Kiến nghị mở rộng tín dụng đối với Doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU Trong bối cảnh hội nhập nền kinh tế quốc tế, đất nước ta đang phải đối mặt với cơ hội và thách thức to lớn để phát triển nền kinh tế. Cơ hội đó là, hội nhập giúp chúng ta dễ dàng giao lưu hợp tác kinh tế. Nhờ đó có thể tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến, cách thức quản trị tiến bộ nhằm tận dụng các nguồn lực bên ngoài để phát huy các nguồn lực trong nước, tạo thành nguồn lực tổng hợp thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Còn thách thức đó là hội nhập buộc chúng ta phải mở của nền kinh

doc85 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1349 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kiến nghị mở rộng tín dụng đối với Doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế, chấp nhận "luật chơi" theo thông lệ quốc tế. Các thành phần kinh tế trong nước phải cạnh tranh gay gắt với các chủ thể kinh tế nước ngoài nhằm tồn tại và phát triển. Nếu nhà nước chúng ta không khéo léo làm chủ "cuộc chơi", thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ thì nền kinh tế nước ta sẽ tụt hậu ngày càng xa so với các nền kinh tế tiên tiến khác. Nước ta sẽ trở thành thị trường tiêu thụ của thế giới và phụ thuộc chặt chẽ vào các nền kinh tế khác. Để tận dụng tốt thời cơ hội nhập, buộc chính phủ phải tích cực tạo điều kiện tốt nhất, để các thành phần kinh tế trong nước phát triển mạnh mẽ. Hệ thống pháp luật được mở rộng, cải cách phù hợp với thông lệ quốc tế, hệ thống thủ tục hành chính phải được điều chỉnh theo hướng tinh giảm hiệu quả. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có điều kiện mọc lên như nấm. Sự phát triển mạnh mẽ khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa, đã thúc đẩy nhu cầu vay vốn để sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế này tăng cao. Ngược lại việc đáp ứng hiệu quả tín dụng tốt sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển mạnh mẽ. Đây chính là thị trường tiềm năng mà các ngân hàng phải hướng tới. Ý thức được tầm quan trong của vấn đề này đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam. Em đã lựa chọn đề tài: "Kiến nghị mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam". Mục đích nghiên cứu của đề tài: đề tài nghiên cứu tìm hiểu những nhân tố ảnh hướng đến hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, phân tích đánh giá hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam. Từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu: trong hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, đề tài tập trung nghiên cứu sâu hoạt động cho vay. Đây là hoạt động chủ yếu trong hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam. Trên cơ sở tài liệu thu tập được, bằng phương pháp thống kê và so sánh giữa các năm, các chỉ tiêu, để thấy được những kết quả đạt được và hạn chế trong hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bên cạnh đó, đề tài còn sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp đánh giá thực trạng phát triển, rút ra nguyên nhân và tìm hướng giải quyết. Ngoài lời nói đầu, kết luận, mục lục và danh mục tham khảo, chuyên đề được kết cấu thành 3 chương Chương I: Một số vấn đề cở bản về tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chương II: Thực trạng hoạt động đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam. Chương III: Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam. CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA 1.1 DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TRONG NỀN KINH TẾ 1.1.2 Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa Trong thực tế, việc đưa ra khái niệm nhỏ và vừa của 1 nước được cân nhắc với từng giai đoạn phát triển của kinh tế, tình hình làm việc nói chung và tính chất nền kinh tế hiện hành của nước đó. Việc xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa không có tính chất cố định mà có xu hướng thay đổi theo tính chất hoạt động của nó, mục đích của việc xác định và mức độ phát triển của doanh nghiệp. Một số tiêu chuẩn để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa là tổng vốn đầu tư được huy động và sản xuất kinh doanh, giá trị tài sản cố định, số lao động được sử dụng thường xuyên, giá trị bằng tiền của sản phẩm hoặc dịch vụ, lợi nhuận, vốn bình quân cho một lao động… Mỗi nước có một quan niệm và lựa chọn các tiêu thức khác nhau, phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Trình độ phát triển của mỗi nước: Trình độ phát triển càng cao thì trị số các tiêu chí càng tăng. Ở các nước càng phát triển thì chỉ số về lao động, vốn để phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa càng cao. Chẳng hạn như ở Nhật Bản, doanh nghiệp có 300 lao động và nguồn vốn là một triệu USD được xem là 1 doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng ở Thái Lan một doanh nghiệp có quy mô như vậy là một doanh nghiệp lớn. Tính chất nghành nghề: Tuỳ thuộc vào yêu cầu và tính chất của từng nghành mà có ngành sử dụng nhiều lao động như: may mặc, giày da, thủ công, mỹ nghệ…, có nghành sử dụng ít lao động, nhiều vốn như hoá chất, điện… Trong phân loại doanh nghiệp cũng cần căn cứ vào những tính chất này để có những quy định phù hợp giữa các nghành với nhau. Các nước thường phân thành các nhóm nghành với những tiêu chí phân loại khác nhau. Vùng lãnh thổ: Mỗi vùng miền có trình độ phát triển khác nhau về quy mô và số lượng doanh nghiệp. Do đó, để đảm bảo tính tương thích trong việc so sánh giữa các vùng với nhau thì cũng cần tính đến hệ số vùng trong tiêu chuẩn xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa. Vùng có nền kinh tế phát triển cao thì số lượng và quy mô doanh nghiệp phải cao hơn vùng có nền kinh tế phát triển thấp. Tính chất lịch sử: Trong quá trình phát triển kinh tế, quy mô các doanh nghiệp không ngừng tăng. Các tiêu chí phân loại cũng thay đổi tỉ lệ với tốc độ tăng trưởng quy mô của các doanh nghiệp. Thông thường khái niệm về doanh nghiệp nhỏ và vừa dựa trên số lao động được sử dụng rộng rãi vì nó không dễ dàng chịu sự ảnh hưởng của những khác biệt về thu nhập và những thay đổi giá trị của đồng tiền nội địa qua các thời kì khác của mỗi quốc gia. Ở nước ta, khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa được đưa ra tại điều 3, Nghị định 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa: "Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng kí kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có số vốn đăng kí không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động hàng năm không quá 300 người". Các doanh nghiệp nhỏ và vừa gồm: - Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp. - Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà Nước. - Các hợp tác xã thành lập theo Luật Hợp tác xã - Các hộ kinh doanh cá thể đăng kí theo Nghị định 20/2000/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 của chính phủ về đăng kí kinh doanh. Căn cứ tình hình kinh tế cụ thể của nghành, địa phương trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu. Một số nhà nghiên cứu cho rằng: Ở Việt Nam cần phân định doanh nghiệp nhỏ và vừa theo lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Đối với lĩnh vực sản xuất: doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng, số lao động dưới 100 người là doanh nghiệp nhỏ, còn doanh nghiệp có vốn từ 1 tỷ đến 10 tỷ đồng, 100 đến 500 lao động là doanh nghiệp vừa. Đối với lĩnh vực thương mại và dịch vụ: doanh nghiệp có vốn dưới 500 triệu và dưới 50 lao động là doanh nghiệp nhỏ, còn doanh nghiệp có vốn từ 500 triệu đến 5 tỷ và lao động từ 50 đến 250 người là doanh nghiệp vừa. Hiện nay ở Việt Nam có khoảng 170.000 doanh nghiệp đăng kí kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp, 2.6 triệu hộ kinh doanh cá thể và hơn 18.000 hợp tác xã. Trong số đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 96% tổng số hộ kinh doanh cá thể. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa thu hút khoảng 450.000 lao động với thu nhập bình quân 1.05 triệu đồng/tháng. 1.1.2 Đặc điểm doanh nghiệp nhỏ và vừa 1.1.2.1 Năng động và linh hoạt trong sản xuất kinh doanh Như ta đã biết doanh nghiệp nhỏ và vừa với số vốn và tài sản nhỏ, ít lao động nên rất dễ thành lập và chuyển hướng kinh doanh khi thị trường biến động. Đây chính là lợi thế của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa dễ dàng xâm nhập vào các "khe hở" của thị trường để tồn tại và phát triển. Khi thị trường trở nên khan hiếm, khó khăn thì doanh nghiệp nhỏ và vừa dễ dàng chuyển sang lĩnh vực kinh doanh khác. Tuy sức chịu đựng cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa tương đối yếu. Nhưng sự ra đời và ngày càng hoàn thiện của luật cạnh tranh sẽ càng đảm bảo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa càng có nhiều cơ hội để tồn tại và phát triển thành những doanh nghiệp lớn. Hơn nữa tổ chức quản lý của doanh nghiệp nhỏ và vừa đơn giản, dễ đưa ra quyết định, khi nhu cầu thị trường thay đổi hay gặp khó khăn dễ dàng thay đổi tình thế, nội bộ dễ đi đến thống nhất. Trước những biến động của thị trường, họ rất linh hoạt và mạnh dạn đầu tư, thay đổi trong sản xuất, trang thiết bị kỹ thuật với chi phí bổ sung không cao. Nhu cầu đầu tư ít, sử dụng nhiều nguyên liệu sẵn có ở địa phương, chi phí đào tạo người lao động và quản lý ít tốn kém. Đây là một điểm lợi thế rất lớn của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong cơ chế thị trường, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chính vì đặc điểm dễ thành lập, năng động và linh hoạt trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nên doanh nghiệp nhỏ và vừa tồn tại và phát triển ở mọi nghành nghề, mọi thành phần kinh tế, chỉ cần số vốn hạn chế, một mặt bằng nhỏ hẹp đã có thể tiến hành hoạt động kinh doanh như nhận gia công theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp lớn đặc biệt là trong nghành dệt, may, cơ khí… Ngày nay, vòng đời của sản phẩm nhiều khi ngắn hơn thời gian tồn tại của máy móc thiết bị sản xuất ra, nó đòi hỏi phải khấu hao nhanh, đặc biệt là hao mòn vô tình. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể kết hợp, hợp lý hoá, cơ khí hoá với lao động thủ công để sản xuất ra những sản phẩm chất lượng cao trong điều kiện kết cấu hạ tầng hạn chế. 1.1.2.2 Tiềm lực tài chính kém Doanh nghiệp nhỏ và vừa có nguồn tài chính hạn chế, khả năng tiếp cận nguồn tín dụng còn thấp. Bất kì doanh nghiệp nào cũng muốn tiến hành sản xuất kinh doanh đều phải có một lượng vốn nhất định. Doanh nghiệp nhỏ và vừa thường khởi sự từ nguồn vốn ban đầu không cao, nhưng họ chủ yếu hoạt động nhờ nguồn vốn này. Cơ cấu vốn nợ của các doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỷ lệ thấp trong cơ cấu vốn thường bao gồm: nguồn vốn vay từ bạn bè, gia đình, các khoản tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng và các tổ chức tài chính… Quy mô số vốn ban đầu của doanh nghiệp rất quan trọng và tăng theo quy mô phát triển của doanh nghiệp. Doanh nghiệp càng hoạt động có hiệu quả thì càng có nhiều điều kiện để tăng trưởng nguồn vốn. Tuy nhiên để có thể huy động được vốn nợ còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố đặc biệt là nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Tín dụng ngân hàng có nhiều ưu thế vượt trội nhưng doanh nghiệp nhỏ và vừa không dễ tiếp cận được. Doanh nghiệp phải đáp ứng được các điều kiện tín dụng phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn. Năng lực tài chính nội tại của doanh nghiệp nhỏ và vừa thấp, các chỉ tiêu tài chính thường không đảm bảo được yêu cầu của ngân hàng, thêm vào đó doanh nghiệp không có tài sản giá trị để làm tài sản đảm bảo khi nhận tín dụng… Đối với tín dụng thương mại, là phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt nhưng mức độ rủi ro cho nhà cung cấp cao cần có quan hệ hợp tác lâu bền có tín nhiệm lẫn nhau. Tín dụng thương mại được hình thành trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Trong khi đó, phần lớn các doanh nghiệp nhỏ và vừa có độ tuổi kinh doanh không cao trong một lĩnh vực kinh doanh nhất định, uy tín đối với thị trường không lớn. Vì vậy tiềm lực tài chính yếu kém luôn là vấn đề khó khăn khách quan mà các doanh nghiệp nhỏ và vừa phải đối mặt thường xuyên trong quá trình hoạt đồng động sản xuất kinh doanh. 1.1.2.3 Trình độ khoa học công nghệ và quản lý thấp Để thành công trong nền kinh tế cạnh tranh mạnh mẽ như hiện nay, bất kì một doanh nghiệp nào cũng quan tâm đến công nghệ, máy móc, thiết bị, các phương pháp và bí quyết sản xuất. Vì khoa học công nghệ cao và trình độ quản lý tiên tiến giúp doanh nghiệp tăng năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, giảm bớt chi phí sản xuất và tăng năng lực cạnh tranh. Năng lực tiếp nhận, ứng dụng công nghệ vào sản phẩm và quản lý phụ thuộc vào nhận thức, thông tin, nguồn nhân lực và nguồn vốn của doanh nghiệp. Thông thường các doanh nghiệp có khả năng quản lý tốt là những doanh nghiệp thường xuyên có những thay đổi công nghệ và cần nhiều vốn. Doanh nghiệp nhỏ và vừa với nguồn vốn, trình độ nhân lực hạn chế nên có ít thay đổi công nghệ phù hợp. Thực tế, hầu hết các thiết bị được sử dụng đều rất lạc hậu. Các doanh nghiệp chưa đánh giá hết tầm quan trọng và tính bức bách trong việc đổi mới công nghệ. Hoặc nếu có nhận thức được thì cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận và đầu tư đổi mới công nghệ và phương thức quả lý. Vì để đổi mới công nghệ và cách thức quản lý thì phải có nguồn nhân lực cao để tiếp nhận và sử dụng, nguồn vốn lớn để mua. Chính vì những khó khăn trên đã khiến các doanh nghiệp nhỏ và vừa khi đầu tư công nghệ ít quan tâm đến phương pháp và bí quyết sản xuất, đầu tư "nhỏ giọt", thiếu đồng bộ dẫn đến hiệu suất sử dụng công nghệ không cao. Công nghệ sử dụng trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta, lạc hậu so với các nước trong khu vực từ 2-3 thế hệ, thiết bị máy móc khấu hao đã hết nhưng vẫn được sữa chửa và sử dụng. Khoảng 8% doanh nghiệp nhỏ và vừa ở phía bắc đạt trình độ công nghệ tiên tiến mà phần lớn là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp còn ít kiến thức, thông tin, kinh nghiệm về những vấn đề liên quan đến lựa chọn, mua và chuyển giao công nghệ. Doanh nghiệp nhỏ và vừa nước ta được thành lập trong thời kì đổi mới chủ yếu là các doanh nghiệp gia đình. Do vậy trình độ quản lý, điều hành thường theo thói quen, kĩ năng quản lý theo định hướng thị trường hiện tại còn thiếu. Tuy trình độ công nghệ thấp nhưng các doanh nghiệp nhỏ và vừa ít có nhu cầu đào tạo về kĩ thuật, công nghệ cũng như trình độ quản lý. Số lượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam gia tăng rất nhanh. Từ năm 2000 đến năm 2004 cả nước có gần 120.000 doanh nghiệp được thành lập, trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cục phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng đặt mục tiêu đến năm 2010 có khoảng 320.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa được thành lập, trong đó có khoảng 3-6% doanh nghiệp nhỏ và vừa trực tiếp tham gia xuất khẩu. Tuy nhiên, đại bộ phận các doanh nghiệp nhỏ và vừa có số lượng đầu tư ban đầu thấp, gần 50% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỉ đồng, gần 75% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 2 tỉ đồng và 90% doanh nghiệp có mức vốn dưới 5 tỉ đồng. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn gặp nhiều khó khăn về công nghệ, trình độ quản lý, khả năng tiếp cận thị trường…Hậu quả của những hạn chế đó là năng suất, chất lượng sản phẩm cũng như hiệu quả đầu tư thấp. Hàng hoá của các doanh nghiệp không thể cạnh tranh trên thị trường, nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ, phá sản. Khó khăn lớn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam là thiếu các chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô của chính phủ. Hệ thống chính sách, pháp luật và các tổ chức hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa hoàn thiện. Trong quá trình Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế đất nước, doanh nghiệp nhỏ và vừa có nhiều cơ hội để phát triển và rất cần đến sự hỗ trợ từ phía của nhà nước. 1.1.2.4 Nguồn lao động chất lượng thấp Doanh nghiệp nhỏ và vừa thu hút nhiều lao động nhưng tay nghề lao động chưa cao. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa do nguồn vốn ít nên đầu tư vào tài sản cố định cũng ít, họ thường tận dụng lao động thay thế cho vốn. Đặc biệt là những nước lực lượng lao động dồi dào và nhân công rẻ để tiến hành sản xuất kinh doanh. Chi phí trung bình để tạo ra một chỗ làm trong doanh nghiệp nhỏ và vừa thường chỉ bằng 10% doanh nghiệp lớn. Một trong những khó khăn hiện nay, các doanh nghiệp nhỏ và vừa phải gặp là thiếu đội ngũ lao động có trình độ, có khả năng đáp ứng yêu cầu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Trình độ học vấn ở các doanh nghiệp nhỏ và vừa rất thấp. Do quy mô nhỏ lại thiếu vốn nên hầu như các doanh nghiệp nhỏ và vừa không đủ kinh phí để đầu tư, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của người lao động ngay cả khi chủ doanh nghiệp có tầm nhìn chiến lược về đào tạo nguồn nhân lực và không thu hút được nguồn nhân lực có chất lượng cao. Trong số 30% lao động có chuyên môn thì có 8% lao động có trình độ cao đẳng, đại học. Chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa có trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống chiếm 55.63%, có 40.81% chủ doanh nghiệp có trình độ đại học trở lên nhưng họ cũng ít được đào tạo về kiến thức kinh tế và quản trị doanh nghiệp. Như vậy, chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa thiếu kinh nghiệm về mọi mặt từ khả năng quản lý đến hiểu biết về công nghệ và thị trường. Họ thường chỉ quan tâm lợi nhuận trước mắt mà thiếu quan tâm nhìn chiến lược dài hạn để phát triển doanh ngiệp. Có tới 80% doanh nghiệp nhỏ và vừa hướng vào khai thác chế biến nguyên liệu tại chỗ, chế biến nông sản thực thẩm, gỗ, sản xuất gạch ngói, dệt may… Người lao động có tay nghề kém, ít có đào tạo cơ bản, chủ yếu được truyền theo kiểu cha truyền con nối. Lao động phổ thông, trình độ tay nghề còn đơn giản, chưa được đào tạo chiếm 55-65% lực lượng lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 1.1.3 Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế Khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước mà vai trò của nó cũng được thể hiện khác nhau. Đối với các nước công nghiệp phát triển cao, các tập đoàn kinh tế lớn chi phối nền kinh tế, nhưng doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn có vai trò quan trọng trên các mặt. Ở Nhật Bản, doanh nghiệp vừa và nhỏlà một nguồn lực đảm bảo sức sống của nền kinh tế, là bộ phận hợp thành quan trọng của cơ cấu quy mô nhiều tầng của các công ty lớn xuyên quốc gia. Đối với các nước đang phát triển, ngoài vai trò là bộ phận hợp thành của nền kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp nhỏ và vừa còn đóng vai trò hết sức quan trọng. Đặc biệt là đối với nước ta trong giai đoạn tham gia hội nhập quốc tế. Nền kinh tế chậm phát triển, nguồn ngân sách của chính phủ hạn hẹp, các doanh nghiệp nhà nước đang chiếm thị phần lớn trong thị trường nhưng hoạt động kinh doanh yếu kém. Chính vì vậy các nguồn lực xã hội bị lãng phí nghiêm trọng. Việc tạo điều kiện thuận lợi, bình đẳng để các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển đã thành yêu cầu khách quan hết sức quan trọng, nhằm tận dụng tối đa hiệu quả các nguồn lực trong nước. Hơn nữa, sự xuất hiện của các doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ tăng sức ép cạnh tranh, buộc các doanh nghiệp lớn phải nhìn nhận lại "mình" và phải luôn cải tiến về công nghệ cũng như cách thức quản trị để tồn tại và phát triển. Từ đó nền kinh tế được hoàn thiện về cơ cấu các thành phần kinh tế, môi trường cạnh tranh trở nên sôi động và linh hoạt. Các nguồn lực được chu chuyển với tốc độ lớn, giúp nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả. Phục vụ cho quá trình Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giải quyết các vấn đề xã hội. Cụ thể: 1.1.3.1 Doanh nghiệp nhỏ và vừa có khả năng tận dụng các nguồn lực xã hội Về tiềm lực vốn: Nhờ sự đa dạng hoá trong các loại hình sản xuất kinh doanh, khởi sự bằng nguồn vốn hạn hẹp. Doanh nghiệp nhỏ và vừa thu hút được đông đảo người dân tham gia. Do đó, các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư được đưa vào đầu tư sản xuất kinh doanh, hạn chế tiêu dùng không sinh lợi. Từ đó các nguồn vốn được sử dụng một cách hiệu quả đóng góp lớn vào sự Với phương diện mặt hàng sản xuất kinh doanh: dù một nền kinh tế có phát triển đến đâu thì thị trường cũng luôn có "khe hở" để các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thừa cơ xâm nhập. Bởi vì với các doanh nghiệp lớn, tập đoàn có nhiều lĩnh vực kinh doanh, mặt hàng. Nếu họ kinh doanh sẽ kém hiệu quả mà ít lợi nhuận, vì vậy họ sẽ bỏ qua. Nhưng với quy mô nhỏ thì doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ kinh doanh hiệu quả và đem lại lợi nhuận có giá trị đối với họ. Hơn nữa các doanh nghiệp lớn, tập đoàn rất khó chiếm lĩnh 100% thị trường, vì để đạt được mục đích đó thì họ sẽ phải bỏ ra chi phí rất lớn để cạnh tranh và từ đó đạt được lợi nhuận tối ưu. Tóm lại sự tham gia sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa làm tăng khả năng tận dụng các nguồn lực xã hội, làm phong phú đa dạng các chủng loại hàng hoá dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân. Về lao động: Mặc dù số lượng lao động ở từng doanh nghiệp không nhiều nhưng doanh nghiệp nhỏ và vừa lại chiếm khoảng 90-99% tổng số lượng các doanh nghiệp cả nước. Do đó tổng số lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỉ lệ đáng kể từ 60-85%. Doanh nghiệp nhỏ và vừa thường nhằm vào mục tiêu sản xuất kinh doanh phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, sử dụng nhiều lao động, ít vốn với chi phí thấp nên phần lớn lao động trong khu vực này không đòi hỏi trình độ cao, mất nhiều thời gian đào tạo và chi phí tốn kém mà chỉ cần bồi dưỡng hoặc đạo tạo ngắn hạn, ngắn ngày là người lao động có thể tham gia sản xuất trong doanh nghiệp. Khi những doanh nghiệp lớn ứng dụng công nghệ tự động hoá, lao động phổ thông dư thừa, cầu lao động phổ thông đối với doanh nghiệp giảm mạnh. Doanh nghiệp nhỏ và vừa chính là nơi thu hút, tiếp nhận và đảm bảo thu nhập cho họ. Có thể nói doanh nghiệp nh v vừa là "van điều hoà lao động" trong x h i. Đóng góp rất lớn vào vấn đề giảm thất nghiệp, vốn là căn bệnh kinh niên của nền kinh tế thị trường. Trong tiến trình đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước hiện nay, đã xuất hiện một bộ phận không nhỏ lao động dư thừa, với những kinh nghiệm đã tích luỹ trong quá trình lao động, họ có thể thành lập các doanh nghiệp nhỏ hay tìm kiếm việc làm tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Những người lao động này có thể đóng góp quan trọng vào sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Như vậy trong xã hội đã hình thành một cơ cấu phân tầng trình độ lao động, làm cho nguồn nhân lực của xã hội được tận dụng triệt để. Từ đấy làm động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế và giải quyết các vấn đề về chính trị xã hội khác. Về kĩ thuật: Doanh nghiệp nhỏ và vừa thường lựa chọn kĩ thuật phù hợp với trình độ lao động, khả năng về vốn. Họ kết hợp kĩ thuật thủ công với kĩ thuật mà người lao động có thể nhanh chóng tiếp thu và làm chủ trong sản xuất. Tuy sử dụng công nghệ kỹ thuật cũ thì họ vẫn có thể dùng nhiều nhân công giá rẻ để tăng số lượng sản phẩm. Khi có điều kiện về vốn, nguồn nhập công nghệ mới thì họ cũng dễ dàng chuyển giao công nghệ với giá đánh đổi cho việc bỏ cộng nghệ, máy móc thiết bị cũ không cao. Như vậy sự thích ứng với công nghệ kỹ thuật của DNNVV năng động hơn các doanh nghiệp lớn rất nhiều. 1.1.3.2 Tạo sự phát triển giữa các vùng, góp phần to lớn vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế Doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể phát triển khắp mọi nơi lấp vào những khoảng trống của doanh nghiệp lớn, tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng. Mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa là phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân là chủ yếu, sử dụng nhiều lao động. Do đó giải quyết được tình trạng thất nghiệp ở các địa phương. Là một nước đi lên từ kinh tế nông nghiệp, Việt Nam có nhiều làng nghề thủ công truyền thống nổi tiếng. Trong thời gian gần đây, các làng nghề này đã thu hút được sự đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Điều đó đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, thực hiện các chương trình xoá đói giảm nghèo, tạo ra sự phát triển đồng đều, bền vững giữa các vùng. Đây cũng là biện pháp hữu hiệu thực hiện tích luỹ vốn quá trình Công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã hình thành nên những vùng sản xuất lớn, nhiều làng nghề xuất hiện. Việc phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ góp phần tham gia tăng sản phẩm hàng hóa tinh chế, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường, thúc đẩy các nghành nghề phát triển. Quá trình phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa là quá trình tích tụ và tập trung vốn, tìm kiếm và mở rộng thị trường để trở thành các doanh nghiệp lớn. Hầu hết các doanh nghiệp lớn đều trải qua quy mô nhỏ và vừa trừ những doanh nghiệp lớn thuộc sở hữu của nhà nước. Chính vì vậy thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của địa phương. Trong thời gian qua, cùng với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, hệ thống thủ tục hành chính ngày càng thông thoáng. Đặc biệt chính sách thành lập doanh nghiệp chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm đã thúc đẩy khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam có bước phát triển cả vế số lưỡng lẫn chất lượng, đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế của cả nước. Theo số liệu thống kê: mỗi năm doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp khoảng 25% đến 29% GDP cả nước. Vốn kinh doanh của khu vực nhỏ và vừa chiếm 4% so với vốn kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp. 1.1.3.3 Đóng góp quan trọng vào GDP và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Sự phát triển nhanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa cả số lượng lẫn chất lượng đã đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và tăng thu nhập của cả nước. Số lượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng lên rất lớn, đồng thời với sự nỗ lực của nhà nước tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng. Nên nền kinh tế thị trường của nước ta trong thời gian qua phát triển rất mạnh mẽ. Môi trường kinh doanh được cải thiện, các doanh nghiệp phải cạnh tranh gay gắt hơn để tồn tại và phát triển. Từ đấy thúc đẩy hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường không có tình trạng kinh doanh độc quyền, họ dễ dàng và chấp nhận tự do cạnh tranh. Tự do cạnh tranh là con đường tốt nhất để phát huy mọi tiềm lực. Sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn đầu là phương thức tốt nhất để sản xuất thay thế nhập khẩu với mức chi phí đầu tư thấp, kĩ thuật không phức tạp, sản phẩm phù hợp với sức mua của dân, từ đó tăng năng lực sản xuất và sức mua của thị trường. Doanh nghiệp nhỏ và vừa thường chỉ tiến hành một vài công đoạn trong quá trình sản xuất của một sản phẩm hoàn chỉnh mà các công đoạn này phải kết hợp với nhau mới có thể đưa sản phẩm ra thị trường. Do đó các doanh nghiệp phải tự hoàn thiện bản thân mình và tiến hành hợp tác sản xuất nếu không sẽ bị đào thải. Quá trình phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng là quá trình cải tiến máy móc thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Đến một mức độ nào đó dẫn đến đổi mới công nghệ, làm quá trình Công nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra ở cả chiều rộng và chiều sâu. Với những ưu thế về nghành nghề, tính nhạy cảm thị trường cao, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có nhiều ưu thế trong việc sản xuất và cung ứng các sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Ở một số nước doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia xuất khẩu chiếm tỉ trọng đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu từ 30-50%. Doanh nghiệp nhỏ và vừa có nhiều điều kiện thuận lợi tham gia sản xuất gia công chế biến hàng hoá xuất khẩu trong các nghành thủ công mỹ nghệ truyền thống, chế biến nông hải sản. Các doanh nghiệp lớn do hạn chế về khu vực và phương pháp tổ chức chưa thích ứng để chiếm lĩnh thị trường, thường thông qua các doanh nghiệp nhỏ và vừa để thực hiện các công đoạn gia công chế biến. Một số doanh nghiệp nhỏ và vừa có khả năng đầu tư công nghệ, sản xuất nhiều sản phẩm có tính cạnh tranh, tìm kiếm được thị trường trực tiếp tham gia xuất khẩu. 1.2 TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Tín dụng là quan hệ vay mượn, sử dụng vốn của nhau trên nguyên tắc hoàn trả và tin tưởng. Thông qua vận động của giá trị, vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ hoặc hàng hoá. Quá trình vận động tín dụng trải qua 3 giai đoạn: giai đoạn đầu tiên của vốn tín dụng được chuyển từ người sở hữu sang người sử dụng vốn. Vốn này được sử dụng để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng trong một khoảng thời gian nhất định. Sau một khoảng thời gian cam kết, có thể khi kết thúc một chu kỳ sản xuất, vốn tín dụng được người sử dụng hoàn trả cho người sở hữu một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu, gồm gốc và lãi. Hoạt động tín dụng có thể diễn ra trực tiếp giữa người có nhu cầu sử dụng vốn và những người dư thừa vốn, muốn cho vay kiếm lãi. Nhưng do nguyên tắc đặc thù của quan hệ tín dụng đó là hoàn trả và sự tin tưởng. Sự giới hạn về không gian, thời gian, quy mô…Nên quan hệ tín dụng này bị hạn chế. Để khắc phục nhược điểm của quan hệ tín dụng trực tiếp, đáp ứng hiệu quả nhu cầu sử dụng vốn của nền kinh tế, tín dụng ngân hàng đã ra đời. Các ngân hàng huy động các nguồn vốn nhàn rỗi của những người thăng dư vốn, đồng thời tiến hành cung cấp vốn cho người có nhu cầu sử dụng vốn với lãi suất cao hơn nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Như vậy tín dụng ngân hàng đóng vai trò là một kênh huy động vốn hết sức quan trọng của nền kinh tế. Nó thúc đẩy chu kỳ chu chuyển vốn diễn ra nhanh hơn mạnh hơn. 1.2.1 Quy trình nghiệp vụ tín dụng Quy trình nghiệp vụ cho vay được bắt đầu từ khi cán bộ tín dụng trực tiếp tiếp nhận hồ sơ khách hàng đến khi tất toán thanh lý hợp đồng tín dụng, được tiến hành theo 3 bước: -Thẩm định trước khi cho vay -Kiểm tra giám sát trong khi vay -Kiểm tra giám sát, tổ chức thu hồi nợ sau khi cho vay a) Sơ đồ tóm tắt quy trình tiếp nhận vốn vay,quy trình đánh giá và thẩm định : b) Quy trình thẩm định tín dụng: Là quá trình cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định nghiên cứu và thẩm định hồ sơ vay vốn theo những nội dung: - Tìm hiểu và phân tích về khách hàng, tư cách và năng lực pháp lý, năng lực điều hành, năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, mô hình tổ chức, bố trí lao động trong doanh nghiệp. - Thẩm định đánh giá khả năng tài chính - Phân tích quan hệ với khách hàng. - Phân tích, thẩm định dự án đầu tư, phương án sản xuất - Dự kiến lợi ích của ngân hàng nếu khoản vay được phê duyệt - Các biện pháp đảm bảo tiền vay Phỏng vấn Từ chối Đánh giá sơ bộ Đạt yêu cầu Kiểm tra lịch sử tín dụng Cung cấp mẫu hồ sơ Hỗ trợ khách hàng hoàn thiện hồ sơ nếu cần thiết Kiểm tra hồ sơ Đạt yêu cầu Đạt yêu cầu Chấp nhận hồ sơ Chuyển sang quy trình thẩm định tín dụng Không đạt Không đạt Yêu cầu bổ sung thêm thông tin Hoãn/yêu cầu thêm thông tin - Lập báo cáo thẩm định cho vay - Xây dựng phương thức và nhu cầu cho vay - Xem xét, khả năng nguồn vốn và điều kiện thanh toán của chi nhánh, hội sở chính - Phê duyệt khoản vay - Kí kết hợp đồng tín dụng, hợp đồng đảm bảo tiền vay, giao nhận giấy tờ và tài sản bảo đảm. Tóm lại, khi tài trợ cho khách hàng, cán bộ tín dụng, các bộ phận liên quan phải thực hiện các bước trong quy trình phân tích tín dụng. Quy trình tín dụng là q._.uá trình tiếp xúc, phân tích, cho vay thu nợ với khách hàng được chuẩn hoá nhằm xác định rủi ro và các biện pháp hạn chế rủi ro. Quy trình tín dụng càng nhanh, tiết kiệm chi phí sẽ đảm bảo được tính cạnh tranh cho ngân hàng vì như vậy sẽ đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp. Trong quy trình phân tích tín dụng, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa như: khả năng thẩm định của cán bộ tín dụng, hiệu quả của hệ thống công nghệ, cung cấp thông tin, quy trình xét việc… Cán bộ tín dụng có trình độ, kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp cao thì khả năng thẩm định sẽ hạn chế được mức độ rủi ro cho ngân hàng. Hệ thống công nghệ thông tin không những ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng mà còn ảnh hưởng đến chất lượng của tất cả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Hệ thống công nghệ càng tiên tiến, phù hợp với xu thế thị trường thì hiệu quả kinh doanh càng tăng, thu hút được nhiều khách hàng. 1.2.2 Sự cần thiết mở rộng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động kinh doanh cơ bản sinh lời lớn nhất cho ngân hàng. Hiện nay các ngân hàng đã và đang xác định thay đổi chiến lược, cơ cấu doanh thu, tăng tỉ lệ thu từ dịch vụ. Tuy nhiên hoạt động tín dụng vẫn tiếp tục được mở rộng trên cơ sở kiểm soát rủi ro tín dụng. Hiện nay đất nước ta đang trên đà phát triển, tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm xấp xỉ 7-9%. Hơn nữa thủ tục đăng kí thành lập doanh nghiệp chuyển từ chính sách tiền kiểm sang chính sách hậu kiểm, đã thúc đẩy mạnh mẽ các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển bùng nổ về số lượng cũng như chất lượng. Môi trường kinh doanh ngày càng công bằng, lành mạnh hoá đã tạo động lực hết sức thuận lợi để cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển mạnh mẽ. Vì vậy nhu cầu vốn của khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng mạnh. Đây là thị trường "màu mỡ" mà các ngân hàng cần phải hướng tới. Tuy sức chịu đựng cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa là kém, tuổi thọ trung bình của các doanh nghiệp nhỏ và vừa thấp. Nhưng trong môi trường kinh doanh thuận lợi của đất nước ta hiện nay. Nếu ngân hàng tuân thủ nhạy bén về nguyên tắc an toàn tín dụng khi cho vay thì xét một cách tổng thể ngân hàng sẽ tìm kiếm được lợi nhuận rất lớn. Đồng thời điều tiết giảm sự chi phối của một vài tập đoàn, doanh nghiệp lớn. Từ đó giảm khả năng rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Các ngân hàng thương mại với những ưu thế về khả năng tài chính, tính chuyên môn hoá nghề nghiệp, phạm vi hoạt động rộng… là trung gian tài chính quan trọng trên thị trường tài chính. Ở Việt Nam vai trò trung gian tài chính của ngân hàng càng thể hiện rõ. Khi thị trường chứng khoán mới đang hình thành và phát triển, số lượng doanh nghiệp niêm yết còn ít, khối lượng vốn đầu tư thông qua thị trường tài chính hầu như không đáng kể. Khi có nhu cầu về vốn, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường tìm đến nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Doanh nghiệp nhỏ và vừa ngày càng phát triển đóng góp lớn vào sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp liên tục phát sinh các nhu cầu sản xuất, duy trì và mở rộng kinh doanh. Những nhu cầu đó của doanh nghiệp đều cần đến vốn. Thực tế, nguồn vốn chủ sỡ hữu của doanh nghiệp nhỏ và vừa không đáp ứng được các nhu cầu này, phần lớn doanh nghiệp phải dựa vào nguồn vốn nợ trong đó có vốn tín dụng ngân hàng. Số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng nhiều và hoạt động ngày càng có hiệu quả. Chính vì thế, thị trường hoạt động của các ngân hàng thương mại đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa có nhiều tiềm năng phát triển được hầu hết các ngân hàng khai thác. Khi quan hệ tín dụng với ngân hàng, các doanh nghiệp thường có nhu cầu sử dụng các sản phẩm dịch vụ khác của ngân hàng như: thanh toán, trả lương qua tài khoản, tư vấn… Như vậy, đồng thời với hoạt động tín dụng, các hoạt động dịch vụ khác của ngân hàng cũng phát triển, góp phần tăng doanh thu và lợi nhuận, quảng bá rộng rãi hình ảnh của ngân hàng. Tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp này phát triển mạnh mẽ tác động tích cực đến nền kinh tế nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Khi doanh nghiệp nhận tài trợ, ngân hàng sẽ có những biện pháp kiểm soát hoạt động liên quan đến khoản vay của doanh nghiệp. Nhờ vậy, thúc đẩy doanh nghiệp hoạt động với hiệu quả, nâng cao khả năng hạch toán kinh doanh, khả năng tổ chức sản xuất, tạo động lực tìm kiếm đầu vào, đầu ra. Cùng với sự phát triển của công nghệ ngân hàng, hoạt động thanh toán diễn ra nhanh chóng, an toàn nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu. Các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng thị trường, tiếp nhận các dây chuyền công nghệ, máy móc, thiết bị đẩy mạnh hoạt động kinh doanh. Tín dụng ngân hàng cũng tác động mạnh mẽ đến việc tiêu thu sản phẩm thông qua việc mở rộng tín dụng tiêu dùng, cho vay hoặc bảo lãnh cá nhân, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực lưu thông, mua bán hàng hoá. Thông qua việc cung ứng tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế, ngân hàng dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn thị trường. Tín dụng ngân hàng tác động điều tiết sự chuyển vốn đàu tư vào những nghành có tỉ suất lợi nhuận cao, hạn chế hoặc không đầu tư vào những nghành có tỉ suất lợi nhuận thấp. Qua đó, quan hệ cung cầu hàng hoá thay đổi và thay đổi cơ cấu nền kinh tế. Với đặc điểm năng động, nhạy bén với sự thay đổi của môi trường kinh doanh, khi có sự thay đổi về cung cầu hàng hoá trên thị trường, các doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ nhanh chóng chuyển đổi đầu tư đáp ứng nhu cầu thị trường. 1.2.3 Các hình thức tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa Hoạt động tín dụng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất nhưng đồng thời cũng đem đến nhiều lợi nhuận nhất trong hoạt động của ngân hàng thương mại. Để sử dụng và quản lý hoạt động này có hiệu quả, cũng như đảm bảo an toàn cho hoạt động của toàn ngân hàng, các ngân hàng thường tiến hành phân loại tín dụng theo các chiêu thức khác nhau. 1.2.3.1 Phân loại theo hình thức cấp tín dụng +) Cho vay "Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền nhất định để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi". Hoạt động cho vay chiếm phần lớn tổng tài sản và nguồn thu của ngân hàng, đồng thời những rủi ro trong hoạt động ngân hàng chủ yếu tập trung vào danh mục các khoản vay. Nghiệp vụ cho vay cũng bao gồm nhiều loại khác nhau trong đó có: Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay phổ biến đối với khách hàng không có nhu cầu thường xuyên, vốn vay ngân hàng chỉ tham gia một giai đoạn nhất định của chu kì sản xuất kinh doanh. Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng phải làm thủ tục vay vốn cần thiết. Ngân hàng sẽ xác định quy mô cho vay, thời hạn trả nợ, thời hạn giải ngân, lãi suất và yêu cầu các điều kiện khác nếu cần. Mỗi nhóm vay được tách biệt thành các hồ sơ khác nhau và ngân hàng kiểm soát cách biệt từng hồ sơ đó. Cho vay thấu chi: là nghiệp vụ qua đó ngân hàng cho phép người vay chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và khoản thời gian nhất định. Hình thức này chỉ sử dụng đối với khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn, phần lớn không có đảm bảo. Cho vay theo hạn mức: là nghiệp vụ theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng và duy trì hạn mức này trong một thời gian nhất định. Trong kì, mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, cung cấp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ phù hợp với yêu cầu vay. Ngân hàng sẽ dựa trên tính chất hợp pháp, hợp lệ của các tài liệu này để phát tiền cho khách hàng. Đây là hình thức cho vay thuận tiện đối với những khách hàng thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng không ấn định thời hạn trả nợ. Khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo sự chủ động trong quản lý ngân quỹ của khách hàng. Nhưng do các lần vay không tách biệt thành các kì hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng trong từng lần vay. Cho vay gián tiếp: đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian, áp dụng với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán cách xa ngân hàng. Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang tổ chức trung gian. Tổ chức trung gian cũng có thể đứng ra bảo lãnh cho các thành viên vay vốn, cho vay qua trung gian tiết kiệm được chi phí cho vay, giảm bớt rủi ro cho ngân hàng. Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên sự luân chuyển của hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc đầu quý doanh nghiệp làm đơn vay luân chuyển và thoả thuận với ngân hàng về hình thức, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Ngân hàng và doanh nghiệp phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá để dự đoán ngân quỹ trong thời gian tới. Đối tượng ngân hàng cho vay là giá trị hàng hoá mua vào và nguồn chi trả là thu nhập bán hàng. Khi vay, doanh nghiệp gửi đến ngân hàng các chứng từ hoá đơn nhập hàng và số tiền cần vay. Ngân hàng sẽ cho vay theo tỉ lệ nhất định tuỳ theo khối lượng và chất lượng quan hệ của doanh nghiệp. Các khoản hàng hoá trong kho trở thành vật đảm bảo cho khoản vay. Hình thức này thường áp dụng với các doanh nghiệp thương nghiệp, doanh nghiệp sản xuất có chu kì tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng. +) Bảo lãnh: là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như đã cam kết. Đây là hình thức tài trợ thông qua uy tín, ngân hàng không xuất tiền ngay khi bảo lãnh mà chỉ khi khách hàng không thực hiện cam kết thì ngân hàng có trách nhiệm chi trả cho bên thứ ba. Hình thức tài trợ này tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính và san sẻ rủi ro cho các bên liên quan. Đối với đối tượng được bảo lãnh thì có thể tìm kiếm được nguồn tài trợ mới, thực hiện được hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi. Đối với ngân hàng, có thể tăng thu nhập thông qua việc tăng thu phí bảo lãnh, mở rộng dịch vụ khác của ngân hàng. Bảo lãnh góp phần giảm bớt thiệt hại cho bên thứ ba khi có tổn thất xảy ra. Hình thức bảo lãnh cũng đa dạng tuỳ thuộc vào mục tiêu bảo lãnh bao gồm: bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh đối ứng, bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm. Cho thuê: hoạt động cho vay là hoạt động chủ yếu của ngân hàng cho khách hàng nhưng trong một số trường hợp khách hàng không đủ điều kiện vay vốn. Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, ngân hàng sẽ mua tài sản theo yêu cầu của khách hàng để cho thuê lại. Đây là phương thức vay tài sản thông qua hợp đồng cho thuê, kèm theo lời hứa đơn phương. Bán cho người cho thuê một giá nhất định có tính đến số tiền thuê đã trả. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng phải xuất tiền theo yêu cầu của khách hàng và sau một thời gian nhất định phải thu đủ gốc và lãi, tài sản cho thuê thường là các tài sản cố định. Hoạt động tài trợ này chứa đựng nhiều rủi ro, khách hàng có thể kinh doanh không hiệu quả, tài sản cho thuê mang tính đặc chủng, khó bán hay cho thuê lại… 1.2.3.2 Phân loại theo thời hạn +) Tín dụng ngắn hạn Tín dụng ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm. Xuất phát từ đặc trưng của hoạt động kinh doanh ngân hàng là kinh doanh tiền gửi, trong đó chủ yếu là tiền gửi ngắn hạn nên các khoản tín dụng ngân hàng thường tài trợ ngắn hạn để đảm bảo khả năng thanh toán. Đối với tín dụng ngắn hạn, nguồn vốn của ngân hàng gắn liền với quá trình luân chuyển vốn của doanh nghiệp, đây cũng là cơ sở để ngân hàng xác định thời hạn cho vay hợp lý. Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, góp phần phân tán rủi ro và tăng cường khả năng cạnh tranh, các ngân hàng không ngừng phát triển đa dạng hoá các hình thức tín dụng ngắn hạn: cho vay trực tiếp, cho vay gián tiếp, cho vay theo món, cho vay theo hạn mức… Doanh nghiệp là đối tượng khách hàng chủ yếu của ngân hàng, thông thường các khoản tín dụng đều có tài sản bảo đảm +) Tín dụng trung và dài hạn Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần một nguồn vốn lớn với thời hạn dài để mở rộng quy mô, đầu tư trang thiết bị, công nghệ, nhằm tăng cường sức sản xuất và cạnh tranh trên thị trường. Các doanh nghiệp thường tìm đến các ngân hàng tìm kiếm tài trợ thông qua tín dụng trung và dài hạn, đó là những khoản tín dụng có thời hạn trên một năm. Những khoản tín dụng có thời hạn từ một đến năm năm được coi là tín dụng trung hạn, trên năm năm được coi là tín dụng dài hạn. Cùng với sự phát triển kinh tế, nhu cầu vốn trung và dài hạn ngày càng tăng, hơn nữa nguồn vốn trung và dài hạn tạo điều kiện cho doanh nghiệp có một khoảng thời gian dài để sản xuất kinh doanh và lập kế hoạch trả nợ. Nên hình thức tín dụng này được các doanh nghiệp ưa dùng. Tín dụng trung và dài hạn tạo ra một năng lực sản xuất mới hoặc nâng cao năng lực hiện tại của doanh nghiệp. Đối tượng chủ yếu của nó là vốn cố định của doanh nghiệp, các chi phí hình thành cơ sở vật chất, kĩ thuật của doanh nghiệp nên giá trị của khoản tín dụng càng lớn, thời gian hoàn vốn chậm, mức rủi ro cao. Các ngân hàng thường tài trợ cho doanh nghiệp thông qua các dự án, ngân hàng phải phân tích dự án kĩ lưỡng trước khi quyết định tài trợ. 1.2.3.3 Phân loại theo mức độ đảm bảo +) Tín dụng có đảm bảo Thông thường các khoản tín dụng của ngân hàng đều có tài sản đảm bảo, đó là những tài sản của người nhận tín dụng hay tài sản, uy tín của người thứ ba. Tài sản đảm bảo gánh trách nhiệm vật chất của người nhận tín dụng trong việc sử dụng vốn của ngân hàng, ngăn ngừa hạn chế rủi ro, đảm bảo an toàn vốn cho ngân hàng trong trường hợp khách hàng không trả được nợ. +) Tín dụng không có đảm bảo Hình thức tín dụng này chiếm tỉ lệ không nhiều trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Đây là hình thức tín dụng không có tài sản hoặc bảo lãnh của người thứ ba. Đối tượng chủ yếu là những khách hàng thực hiện những dự án đầu tư thuộc chương trình kinh tế đặc biệt, chương trình kinh tế trọng điểm của Nhà nước, chương trình kinh tế xã hội. Những khoản vay đối với công ty lớn, khoản vay trong thời hạn ngắn mà ngân hàng có khả năng kiểm soát việc bán cũng có thể không cần sử dụng tài sản đảm bảo. Ngoài ra ngân hàng có thể cung cấp cho ngân hàng có uy tín thường là khách hàng có quan hệ truyền thống với ngân hàng, làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn chủ sở hữu… 1.2.4 Nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa 1.2.4.1 Các nhân tố từ phía ngân hàng +) Chính sách tín dụng của ngân hàng Đó là toàn bộ các vấn đề có liên quan đến cấp tín dụng nói chung như: quy mô, lãi suất, kì hạn, đảm bảo, phạm vi… Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, là hướng dẫn chung cho các cán bộ tín dụng và các bộ phận liên quan, tương cường chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời. Chính sách khách hàng: Mỗi ngân hàng đều tiến hành phân loại khách hàng và lựa chọn đối tượng khách hàng mục tiêu. Đối với những khách hàng mục tiêu ngân hàng thường có những chính sách ưu đãi tuỳ thuộc vào thời điểm cụ thể và lịch sử quan hệ của khách hàng với ngân hàng… Đối với những nghành đang phát triển ổn định, bền vững và được nhà nước phát triển thường có những chính sách ưu đãi về lãi suất, phí suất tín dụng, nới lỏng những điều kiện về đảm bảo tín dụng. Chính sách quy mô và giới hạn tín dụng: Mức độ tài trợ của ngân hàng dựa trên nhu cầu của khách hàng và sự tính toán của ngân hàng về sự phù hợp, mức độ rủi ro, sinh lời. Các ngân hàng khi tài trợ thường quan tâm đến tình hình tài chính của khách hàng vì đây là cơ sở quan trọng đảm bảo hoàn trả các khoản nợ cho ngân hàng. Đối với những khách hàng có tiềm lực tài chính không tốt, ngân hàng ít muốn tài trợ. Ngoài ra ngân hàng cũng có những quy định về quy mô và giới hạn tín dụng như quy mô tín dụng tối đa mà giám đốc được duyệt, quy mô tín dụng dựa trên các loại tài sản đảm bảo khác nhau… Những quy định có tính thời kì và đảm bảo quy mô, tài chính nguồn vốn của mỗi ngân hàng. Giới hạn tín dụng đối với khách hàng phụ thuộc vào khối lượng vốn tự có của ngân hàng và khách hàng, ngoài ra còn phụ thuộc vào giá trị tài sản đảm bảo. Hoạt động tín dụng luôn chứa đựng nhiều rủi ro mà ngân hàng và khách hàng không lường trước được. Do đó khi cấp tín dụng cho khách hàng, ngân hàng phải thực hiện các đảm bảo tín dụng như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh của bên thứ ba. Đối với những khách hàng không thể đảm bảo tín dụng dưới các hình thức này thì ngân hàng tài trợ không có tài sản đảm bảo. Mức tài trợ xác định trên cơ sở quy mô về vốn, vốn tự có của khách hàng, vị thế uy tín của khách hàng trên thị trường và ngân hàng. Lãi suất và phí suất tín dụng: Lãi suất tín dụng là giá cả của khoản tín dụng đó, ảnh hưởng đến chi phí vốn của khách hàng. Ngân hàng có thể áp dụng các hình thức và mức lãi suất khác nhau để đảm bảo được khả năng sinh lời và khả năng cạnh tranh của ngân hàng, ngoài ra còn cân nhắc đến mức độ rủi ro. Thời hạn tín dụng và kì hạn trả nợ: Thời hạn tín dụng là khoảng thời gian kể từ khi ngân hàng bắt đầu tài trợ đến khi ngân hàng thu hết nợ. Thời hạn tín dụng càng dài thì mức độ rủi ro của ngân hàng càng lớn và chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp càng cao. Kì hạn trả nợ liên quan đến những tính toán các nguồn thu của khách hàng có thể dùng để trả nợ. Số lần trả nợ trong kì càng tăng làm tăng mật độ luồng tiền vào, giảm kì hạn trung bình nhưng sẽ làm tăng chi phí thu nợ cho ngân hàng nếu khách hàng không có tài khoản tại ngân hàng. Các tài sản đảm bảo: Ngân hàng chấp nhận những tài sản có khả năng bán được đảm bảo. Ngân hàng đưa ra mức phán quyết tín dụng thích hợp thông qua định giá tài sản đảm bảo. Tỉ lệ tài trợ trên tài sản đảm bảo phụ thuộc vào khả năng bán, khả năng thay đổi giá trị thị trường của vật đảm bảo. Trường họp tài trợ dựa trên uy tín của khách hàng, ngân hàng có thể cho vay không cần tài sản đảm bảo. Một nguyên nhân làm hạn chế khả năng vay vốn của doanh nghiệp nhỏ và vừa là thủ tục về kiểm tra, đánh giá tài sản đảm bảo vẫn còn phức tạp. Một số doanh nghiệp có tài sản thế chấp nhưng không vay được vốn vì cán bộ ngân hàng định giá quá thấp so với giá trị tài sản thực tế mà họ đem thế chấp. Doanh nghiệp nhỏ và vừa được vay tín chấp rất ít, tỉ lệ tín chấp thấp. 1.2.4.2 Nhân tố từ phía doanh nghiệp nhỏ và vừa +) Năng lực tài chính: Năng lực tài chính là cơ sở đảm bảo tính tự chủ trong hoạt động kinh doanh, khả năng cạnh tranh trên thị trường và đảm bảo khả năng hoàn trả các khoản nợ trong tương lai. Ngân hàng thường dựa vào các chỉ tiêu phân tích tài chính để đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp. Thông qua các báo cáo tài chính mà doanh nghiệp cung cấp, ngân hàng tiến hành tính toán các chỉ tiêu và so sánh chỉ tiêu giữa các năm, giữa các doanh nghiệp trong nghành để nắm bắt tình hình nội bộ của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nhỏ và vừa có mức vốn không cao, năng lực tài chính hạn chế, hiện nay tỉ lệ doanh nghiệp có mức vốn dưới 5 tỉ đồng chiếm 90% thì cơ hội tiếp cận các nguồn vốn càng thấp hơn. Khi phân tích các chỉ số tài chính, doanh nghiệp nhỏ và vừa thường không đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. +) Tài sản đảm bảo Tài sản đảm bảo là một trong những căn cứ quan trọng để ngân hàng xác định mức tín dụng cho khách hàng. Ngân hàng dựa trên giá trị và tỉ lệ tài trợ của tài sản đảm bảo, để quyết định mức tài trợ phù hợp. Với những loại tài sản khác nhau có tỉ lệ tài trợ khác nhau tuỳ thuộc tính thanh khoản, sự biến động giá, độ an toàn… Khi ngân hàng nắm giữ. Doanh nghiệp nhỏ và vừa thường ít có tài sản có giá trị cao để làm tài sản đảm bảo. Tài sản pháp nhân và cá nhân lẫn lộn, thiếu minh bạch gây khó khăn trong thẩm định đánh giá năng lực của doanh nghiệp. Trong khi đó họ lại không có uy tín đối với ngân hàng trong hiệu quả kinh doanh, ý chí và khả năng trả nợ đúng hạn để được vay tín chấp. +) Phương án sản xuất kinh doanh và dự án vay vốn: Một trong những nguyên tắc của tín dụng, là tiến hành tài trợ dựa trên phương án (dự án) hiệu quả. Phương án, dự án có hiệu quả sẽ đảm bảo nguồn trả nợ cho doanh nghiệp trong tương lai. Ngân hàng thẩm định tính khả thi của dự án dựa trên phân tích những yếu tố đầu vào, đầu ra, thị trường, đối thủ cạnh tranh… Dựa trên phương án, dự án vay vốn, ngân hàng xác định được nhu cầu vốn đầu tư, thời hạn tín dụng, kế hoạch trả nợ. Phương án dự án kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa thường được thiết lập sơ sài, thiếu tính thuyết phục và thiếu căn cứ để ngân hàng thẩm định. Một số mang nặng tính chủ quan, dựa trên kinh nghiệm thuần tuý. +) Cách thức điều hành và quản lý doanh nghiệp Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào năng lực điều hành và quản lý doanh nghiệp. Năng lực này phụ thuộc vào trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, uy tín của đội ngũ cán bộ của doanh nghiệp. Đội ngũ lãnh đạo có chuyên môn, năng lực và kinh nghiệm quản lý thì việc sắp xếp, điều hành doanh nghiệp hoạt động hiệu quả cao, nhạy bén trong việc đưa ra quyết định khi có sự thay đổi thị trường, hạn chế những ảnh hưởng bất lợi đến doanh nghiệp 1.2.4.3 Các nhân tốc ảnh hưởng khác +) Cơ chế và chính sách cửa nhà nước Ngân hàng và các doanh nghiệp nhỏ và vừa đều chịu sự quản lý của nhà nước bằng hệ thống pháp luật, chính sách, tổ chức, các thể chế về kinh tế tài chính và các cộng cụ quản lý. Hệ thống chính sách và cơ chế phù hợp với thực tế thị trường, tạo môi trường kinh doanh và những điều kiện cần và đủ để giúp đỡ khuyến khích các doanh nghiệp, ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn. Những cơ chế chính sách tác động đến hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa bao gồm: hệ thống pháp luật đảm bảo hoạt động của thị trường nói chung và tín dụng ngân hàng cũng như doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng.Ví dụ: các văn bản liên quan đến hoạt động cho vay đối với các tổ chức tín dụng, quy định về đảm bảo tiền vay, văn bản liên quan đến nhưng chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. +) Sự phát triển của nền kinh tế Sự phát triển hệ thống ngân hàng và nền kinh tế có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Quá trình phát triển nền kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng, sự phát triển của hệ thống ngân hàng là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Nền kinh tế phát triển sẽ làm tăng khản năng cạnh tranh, hiệu quả hoạt động của ngân hàng và các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nhu cầu của thị trường cũng tăng lên khi nền kinh tế phát triển kèm theo nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh, thay đổi thiết bị công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm…của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp phải tìm đến nguồn vốn tín dụng ngân hàng, thay đổi thiết bị công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm…của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp phải tìm đến nguồn tín dụng ngân hàng, thúc đẩy hoạt động ngân hàng, thúc đẩy hoạt động ngân hàng phát triển hơn. Ngoài ra còn phải kể đến các nhân tố khác như: tình hình chính trị, sự phát triển của thị trường tài chính, sự phù hợp của chính sách, quy định đối với thông lệ quốc tế… CHƯƠNG II THỰC TRẠNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI SGD I NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 2.1 KHÁI QUÁT VỀ SGD I - NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ & PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 2.1.1 Khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của Sở giao dịch Căn cứ vào quyết định số 76/QĐ-TCCB ngày 28/03/1991 của Tổng giám đốc Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, về việc thành lập sở giao dịch 1 Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam. Căn cứ vào điều lệ tổ chức, hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam ban hành việc quyết định 349/QĐ/NH5 ngày 16/10/1991 của thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Sở giao dịch 1 Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam đã được thành lập nhằm đáp ứng nhu cầu kinh doanh và cạnh tranh trên thị trường, trực tiếp kinh doanh và chịu sự quản lý trực tiếp của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, có trụ sở chính tại 53 Quang Trung, Hà Nội (trụ sở chính của sở giao dịch 1) chuyển về trung tâm thương mại VinCom-191 Bà Triệu từ năm 2005. Quá trình 16 năm hình thành và phát triển của Sở giao dịch 1 có thể chia làm 2 giai đoạn: +) Giai đoạn từ 1991-1994: Đây là giai đoạn Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam thực hiện chức năng của một Ngân hàng Đầu tư và phát triển, chủ yếu cấp phát và cho vay đầu tư xây dựng cơ bản theo kế hoạch nhà nước. Trong giai đoạn này, Sở giao dịch 1 là một đơn vị trực thuộc Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, có nhiệm vụ kinh doanh trực tiếp với các khách hàng thuộc kinh tế trung ương, có trụ sở tại Hà Nội, hoạt động kinh doanh trong toàn quốc. Khách hàng của Sở giao dịch 1 trong giai đoạn này chủ yếu là các tổng công ty, công ty hoạt động trong lĩnh vực xây lắp. Trong giai đoạn này Sở giao dịch 1 hoạt động đối nội như một ban của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, đối ngoại như một chi nhánh. +) Giai đoạn từ 1995 đến nay: Năm 1995 đánh dấu sự thay đổi cơ bản của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam cả về chức năng và mô hình tổ chức với việc chuyển giao nhiệm vụ cấp phát vốn, ngân sách sang tổng cục đầu tư (tách ra từ Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam). Sở giao dịch bắt đầu hoạt động như một ngân hàng thương mại kinh doanh đa năng về lĩnh vực tài chính, ngân hàng, cung cấp các sản phẩm dịch vụ và tiếp tục thực hiện chức năng của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam: đầu tư vào cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế trong giai đoạn này hoạt động của Sở giao dịch 1 trải qua các thời kì sau - Từ năm 1995-1998: đây là thời kì mới bước vào thị trường, bắt đầu thực hiện và đẩy mạnh các nghiệp vụ của một ngân hàng thương mại, nhất là huy động vốn của dân cư bằng các hình thức tiết kiệm, thử nghiệm các hình thức huy động vốn mới, mở rộng cho vay ngắn hạn, cho vay trung dài hạn thương mại song song với cho vay đầu tư xây dựng cơ bản theo kế hoạch của Nhà nước, mở rộng cho vay kinh tế tư nhân. - Từ năm 1998 đến nay: cho đến nay, theo quyết định về hoạt động cũng như việc được hạch toán độc lập của mình, Sở giao dịch 1 hoạt động như một chi nhánh của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam với đầy đủ các chức năng của một đơn vị thành viên lớn trong hệ thống, thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ đặc biệt của mình, thử nghiệm các sản phẩm công nghệ mới. Hoạt động của Sở giao dịch 1 được đa dạng với nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng, luôn được đổi mới và nâng cao chất lượng, đã tạo nên sự phát triển mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng cao trong thời kì này. Nhằm chuẩn bị tốt cho quá trình hội nhập với các ngân hàng khu vực và quốc tế khi đất nước chính thức thực hiện các kí kết gia nhập WTO. 2.1.2 Cơ cấu tổ chức của Sở giao dịch 1: Nhiệm vụ cơ bản của các phòng trong Sở giao dịch 1 hiện nay như sau: Phòng tín dụng I, II, III: phòng tín dụng có nhiều nhiệm vụ quan hệ trực tiếp với khách hàng có nhu cầu tín dụng, nắm giữ các dữ liệu và các khoản tín dụng, đảm bảo cơ sở về khách hàng cũng như các khoản tín dụng. Phòng thanh toán quốc tế: phòng thanh toán quốc tế có nhiệm vụ thực hiện các tác nghiệp trong tài trợ thương mai, phục vụ các giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu cho khách hàng. Mở các L/C có kí quỹ 100% vốn của khách hàng, thực hiện đối ngoại với ngân hàng nước ngoài và là đầu mối cung cấp các thông tin đối ngoại. Phòng tiền tệ kho quỹ: có nhiệm vụ thực hiện các nghiệp vụ tiền tệ, kho quỹ: quản lý nghiệp vụ của chi nhánh, thu chi tiền mặt, quản lý vàng bạc, đá quý kim loại quý. Quản lý chứng chỉ, chứng chỉ có giá, hồ sơ tài sản thế chấp. Thực hiện xuất nhập tiền mặt để đảm bảo thanh khoản tiền mặt cho chi nhánh, thực hiện các dịch vụ về tiền, kho quỹ cho khách hàng. Phòng dịch vụ khách hàng doanh nghiệp: Phòng dịch vụ khách hàng doanh nghiệp có chức năng xử lý các giao dịch đối với khách hàng là các doanh nghiệp và các tổ chức khác. Sơ đồ bộ máy tổ chức của SGD I - Ngân hàng đầu tư và phát triển : GIÁM ĐỐC Các phó giám đốc Phòng Thanh Toán quốc tế Phòng dịch vụ khách hàng DN Phòng dịch vụ KH CN Phòng điện toán Phòng Tài chính kế toán Phòng kế hoạch nguồn vốn Phòng tiền tệ kho quỹ Phòng Giao dịchI (Hàng vôi) Phòng Giao dịchII (Bạch Mai) Phòng thẩm định quan lý TD Phòng kiểm tra nội bộ Phòng tổ chúc hành chính Phòng Tín dụng 1,11 111 . Phòng dịch vụ khách hàng cá nhân: phòng dịch vụ khách hàng cá nhân có trách nhiệm xử lý các giao dịch đối với khách hàng là cá nhân: mua bán ngoại tệ ngay với khách hàng ,mở tài khoản tiền gửi cá nhân… Phòng kế hoạch nguồn vốn: Phòng kế hoạch nguồn vốn chịu trách nhiệm tổ chức thu thập thông tin,nghiên cứu thị trường,phân tích môi trường kinh doanh, xây dựng chiến lược kinh doanh, các chính sách marketing, chính sách khách hàng, chính sách khách hàng, chính sách lãi suất, chính sách huy động vốn... Lập theo dõi, kiểm tra tiến độ thực hiện kế hoạch kinh doanh, xây dựng chương trình hành động để thực hiện kế hoạch kinh doanh của Sở giao dịch;Tổ chức quản lý hoạt động huy động vốn, cân đối vốn và các quan hệ vốn của Sở giao dịch, nghiên cứu phát triển, lựa chọn, ứng dụng sản phẩm mới về huy động vốn. Phòng thẩm định quản lý tín dụng: Có nhiệm vụ thẩm định các dự án cho vay, bảo lãnh và các khoản tín dụng ngắn hạn vượt mức phán quyết trưởng phòng tín dụng; tham gia ý kiến về quyết định cấp tín dụng đối với các dự án trung, dài hạn và các khoản tín dụng ngắn vượt mức phán quyết của trưởng phòng tín dụng. Phòng Tài chính kế toán: Phòng tài chính kế toán có nhiệm vụ tổ chức ,hướng dẫn thực hiện và kiểm tra công tác hoạch toán và chế độ báo cáo kế toán của các phòng và các đơn vị trực thuộc;Hậu kiểm các chứng từ thanh toán của các phòng tại SGD;Lập và phân tích các báo cáo tài chính, kế toán của SGD; cung cấp thông tin về tình hình tài chính và các chỉ tiêu thanh khoản của SGD; Phân tích và đánh giá tài chính, hiệu quả kinh doanh của các phòng, các đơn v._.ận đảm bảo. Giá trị giải ước của hợp đồng bảo hiểm không những ổn định mà còn tăng theo thời gian, khác với những tài sản đảm bảo khác giá trị thị trường thường xuyên thay đổi, có thể suy giảm theo thời gian. Hơn nữa việc xử lý thu hồi nợ đối với các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ khá đơn giản, chỉ cần giao nộp các hợp đồng gốc cho cho các công ty bảo hiểm, thì sẽ được nhận toàn bộ giá trị giải ước đã cam kết trong hợp đồng. Mặt khác các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ phải do các công ty bảo hiểm có uy tín phát hành, có giá trị giải ước, thuộc sở hữu nguời của người vay, người có trách nhiệm đối với khoản vay hoặc người bảo lãnh. Thế nên việc chấp nhận hợp đồng bảo hiểm nhân thọ làm giá trị tài sản đảm bảo rất hợp lý, không những thu hút và mở rộng các doanh nghiệp nhỏ và vừa ( nhất là đối với những doanh nghiệp thuộc sở hữu cá nhân) đến tiếp cận vốn ngân hàng mà còn tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác đến vay vốn ngân hàng. Đồng thời giúp SGD đa dạng hoá các loại tài sản đảm bảo, hạn chế rủi ro. Ngoài những giải pháp trên, SGD cần đơn giản hoá thủ tục cho vay và giảm thời gian xử lý hồ sơ cho vay. Cần tuyển thêm nhiều nhân viên viên có chất lượng, đồng thời nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng, thẩm định. Khi doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn, cán bộ ngân hàng phải có thái độ khách hàng là thượng đế, cần hướng dẫn cụ thể chi tiết và đầy đủ các hồ sơ cần thiết, giảm thiểu số thời gian và số lần giao dịch giữa cán bộ ngân hàng và doanh nghiệp. 3.2.1.2 Nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa Ngân hàng thương mại khi cho bất cứ một khách hàng nào vay thì đều cần phải có thông tin về khách hàng đó để có quyết định cho vay đúng đắn. Bởi vì vay được vốn là một vấn đề không đơn giản, trên thực tế không phải doanh nghiệp nào cũng sử dụng có hiệu quả và đúng mục đích các nguồn vốn vay. Đó là chưa nói tới những kẻ giả danh hoặc mạo nhận là doanh nghiệp để vay trái phép, chiếm dụng vốn bất hợp pháp, gây rủi ro, tổn thất cho Ngân hàng. Vì vậy hoạt động tín dụng muốn đạt hiệu quả cao, an toàn cần phải có hệ thống thông tin hữu hiệu phục vụ cho công tác này. Nhận thức rõ vai trò và yêu cầu thông tin phục vụ công tác tín dụng và kinh doanh ngân hàng, ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước đã sớm có chủ trương xây dựng hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro tín dụng mà sau này đã trở thành hệ thống thông tin tín dụng (gọi tắt là CIC ) của ngành Ngân hàng. Hệ thống CIC đã phần nào cải thiện tình trạng thiếu thông tin tín dụng phục vụ công tác cho vay của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng. Tuy nhiên do mới được thành lập và đi vào hoạt động, còn đang trong giai đoạn củng cố và hoàn thiện nên CIC vẫn còn phải đương đầu với nhiều khó. khăn trong việc thu thập thông tin và xử lí thông tin. Việc thu thập và cập nhật các thông tin biến động của CIC thực hiện vẫn chưa có hiệu quả, các số liệu cập nhật không kịp thời, độ tin cậy thấp đã khiến cho Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng thường ít sử dụng tài liệu do CIC cung cấp. Một trong số những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là: thông tin của CIC phần lớn là do các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng cung cấp. Thông tin này thường bị phản ánh sai lệch do các doanh nghiệp chưa thực hiện đúng và đầy đủ Pháp lệnh về kế toán thống kê, việc cung cấp thông tin không kịp thời làm cho các thông tin thường bị lạc hậu so với thời điểm cung cấp. Về phía các tổ chức tín dụng, chưa tuân thủ đúng các quy định về cung cấp thông tin, xác nhận dư nợ của khách hàng, thiếu tinh thần hợp tác với nhau để cho vay một khách hàng mà có khi còn bí mật thông tin về khách hàng mà mình biết để đảm bảo quyền lợi riêng cho mình. Chính vì vậy, thông tin của CIC không đủ khả năng giúp cho Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng đánh giá đúng thực trạng tài chính và dư nợ của doannh nghiệp để đảm bảo sự đúng đắn của các quyết định cho vay, khiến cho tỷ lệ nợ quá hạn và nợ khó đòi ở các Ngân hàng thương mại Việt nam chiếm tỷ lệ cao, vượt mức cho phép. Ngân hàng Nhà nước cần có những chính sách và biện pháp tích cực sớm nâng cao chất lượng công tác thông tin tín dụng phục vụ hoạt động cho vay của các Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng. Cần bắt buộc các Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng tham gia vào hoạt động hệ thống CIC coi đó như một quyền lợi và nghĩa vụ của mình. +) Nâng cao chất lượng thẩm định: Lúc phân tích tình hình tài chính, cán bộ tín dụng cần phải xem xét tỉ mỉ hệ thống các báo cáo tài chính, ít nhất trong 2 năm liên tiếp gần nhất kể từ thời điểm xin cấp tín dụng (trừ những khách hàng mới thành lập).Thông qua báo cáo tài chính SGD tiến hành phân tích đưa ra đánh giá về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Trong quá trình phân tích tài chính, tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể mà cán bộ tín dụng chú trọng phân tích chỉ tiêu khác để có những đánh giá chính xác nhất về tình hình tài chính. Như: - Đối với khách hàng mới và khách hàng xin cấp hạn mức tín dụng thì phải phân tích đầy đủ các chỉ tiêu tài chính. Khi có hạn mức phê duyệt thường kì phải cập nhật tình hình tài chính đến thời điểm gần nhất với những thông tin thay đổi như doanh thu, lợi nhuận, nợ vay các ngân hàng tại thời điểm vay vốn. - Đối với khách hàng đã có quan hệ tín dụng nhiều lần hoặc đang có hạn mức tín dụng thì những lần tiếp theo chủ yếu cập nhật những chỉ tiêu về doanh thu, khoản phải thu, phải trả, hàng tồn kho và phân tích chi tiết các chỉ tiêu này phù hợp với phương án sản xuất kinh doanh. - Đối với những khách hàng vay theo món, có phương án kinh doanh khả thi, đầu vào, đầu ra rõ ràng, nguồn trả nợ kiểm soát được, tài sản đảm bảo chắc chắn và có tính thanh khoản thì không cần đi sau phân tích tài chính mà chỉ cần giới thiệu sơ qua các chỉ tiêu này. Trong quá trình phân tích tài chính cần coi trọng đến vòng chu chuyển đồng tiền, vòng thu hồi vốn đầu tư. Trên cơ sở những phân tích cụ thể, cần đưa ra những dự báo và nhận định rủi ro trong kinh doanh, rủi ro ngành, rủi ro có tính chu kỳ, mức độ phụ thuộc, cấu trúc chi phí, lợi nhuận thông qua đó đề ra những biện pháp giảm thiểu rủi ro. Tài sảm đảm bảo được ngân hàng nắm giữ nhằm hai mục tiêu: đảm bảo an toàn vốn cho ngân hàng khi khách hàng không trả được nợ và tạo lợi thế tâm lý cho bên nhận tài trở phải thanh toán khoản nợ để tránh khả năng mất tài sản. Khi thẩm định tài sản đảm bảo, cán bộ ngân hàng phải xem xét tới các yếu tố: quyền sở hữu, tình trạng tài sản, giá trị tài sản, mức độ chuyên môn hoá tài sản, quyền pháp lý, số tiền bảo hiểm, vấn đề thuê mua và thế chấp liên quan đến tài sản. Khi xác định giá tài sản đảm bảo SGD cần có những điều chỉnh linh hoạt dựa trên cơ sở khung giá Ngân hàng nhà nước và giá thị trường phù hợp với giá trị thực tế của tài sản đảm bảo. Đối với những đảm bảo dưới hình thức bảo lãnh của người thứ ba thì quan tâm đến năng lực pháp lý, tình tình tài chính, uy tín đối với SGD trên thị trường và trong xã hội. Tài sản thế chấp phải thường xuyên kiểm tra hiện trạng tài sản, đánh giá lại giá trị, trường hộp không đảm bảo thì yêu cầu doanh nghiệp bổ sung tài sản đảm bảo. Những tài sản cầm cố khi thẩm định chú ý tới tác động của môi trường đến giá trị của chúng, nên lưu giữ trong kho có sự giám sát chặt chẽ của SGD hay một cơ quan độc lập bảo vệ lợi ích SGD. +) Thẩm định dự án đầu tư Khả năng lập dự án đầu tư của các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn có nhiều hạn chế, nhất là những doanh nghiệp mới. Do đó, để có thể dễ dàng trong việc thẩm định cán bộ SGD nên tư vấn doanh nghiệp nhỏ và vừa lập dự án đầu tư chi tiết, đảm bảo những thông tin mà SGD cần. Trong quá trình thẩm định, SGD cần tiến hành thẩm định kỹ lưỡng về tính pháp lý, phương diện tài chính, và tính khả thi của dự án. Đồng thời, khi xem xét các dự án, SGD cần phân tích độ nhạy của sự thay đổi các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính dự án khi một biến số thay đổi một lượng nhất định. Để đảm bảo thời gian và hiệu quả thẩm định, cán bộ thẩm định cần được chuyên môn hoá về những lĩnh vực nhất định, có trách nhiệm tìm hiểu, nghiên cứu sâu về lĩnh vực đó. Trong quá trình thực hiện dự án, cần tổ chức theo dõi tiến độ hoàn thành từng hạng mục đầu tư, quá trình nhập xuất vật tư hàng hoá thông qua các báo cáo định kì của doanh nghiệp vay vốn, và thông qua kiểm tra trực tiếp của cán bộ SGD. Để kiểm soát được mục đích sử dụng vốn vay, doanh nghiệp phải cam kết sử dụng hình thức các hình thức thanh toán không thu tiền mặt, khi thanh toán các hoá đơn, chứng từ với đối tác. Sau quyết định tài trợ cho doanh nghiệp, SGD phải tăng cường các biện pháp kiểm soát tín dụng đặc biệt trong những trường hợp có thay đổi trong cơ cấu tổ chức, cán bộ quản lý của doanh nghiệp. Cán bộ tín dụng trực tiếp theo dõi thông tin doanh nghiệp, đánh giá định kì, hay bất thường những đặc tính quan trọng của mỗi khoản vay như: tình hình tài chính, dòng tiền vào ra, tình trạng và chất lượng khoản đảm bảo. Trường hợp có những thay đổi bất thường cần có những kiến nghị kịp thời để có biện pháp phòng ngừa và xử lý. 3.2.1.3 Phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng Nguồn nhân lực là một yếu tố quan trọng đối với bất kì một tổ chức nào. Trong hoạt động tín dụng, nhân lực đóng vai trò quan trọng, trực tiếp quyết định đến chất lượng tín dụng. Vì vậy SGD cần phải xây dựng mỗi phòng là một êkíp vững mạnh. Muốn vậy thì phải cân nhắc đúng người đúng vị trí làm việc. SGD có quan hệ với các doanh nghiệp thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, cán bộ tín dụng phải hiểu biết hoạt động của khách hàng mới tiến hành thẩm định và kiểm soát có hiệu quả. Do đó, cán bộ tín dụng luôn có ý thức tìm hiểu, nắm bắt những thông tin thực tế đảm bảo có hiểu biết nhất định về hoạt động kinh doanh của khách hàng. Thường xuyên cập nhật những thông tin về thị trường kinh tế chính trị, thị trường có liên quan đến lĩnh vực thực hiện. Mỗi cán bộ tín dụng nên được phân công chịu trách nhiệm về một nhóm khách hàng nhất định, hoạt động trong những lĩnh vực nhất định.Mỗi cán bộ tín dụng nên được phân công chịu trách nhiệm về một nhóm khách hàng nhất định, hoạt động trong những lĩnh vực giống nhau, có mối quan hệ với nhau. Đồng thời cũng nên tổ chức các khoá học nâng cao kiến thức cho cán bộ nhân viên về đặc điểm, thực tế hoạt động và tiềm năng phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa. SGD I cũng cần hoạch định kế hoạch đào tạo lâu dài, phối hợp với các trung tâm đào tạo thường xuyên tổ chức bồi dưỡng, trao đổi chuyên môn nghiệp vụ, các kỷ năng kinh doanh ( giao tiếp, bán hàng, chăm sóc khách hàng… ) cho cán bộ nhân viên. Môi trường làm việc công bằng, chuyên nghiệp đãi ngộ theo kế quả lao động là yếu tố quan trọng để phát huy được hết năng lực của người lao động cũng như tạo sự gắn bó lâu dài giữa người lao động với ngân hàng. Trong quá trình làm việc cần gắn trách nhiệm với quyền lợi của cán bộ nhân viên, có chế độ khen thưởng và xử phạt công bằng, hợp lý, công khai kịp thời. Các công tác này được tiến hành thường xuyên, kịp thời nhằm kích thích, động viên mọi người tập trung làm việc có hiệu quả. Đồng thời cũng cần có những hoạt động giải trí, văn hoá, văn nghệ giao lưu tạo nên mối quan hệ gần gũi, làm phong phú đời sống văn hoá tinh thần cho cán bộ nhân viên. SGD cần kịp thời bổ sung thêm nguồn nhân lực có tiềm năng đáp ứng được quy mô phát triển, nhằm điều hoà tốt công việc đến từng nhân viên, tránh tình trạng để một nhân viên phải giải quyết nhiều công việc cùng một lúc, thời gian xử lý hồ sơ khách hàng chậm ảnh hưởng đến chất lượng, khản năng cạnh tranh và uy tín của SGD. Trong quá trình cấp tín dụng, quản lý và theo dõi cần phân tách cụ thể rõ ràng hơn giữa các bộ phận: bộ phận bán hàng, bộ phận thẩm định, bộ phận hỗ trợ bán hàng. Điều này sẽ tiết kiệm được thời gian giải quyết hồ sơ, phát huy tinh thần làm việc tập thể, hạn chế rủi ro tín dụng… 3.2.2 Một số giải pháp hỗ trợ 3.2.2.1 Cung cấp cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa các sản phẩm dịch vụ phù hợp Trong quá trình vay vốn với SGD, khách hàng còn sử dụng các sản phẩm dịch vụ của Sở để giao dịch, thanh toán. Sản phẩm dịch vụ càng phong phú hấp dẫn càng thu hút được nhiều khách hàng. Mảng thị trường doanh nghiệp nhỏ và vừa là mảng thị trường đã được lựa chọn, nên Sở cần nghiên cứu nhu cầu các doanh nghiệp này, để định vị được các sản phẩm nhằm cung cấp phù hợp. Hoạt động tín dụng là dịch vụ khởi đầu để doanh nghiệp nhỏ và vừa thực hiện các dịch vụ khác. SGD trong thời gian tới cần triển khai hoạt động bao thanh toán theo QĐ 1096/2004/QĐ- NHNN. Đây là hình thức cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán hàng hoá được bên bán và bên mua thoả thuận trong hợp đồng mua bán. Bao thanh toán có nhiều ưu điểm đối với người bán: có thể thu tiền ngay thay vì đợi kỳ hạn trả chậm, tiết kiệm thời gian theo dõi thu hồi khoản phải thu, được hỗ trợ trong việc đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh khách hàng của bên mua hàng. Hoạt động này thường không yêu cầu đảm bảo vì khoản nợ tự thanh toán qua các chứng từ bán hàng và chứng từ liên quan đến khoản phải thu. Dịch vụ mà các doanh nghiệp nói chung, các doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng quan tâm nhiều nhất là dịch vụ thanh toán. Dịch vụ thanh toán của ngân hàng phải đáp ứng yêu cầu của khách hàng, ngân hàng phải đầu tư công nghệ thông tin, mở rộng mạng lưới chi nhánh, thiết lập thêm nhiều mối quan hệ với các ngân hàng đại lý trên thế giới. Các dịch vụ thanh toán xuất nhập khẩu như: thanh toán L/Cán bộ, thanh toán T/T, nhờ thu… được nâng cao chất lượng, tăng uy tín trên thị trường. Hiện nay, dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng phổ biến trên cả thế giới và Việt Nam. Phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt được biết đến và sử dụng nhiều nhất là thẻ. Sản phẩm thẻ của ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam mới nhập vào thị trường năm 2002 đã tạo ra nhiều lợi ích như quản bá rộng rãi hình ảnh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, tạo thêm một kênh huy động vốn, các dịch vụ trả lương, thanh toán các loại phí qua thẻ… Tuy nhiên, các lợi ích của dịch vụ này vẫn không có gì khác biệt so với các ngân hàng khác, chưa thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nên chăng Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam phải liên kết với các ngân hàng khác sử dụng chung máy ATM, xây dựng hệ thống chấp nhận thẻ tại các trung tâm thương mại, siêu thị … Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam nên phát triển và mở rộng các sản phẩm mới, áp dụng rộng rãi các công cụ tín dụng phái sinh ( hợp đồng Sưap, Options, Forward) để bảo vệ người thụ hưởng trong trường hợp khoản nợ không thể thanh toán, và hạn chế được rủi ro tín dụng và rủi ro lãi suất. Một số sản phẩm truyền thống cần tăng thêm lợi ích, tính thuận lợi cho khách hàng thông qua dịch vụ chăm sóc khách hàng, các dịch vụ tư vấn tài chính. 3.2.2.2 Đầu tư phát triển hệ thống công nghệ thông tin Công nghệ là một trong những điều kiện tiên quyết đảm bảo sự thành công của ngân hàng. Với hệ thống công nghệ như hiện nay, Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam không đủ sức cạnh tranh với các ngân hàng khác, đặc biệt trong xu thế hội nhập các ngân hàng nước ngoài sẽ "nhảy" vào Việt Nam ngày càng nhiều. Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam cần đẩy mạnh phát triển hệ thống công nghệ hiện đại với tính bảo mật cao. Với sự phát triển của thương mại điện tử, trong tương lai Ngân hàng cần phải cung cấp các nghiệp vụ ngân hàng điện tử, các giao dịch giữa ngân hàng với khách hàng có thể thực hiện trực tuyến. Hệ thống thanh toán được kết nối với toàn hệ thống, đảm bảo chi trả điện tử kịp thời đúng lúc. Hệ thống công nghệ thông tin hiện đại là điều kiện tốt để ngân hàng phát triển các sản phẩm mới, khai thác đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, trở thành ngân hàng đa năng liên kết cung cấp các dịch vụ tài chính. Dự án công nghệ thông tin cần sớm hoàn thiện để thu thập và xử lý thông tin khách hàng nhanh chóng. Tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng đến giao dịch. Hệ thống phần mềm về thẩm định dự án, và quản trị rủi ro cũng cần sớm được xây dựng, nâng cao năng lực quản trị rủi ro ngân hàng. 3.3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 3.3.1. kiến nghị đối với Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam Hiện nay, các ngân hàng Việt Nam đã nhận thức rõ ràng và quan tâm nhiều đến vấn đề thương hiệu và giá trị thương hiệu của ngân hàng mình. Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam cũng cần chú trọng xây dựng và tăng thêm giá trị thương hiệu thông qua các chương trình marketing cụ thể. Để đạt được mục đích marketing hiệu quả thì ngân hàng cần sử dụng phối hợp các chính sách: chính sách giá cả, chính sách sản phẩm, chính sách quản cáo khuyếch trương. Chính sách giá cả chính là chính sách lãi suất và phí dịch vụ khách hàng. Hiện nay các ngân hàng Việt Nam đang được thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận tiến tới tự do hoá lãi suất với những cơ hội và thách thức khác nhau. Tính cạnh tranh giữa các ngân hàng tăng lên, các ngân hàng khó khăn trong việc định giá vì có nhiều mức lãi suất khác nhau và mức lãi suất hợp lý cũng khó xác định sao cho tương xứng với rủi ro lãi suất. Nhưng các ngân hàng đã linh hoạt và chủ động hơn tuỳ thuộc vào khách hàng để ngân hàng điều chỉnh mức lãi suất hợp lý. Với cơ chế lãi suất thoả thuận thì cạnh tranh về giá giữa các ngân hàng là không hiệu quả mà các ngân hàng thường cạnh tranh phi giá. Do đó để đạt được hiệu quả trong chiến lược marketing, Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam phải tạo được các giá trị tăng thêm khi cung cấp các dịch vụ chẳng hạn sự thuận tiện trong giao dịch. Áp dụng mô hình "giao dịch một cửa", có các chương trình khuyến mại hấp dẫn… Trong điều kiện khoa học công nghệ kĩ thuật phát triển nhanh, các sản phẩm của ngân hàng cũng không ngừng được tăng thêm cả về số lượng và chất lượng. Vòng đời của sản phẩm dịch vụ ngân hàng rất dài vì để cho ra đời một sản phẩm mới là rất khó, thường thông qua cải tiến và những đặc tính mới. Các ngân hàng luôn mong muốn tạo ra được nhiều sản phẩm độc đáo, thoả mãn được nhu cầu của khách hàng vì chính sách sản phẩm đóng vai trò hàng đầu. Khi xây dựng được chính sách sản phẩm đúng thì chính sách giá cả và chính sách quản cáo khuyếch trương mới có điều kiện thực hiện. Ngân hàng cần xác định sản phẩm dịch vụ cho từng loại thị trường, sản phẩm phải có sự đa dạng hoá và cá thể hoá. Chẳng hạn hình thức tiết kiệm phục vụ các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế nhưng với mỗi đối tượng khách hàng lại có nhiều loại khác nhau để có thể lựa chọn phù hợp, cung cấp nhiều kỳ hạn khác nhau, các hình thức trả lãi khác nhau. Một vài năm trở lại đây, Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam đẩy mạnh mở rộng thị trường và quan tâm đến chính sách quảng cáo khuyếch trương. Phát triển mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch, quan tâm mở rộng phạm vi hoạt động ra các tỉnh, thành phố có nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng, cũng là một biện pháp tăng cường quản bá hình ảnh ngân hàng. Bên cạnh đó ngân hàng cũng chú trọng chú trọng các hoạt động quảng cáo trên nhiều kênh khác nhau: trực tiếp xây dựng văn hoá tiếp xúc với khách hàng, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, băng rôn, biểu hiệu, tài trợ các chương trình văn hoá, thể thao… Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam cũng nên tổ chức các buổi hội nghị khách hàng định kỳ không chỉ dành riêng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa mà dành cho tất cả đối tượng khách hàng. Qua những hội nghị này, Ngân hàng cần giới thiệu về hoạt động , các sản phẩm dịch vụ và giới thiệu rõ hơn các quy trình và cách thức tiếp cận các sản phẩm dịch vụ được nhiều khách hàng quan tâm. Đó là những cơ hội rất tốt để quảng bá hình ảnh Ngân hàng, giới thiệu các sản phẩm dịch vụ để khách hàng biết đến.Bên cạnh đó Ngân hàng cũng hiểu rõ hơn những thông tin phản hồi từ phía khách hàng đối với hoạt động cũng như sản phẩm dịch vụ đang cung ứng, phát hiện các nhu cầu mới nhằm có những điều chỉnh kịp thời. Từ đó thoả mãn tốt nhất các nhu cầu của khách hàng và phát kiến những nhu cầu mới. 3.3.2 Đối với nhà nước 3.3.2.1 Tăng cường chức năng quản lý, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa Chức năng quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa chủ yếu được thực hiện ở tầm vĩ mô: xây dựng những vấn đề về chiến lược phát triển, ban hành các chính sách kinh tế và cơ chế quản lý nhằm khuyến khích hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo khuôn khổ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động thuận lợi. Hiện nay, cơ chế quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa còn nhiều bất cập, ảnh hưởng đến hoạt động cũng như việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nhà nước đã có những chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua nghị định 90/CP nhưng chưa xây dựng được kế hoạch, chiến lược cụ thể phù hợp với mục tiêu phát triển trong từng giai đoạn, từng ngành, lĩnh vực, từng vùng. Thứ nhất: Nhà nước phải tạo sân chơi bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, trong đó xem xét đến chính sách thuế đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Mức độ ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa cần tăng lên, nhất là những doanh nghiệp mới thành lập, doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp đang đầu tư công nghệ hiện đại, đầu tư vào các dự án sản xuất sản phẩm mới. Tiếp tục cải cách hành chính về hệ thống thuế nói chung theo hướng cụ thể, đơn giản, dễ hiểu, dễ thi hành. Thứ hai: Nhà nước cần ban hành, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy chế về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp nhỏ và vừa, tổ chức cung cấp thông tin trong và ngoài nước ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các trung tâm hỗ trợ, các hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa trong các địa phương, ngành nghề cần được xây dựng và hoạt động hiệu quả. Đây là đầu mối và là cầu nối để cung cấp tiếp nhận thông tin từ cơ quan quản lý nhà nước, các nguồn hỗ trợ từ bên ngoài và phân phối cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trung thực, công bằng. Thứ ba: Mở rộng quyền của doanh nghiệp trong việc chuyển nhượng, thế chấp và những quyền khác về sử dụng đất thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp. Nhà nước cần quy hoạch chi tiết sử dụng đất và công bố công khai để đảm bảo cơ sở chắc chắn cho việc giao đất, thuê đất để các doanh nghiệp nhỏ và vừa… đẩy nhanh tiến độ các quyền sử dụng đất, hoặc quyền thuê đất cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa để yên tâm đầu tư lâu dài, tạo thuận lợi trong việc đăng kí tài sản đảm bảo. Đồng thời thu hồi đất sử dụng không hiệu quả, không đúng mục đích để bố trí cho các cơ sở sản xuất kinh doanh. Thứ tư: Nhà nước cần quy định và tập trung một đầu mối cho phép kinh doanh và theo dõi tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đồng thời, yêu cầu các cơ quan, ban ngành liên quan thực hiện các chức năng thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cơ quan quản lý doanh nghiệp nhỏ và vừa trong từng ngành, lĩnh vực thường xuyên tổng hợp và báo cáo tình hình hoạt động, những khó khăn vướng mắc để đúc rút kinh nghiệm, kịp thời khắc phục, tránh những tiêu cực xảy ra. Thứ năm: Thúc đẩy hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa có điều kiện tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng. Nguồn vốn của quỹ cần được huy động rộng rãi không chỉ dựa vào nguồn vốn của các hiệp hội, ngân sách địa phương. Nhà nước có những biện pháp cụ thể, khuyến khích các ngân hàng thương mại tham gia góp vốn theo thông tư 01/2006/TT_NHNN. Bên cạnh đó, huy động thêm các nguồn vốn từ các tổ chức quốc tế trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển: quỹ viện trợ chính thức ODA, ngân hàng thế giới (WB), quỹ tiền tệ thế giới (IMF)… 3.3.1.2 Hoàn thiện một số chính sách ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng Chính phủ cần chỉ đạo các Bộ, Ngành khẩn trương rà soát thống nhất hoá các văn bản hiện hành về cơ chế cho vay, bảo đảm tiền vay, giao dịch bảo đảm, cơ chế xử lý nợ, mua bán nợ thế chấp. Đối với văn bản liên quan đến đảm bảo tiền vay cần phải sửa đổi mốt số điều phù hợp hơn với quy định mới của luật đất đai 2003 và nghị định 181/2004/ND-CP về thi hành luật đất đai vì hầu hết tài sản đảm bảo của ngân hàng hiện nay là tài sản trên đất và quyền sử dụng đất, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng có quyền cán bộ chủ động, xử lý nhanh hơn các tài sản đảm bảo. Chính phủ cần quy định cụ thể về hình thức tín chấp, bảo lãnh, khuyến khích các địa phương, hiệp hội bảo lãnh cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa vay vốn. Đối tượng được vay vốn không có tài sản đảm bảo của tổ chức tín dụng cũng cần được mở rộng. Đơn giản hoá và chuyên môn hoá các thủ tục công chứng, đăng kí giao dịch đảm bảo. Cơ quan công chứng có thể tách riêng một bộ phận phục vụ công chứng các giấy tờ liên quan đến thế chấp, cầm cố tài sản cho các ngân hàng. Hoạt động của cơ quan đăng kí giao dịch bảo đảm cần được đẩy mạnh, trở thành một cơ quan cung cấp đầy đủ, chính xác các thông tin liên quan đến các tài sản thế chấp, cầm cố của các doanh nghiệp cũng như cá nhân vay vốn. Nhà nước cần có quy định bắt buộc kiểm toán hàng năm đối với những đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh. Những quy định về hạch toán kế toán, lập các báo cáo tài chính cũng cần được áp dụng thống nhất. Đây là cơ sở để ngân hàng đánh giá chính xác tình hình tài chính và hoạt động của doanh nghiệp thông qua các báo cáo tài chính. Số lượng nợ đọng trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản số lượng nợ đọng rất lớn, ảnh hưởng đến tâm lý cho vay của các khách hàng. Chính phủ sớm ban hành những quy định thể chế về pháp lý đối với lĩnh vực này. Trong đó, quy định rõ trách nhiệm của các chủ đầu tư, người quyết định đầu tư phê duyệt dự án. Kiểm soát hoạt động các dự án chặt chẽ hơn, đảm bảo đủ vốn mới thực hiện dự án, tránh đầu tư tràn lan, kém hiệu quả. 3.3.2 Đối với ngân hàng Nhà nước cần nâng cao chất lượng hệ thống thông tin tín dụng: Hệ thống thông tin tín dụng hình thành và phát triển là tất yếu khách quan phù hợp với tiến trình phát triển và đáp ứng đòi hỏi của hoạt động tiền tệ nói chung và tín dụng nói riêng trong nền kinh tế thị trường. Hệ thống thông tin tín dụng góp phần giảm sự không cân xứng về thông tin giữa người vay và người cho vay, cho phép người cho vay đánh giá rủi ro chính xác hơn, nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng. Đặc biệt, với hệ thống thông tin này giúp các tổ chức tín dụng mở rộng tín dụng đến doanh nghiệp nhỏ và vừa nhờ việc ngăn chặn những khách hàng xấu, giúp các khách hàng tốt tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng với chi phí thấp do giảm chi phí điều tra thông tin. Trong thời gian qua, hệ thông tin tín dụng ngân hàng Việt Nam mà nòng cốt là trung tâm thông tin tín dụng (CIC) đã hoạt động khá hiệu quả, thu thập được đối tượng đầy đủ về thông tin hoạt động tín dụng trong nền kinh tế góp phần giảm thiểu rui ro tín dụng, giúp ngân hàng Nhà nước quản lý các tổ chức tín dụng… Để nâng cao năng lực quản lý rủi ro, cũng như mở rộng hoạt động tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa, thì cần thúc đẩy tiếp tục hoàn thiện và phát triển hơn nữa hoạt động của hệ thống thông tin tín dụng. Ngân hàng Nhà nước cần có quy định đổi mới đối với các tổ chức tín dụng về việc báo cáo và khai thác thông tin tín dụng từ trung tâm thông tin tín dụng (CIC). Khi xét cấp tín dụng đối với khách hàng, đặc biệt là đối với doanh nghiệp, tổ chức tín dụng phải khai báo ngay và sử dụng báo cáo của trung tâm thông tin tín dụng như một tài liệu bắt buộc trong quá trình thẩm định. Trung tâm thông tin tín dụng cũng cần nhanh chóng củng cố cán bộ, áp dụng công nghệ mới, hiện đại hoá và tự động hoá các công đoạn để đẩy mạnh việc thu thập, xử lý, và cung cấp thông tin đáp ứng kịp thời nhu cầu của các tổ chức tín dụng. Bên cạnh đó, trung tâm cũng nên đi sâu, phân tích, đánh gia, kịp thời dự báo, cảnh báo nhằm hạn chế rủi ro tín dụng, cung cấp thêm nhiều sản phẩm thông tin tín dụng. KẾT LUẬN Mở rộng tín dụng trên cơ sở nâng chất lượng tín dụng sẽ mang lại lợi ích cho cả ngân hàng và doanh nghiệp. Vì vậy Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam cần có kế hoạch chiến lược dài hạn và hợp lý để khai thác tốt thị trường tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa. Mở rộng tín dụng vì thị trường tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa rất tiềm năng và sẽ phát triển mạnh mẽ trong tương lai. Đồng thời phải nâng cao chất lượng tín dụng vì thị trường ngày càng cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng, dẫn đến rủi ro của thị trường này cũng tăng lên. Hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời gian qua có chiều hướng phát triển mạnh, góp phần không nhỏ vào kết quả hoạt động chung của SGD. Sự phát triển mạnh mẽ mạng lưới chi nhánh, kết hợp với các chiến lược marketing hợp lý đã nâng cao uy tín và niềm tin của khách hàng đối với Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam ngày càng tăng. Hình ảnh và thương hiệu Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam ngày càng phát triển trên thị trường. Tuy nhiên hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa là lĩnh vực kinh doanh mới mẽ nên còn nhiều hạn chế nhất định, SGD mới chỉ khai thác một phần không lớn thị trường đầy tiềm năng này. Để đạt được những mục tiêu đề ra, xây dựng cơ cấu tín dụng hợp lý, có đủ thế và lực để phát triển trong giao đoạn mới. Giai đoạn nghành ngân hàng chính thức hội nhập quốc tế vào năm 2011. Thì Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam nói chung và SGD nói riêng cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp về xây dựng chính sách tín dụng, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng phân tích tín dụng, đầu tư hệ thống thông tin… Vì chỉ có thể làm mạnh mình lên thì mới tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường ngày càng khốc liệt và đầy biến động của đất nước ta trong thời gian tới. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Feredric S. miskin, Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính 2. TS. Tô Ngọc Hưng, nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng - NXB Thống kê 3. Báo cáo thường niên của SGD năm 2004, 2005, 2006 4. Quản trị ngân hàng thương mại - Peter S. Rose 5. PTS, Nguyễn Thị Mùi, quản lý và kinh doanh tiền tệ, NXB Tài chính - 1999 6. Tạp chí ngân hàng 7. Tạp chí kinh tế dự báo 8. Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng 9. Website Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam: www.bidv.com.vn 10. Website Bộ kế hoạch đầu tư: www.mpi.gov.vn 11. Các văn bản luật liên quan đến hoạt động tín dụng : Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX và số 0/2004/QH11 MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31972.doc
Tài liệu liên quan