LỜI MỞ ĐẦU
Thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VI về phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế theo định hướng xã hội chủ nghĩa; Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VII, VIII về công nghiệp hoá hiện, đại hoá đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã tiến hành cải cách thuế bước I (1990- 1995) và cải cách thuế bước II (1996 đến nay). Qua hai cuộc cải cách thuế, chúng ta đã hình thành được một hệ thống chính sách thuế bao quát được hầu hết các nguồn thu của đất nước và
36 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1325 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý thuế đáp ứng yêu cầu cải cách & HĐH ngành thuế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
luôn được sửa đổi,bổ sung hoang thiện kịp thời phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước; đã trở thành công cụ của Đảng và Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế theo hướng khuyến khích đầu tư, khuyến khích xuất khẩu, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất kinh doanh và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.Hệ thống quản lý thuế đã được xây dựng và không ngừng được kiện toàn, đảm bảo thực thi tốt và thống nhất các luật thuế trong cả nước.Hiệu lực, hiệu quả của bộ máy quản lý thuế ngày càng được nâng cao.
Tổ chức bộ máy quản lý thuế có vai trò quyết định đến toàn bộ hệ thống thuế. Bộ máy quản lý thuế được tổ chức hợp lý, thực hiện đầy đủ các chức năng quản lý thuế thì sẽ phát huy được tối đa hiệu lực của toàn bộ hệ thống thuế và hiệu quả quản lý sẽ cao.Ngược lại, một cơ cấu tổ chức quản lý không phù hợp sẽ kìm hãm, làm suy yếu tổ chức và hạn chế tác dụng của bộ máy.
Vì vậy việc nghiên cứu kiện toàn bộ máy quản lý đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá quản lý thuế có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
Với sự hiểu biết và nhận thức còn hạn chế, em xin trình bày những hiểu biết và nhận thức của mình về vấn đề: "Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý thuế đáp ứng yêu cầu cải cách và hiện đại hoá ngành thuế." Em xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo của thầy cô giáo đã giúp đỡ em trong quá trinh nghiên cứu. Em cũng xin chân thành cảm ơn thư viện nhà trường đã cung cấp tư liệu cho bài viết.
PHẦN NỘI DUNG
Chương I : Một số vấn để chung về tổ chức bộ máy quản lý thuế:
1.1/ Vai trò của tổ chức bộ máy quản lý thuế
1.1.1/ Khái niệm tổ chức bộ máy thuế:
Để hiểu bộ máy quản lý thuế, chúng ta nghiên cứu một số khái niệm cơ bản:
*/ Chức năng quản lý:
Là một thể thống nhất những hoạt động tất yếu của chủ thể quản lý nảy sinh do sự phân công, chuyên môn hoá trong hoạt động quản lý nhằm thực hiện mục tiêu chung cho quản lý. Chức năng quản lý xác định khối lượng và trình tự các công việc cơ bản của quá trình quản lý. Mỗi chức năng có nhiều nhiệm vụ cụ thể, là quá trình liên tục của các bước công việc tất yếu phải thực hiện.
- Chức năng quản lý thuế: Là những công việc vốn có, tất yếu phải thực hiện và trình tự thực hiện các công việc đó để quản lý và thu thuế vào ngân sách. Các công việc này không phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của người quản lý thuế ở bất cứ chế độ quản lý thuế nào ( Ví dụ: nhiệm vụ tuyên truyền chính sách thuế, kê khai thuế, tính thuế, thu thuế, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện nghĩa vụ thuế... là những nhiệm vụ cố hữu của quản lý thuế). Mỗi chức năng, nhiệm vụ này được giao cho bộ phận nào thực hiện sẽ thể hiện vai trò tác dụng của bộ phận đó đối với công tác quản lý thuế.
*/ Hệ thống thuế: Bao gồm 2 bộ phận chính:
- Hệ thống chính sách thuế: Gồm các sắc thuế được ban hành dưới hình thức Luật, Pháp lệnh. Mỗi sắc thuế có vai trò điều tiết riêng trong nền kinh tế, song chúng có mối quan hệ rất mật thiết và tác động lẫn nhau trong quá trình phát huy tác dụng điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế.
- Hệ thống quản lý thuế: Gồm các phương pháp, hình thức quản lý thu thuế, các công cụ quản lý (các quy định, quy trình, biện pháp nghiệp vụ, phương tiện quản lý), cơ cấu tổ chức bộ máy (các bộ phận, các đơn vị thuộc cơ quan thuế các cấp trực tiếp hay gián tiếp thực hiện chức năng quản lý thuế và mối quan hệ giữa chúng), đội ngũ cán bộ, công chức thuế và các cơ quan khác có liên quan đến công tác thuế theo quy định của pháp luật... Trong đó, cơ cấu tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ thuế (gọi chung là bộ máy quản lý thuế) là bộ phận cực kỳ quan trọng trong hệ thống quản lý thuế.
*/Tổ chức bộ máy quản lý thuế:
Là một khâu quan trọng trong công tác quản lý thuế, bao gồm việc xác định cơ cấu tổ chức bộ máy và phân bổ nguồn nhân lực một cách hợp lý, nhằm xây dựng hệ thống quản lý thuế khoa học, phù hợp, đảm bảo tính thống nhất, thực hiện đầy đủ, có hiệu quả các chức năng quản lý thuế nhằm thực thi chính sách, pháp luật thuế một cách nghiêm chỉnh, bảo đảm thu đúng, đủ kịp thời tiền thuế vào NSNN.
1.1.2/ Vai trò của tổ chức bộ máy quản lý thuế:
- Con người luôn là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại trong mọi lĩnh vực quản lý. Trong bộ máy quản lý thuế, đội ngũ cán bộ công chức thuế là bộ phận quan trọng, góp phần vào việc xây dựng hệ thống chính sách thuế phù hợp, khoa học minh bạch và quyết định để đề xuất, áp dụng các phương pháp, quy trình và các biện pháp nghiệp vị quản lý thuế hợp lý, khoa học bảo đảm tính tiên tiến, hiện đại, đạt hiệu quả kinh tế cao.
- Bộ máy quản lý thuế có vai trò quyết định đến toàn bộ hệ thống thuế.Bộ máy quản lý thuế được tổ chức hợp lý, thực hiện đầy đủ chức năng quản lý thuế thì sẽ phát huy được hiệu lực của toàn bộ hệ thống thuế và hiệu quả quản lý sẽ cao. Ngược lại, một cơ cấu tổ chức quản lý không phù hợp sẽ kìm hãm, làm suy yếu tổ chức và hạn chế tác dụng của bộ máy.
1.2/ Cơ sở khoa học để tổ chức bộ máy quản lý thuế:
Cơ sở khoa học để tổ chức bộ máy quản lý thuế là những căn cứ về lý luận đã được đúc kết và các cơ sở thực tiễn của quốc gia có ảnh hưởng, tác động đến việc xác định cơ cấu tổ chức bộ máy cơ quan Thuế các cấp. Ở bất cứ quốc gia nào và trong bất cứ giai đoạn phát triển nào, khi xác định mô hình tổ chức bộ máy quản lý thuế cũng phải dựa vào các cơ sở lý luận và thực tiễn sau:
1.2.1/ Nguyên tắc quản lý hành chính Nhà nước:
Nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước quy định việc phân chia địa giới hành chính quốc gia (tinh, thành phố, huyện, xã... ), tổ chức bộ máy nhà nước và cơ chế quản lý nhà nước trên từng địa phận hành chính đã phân chia.
Một số nước trên thế giới có cơ chế quản lý hành chính nhà nước tại địa phương độc lập với chuyên môn của từng ngành kinh tế (Ví dụ: Quản lý thuế hoàn toàn độc lập với hoạt động của chính quyền địa phương). Lúc đó, tổ chức bộ máy quản lý thuế không nhất thiết phải theo địa giới hành chính, mà có thể tổ chức theo vùng (Cục thuế vùng quản lý thuế đối với các đối tượng nộp thuế đóng trên một số tỉnh), hoặc trong một tỉnh , thành phố có thể tổ chức nhiều cục thuế để quản lý đối với từng loại đối tượng nộp thuế khác nhau..... để đảm bảo hiệu lực và hiệu quả của bộ máy, bảo đảm phục vụ đối tượng nộp thuế nhanh,kịp thời.Ngược lại,một số nước thực hiện quản lý nhà nước theo địa giới hành chính,công tác quản lý chủa các ngành kinh tế phải phụ thuộc và phục vụ hoạt động của bộ máy nhà nước tại địa phương thì công tác thuế cũng phải ngắn với chính quyền địa phương.Lúc đó, bộ máy quản lý thuế phải tổ chức theo từng cấp phù hợp với các cấp hành chính nhà nước(mỗi tỉnh sẽ tổ chức một cục thuế,mỗi huyện sẽ tổ chức một Chi cục thuế....)
Hiện nay,cơ chế quản lý hành chính Nhà nước Việt Nam là quản lý theo địa giới hành chính gồm 3 cấp: Tỉnh,thành phố trực thuộc Trung ương ;huyện ;xã.Cơ quan thuế là cơ quan nhà nước thực hiện việc quản lý nhà nước về thuế,do đó,công tác quản lý thuế củng phỉa tuân theo nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước.Vì vậy,cơ cấu tổ chức của hệ thống thuế được tổ chức theo 3 cấp:Cấp Trung ương(có tổng cục thuế);Cấp tỉnh,Thành phố trực thuộc trung ương(có cục thuế tỉnh,Thành phố);Cấp quận,huyện(có chi cục thuế quận, huyện).Riêng cấp xã,không có tổ chức cơ quan thuế độc lập mà chỉ tổ chức bộ phận quản lý thuế thuộc chi cục thuế quận, huyện.Công tác thuế cũng gắn chặt và phục vụ hoạt động của chính quyền địa phương.
1.2.2/ Chức năng,nhiệm vụ,quyền hạn của cơ quan Thuế các cấp:
Mục tiêu của việc tổ chức bộ máy quản lý thuế là nhằm xác định và phân chia các chức năng và quyền hạn quản lý thuế một cách hợp lý,trên cơ sở đó hình thành các bộ phận, các đơn vị thuộc cơ quan thuế các cấp đẻ thực hiện đầy đủ,có hiệu quả các chức năng,nhiệm vụ quản lý thuế,bảo đảm pháp luật thuế được thực thi một cach nghiêm chỉnh,cơ quan thuế hoàn thành nhiêm vụ động viên ngân sách nhà nước.Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý thuế các cấp:Trung ương,Tỉnh,Huyện phải được xác định phù hợp với chức năng,nhiệm vụ,quyền hạn và yêu cầu công tác quản lý thuế ở từng cấp,bảo đảm sự chỉ đạo thông suốt,thống nhất trong cả nước.
- Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thuế các cấp được nhà nước quy định tại các văn bản pháp quy hiện hành (Quyết định 218/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ; Quyết định 189/2003/QĐ-BTC của Bộ trưởng bộ Tài chính; Quyết định 1682QĐ/TCT-TCCB của Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế). Cơ quan thuế các cấp đều có chung chức năng cơ bản là quản lý thu thuế và thu khác vào ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, ở mỗi cấp khác nhau thì nhiệm vụ của cơ quan thuế lại được quy định khác nhau. Cơ quan Tổng cục thuế có nhiệm vụ quản lý toàn diện việc thực hiện công tác thu thuế và thu khác thống nhất trong cả nước; đề xuất các quy trình, biện pháp quản lý thuế phù hợp và chỉ đạo thực hiện trong toàn ngành. Ngoài ra, còn có nhiệm vụ tham gia với Bộ tài chính trong công tác xây dựng chính sách thuế. Hiện nay, Tổng cục thuế không có chức năng trực tiếp thu thuế. Cục thuế tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, chi cục thuế quận, huyện, thị xã có nhiệm vụ cơ bản là quản lý và trực tiếp thu các khoản thuế, phí và thu khác vào Ngân Sách Nhà Nước. Vì vậy, cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý thuế ở cấp Trung ương và cấp địa phương về cơ bản là thống nhất, nhưng có những điểm khác nhau, phù hợp và phục vụ trực tiếp cho việc thực hiện nhiệm vụ từng cấp (Ví dụ: Hiện nay tại Cục Thuế có phòng xử lý dữ liệu về thuế và các phòng quản lý thu, nhưng tại Tổng cục không tổ chức các phòng này hay chức năng hợp tác quốc tế về thuế chỉ tập trung đầu mối tại Tổng cục Thuế, do đó tại Tổng cục thành lập ban này, tại Cục thuế không tổ chức bộ phận độc lập ...)
- Khi chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thuế thay đổi để đáp ứng yêu cầu công tác quản lý thuế thì đến một mức độ nhất định tổ chức bộ máy cũng phải thay đổi nhằm thực hiện đầy đủ các chức năng quản lý thuế. (Ví dụ: Từ năm 1994, cơ quan thuế được Chính phủ giao chức năng hợp tác về thuế và quản lý thuế quốc tế, lúc đó tại Tổng cục thuế phải thành lập phòng hợp tác quốc tế, hoặc khi chức năng phát triển tin học và áp dụng công nghệ tin học vào quản lý thuế càng phát triển và là yêu cầu không thể thiếu thì tại Tổng cục thuế và các Cục thuế thành lập Phòng tin học ...)
- Ở bất cứ nước nào hệ thống pháp luật về thuế là một bộ phận trong hệ thống pháp luật Nhà nước. Cơ quan Thuế là cơ quan quản lý Nhà nước, thay mặt Nhà nước quản lyc và tổ chức thực thi pháp luật trong lĩnh vực thuế. Vì vậy, Nhà nước giao cho ngành thuế thẩm quyền quyết định và độc lập trong việc tổ chức và điều hành toàn diện các hoạt động quản lý thu thuế, quyết định các biện pháp quản lý thuế phù hợp với thực tế phục vụ tốt nhất yêu cầu của người nộp thuế, bảo đảm quản lý thu thuế đúng pháp luật và đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, một số chức năng quản lý thuế chưa được Nhà nước giao cho cơ quan thuế hoặc có giao nhưng chưa đủ pháp lý để cơ quan thuế tổ chức các bộ phận độc lập thực hiện các chức năng quản lý thuế của mình. Như: chức năng cưỡng chế thu nợ, chức năng khởi tố điều tra các vụ vi phạm về thuế lớn. Vì vậy, cần phải hoàn thiện các chức năng quản lý này.Khi được nhà nước giao một cách đầy đủ các chức năng này thì cơ quan thuế các cấp phải thực hiện các bộ phận độc lập để thực hiện.
1.2.3/ Chính sách thuế và quy trình nghiệp vị quản lý thuế:
- Tổ chức bộ máy quản lý thuế là nhằm mục tiêu tổ chức thực thi tốt các chính sách thuế hiện hành, đồng thời có xem xét đến xu hướng phát triển và hoàn thiện hệ thống chính sách thuế hiện hành cũng như hệ thống quản lý thuế trong tương lai. Khi chính sách thuế thay đổi, nhiệm vụ quản lý thuế ngày càng tăng, đòi hỏi bộ máy quản lý của cơ quan thuế cũng phải được kiện toàn, đổi mới phù hợp đáp ứng các yêu cầu của công tác quản lý.
- Quy định quản lý thuếlà căn cứ quan trọng để tổ chức bộ máy quản lý thuế (số lượng các bộ phận, cơ cấu, năng lực từng bộ phận phải được xác định phù hợp với phương pháp quản lý thuế, bảo đảm thực hiện đầy đủ quy trình nghiệp vụ, từng khâu quản lý thuế và bảo đảm hiệu quả kinh tế cao.
Trước đây, khi số lượng đối tượng nộp thuế chưa nhiều, loại hình sản xuất và quản lý kinh doanh còn thấp, công tác quản lý thuế được thực hiện theo quy trình chuyên quản khép kín, tổ chức bộ máy của cục thuế được tổ chức thành các phòng chuyên quản đối với từng đối tượng nộp thuế theo ngành nghề là hoàn toàn phù hợp. Song cùng với xu hướng phát triển của nền kinh tế, đối tượng nộp thuế cũng ngày càng phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, trình độ sản xuất và kinh doanh cũng ngày càng nâng cao, trình độ quản lý ngày càng phức tạp, đòi hỏi công tác quản lý thuế ngày cũng ngày càng phải hoàn thiện hơn. Sự tăng lên của đối tượng nộp thuế đến mức độ nhất định, cơ chế quản lý thuế cũ theo phương pháp chuyên quản khép kín thủ công đã nảy sinh những bất cập trong quản lý, đòi hỏi cơ quan thuế phải nghiên cứu, đổi mới quy trình, biện pháp quản lý, áp dụng các phương pháp quản lý tiên tiến, thay quản lý chuyên quản bằng quản cơ chế quản lý thuế tách 3 bộ phận độc lập và cơ chế này được hoàn thiện dần bằng việc tăng cường một số các chức năng quản lý thuế độc lập ( như xử lý dữ liệu thuế, nộp thuế qua kho bạc...). Theo đó, bộ máy quản lý thuế cũng được hoàn thiện và kiện toàn dần trong suốt quá trình phát triển của hệ thống Thuế thống nhất hơn 10 năm qua.
1.2.4/ Đặc điểm đối tượng nộp thuế:
Doanh nghiệp và cá nhân nộp thuế là đối tượng quản lý thuế của cơ quan thuế. Đặc điểm của đối tượng nộp thuế gồm: Ngành nghề kinh doanh, quy mô, hình thức sở hữu, trình độ quản lý, trình độ công nghệ... đều chi phối việc xác định các phương pháp, biện pháp quản lý thuế, từ đó chi phối việc xác định cơ cấu quản lý (như trên đã phân tích). Chính vì vậy, khi xây dựng hay cải tiến cơ cấu tổ chức quản lý, cơ quan thuế phải căn cứ vào các đặc điểm của các đặc điểm của đối tượng nộp thuế để bố trí các bộ phân quản lý và nhân lực phù hợp.
1.2.5/ Ưu nhược điểm của cơ cấu tổ chức quản lý thuế hiện hành:
Việc kiện toàn và đổi mới tổ chức bộ máy quản lý phải nhằm mục tiêu khắc phục những ưu điểm của bộ máy quản lý cũ, phục vụ tốt hơn cho công tác quản lý thuế, bảo đảm hiệu quả quản lý thuế cao hơn. Vì vậy khi kiện toàn, hay cải tiến bộ máy quản lý, các nhà quản lý bao giờ cũng phải phân tích ưu, nhược điểm của bộ máy quản lý thuế hiện hành, từ đó rút ra những vấn đề còn bất cập cần hoàn thiện.
1.2.6/ Vị trí địa lý:
Vị trí địa lý thể hiện cả địa bàn hoạt động của đối tượng nộp thuế và phạm vi quản lý của cơ quan thuế. Địa bàn thành thị, nông thôn, đồng bằng, miền núi, vùng sâu, vùng xa... sẽ chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố và điều kiện (như khí hậu, địa hình, hệ thống thông tin...) tác động tốt hoặc không tốt, thuận lợi hoặc không thuận lợi đối với sản xuất kinh doanh cũng như quản lý, từ đó ảnh hưởng đến việc xác định các biện pháp quản lý, cơ cấu tổ chức, cơ cấu nhân lực thực hiện các chức năng và nhiệm vụ quản lý thuế. Thông thường, ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, số lượng và quy mô của đối tượng nộp thuế nhỏ nên tổ chức bộ máy quản lý thuế thường gọn nhẹ hơn.
Để xây dựng được cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý thuế phù hợp, hiệu lực và hiệu quả, trong quá trình nghiên cứu hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý của cơ quan thuế các cấp, cần kết hợp tất cả các yếu tố nêu trên.
1.3/ Một số mô hình tổ chức quản lý thuế trên thế giới:
Mô hình tổ chức quản lý thuế là khái quát bộ máy quản lý thuế theo một nguyên tắc cơ bản nhất, bao trùm và chi phối việc xác định số lượng các bộ phận, chức năng, nhiệm vụ quản lý thuế của từng bộ phận trong cơ cấu tổ chức. Các nhà nghiên cứu chính sách và quản lý thuế đã tổng kết các mô hình tổ chức quản lý thuế đã được các nước trên thế giới áp dụng và đánh giá các mô hình như sau:
1.3.1/ Mô hình quản lý thuế theo sắc thuế:
Là mô hình lấy việc quản lý theo sắc thuế là nguyên tắc bao trùm. Theo đó, cơ cấu tổ chức bao gồm các bộ phận (gọi chung là phòng) quản lý một hoặc một số loại thuế cụ thể (VD: Phòng thuế thu nhập; phòng thuế GTGT; thuế TTĐB.. ) Đặc điểm cơ bản của mô hình này là mỗi phòng thực hiện tất cả các chức năng để quản lý các loại thuế mà phòng đó chịu trách nhiệm.
Ưu điểm:
- Tạo điều kiện để chuyên sâu quản lý từng sắc thuế cụ thể, hiểu rõ phương pháp quản lý sắc thuế một cách hiệu quả nhất, cho phép từng phòng tự phát triển các chương trình chuyên sâu phù hợp nhất theo yêu cầu quản lý của từng sắc thuế.
- Phản ứng kịp thời với những thay đổi của luật thuế hay những biện pháp quản lý đối với từng sắc thuế (chỉ phải thay đổi thay đổi trong một phòng quản lý sắc thuế đó), đặc biệt là khi có sắc thuế mới phát sinh.
- Mô hình này thuận lợi và phù hợp với các nước có môi trường tài chính không ổn định và thủ tục quản lý thuế đối với từng loại thuế khác nhau.
Nhược điểm:
- Chi phí quản lý cao, hiệu suất quản lý thấp vì chức năng quản lý bị chồng chéo giữa các bộ phận. Mỗi bộ phận đều phải thực hiện đầy đủ các chức năng quản lý trong khi có những chức năng có thể chỉ do một bộ phận quản lý hoặc mỗi bộ phận phải có một hệ thống chương trình phần mềm riêng phục vụ quản lý...
- Gây khó khăn trong việc tuân thủ luật thuế của đối tượng nộp thuế vì để hiểu và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế, họ phải cần đến sự hỗ trợ của nhiều bộ phận trong cùng một cơ quan thuế. Dẫn đến chi phí tuân thủ pháp luật của đối tượng nộp thuế và của cơ quan thuế cao.
- Dễ bị xảy ra sự thông đồng giữa đối tượng nộp thuế và cán bộ quản lý thuế do mỗi phòng hoạt động độc lập và tự chủ với các phòng khác, làm cho sự kiểm tra chéo giữa các phòng kém hiệu quả.
1.3.2/ Mô hình tổ chức bộ máy theo nhóm đối tượng nộp thuế:
Là mô hình lấy quản lý theo nhóm đối tượng nộp thuế là nguyên tắc bao trùm. Theo đó cơ cấu tổ chức bao gồm các bộ phận (phòng) quản lý theo nhóm đối tượng nộp thuế. Ở một số nước phân loại nhóm đối tượng theo quy mô. Một số nước khác phân loại nhóm đối tượng nộp thuế theo ngành nghề kinh doanh hoặc theo hình thức sở hữu. Từ đó, hình thành các phòng quản lý thu thuế theo đối tượng (Phòng quản lý thuế các doanh nghiệp lớn, phòng quản lý thuế các doanh nghiệp vừa, nhỏ; hoặc phòng quản lý thuế ngành công nghiệp, phòng quản lý thuế ngành hàng không, điện lực... hoặc phòng quản lý thuế khu vực kinh tế quốc doanh, phòng quản lý thuế khu vực kinh tế dân doanh...)
Ưu điểm:
- Đáp ứng yêu cầu quản lý thuế phù hợp với đặc điểm của từng loại đối tượng nôpl thuế.
- Tạo điều kiện thực hiện phương pháp quản lý và phân bổ nguồn nhân lực phù hợp với những rủi ro về quản lý thuế đối với các nhóm đối tượng nộp thuế khác nhau, tạo ra sự an toàn cho cho việc thu ngân sách. Ví dụ phòng quản lý các đối tượng nộp thuế lớn thường được bố trí những cán bộ có năng lực, có trình độ và kinh nghiệm quản lý cao nhằm giám sát chặt một số đối tượng có số thu lớn. Sự sắp xếp này nhằm tạo ra những biện pháp quản lý phù hợp với một nhóm đối tượng nộp thuế đặc biệt, nâng cao hiệu quả quản lý đối với các nguồn thu lớn của Ngân sách nhà nước.
- Tạo căn cứ để quy trách nhiệm rõ ràng đối với từng bộ phận quản lý trong trường hợp xẩy ra thất thu thuế hoặc không hoàn thành nhiệm vụ thu ngân sách. Ví dụ: khi xảy ra thất thu thuế ở một loại doanh nghiệp hoặc một ngành nghềnào đó thì có thể quy ngay trách nhiệm thuộc phòng nào.
Nhược điểm:
Không đáp ứng được yêu cầu quản lý thuế khi số lượng và quy mô của đối tượng nộp thuế thường xuyên ra tăng, loại hình sản xuất kinh doanh ngày càng đa dạng, phức tạp, phạm vi hoạt động kinh doanh ngày càng rộng và trên nhiều lĩnh vực thuộc nhiều hình thức sở hữu khác nhau.
Dễ xảy ra sự không thống nhất trong việc chỉ đạo các luật thuế, các biện pháp quản lý của cùng một săc thuế nhưng đối với các đối tượng nộp thuế khác nhau, tạo ra sự không công bằng về thuế giữa các đối tượng về thuế.
Chi phí quản lý cao do mỗi bộ phòng đều phải thực hiện đầy đủ các chức năng quản lý đối với nhóm đối tượng nộp thuế do phòng quản lý.
Dễ dẫn đến quản lý chuyên quản khép kín, móc ngoặc, tham nhũng, tiêu cực nếu không có sự giám sát chặt chẽ, kiểm tra thường xuyên.
1.3.3/ Mô hình tổ chức bộ máy theo chức năng:
Là mô hình chức năng c\quản lý thuế làm nguyên tắc bao trùm. Theo đó, cơ cấu tổ chức bao gồm các bộ phận thực hiện một hoặc một số chức năng nhất định trong quy trình quản lý thuế như: Phòng tuyên truyền và hỗ trợ đối tượng nộp thuế, phòng xử lý tờ khai và dữ liệu về thuế, phòng cưỡng chế và quản lý thu nợ, phòng thanh tra thuế …
Ưu điểm:
Thích ứng với mọi thay đổi về chính sách thuế và đối tượng nộp thuế.
Hiệu quả lý cao do công tác quản lý được chuyên môn hoá, chuyên sâu, chuyên nghiệp theo từng chức năng. Đặt biệt nếu kết hợp với quản lý thuế theo quy mô đối tượng nộp thuế thì hiệu quả sẽ càng cao hơn.
Tạo điều kiện cho đối tượng nộp thuế nâng cao tính tự giác và giảm chi phí tuân thủ luật thuế của đối tượng nộp thuế, giảm chi phí quản lý cho cơ quan thuế.
Giảm thiểu hiện tượng tiêu cực, tham nhũng trong cơ quan quản lý thuế do sự kiểm tra, giám sát của các bộ phận khác nhau trong quy trình quản lý thuế.
Nhược điểm:
Chưa hoàn toàn thích ứng trong điều kiện trình độ hiểu biết pháp luật thuế và trình độ tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế của người dân nói chung và đối tượng nộp thuế nói riêng còn thấp.Bởi đặc tính phân đoạn trong công tác quản lý dễ dẫn tới việc mỗi bộ phận chức năng chỉ tập trung vào một khía cạnh hẹp của đối tượng nọp thuế và tách biệt với công việc của các bộ phận khác, thiếu bộ phận trong tâm để tập hợp các chức năng quản lý với nhau.Do đó, nếu người đứng đầu cơ quan thuế không quản lý chặt chẽ, cán bộ thuế trách nhiệm không cao, để xảy ra thất thu thuế hoặc không hoàn thành dự toán nhà nước giao thì khó quy trách nhiệm cho tổ chức và cá nhân nào vì cả bốn khâu quản lý thuế đều liên quan đến việc hoàn thành nhiệm vụ thu ngân sách.
1.3.4/ Mô hình kết hợp giữa các nguyên tắc quản lý thuế:
Để phát huy ưu điểm và khắc phục những tồn tại của các mô hình quản lý thuế trên nhiều nước trên thế giới áp dụng mô hình quản lý thuế kết hợp các nguyên tăc quản lý theo chức năng, theo nhóm đối tượng và theo sắc thuế, trong đó xác định một nguyên tắc bao trùm. Thông thường có một số hình thức kết hợp sau (trong đó nguyên tắc đàu tiên là nguyên tắc bao trùm) :
Sắc thuế - chức năng – quy mô đối tượng.
Chức năng – quy mô đối tượng- sắc thuế.
Đối tượng (quy mô ngành nghề)- chức năng- sắc thuế.
Trong 3 hình thức kết hợp trên hình thức thứ 2 và thứ 3 thường được áp dụng vì có ưu điểm hơn cả.
Chương II: Thực trạng tổ chức bộ máy quản lý thuế
những năm trở lại đây
2.1/ Giai đoạn cải cách thuế bước I, II (tổ chức bộ máy theo nghị định 281/HĐBT ngày 7/8/1990):
Cùng với đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước, các thành phần kinh tế ở Việt Nam đã phát triển nhanh theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, Đảng và Nhà nước cũng chủ trương thực hiện cải cách, bắt đầu áp dụng một hệ thống thuế thống nhất ( gồm 9 săc thuế) đối với mọi thành phần kinh tế. Để thống nhất công tác quản lý thu thuế trong cả nước, phù hợp với sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá, bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, ngày 7/8/1990 chính phủ đã ban hành Nghị định số 281/HĐBT về việc thành lập hệ thống thu thuế nhà nước trên cơ sở sát nhập 3 tổ chức thu như trên. hệ thống thu thuế nhà nước (gọi chung là tổng cụa thuế) là hệ thống dọc, trực thuộc bộ Tài chính, có đặc trưng và nhiệm vụ cơ bản sau:
Hệ thống thu thuế nhà nước thực hiện việc quản lý thống nhất trong cả nước tất cả các loại thuế, phí của ngân sách nhà nước (trừ các khoản thu từ hoạt động xuất nhập khẩu do ngành Hải quan quản lý).
Hệ thống thu thuế nhà nước được tổ chức theo ngành dọc từ Trung ương đến quận, huyện. Tại Trung ương có Tổng cục thuế trực thuộc bộ Tài chính, thực hiện chức năng nghiên cứu chính sách thuế, chỉ đạo thực hiện thống nhất với mọi thành phần kinh tế. Tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là) có Cục thuế trực thuộc Tổng cục thuế. Tại quận, huyện, thị xã thuộc tỉnh (gọi chung là huyện) có Chi cục thuế trực thuộc Cục thuế. Cục thuế, chi cục thuế thực hiện chức năng trực tiếp quản lý thu thuế và các loại thu khác thu khác trong địa bàn được phân công,
Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý bộ máy thuế tại Trung ương chủ yếu theo sắc thuế, dần dần điều chỉnh và kiện toàn kết hợp với chức năng. Ở địa phương quản lý thuế chủ yếu theo nhóm đối tượng. dần dần kết hợp quản lý theo chức năng.
Năm 1990 sau khi thành lập hệ thống thuế thống nhất, trong điều kiện hệ thống chính sách thuế áp dụng cho mọi thành phần kinh tế mới được hình thành còn thường xuyên phải thay đổi, bổ sung, hoàn thiện, trình độ quản lý còn thủ công, ý thức chấp hành pháp luật của các đối tượng nộp thuế còn quá yếu, bộ máy quản lý thuế được tổ chức dựa trên nguyên tắc quản lý theo sắc thuế ở cấp Trung ương và quản lý theo đối tượng bằng phương pháp chuyên quản khép kín ở cấp địa phương là hoàn toàn phù hợp. Trong quá trình thực hiện, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, số lượng đối tượng nộp thuế ngày càng tăng, yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng mở rộng và sâu, trình độ quản lý thuế ngày càng được nâng cao, các chức năng quản lý thuế đã được tăng cường, bổ sung đòi hỏi công tác quản lý thuế ngày càng phải hoàn thiện, bộ máy quản lý thuế cũng phải được kiện toàn. Do đó ở cấp Trung ương cơ chế quản lý được chuyển dần từ quản lý theo sắc thuế theo quản lý theo đối tượng kết hơpj với quản lý theo chức năng phù hợp với yêu cầu xây dựng và chỉ đạo thực hiện hệ thống chính sách thuế trong các giai đoạn cải cách thuế. Ở cấp tinh, huyện phương pháp quản lý chuyên quản khép kín đã dần được thay thế bằng phương pháp quản lý thuế tách 3 bộ phận độc lập, một số chức năng quản lý thuế đã được tách thành các chức năng độ lập và giao cho 1 bộ phận đảm nhiệm.
Như vậy, sau 10 hoạt động, bộ máy quản lý thuế theo Nghị định 281/HĐBT của Hội đồng bộ trưởng (nay là chính phủ) đã đạt được các kết quả chủ yếu là:
Thứ nhất, đã xây dựng được một hệ thống chính sách thuế bao quát hầu hết các nguồn thu trong nền kinh tế và ngày càng được hoàn thiện phù hợp với cơ chế thị trường. Chính sách thuế đã thực sự trở thành công cụ điều tiết vĩ mô có hiệu lực và hiệu quả đối với nền kinh tế. Hệ thống chính sách thuế từng bước đơn giản hoá, rõ rang, minh bạch, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, khuyến khích mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ hai: Tổ chức quản lý thu thuế ngày càng có hiệu quả. Liên tục trong 12 năm liền ngành thuế đã hoàn thành và hoàn thành xuất sắc nhiệm vị động viên ngân sách nhà nước giao với số thu năm sau cao hơn năm trước.
Thứ ba: Từng bước cải tiến các quy trình, biện pháp, nghiệp vụ ứng dụng công nghệ tin học vào quản lý thuế, đưa công tác quản lý thu thuế dần đi vào nề nếp theo hướng hiện đại hoá.
Thứ tư: Xây dựng được bộ máy và đội ngũ cán bộ ngày càng trưởng thành và lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng.
Tuy đạt được những ưu điểm nói trên, nhưng so với yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước và yêu cầu hiện đại hoá quản lý thuế trong giai đoạn mới thì bộ máy quản lý thuế còn nhiều hạn chế. Đó là: Nhiệm vụ quản lý thuế chưa được xác định đầy đủ, quyền hạn của cơ quan thuế chưa tương xứng với nhiệm vụ và trách nhiệm tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, một số chức năng còn chồng chéo trong khi lại thiếu một số chức năng cần thiết của quản lý thuế, phương pháp quản lý chủ yếu còn thủ công, không đáp ứng được yêu cầu hiện đại hoá
2.2/ Tổ chức bộ máy theo quyết định 218/2003/QĐ-TTg ngày 28/10/2003.
Để tiếp tục thực hiện công tác cải cách hành chính thuế, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý thuế của cơ quan thuế trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, Bộ chính trị đã có chỉ thị số 44/CT-TW ngày 4/11/1998 chỉ đạo tiếp tục cải cách hệ thống thuế nhà nước và thủ tướng chính phủ đã ban hành quyết định số 218/2003/QĐ-TTg ngày 28/10/2003 về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục thuế thuộc Bộ Tài chính. Theo quyết định này, tổ chức bộ máy ngành thuế được tổ chức lại theo nguyên tắc:
Xác định đầy đủ nhiệm vụ quản lý thuế, đề cao trách nhiệm, nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế trong việc chấp hành pháp luật thuế.
Tăng cường chức năng quản lý nhà nước và quyền hạn cho cơ quan thuế.
Tổ chức bộ máy được cơ cấu lai hợp lý theo hướng cải cách hành chính, gon nhẹ hơn, tinh giảm hơn, tập trung nguồn lực cho các chức năng quản lý thuế chủ yếu.
Theo đó, tổ chức bộ máy ngành thuế đã được tổ chức lại như sau:
+ Xoá bỏ bớt các bộ phận không cần thiết, giảm được năm đầu mối tại Tổng cục thuế, 119 phòng thuộc Cục thuế và 1042 tổ, đội thuế không còn phù hợp với yêu cầu quản lý thuế mới.
+ Tổ chức bộ máy đã được cơ cấu lại chủ yếu theo chức năng quản lý thuế, thu hẹp một bước các bộ phận quản lý đối tượng nộp thuế để có điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn hoá áp dụng công nghệ tin học để nâng cao hiệu quả quản lý thuế.
+ Các chức năng quan trọng như tuyên truyền, hỗ trợ đối tượng nộp thuế, thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm về thuế; ứng dụng tin học được tăng cường hơn.
+ Nhiệm vụ cụ thể của các bộ phận thuộc cơ cấu quản lý thuế các cấp đều được quy định đầy đủ, rõ rang.
Sau 1 năm thực hiện, nhìn chung bộ máy đã vận hành tôt hơn, góp phần vào việc hoàn thành tôt nhiệm vụ công tác quản lý thuế năm 2004.
Tuy nhiên, so với yêu cầu của cơ chế quản lý thuế hiện đại thì tổ chức bộ máy ngành thuế còn 1 số hạn chế sau đây:
Ngành thuế còn thiếu chức năng quan trọng của quản lý thuế, đó là: Khởi tố, điều tra các vụ vi pham về thuế. Do đó, chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp và tính chuyên nghiệp của hệ thống thuế trong việc điều tra, khởi tố các hành vi, thủ đoạn gian nận tiền thuế chiếm đoạt tiền hoàn thuế. Các công việc trên đều phải chuyển qua các cơ quan pháp luật thực hiện nên kết quả rất hạn chế do các cơ quan này luôn mang tính chuyên nghiệp, diện bao quát quá lớn, nên không thể điều tra nhanh, lam cho việc xử lý các trường hợp vi phạm về thuế không kịp thời, giảm quyền lực của các cơ quan thuế và tác dụng giáo dục trong việc thực thi pháp luật thuế.
Chức năng cưỡng chế thuế là một trong bốn chức năng quan trọng của quản lý thuế và đã quy định trong các luật thuế nhưng chưa có đầy đủ cơ sở pháp lý và điều kiện để tổ chức bộ máy thực hiện chức n._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0703.doc