời sống, là nghiệp vụ cơ bản thực hiện mục đích kinh doanh là lợi nhuận và các qui định nghiệp vụ khác. Bán hàng là khâu có quan hệ mật thiết đối với khách hàng vì vậy ảnh hưởng đến niềm tin, uy tín và khả năng tái tạo nhu cầu của người tiêu dùng đối với doanh nghiệp, bán hàng là vũ khí sắc bén vì kết quả của bán hàng phản ánh đúng đắn mục tiêu của chiến lược kinh doanh, phản ánh kết quả (hiệu quả) và sự cố gắng nỗ lực của doanh nghiệp trên thị trường. Bán hàng là thực hiện trao đổi giá trị của hàng hoá và chuyển giao quyền sở hữu vì vậy các doanh nghiệp thương mại phục vụ nhu cầu sản xuất, tiêu dùng trong nước hay xuất khẩu. Muốn tồn tại và phát triển phải thực hiện thật tốt quá trình bán hàng. Bán hàng là một trong những hoạt động thương mại chủ yếu nhất ở DNTM Tóm lại: Nghiệp vụ bán hàng ở doanh nghiệp thương mại là quá trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá với từng khách hàng hoặc là đáp ứng tức thời yêu cầu của người mua ở cửa hàng hay quầy hàng thuận tiện. Muốn bán hàng được DNTM phải thực hiện cho được các phương thức biện pháp hay nghệ thuật sau: - Nghiên cứu nhu cầu của thị trường và sản phẩm định bán. Đó là xác định nhu cầu về số lượng, chất lượng mặt hàng và thời gian mà thị trường đòi hỏi. - Xác định các hình thức phân phối vật tư trên thị trường một cách hợp lý. Xác định kênh bán hàng và các hình thức bán hàng. - Phân phối hàng hoá theo các kênh khác nhau Xác định giá bán phù hợp với từng thị trường trên cơ sở hạch toán kinh doanh, đủ chi phí và có lãi, đảm bảo kinh doanh được phát triển. - Tổ chức quảng cáo và xúc tiến bán hàng cũng như các hình thức tiếp cận thị trường. - Tổ chức thực hiện các nghiệp vụ bán hàng ở cửa hàng, quầy hàng văn minh lịch sự, tạo sự thuận lợi cho khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường, các tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng của công tác bán hàng là: lượng hàng bán được trong kỳ. Ngoài ra, các nhân viên bán hàng là yếu tố, là lực lượng quan trọng để thực hiện mục tiêu, phương án kinh doanh của doanh nghiệp thương mại. Và tuỳ theo từng ngành nghề kinh doanh, hình thức phương tiện mua bán mà đề ra các yêu cầu khác nhau đối với nhân viên bán hàng. e. Các hoạt động kinh doanh của DNTM Kinh doanh thương mại trong nền kinh tế thị trường không phải là kỹ thuật nghiệp vụ mà coi như một nghệ thuật. Để đạt được mục đích trong kinh doanh (tức là thu được lợi nhuận tối ưu) các DNTM phải tạo ra các hoạt động kinh doanh phù hợp với khả năng của doanh nghiệp và đảm bảo kinh doanh theo pháp luật Nhà nước. Các hoạt động kinh doanh ở doanh nghiệp thương mại được chia làm hai loại: Kinh doanh hàng hoá và kinh doanh dịch vụ. III/ KINH DOANH HÀNG HOÁ 1. Mục tiêu kinh doanh Như trên đã nêu ra kinh doanh là việc thực hiện một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đâù tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Hay nói một cách khác là khi tiến hành kinh doanh đó là tiến hành tập hợp các phương tiện và con người (sức lao động) và đưa vào hoạt động để tạo ra tiền cho các doanh nghiệp. Như vậy mục đích của kinh doanh là tạo ra lợi nhuận. Đối với doanh nghiệp lợi nhuận được tạo ra khi số tiền thu được trong kinh doanh (doanh thu) phải lớn hơn số tiền mà doanh nghiệp bỏ ra(chi phí kinh doanh) Lợi nhuận = Tiền bán ra - Tiền chi phí Đối với doanh nghiệp thương mại thì hoạt động kinh doanh thương mại là việc đầu tư tư tiền của và công sức để mua bán hàng hoá và dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi. Mà trong đó mua hàng hoá không phải để tiêu dùng đơn thuần mà phải để bán. Phải bán được thì mới mua và phải bán được mới có lợi nhuận. 2. Chi phí trong kinh doanh Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp phải đối mặt với cạnh tranh, muốn thắng trong cạnh tranh một vấn đề quan trọng mà bất kỳ doanh nghiệp nào thuộc thành phần kinh tế nào cũng phải quan tâm đó là chi phí sản xuất kinh doanh. Nếu giảm một đồng chi phí nghĩa là tăng một đồng lợi nhuận. Hơn nữa ở các doanh nghiệp mức độ sản xuất và tiêu thụ một loại hàng hoá nào đó tuỳ theo chi phí và giá bán hàng hoá đó. Đối với các DNTM chi phí kinh doanh bao gồm: chi phí cho việc mua hàng và vận chuyển hàng hoá, chi phí bảo quản hàng hoá, chi phí hao hụt và chi phí quản lý... Theo tính chất của chi phí ta có chi ra thành các loại chi phí sau: a. Tổng chi phí cố định (TFC): đây là những khoản chi cố định sẽ không thay đổi khi có sự tăng lên hay giảm xuống của số lượng hàng hoá dịch vụ bán ra. Đó là các khoản chi cho việc thuê đất đai, tiền khấu hao cho cơ sở máy móc, chi phí làm thủ tục mua bán, chi phí quản lý. Đường biểu diễn tổng chi phí cố định là đường song song với trục hoành. b. Tổng chi phí biến đổi (TVC): đây là tất cả các khoản chi phí cùng tăng lên hay giảm xuống theo sự tăng lên hay giảm xuống của một số lượng hàng hoá dịch vụ bán ra. Đó là chi phí mua và vận chuyển hàng, chi phí bảo quản, chi phí phân loại, chi phí đóng gói hàng hoá. Đường biểu diễn tổng chi phí biến đổi cho thấy sự gia tăng những đầu vào biến đổi làm cho những chi phí biến đổi cũng gia tăng và do thế cũng làm cho lượng hàng hoá dịch vụ gia tăng. Việc tăng tổng chi phí biến đổi thường đưa tới sự tăng lên tối đa của hàng hoá và dịch vụ bán ra và hiệu quả sử dụng các đầu vào biến đổi cũng đạt được sớm hơn sự đạt của sản lượng tối đa. c. Tổng chi phí kinh doanh (TC): Đây là tổng cộng của hai loại chi phí cố định và chi phí biến đổi tương ứng với mỗi loại mức sản lượng. TC = TFC + TVC Đường biểu diễn tổng chi phí có dạng như đường biểu diễn chi phí biến đổi vì mỗi sự gia tăng của hàng hoá ra làm tổng chi phí biến đổi và tổng chi phí với cùng mức độ như nhau. 3. Doanh thu Doanh thu là số tiền được hình thành từ các hoạt động bán hàng hoá và các hoạt động nghiệp vụ. Ngoài ra doanh thu còn được hình thành trong các trường hợp mà doanh nghiệp tạo nên được từ các nguồn khác. Tổng cộng tất cả các nguồn (các loại tiền) mà doanh nghiệp thu được có gọi là tổng doanh thu. Trong đó doanh thu từ các hoạt động bán hàng hoá và các hoạt động dịch vụ có thể được xác định bằng cách nhân giá với số lượng và dịch vụ bán ra. TR = P.Q Trong đó: TR : Doanh thu P : Giá cả hàng hoá dịch vụ Q : Số lượng hàng hoá dịch vụ Mặt khác ta thấy rõ ràng là tổng doanh thu của doanh nghiệp cũng bằng mức chi phí phải bỏ ra cuả người tiêu dùng khi mua hàng hoá hay dịch vụ. Như vậy để đạt được mục đích của mình, các doanh nghiệp thương mại phải các kiến thức làm tăng doanh thu, tăng lợi nhuận trong nền kinh tế quốc dân. 4. Lợi nhuận Như đã nói trên, lợi nhuận là mục tiêu kinh tế cao nhất của doanh nghiệp. Đây là chỉ tiêu chất lượng phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác có người nói lợi nhuận là phần dôi ra ngoài ra chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra. Có nghĩa là để cung cấp hàng hoá dịch vụ cho thị trường, DNTM phải bỏ tiền vốn để kinh doanh. Trong quá trình kinh doanh họ muốn rằng chi phí cho các đầu vào là ít nhất và bán được hàng hoá dịch vụ với giá cao nhất để sau khi trừ đi các khoản chi phí doanh nghiệp có được một khoản dôi dư ra không chỉ để tái sản xuất kinh doanh mà còn tái kinh doanh sản xuất mở rộng, không ngừng tích luỹ, phát triển kinh doanh, củng cố và tăng cường vị trí, uy tín của trình trên thị trường. Lợi nhuận được định nghĩa khái quát là: Số chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí. P = TR - TC Trong đó: P : Lợi nhuận TR : Doanh thu TC : Chi phí Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là một chỉ tiêu phản ánh kinh doanh kể từ lúc bắt đầu tìm kiếm nhu cầu thị trường, chuẩn bị kinh doanh, tổ chức các quá trình kinh doanh, tổ chức bán hàng hoá, dịch vụ cho thị trường. Nó phản ánh lên cả mặt lượng và mặt chất của quá trình kinh doanh. DNTM cần nắm vững các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận : Qui mô của việc kinh doanh, giá cả và chất lượng của đầu vào và phương pháp kết hợp các đầu vào, giá bán hàng hóa và dịch vụ cùng toàn bộ hoạt động nhằm đẩy nhanh quá trình tiêu thụ và thu hôì vốn, đặc biệt là hoạt động marketing và công tác tài chính của doanh nghiệp. 5. Lý thuyết về điểm hoà vốn Kinh doanh thương mại là một quá trình liên tục với các mối quan hệ kinh doanh chặt chẽ thường xuyên. Tuy nhiên với từng loại hàng hoá khi tiến hành kinh doanh, doanh nghiệp phải biến ở giai đoạn nào thì hoà vốn và sau đó có thể có lãi hay có thể biết bán được bao nhiêu hàng hoá thì doanh nghiệp đạt được hoà vốn và bao nhiều thì sẽ có lãi. Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó doanh thu hàng hoá bán ra bằng tổng chi phí kinh doanh. Nó được biểu thị bằng số lượng hàng hoá hoặc bằng giá trị hàng hoá bán được. Nếu gọi x là số lượng hàng hoá bán được tại điểm hoà vốn, y là giá trị hàng hoá bán được, f là chi phí cố định, v là phí biến đổi cho một đơn vị hàng hoá, p là giá bán một đơn vị hàng hoá. Ta có phương trình biểu diễn giá trị hàng hoá như sau: y = p. x Và phương trình về chi phí kinh doanh : TC = vx + f TC ở đây là: Tổng chi phí kinh doanh ở điểm hoà vốn thì : y = TC hay px = vx + f Thì ta có: x = f p - v Dạng đồ thị của điểm hoà vốn Lãi M vx = vc lỗ f - Fc Trong đó : M là điểm hoà vốn vì ở đó đường doanh thu cắt đường chi phí. Phía trên M là đường doanh thu nằm ngoài đường chi phí hay doanh thu lớn hơn chi phí tức là doanh nghiệp kinh doanh có lãi. Còn phía trong của M thì doanh thu nhỏ hơn chi phí hay doanh nghiệp kinh doanh đã bị lỗ. FC là đường biểu diễn chi phí ổn đinh VC là đường biểu diễn chi phí biến đổi TC là đường biểu diễn tổng chi phí kinh doanh y là đường biểu diễn doanh thu Tóm lại: Việc kinh doanh hàng hoá ở doanh nghiệp Thương mại thì chi phí k inh doanh, doanh thu, lợi nhuận có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Nếu chi phí kinh doanh không đổi (cố định tương đối) thì tối đa hoá thì tối đa hoá doanh thu thì cũng có nghĩa là tối đa hoá lợi nhuận vì: Lợi nhuận = doanh thu - tổng chi phí Nhưng để tăng doanh thu mà doanh nghiệp phải tăng cả chi phí thì lợi nhuận chưa chắc đã tăng chính vì vậy khi tiến hành kinh doanh hàng hoá. Doanh nghiệp thương mại phải giảm bớt chi phí không cần thiết đến mức tối đa thì sẽ đạt được mức lợi nhuận nhiều năm. Tuy nhiên trong dự tính ngân quỹ (ngắn hạn), DNTM có những mục tiêu doanh thu để mở rộng và khuyếch trương thị trường, để củng cố địa vị thế lực của mình trên thị trường do đó cần phải tăng chi phí. Nhưng về mục đích lâu dài vẫn là phải tối đa hoá lợi nhuận, nghĩa là phải giảm hết sức các khoản chi phí không cần thiết tăng cường mở rộng bán hàng để tăng doanh thu từ các hoạt động đó. Chương II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH Ỏ CÔNG TY THƯƠNG MẠI KHÁCH SẠN ĐỐNG ĐA NÓI CHUNG VÀ NHÀ HÀNG NÓI RIÊNG I/ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY 1. Sự hình thành và phát triển công ty Công ty thương mại và khách sạn Đống Đa Hà Nội được thành lập trên cơ sở nhập hai công ty, là công ty thương mại tổng hợp quận Đống Đa và công ty ăn uống khách sạn Đống Đa. Công ty ăn uống khách sạn Đống Đa, tiền thân là ăn uống quận Đống Đa, được thành lập từ những năm 60. Nhiệm vụ là sản xuất, kinh doanh mặt hàng ăn uống tại địa bàn quận Đống Đa nội thành Hà Nội. Thực hiện Nghị định số 388/CP, công ty đổi tên là công ty ăn uống khách sạn Đống Đa. Công ty thương mại tổng hợp quận Đống Đa tiền thân là hợp tác xã mua bán quận Đống Đa từ những năm 80. Sau đó nâng lên thành công ty thương mại tổng hợp quận Đống Đa. Nhiệm vụ kinh doanh thương mại, tổng hợp các mặt hàng. Ngày 24/04/1906, sát nhập hai công ty này thành công ty thương mại và khách sạn Đống Đa Hà Nội. Theo Quyết định số 1417/QĐ của UBND thành phố Hà Nội. Công ty thương mại và khách sạn Đống Đa là doanh nghiệp Nhà nước được xét công ty loại ba thuộc UBND quận Đống Đa. Hiện nay công ty có quan hệ thương mại với một số công ty trong và ngoài thành phố. Công ty không ngừng củng cố quan hệ về nhiều mặt nhất là cơ sở vật chất, mạng lưới, đổi mới và chuyển hướng một số mặt bằng kinh doanh để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường Hà Nội, và vươn tới các tỉnh bạn. Nhiệm vụ chính là kinh doanh hàng nội thương (bán buôn, bán lẻ) và kinh doanh dịch vụ khách sạn, nhà hàng ăn uống. 2. Chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ công ty: 1) Kinh doanh và dịch vụ khách sạn 2) Kinh doanh hàng ăn uống, công nghệ phẩm thủ công mỹ nghệ, điện máy, cơ kim khí, đồ gỗ, vải, sợi may mặc, sành sứ, vật liệu xây dựng... * Quyền hạn, nhiệm vụ của công ty: Công ty thương mại và khách sạn Đống Đa mới được hình thành và đi vào hoạt động từ tháng 6/1996, nhưng công ty đã đi ngay vào củng cố và hoạt động kinh doanh ngay từ từng bước phát triển. Công ty đã kiện toàn lại bộ máy lãnh đạo, từ lãnh đạo công ty đến phong ban và các trưởng cửa hàng trong đơn vị, theo quyền hạn của mình. Rà xét lại lực lượng lao động, sắp xếp lại tổ chức lao động về khả năng lao động, trình độ chuyên môn trong toàn công ty theo nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của từng đơn vị, của hàng. Công tác cán bộ được thực sự quan tâm, sắp xếp và giao nhiệm vụ cụ thể cho những người thực sự có năng lực, trình độ, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, nhanh nhậy nắm bắt thông tin, thị hiếu khách hàng. Triển khai những phương thức kinh doanh có hiệu quả, mang lại lợi ích kinh tế cho Nhà nước công ty, cũng như cán bộ công nhân viên chức. UBND Thành phố Hà Nội, cũng như UBND quận Đống Đa, Sở Thương mại Hà Nội, tạo điều kiện thuận lợi cho công ty hạch toán độc lập, có con dấu riêng, tài khoản riêng, có đủ tư cách pháp nhân để hoạt động. Các phòng ban đã xuống tận cửa hàng trực thuộc để xây dựng, phối hợp kinh doanh, tổ chức kinh doanh cùng ban giám đốc công ty đánh giá được tình hình hoạt động kinh doanh để đề ra được những quyết định đúng đắn chỉ đạo kinh doanh. Các cửa hàng trực thuộc vừa kinh doanh, sản xuất những mặt hàng được giao còn kết hợp tìm tòi nguồn hàng, thị hiếu tiêu dùng... Bước đầu Công ty thương mại Đống Đa thực sự hòa nhập chung vào sự chuyển mình của hệ thống thương mại dịch vụ quận và Thành phố, từng bước nắm bắt nhiệm vụ kinh doanh của mình. 3. Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động của Công ty: * Ban giám đốc: * Các phòng ban: - Phòng kinh doanh - Phòng tổ chức + hành chính - Phòng kế toán tài vụ * Các đơn vị trực thuộc: 1. Nhà hàng ăn uống Ngọc Thạch 2. Nhà hàng ăn uống Thủy Sơn Mặt hàng kinh doanh: sản xuất, kinh doanh hàng ăn uống dịch vụ karaoke. 3. Nhà hàng Nhật Hồng Mặt hàng kinh doanh: sản xuất kinh doanh hàng ăn uống 4. Nhà hàng Tây Sơn: Mặt hàng kinh doanh: sản xuất, kinh doanh hàng ăn uống, dịch vụ karaoke. 5. Khách sạn Thanh Long: Mặt hàng kinh doanh: kinh doanh nhà trọ, hàng ăn uống, dịch vụ karaoke. 6. Nhà hàng Nguyễn Trãi: Mặt hàng kinh doanh: hàng ăn uống, bán lẻ vải, vải sợi, may mặc 7. Nhà hàng Thanh Xuân Mặt hàng kinh tế: kinh doanh nhà trọ, dịch vụ du lịch, hàng ăn uống. 9. Cửa hàng công nghệ phẩm (trung tâm dịch vụ Ngã Tư Sở) Mặt hàng kinh tế: hàng công nghệ phẩm 10. Cửa hàng 254 Hàng Bột: Mặt hàng kinh doanh: điện máy, đồ gỗ 11. Văn phòng công ty: Mặt hàng kinh tế: đại lý, bán buôn, bán lẻ thuốc lá.Cửa hàng Ngã Tư Sở công nghệ phẩm Nhà hàng Tây Sơn Khách sạn Hương Sen Nhà hàng Thanh Xuân Nhà hàng Nguyễn Trãi Cửa hàng 254 Điện máy - Đồ gỗ Nhà hàng Nhật Hồng Nhà hàng Thanh Long Nhà hàng Ngọc Thạch Nhà hàng Thủy Sơn Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy công ty Phòng Kinh doanh BAN GIÁM ĐỐC Phòng Tổ chức và hành chính Phòng Kế toán - tài vụ Tổng số lao động của công ty: 210 người Trong đó: + Đại học: 22 người + Trung cấp + Thợ bậc cao: 55 người + Nhân viên và kỹ thuật khác: 133 người a) Các phòng chức năng: * Phòng kinh doanh: Nhiệm vụ của phòng làm tham mưu cho ban giám đốc công ty trong công tác tuyên truyền quảng cáo trên các tạp chí lớn, làm các ấn phẩm. Tham gia xây dựng chính sách giá, chính sách khuyến mại đối với khách hàng. Trực tiếp ký kết và đặt quan hệ với các hãng lữ hành trong và ngoài nước. Thực hiện công tác tiếp thị, kế hoạch, đầu tư, lễ tân thanh toán, bán hàng. Hoạt động của các tổ lễ tân, thanh toán, bán hàng, đều nằm dưới sự giám sát của phòng thị trường. * Phòng Tài chính - kế toán: Phòng có nhiệm vụ triển khai kế hoạch, hạch toán kinh doanh, bảo đảm tài chính, tài sản và chế độ kế toán Nhà nước. Thực hiện công tác thống kê, thu chi tiền, đáp ứng mọi yêu cầu hoạt động của công ty và khách sạn. * Phòng Hành chính - tổ chức: Phòng thực hiện chức năng hành chính tổ chức và lao động trong toàn công ty. Tham mưu cho ban giám đốc trong việc xây dựng điều lệ, ban hành các quy chế trong tạm thời về quản lý, phân phối thu nhập, kỷ luật lao động, xây dựng kế hoạch bồi dưỡng trình độ chuyên môn và nâng bậc cho cán bộ công nhân viên, giải quyết chế độ, chính sách cho người lao động, bảo vệ an ninh trật tự cho toàn công ty và khách sạn. b) Các khối trực tiếp kinh doanh: * Khối dịch vụ phòng ở: Nhiệm vụ của khối là bảo quản, giữ gìn vệ sinh và các trang thiết bị trong phòng. Thực hiện đúng quy trình nội quy đón tiễn khách. * Khối dịch vụ ăn uống: Hoạt động ở 3 bộ phận Bàn - Bar - Bếp. Nhiệm vụ của khối là thực hiện các hoạt động kinh doanh ăn uống, bán hàng, xây dựng các thực đơn. Ngoài ra khối còn nhận đặt tiệc cưới, tiệc hội nghị.. * Khối dịch vụ bổ xung: Hoạt động trên các lĩnh vực vui chơi, giải trí, nhà hàng, vườn hoa cây cảnh, giặt là. Nhiệm vụ của khối là chủ động khai thác các nguồn hàng, khách hàng ở lĩnh vực vui chơi giải trí như: Kinh doanh phòng Karaoke, bể bơi, sân tennit, trung tâm giải trí như biển v.v.. Ngoài ra công tác của tổ vườn hoa cây cảnh phải đảm bảo duy trì và tồn tại sân vườn, cây cảnh, tạo dựng một môi trường sinh thái, cảnh quan cho khách sạn, tăng thêm khả năng thu hút khách. * Khối dịch vụ bảo dưỡng sửa chữa: Khối có trách nhiệm bảo đảm cơ sở vật chất kỹ thuật cho các hoạt động của khách sạn. Thực hiện chế độ định kỳ, duy trì bảo dưỡng và vận hành máy móc thiết bị, bảo đảm sự an toàn tuyệt đối cho khách lưu trú tại khách sạn. Ngoài ra khối còn tham mưu cho ban giám đốc trong việc đề ra các quy chế, giám sát việc tiết kiệm chi phí điện - nước. Tổ chức lao động của công ty, theo hình thức Phòng - Khối - Tổ. Các khối trong khách sạn tuy mỗi bộ phận đều có nhiệm vụ riêng nhưng đều có mối quan hệ khăng khít với nhau để phục vụ tốt yêu cầu của khách như: dịch vụ ăn uống, dịch vụ lưu trú và các dịch vụ khác. Trong mô hình tổ chức quản lý trên giám đốc là người quản lý mọi hoạt động kinh doanh của khách sạn thông qua các trưởng phòng và quản đốc các khối dịch vụ, cùng với sự quản lý của giám đốc có 2 phó giám đốc trợ giúp: 1 phó giám đốc tài chính và 1 phó giám đốc nhân sự. - Phó giám đốc tài chính là người phụ trách chung về vấn đề tài chính trong toàn công ty cũng như riêng đối với khách sạn. - Phó giám đốc nhân sự phụ trách các vấn đề về tổ chức nhân sự trong khách sạn và ở cả công ty. Tuy nhiên việc ra quyết định cuối cùng vẫn thuộc quyền của giám đốc. Mô hình này là mô hình chung của khối văn phòng công ty là khách sạn bởi vì các phòng ban sẽ thực hiện nhiệm vụ đối với toàn công ty chứ không phải chỉ riêng đối với khách sạn. Còn 4 khối dịch vụ chỉ hoạt động riêng trong phạm vi khách sạn. Mỗi khối dịch vụ đều có một quản đốc và một phó quản đốc chung. Quản đốc của mỗi khối có trách nhiệm quản lý lao động và chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh trong khối của mình. Nhìn vào mô hình, có thể thấy rõ rằng Giám đốc là người quản lý trực tiếp mọi hoạt động của công ty và khách sạn, do đó khối lượng công việc của giám đốc khá nặng nề, vừa phải chịu trách nhiệm trọn vẹn công ty vừa phải chịu trách nhiệm về khách sạn, song thông tin được đưa ra nhanh chóng trực tiếp và cũng tương đối chính xác. Nếu nhìn khái quát mô hình chúng ta sẽ có nhận xét như vậy, tuy nhiên nếu đi sâu vào từng bộ phận ta sẽ thấy có một số điểm chưa hợp lý trong cách tổ chức lao động: - Thứ nhất: Công tác lễ tân và thanh toán lại thuộc phòng thị trường kế hoạch, do đó tổ lê tân và tổ thanh toán nằm dưới sự quản lý của phòng này. Như vậy phòng quá kiêm nhiệm nhiều chức năng mà đáng lẽ phải thuộc sự quản lý của một bộ phận khác mà khách sạn chưa có (bộ phận đón tiếp khách sạn). Phòng chỉ nên đảm nhận riêng về công tác Marketing trong toàn khách sạn để có thể chú tâm thực hiện cho tốt nệmmm vụ mà phòng chuyên trách. - Thứ hai: Khách hàng chưa có riêng có một bộ phận đón tiếp khách sạn, mà bộ phận đón tiếp trong khách sạn lại tập hợp các nhân viên từ tổ lễ tân, tổ thanh toán thuộc phòng kế hoạch thị trường và một số nhân viên từ tổ sảnh thuộc khối dịch vụ phòng ở. Do đó các nhân viên trong bộ phận chịu sự quản lý rời rạc từ 2 phía (khối và phòng) có chức năng hoàn toàn khác nhau. Điều này dễ gây rắc rối trong công tác quản lý và trong việc phối hợp các nhân viên từ tổ sảnh thuộc khối dịch vụ phòng ở. Do đó các nh._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0273.doc
Tài liệu liên quan