Kiểm toán xác định giá trị Doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá tại Công ty Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán - AASC

Lời mở đầu ở nước ta, ngay từ những năm 1986, khi Nhà nước thực hiên chuyển cơ chế quản lý Nhà nước, nền kinh tế thị trường bắt đầu bung ra phát triển dần dần và mạnh mẽ. Là một trong các yếu tố quan trong của thị trường, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng trở nên mạnh mẽ. Lúc này, doanh nghiệp nhà nước đã bộc lộ rõ những điểm yếu của mình là bị động, không tự chủ về tài chính và hoạt động kinh doanh, hoạt động không hiệu quả do được Nhà nước tài trợ và được bù lỗ khi bị lỗ, bộ máy thì

doc105 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1448 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kiểm toán xác định giá trị Doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá tại Công ty Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán - AASC, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cồng kềnh trong khi việc làm không có… Nhận ra những điểm yếu trên và các ưu điểm khác, Nhà nước đã đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nứơc nhằm nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo ra loại hình doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp, huy động vốn của toàn xã hội và phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động. Nghị Quyết Hội nghị lần thứ 13 của Ban Chấp Hành TW Đảng khoá IX đã chỉ rõ: ‘…cần thiết phải bổ sung và hoàn thiện cơ chế, chính sách về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, trong đó cần sửa đổi phương pháp xác địnhgiá trị doanh nghiệp theo hướng gắn với thị trường, nghiên cứu đưa ra giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp...”. Nhà nước ta đã không ngừng cải thiện, đổi mới công tác xác định GTDN. Điều đó đựơc thể hiện qua các văn bản Thông tư số 36/TC-CN, Quyết định 202/CT ngày 8/5/1992, Thông tư 50/TC/TCDN ngày 30/8/1996, Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996, Thông tư số 104/1998/TT-BTC ngày 29/6/1998, Nghị định số 44/1998/NĐ-CP, Nghị định 64/2002/NĐ-CP, Thông tư số 76/2002/TT-BTC, 79/2002/TT-BTC về việc chuyển doanh nghiệp nhà nứơc thành công ty cổ phần. Và do đó, chừng nào còn doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá thì công tác xác định GTDN luôn là một vấn đề nóng hổi và quan trọng. Do đó, em quyết định chọn đề tài: “Kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá tại công ty Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán – AASC”. Xác định GTDN là một vấn đề phức tạp từ khi Nhà nước ta thực hiện CFH đến nay. Từ lý luận đến thực tiễn là một vấn đề lớn. Các văn bản hướng dẫn của Nhà nước không lường hết được các vấn đề nảy sinh, dẫn đến GTDN được xác định có sự chênh lệch khá lớn giữa các phương pháp khác nhau và các tổ chức định giá khác nhau. ở đây, cũng như tên đề tài đã nêu, tác giả đề cập đến vấn đề xác định GTDN có liên quan đến công tác kiểm toán của các công ty kiểm toán độc lập. Như vậy, kiểm toán xác định GTDN nhà nước để cổ phần hoá bao gồm hai phần là: Kiểm toán từng khoản mục trên BCTC. Định giá tài sản. Em xin chân trọng cảm ơn TS. Chu Thành và các anh chị phòng Tư vấn & Kiểm toán Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính, Kế toán & Kiểm toán đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành luận văn này. Chương 1: Cơ sở lý luận của xác định giá trị Doanh nghiệp I. Cơ sở lý luận về xác định giá trị doanh nghiệp 1.1. Giá trị, giá trị hàng hoá và giá trị doanh nghiệp 1.1.1. Quan điểm của Các-Mác về giá trị, giá trị hàng hoá Theo Các - Mác, hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng, giá trị được xác định ở mặt chất và mặt lượng: Mặt chất của giá trị là hao phí lao động của con người Mặt lượng của giá trị được đo bằng thời gian hao phí lao động. Khi trao đổi trên thị trường, lượng của giá trị được đo bằng thời gian hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá. Sự cạnh tranh trong nội bộ ngành hình thành nên giá trị thị trường, cạnh tranh giữa các ngành sẽ hình thành nên giá cả sản xuất. Khi tiền tệ ra đời thì giá trị của hàng hoá được phản ánh thông qua giá cả. Do sự tác động của cung cầu mà giá cả tách rời giá trị nhưng yếu tố quyết định giá cả vẫn là giá trị. Giá trị sử dụng là khái niệm dùng để chỉ những công dụng, lợi ích mà hàng hoá có thể mang lại cho con người khi tiêu dùng nó. Mỗi loại hàng hoá đều có những công dụng riêng biệt, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào giá cả. Trên thực tế, do quy luật cung cầu của nền kinh tế thị trường, giá trị của hàng hoá được đánh giá không chỉ bằng các chi phí thời gian lao động xã hội cần thiết mà còn bởi giá trị sử dụng dưới quy luật cạnh tranh. Có các khái niệm giá trị hàng hoá sau: Giá trị nhượng bán: là giá cả của hàng hoá được hình thành trong điều kiện bình thường chịu tác động của quy luật cung cầu. Nó tương ứng với khái niệm giá cả của Mác. Giá trị nhượng bán còn được gọi là giá thị trường. Giá trị đổi mới: là khái niệm dùng để chỉ các khoản chi tiêu cần thiết để thay thế mới một tài sản. Giá trị mua vào: giá ghi trên sổ kế toán, đây chính là giá gốc, thường không tính đến yếu tố thị trường làm thay đổi giá cả... Giá trị thanh lý: là mức giá chịu sự chi phối của nhiều yếu tố tài chính. Đây thường là hậu quả đối với các DN bắt buộc phải thanh lý. Tài sản của DN trong những trường hợp như vậy có nguy cơ bị bán phá giá, tức không theo giá thị trường. Giá trị hoạt động: khi bán một DN đang hoạt động, mức giá thu được thường có mức chênh lệch so với giá trị thanh lý. Khoản chênh lệch giữa hai giá trị đó gọi là giá trị hoạt động, nó tượng trưng cho giá trị về mặt tổ chức. Giá trị theo công dụng: là mức giá chỉ ra các khoản chi tiêu cần thiết để có được một tài sản tương đương tức có cùng chất lượng, quy cách. Tóm lại mặc dù có nhiều khái niệm giá trị được đưa ra, nhưng tiêu chuẩn để nhận biết giá trị hàng hoá trong hoạt động kinh doanh có thể được chia là ba loại: Loại 1: Giá trị theo sổ kế toán còn gọi là giá lịch sử (historical cost) hay giá gốc Loại 2: Giá trị ước tính theo giá hiện hành – giá thị trường Loại 3: Giá trị ước tính theo công dụng của tài sản 1.1.2. Giá trị thời gian của tiền, chi phí cơ hội, chi phí sử dụng vốn vay Trong nền kinh tế thị trường, luôn có sự biến động trong việc sản xuất hàng hoá, có khi tại thời điểm này, khi mà nhu cầu tiêu dùng của người dân giảm xuống thì số lượng hàng hoá tiêu thụ sẽ bị giảm, các nhà sản xuất sẽ giảm quy mô sản xuất xuống, và ngược lại, khi nhu cầu tiêu dùng tăng thì các DN lại mở rộng quy mô sản xuất. Cùng với sự lớn lên của giá trị hàng hoá, nhà nước sẽ phải in thêm số lượng tiền để phù hợp với sức mua hàng hoá của người tiêu dùng. Do đó, luôn luôn có sự khác biệt về giá trị của đồng tiền giữa các giai đoạn khác nhau của nền kinh tế. Nếu ta có một số lượng tiền trong tay, nếu ta dùng để đầu tư và giả sử không gặp rủi ro về đầu tư, trong tương lai ta sẽ thu được một khoản thu nhập từ số tiền đầu tư đó với lãi suất lớn hơn lãi suất trái phiếu Chính phủ ở thời điểm hiện hành vì hoạt động đầu tư vào trái phiếu Chính phủ là hoạt động đầu tư ít rủi ro nhất. Nếu ta không dùng để đầu tư, thì sau đó, trong tay ta vẫn có từng ấy giá trị tiền. Như vậy, khoản chênh lệch giữa việc đầu tư và không đầu tư chứng tỏ tiền có khả năng sinh lời, và người ta gọi đó là giá trị thời gian của tiền. Cũng từ lý luận trên, nếu ta dùng số tiền đó cho đối tượng khác vay để hoạt động kinh doanh thì sau một khoảng thời gian ta sẽ thu được một số tiền lãi từ việc cho vay. Khoản tiền mà người đi vay phải trả cho người cho vay gọi là chi phí sử dụng vốn vay. Chi phí cơ hội là chi phí lớn nhất trong các cơ hội có thể được lựa chọn đã bị bỏ qua. 1.1.3. Doanh nghiệp, doanh nghiệp nhà nước, giá trị thực tế của doanh nghiệp a) Doanh nghiệp DN là một thuật ngữ trong kinh doanh dùng để chỉ các tổ chức kinh tế, cá nhân nhằm phân biệt nó với các hình thức kinh doanh có quy mô quá nhỏ. Một tổ chức kinh tế chỉ được coi là DN nếu nó được sự thừa nhận về mặt pháp lý trên một số tiêu chuẩn nào đó. Các tiêu chuẩn ở đây có thể là mức vốn tối thiểu (vốn pháp định), mục tiêu hoạt động, ngành nghề, địa điểm, quyền lợi, chủ sở hữu, nhiệm vụ... Xét theo mục tiêu hoạt động, người ta có thể chia DN thành 2 loại: DN công ích và DN kinh doanh. - DN công ích: là DN được thành lập ra nhằm mục tiêu chính trị, xã hội. Lợi nhuận chỉ là mục tiêu thứ yếu, mục đích của nó là mục tiêu xã hội: không chỉ là đóng góp được bao nhiêu thuế cho nhà nước mà còn được thể hiện ở chỗ giải quyết được bao nhiêu công ăn việc làm, mang lại bao nhiêu thu nhập cho các nhà cấp vốn, tổng giá trị mà nó đóng góp vào GDP của nền kinh tế... DN kinh doanh: là một tổ chức kinh tế được thành lập nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Lợi nhuận của DN kinh doanh là lợi ích mà DN có thể mang lại cho nhà đầu tư. Lợi ích kinh doanh là ở các khoản thu nhập dưới hình thức như lợi nhuận sau thuế, lợi tức cổ phần... Theo quan điểm của Nhà nước Việt nam, công ty Cổ phần là doanh nghiệp trong đó các cổ đông cùng góp vốn, cùng tham gia quản lý, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu rủi ro tương ứng với phần vốn góp.Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. DNNN là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. DNNN là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do DN quản lý, có tên gọi, có con dấu riêng (theo Điều 1, luật Doanh nghiệp nhà nước, 20/04/1995). Như vậy, ngoài những đặc điểm chung của DN, DNNN còn có những đặc điểm sau: DNNN là tổ chức kinh tế được thành lập để thực hiện những mục tiêu do Nhà nước giao DNNN do nhà nước đầu tư vốn nên tài sản trong DN là thuộc sở hữu của nhà nước, DN quản lý, sử dụng tài sản theo quy định của chủ sở hữu là nhà nước. DNNN có tư cách pháp nhân vì có đủ các điều kiện của pháp nhân theo quy định của pháp luật. DNNN là DN chịu trách nhiệm hữu hạn Có 2 loại DNNN là DNNN hoạt động kinh doanh và hoạt động công ích. DNNN hoạt động kinh doanh là DNNN hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận. DNNN hoạt động công ích là DNNN hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng, theo các chính sách của nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh… Như vậy, DNNN là DN nắm giữ những ngành kinh tế chủ đạo có tác dụng điều hoà nền kinh tế quốc dân. b) Giá trị doanh nghiệp Trước khi xem xét GTDN, ta thấy cần làm rõ một số đặc điểm của doanh nghiệp như sau: DN là một đơn vị, một tổ chức kinh tế hoạt động. Thông qua sự hoạt động mà người ta nhận ra DN. DN không phải là một tập hợp các loại tài sản. Khi mà nó chỉ đơn giản là một sự hỗn loạn các tài sản đơn lẻ, rời rạc mà người ta có thể thanh lý, phát mãi từng thứ riêng biệt như những hàng hoá thông thường thì nó không còn đầy đủ ý nghĩa của một DN. Và do vậy, khái niệm GTDN là một khái niệm chỉ được dùng cho những DN đang còn hoạt động và sẵn sàng hoạt động. DN là một tổ chức vừa phi vật thể, vừa là vật thể. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, DN cũng được coi là một loại hàng hoá, nó là một loại hàng hoá đặc biệt. Nó có thể được đem rao bán trên thị trường và bị ảnh hưởng bởi quy luật giá trị và các quy luật khác trên thị trường. DN là một tổ chức, một đơn vị, một hệ thống và đồng thời cũng là một phần tử trong hệ thống lớn – nền kinh tế. Do đó, sự tồn tại của DN ở mối quan hệ của nó với các phần tử khác của hệ thống tức mối quan hệ với các đơn vị, thể nhân và pháp nhân kinh tế khác. Sự tồn tại của DN không chỉ được quyết định bởi các yếu tố bên trong DN mà còn bởi các yếu tố bên ngoài như khách hàng, người cung cấp, người cho vay, các luật, chính sách... Doanh nghiệp có tồn tại được hay không là nhờ vào các mối quan hệ trên thị trường. Các mối quan hệ này mang tính quyết định đến sự phát triển, tồn tại và thành công của doanh nghiệp. Do đó, khi đánh giá về doanh nghiệp, người ta phải quan tâm đến cả các mối quan hệ bên trong và bên ngoài doanh nghiệp trên thị trường. Nếu nhìn nhận doanh nghiệp bằng con mắt của các nhà đầu tư thì việc mua sắm TSCĐ và lưu động không ngoài mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả hoạt động, lợi ích của DN đối với các nhà đầu tư là ở các khoản thu nhập từ hoạt động SXKD. Vì mục đích của các nhà đầu tư là liệu đặt vốn kinh doanh của mình và thì sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận trên một đồng vốn. Vì vậy, theo các nhà đầu tư thì giá trị của doanh nghiệp là giá trị của các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể đem lại cho nhà đầu tư từ các hoạt động kinh doanh của mình. Tóm lại, qua việc phân tích trên ta có thể thấy tồn tại hai cách tiếp cận trong việc xác định GTDN là: Trực tiếp đánh giá giá trị của các tài sản trong DN Đánh giá giá trị của các yếu tố, tổ chức hoặc bằng một kỹ thuật nào đó để lượng hoá các khoản thu nhập mà DN có thể mang lại cho nhà đầu tư. 1.2. Tính cần thiết phải xác định giá trị Doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá. Trong nền kinh tế thị trường, DN đựơc coi như một loại hàng hoá, chúng có thể được mua bán, trao đổi. Vì vậy, nhu cầu đánh giá hay xác định giá trị đối với loại tài sản này xuất hiện là một đòi hỏi hoàn toàn tự nhiên. Trong việc điều hành kinh tế vĩ mô của nhà nước cũng như trong hoạt động quản trị kinh doanh của các DN luôn cần thiết các thông tin về GTDN. Giá trị của DN là bao nhiêu, cao hay thấp luôn là mối quan tâm của các pháp nhân và thể nhân kinh tế có lợi ích liên quan, gắn bó trực tiếp đến các DN. 1.2.1. Cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước là xu hướng tất yếu khách quan khi chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường thì xu hướng CPH một bộ phận các DNNN đã diễn ra như là một quy luật, điều này có thể được giải thích bởi 2 lý do là: Các DN nhỏ nếu muốn tồn tại trên thị trường cạnh tranh gay gắt với các DN lớn thì phải góp vốn để tạo ra DN lớn có sức cạnh tranh lớn hơn. Vì ưu thế của DN lớn là có số lượng vốn lớn, quy mô sản xuất lớn, và có lợi thế trong việc nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành, đổi mới quy trình công nghệ... để có sản phẩm có chất lượng tốt, giá thành rẻ và có thể tiêu thụ tốt hơn sản phẩm cùng loại. Cũng do sự cạnh tranh và rủi ro trong kinh doanh, các DN lớn tồn tại một khoản tiền vốn nhàn rỗi, không muốn gặp nhiều rủi ro nên phải phân tán số vốn của mình vào các DN khác bằng cách góp vốn mua cổ phần ở nhiều DN khác. Đây là xu hướng sát nhập các DN nhỏ thành DN lớn trên thế giới. Điều này có nghĩa là sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các DN dẫn đến quy luật đào thải, các DN nhỏ sẽ bị chèn ép dẫn đến phá sản. Các DN nhỏ không muốn phá sản, thì phải thu hút vốn thêm nhằm mở rộng thị trường, phát triển sản xuất. Cũng do tính cạnh tranh khốc liệt của thị trường mà trong các DN lớn tồn tại một lượng vốn nhàn rỗi, để giảm rủi ro trong đầu tư, DN lớn này sẽ phân tán nguồn vốn đầu tư của mình. DNNN với sự quản lý kém, hoạt động thiếu hiệu quả cũng nằm trong xu thế khách quan đó. Thực tiễn nhiều thập kỷ qua cho thấy, kinh tế quốc dân kém hiệu quả hơn kinh tế tập thể và tư nhân. Các DNNN làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ. Nguyên nhân chính là do không thực sự có động lực để thúc đẩy làm ra nhiều lợi nhuận. Sự thua lỗ này lại được Nhà nước bao cấp, tài trợ nhằm đảm bảo cho DNNN hoạt động tốt theo chủ trương kế hoạch KTXH của Nhà nước. Điều này làm mất tính tự chủ của DN và tạo sự ỷ lại vào nguồn vốn Nhà nước. Từ các thực tế trên cho thấy, xu hướng thay đổi quan điểm về vai trò điều tiết của nhà nước trong nền kinh tế thị trường, xu hướng đa dạng hoá các loại hình sở hữu. “Sở hữu nhà nước không đồng nghĩa với hiệu quả và mục đích của sự phát triển mà chỉ là một công cụ quan trọng và hữu hiệu cùng với công cụ tài chính và tiền tệ để nhà nước thực hành việc điều tiết định hướng vào nền kinh tế, khu vực kinh tế nhà nước chỉ nên thu hẹp ở những lĩnh vực có vai trò quyết định đến sự phát triển và ổn định của nền kinh tế như giao thông vận tải, bưu điện,…”. Các DNNN ở Việt nam hoạt động kém hiệu quả. Nguyên nhân là do: Hệ thống kế hoạch hoá và tài chính cồng kềnh và cứng nhắc vì được quản lý theo hệ thống hành chính từ trên xuống theo nhiều cấp trung gian. Tính tự chủ trong quản lý và kinh doanh bị hạn chế vì nhiều quy chế liên quan đến quyền sở hữu của DN. Sự độc quyền của các DNNN trên thị trường đựơc pháp luật Việt nam củng cố đã làm mất đi những động lực nâng cao hiệu qủa SXKD Được tài trợ bởi nguồn ngân sách nhà nước, do đó không có động lực nâng cao hiệu quả kinh doanh để tồn tại trong cạnh tranh với các DN tư nhân vì không thể “bị chết”. Hoạt động của DNNN là nhằm đảm bảo cho xí nghiệp có hoạt động dễ chịu và ổn định, tránh né sự thẩm xét của các cơ quan cấp trên, do đó dẫn đến quan niêu, mua sắm thừa thiết bị, cơ chế phình to... Do phải tài trợ cho các DNNN bị lỗ, nên nhà nước bị thâm hụt ngân sách và nợ nước ngoài nhiều. Vì vậy, nhà nước ta đã thay đổi quan điểm về vai trò điều tiết của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường và đã thực hiện chủ trương CPH ngay sau khi chuyển sang nền kinh tế thị trường. Do đó, để cải thiện DNNN cho phù hợp với cơ chế thị trường, cần thiết phải cổ phần hoá. Tuy nhiên, CPH không phải là đơn giản, chúng ta phải giải quyết rất nhiều vấn đề phức tạp: Xác định GTDN như thế nào là chính xác Đất có tính vào GTDN không và tính như thế nào Giải quyết vấn đề lao động như thế nào khi DNNN chuyển sang công ty cổ phần. Và một trong những vấn đề bức xúc nhất mà nước ta không ngừng nghiên cứu và hoàn thiện từ sau đổi mới đến nay là vấn đề xác định GTDN. Việc đưa ra các phương án, đề án thực hiện khác xa so với thực tế, GTDN qua kiểm kê cho thấy có nhiều chênh lệch và thường không chính xác. 1.2.2. Cổ phần hoá là giải pháp cơ bản để tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn hiện nay ở nước ta. CPH là một trong nhiều cách để tư nhân hoá tài sản của DN. Tư nhân hoá là quá trình chuyển sở hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân. CPH có tác dụng: Đa dạng hoá quyền sở hữu và cụ thể hoá chủ sở hữu. Thương mại hoá mọi hoạt động của DN (chứ không phải theo mệnh lệnh hành chính, cắt bỏ sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào hoạt động DN). Luật pháp hoá các tổ chức quản lý (theo luật Công ty và luật khác...). Nâng cao hiệu quả SXKD của DN. Xét về mặt hình thức, CPH là việc nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá trị cổ phần của mình trong xí nghiệp cho các đối tượng, tổ chức hoặc tư nhân trong và ngoài nước hoặc cho cán bộ quản lý, công nhân trong xí nghiệp bằng đấu giá công khai hay thông qua thị trường chứng khoán để hình thành các công ty TNHH hoặc công ty cổ phần. Xét về mặt thực chất, CPH là phương thức thực hiện xã hội hoá sở hữu, chuyển hình thái kinh doanh một chủ sở hữu (Nhà nước) thành nhiều chủ sở hữu để tạo ra một mô hình DN phù hợp với nền kinh tế thị trường và đáp ứng được yêu cầu kinh doanh hiện đại. II. Các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp Như vậy, qua trên ta đã có cái nhìn tổng quan về doanh nghiệp thông qua các đặc điểm của nó. Tuy nhiên, để xác định được giá trị doanh nghiệp, người ta phải quan tâm đến các yếu tố ảnh hưởng đến doanh nghiệp. GTDN được đo lường bằng khoản thu nhập mà DN mang lại cho nhà đầu tư nhưng độ lớn của thu nhập đó là bao nhiêu thì nó lại phụ thuộc rất lớn vào sự tồn tại của doanh nghiệp với các mối quan hệ bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Đó là các yếu tố vốn liếng, tài sản, kỹ thuật, khả năng thích ứng của nó với môi trường bên ngoài, các quan hệ hợp tác và các yếu tố khách quan khác như các chính sách kinh tế, môi trường kinh doanh,... 2.1. Các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh Trước hết phải khẳng định GTDN chỉ được đánh giá trong một môi trường kinh doanh nhất định. Môi trường kinh doanh được chia làm hai loại là môi trường kinh doanh tổng quát và môi trường đặc thù. 2.1.1. Môi trường kinh doanh tổng quát Môi trường kinh doanh tổng quát bao gồm: môi trường kinh tế, môi trường chính trị, môi trường văn hoá - xã hội, môi trường tự nhiên, môi trường kỹ thuật và môi trường dân số... Môi trường kinh tế: Môi trường mà DN tồn tại là một môi trường kinh tế cụ thể. DN chịu ảnh hưởng của tốc độ phát triển kinh tế, mức độ ổn định của nền kinh tế, tốc độ lạm phát, tỷ suất đầu tư, mức độ ổn định của đồng tiền, tỷ giá trên thị trường chứng khoán,… Các yếu tố trên đều là những yếu tố khách quan nhưng nó lại có tác động một cách không nhỏ đến sự hoạt động của DN. Một DN không thể hoạt động tốt trong một môi trường mà lạm phát cao, tỷ suất đầu tư cao,… Mỗi sự thay đổi nhỏ trong các yếu tố này bao giờ cũng ảnh hưởng tới sự đánh giá về DN. Nền kinh tế với tốc độ phát triển cao chứng tỏ nhu cầu đầu tư tiêu dùng cao, ngược lại, nền kinh tế với mức lạm phát cao, chứng tỏ sự bất ổn định về tỷ giá đồng tiền là dấu hiệu chứng tỏ sự bất ổn về môi trường hoạt động của DN. Do đó, mọi sự đánh giá về DN, trong đó có GTDN sẽ bị đảo lộn hoàn toàn. Môi trường chính trị: Hoạt động SXKD chỉ có thể tồn tại và phát triển trong một môi trường có sự ổn định về chính trị ở một mức độ nhất định. Những bất ổn trong xã hội (tệ nạn xã hội, chiến tranh,…) là những yếu tố tác động rất lớn đến hoạt động SXKD của DN. Các yếu tố của môi trường chính trị liên quan đến SXKD bao gồm +) Tính đầy đủ, rõ ràng, chi tiết, đồng bộ của hệ thống luật pháp +) Quan điểm của nhà nước đối với SXKD thông qua các văn bản pháp quy như bảo vệ SXKD, bảo vệ nhà đầu tư, bảo vệ người tiêu dùng, đầu tư nước ngoài, quan điểm phân biệt đối xử thực hiện trong luật thuế, luật cạnh tranh, luật sở hữu trí tuệ... +) Năng lực hành pháp của chính phủ và ý thức chấp hành pháp luật của các công dân và các tổ chức sản xuất. Pháp luật đã được ban hành nhưng không trở thành hiện thực, tệ nạn buôn lậu, trốn thuế, hàng giả, hàng nhái... là biểu hiện của một môi trường chính trị gây bất lợi cho sản xuất. +) Xu hướng, quan điểm trong quan hệ ngoại giao và hợp tác quốc tế của chính phủ với các quốc gia khác trong tiến trình toàn cầu hoá và quan điểm cá nhân của những người đứng đầu Chính phủ cũng tác động to lớn đến SXKD. Nền kinh tế hiện nay là nền kinh tế có sự tham gia quản lý của Nhà nước. Do đó, các chính sách kinh tế, các luật, các quan điểm kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến SXKD của DN. Môi trường kinh tế và môi trường chính trị đóng vai trò như những điều kiện thiết yếu để DN có thể hoạt động. Vì vậy, khi đánh giá DN bao giờ cũng phải xem xét các yếu tố này. Môi trường Văn hoá - Xã hội Mỗi DN tồn tại trong một môi trường văn hoá nhất định. Môi trường văn hoá bao gồm những hệ tư tưởng của số đông cộng đồng về lối sống, đạo đức, tác phong, quan niệm về chân, thiện, mỹ, quan niệm về nhân cách, văn minh xã hội, thực hiện trong tập quán sản xuất và tiêu dùng. Môi trường xã hội thể hiện ở số lượng và cơ cấu dân cư, giới tính, độ tuổi, mật độ sự gia tăng dân số, thu nhập bình quân đầu người và hàng loạt các vấn đề mới nảy sinh như ô nhiễm môi trường, tài nguyên cạn kiệt... Thói quen tiêu dùng, tâm lý tiêu dùng, cơ cấu dân cư, mật độ dân số, thu nhập bình quân đầu người,… ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô và cách thức SXKD. SXKD chỉ có thể tồn tại khi mà nó đảm bảo các yêu cầu về Văn hoá - Xã hội như đảm bảo không bị ô nhiễm môi trường, tài nguyên cạn kiệt,… DN ra đời là để đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao trong đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng nơi DN hoạt động. Chính vì thế đánh giá về DN không thể bỏ qua những yếu tố, những đòi hỏi bức xúc của môi trường Văn hoá - Xã hội trong hiện mà còn phải thực hiện dự báo được sự ảnh hưởng yếu tố này đến SXKD của DN trong tương lai. Môi trường kỹ thuật, công nghệ Thời đại ngày nay là thời đại của công nghệ thông tin. Một loạt những phát minh được ứng dụng trong thực tế gây ảnh hưởng trực tiếp, rõ rệt đến đời sống hàng ngày của con người như hàng loạt các phát minh mới về công nghệ sinh học: sinh sản vô tính, công nghệ máy tính,… Những phát minh này không chỉ ảnh hưởng đễn các phương thức sản xuất kinh doanh trong mỗi doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến nhu cầu sản phẩm và chất lượng sản phẩm trong DN. Các sản phẩm sản xuất ra ngày càng đa dạng và phong phú, chứa đựng một hàm lượng lớn tri thức. Đây là xu hướng tiến tới nền kinh tế tri thức trên toàn cầu. Trên bình diện xã hội, đó là những bước tiến nhảy vọt của nền văn minh nhân loại. Song trên giác độ DN, trong cơ chế thị trường, đó không chỉ là cơ hội mà còn là thách thức đối với sự tồn tại của DN. Việc thiếu nhạy bén trong việc áp dụng những thành tựu khoa học mới nhất có thể là nguyên nhân đưa DN đến chỗ phá sản. Chính vì thế, việc đánh giá DN phải xem xét chúng trong môi trường của kỹ thuật công nghệ. Việc đánh giá phải chỉ ra mức độ tác động của môi trường này đến SXKD và khả năng thích ứng của DN trước những bước phát triển mới của khoa học công nghệ. 2.1.2. Môi trường đặc thù Môi trường đặc thù là môi trường có tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Các yếu tố thuộc môi trường này có thể kiểm soát được. Thuộc môi trường đặc thù có các yếu tố về khách hàng, nhà cung cấp, các hãng cạnh tranh và cơ quan Nhà nước. Quan hệ doanh nghiệp với khách hàng Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, sự đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh dẫn đễn nhu cầu đa dạng về các sản phẩm dịch vụ đầu vào. Do đó, mối quan hệ với khách hàng của DN cũng đa dạng. Yếu tố khách hàng là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của DN. Khách hàng của DN có thể là các cá nhân, các DN khác hoặc Nhà nước, họ có thể là khách hàng hiện tại nhưng cũng có thể là khách hàng tương lai. Để đánh giá về doanh nghiệp, người ta căn cứ vào mối quan hệ bền vững của DN với khách hàng hay mức độ uy tín thể hiện ở thời gian hợp tác với khách hàng, chất lượng khách hàng (thể hiện ở tiếng tăm của họ), số lượng của khách hàng và khả năng phát triển mối quan hệ lâu dài với khách hàng. Tuy nhiên yếu tố quan trọng nhất vẫn là thị phần hiện tại của doanh nghiệp, thị phần tương lai, doanh số bán ra và tốc độ phát triển của chỉ tiêu này qua các thời kỳ kinh doanh khác nhau của DN. DN thường phải trông đợi sự cung cấp từ bên ngoài các hàng hoá, NVL, các dịch vụ điện, nước, thông tin tư vấn... Tính ổn định của nguồn cung cấp đó có ý nghĩa quan trọng đảm bảo cho sản xuất và tiêu thụ được thực hiện theo yêu cầu mà DN đã định ra. Do tính khan hiếm của NVL nhiều khi DN cũng gặp phải những khó khăn nếu như không có sự cung cấp kịp thời và không có NVL thay thế. Vì vậy, để đánh giá sự ổn định trong hoạt động kinh doanh của DN ta phải quan tâm đến khả năng đáp ứng nhu cầu của DN, mối quan hệ của DN với các nhà cung cấp. Các hãng cạnh tranh. Cạnh tranh là hoạt động tranh đua nhằm giành giật những điều kiện sản xuất và kinh doanh có lợi nhất giữa các DN cùng sản xuất và kinh doanh cùng loại mặt hàng hoặc những mặt hàng có thể thay thế được cho nhau. Cạnh tranh được thể hiện dưới ba hình thức: Cạnh tranh về giá cả Cạnh tranh về chất lượng Cạnh tranh về dịch vụ bảo hành, sửa chữa (hậu thương mại) Được sự ủng hộ từ phía nhà nước, hầu hết các lĩnh vực kinh tế, mức độ cạnh tranh giữa các DN trên thị trường trong nước và quốc tế ngày càng trở nên quyết liệt hơn. Sự quyết liệt trong cạnh tranh được coi là mối nguy cơ trực tiếp đến sự tồn tại của DN. Do đó, đánh gía năng lực cạnh tranh, ngoài việc xem xét trên 3 tiêu chuẩn trên còn phải xác định được số lượng DN tham gia cạnh tranh, năng lực thực sự và thế mạnh của họ là gì. Đồng thời phải chỉ ra được những yếu tố và mầm mống có thể làm xuất hiện các đối thủ mới. Có như thế mới kết luận được sự đúng đắn về vị thế và khả năng cạnh tranh của DN trên thị trường. Các cơ quan nhà nước Trong cơ chế thị trường, DN tuy được chủ động trong hoạt động SXKD, tuy nhiên nhưng sự hoạt động của DN luôn phải được đặt dưới sự kiểm tra giám sát của cơ quan nhà nước như cơ quan thuế, thanh tra, các tổ chức công đoàn… Các tổ chức này có trách nhiệm kiểm tra giám sát đảm bảo cho hoạt động của DN không vượt ra khỏi những quy ước của xã hội bằng các luật thuế, môi trường, luật cạnh tranh, luật công đoàn,... DN có mối quan hệ tốt đẹp với các tổ chức đó thường là DN thực hiện tốt nhiệm vụ đối với xã hội như nộp thuế đầy đủ, đúng hạn, chấp hành tốt luật lao động, quan tâm giải quyết vấn đề môi trường sinh thái... Đó cũng là biểu hiện của những DN có tiềm lực tài chính vững mạnh, lợi nhuận thu được không phải bằng cách buôn lậu, trốn thuế, làm hàng hoá giả... Vì vậy, xác định sự tác động của yếu tố môi trường đặc thù đến SXKD còn cần phải xem xét chất lượng và thực trạng của mối quan hệ giữa DN với các tổ chức đó trong những khoản thời gian xác định. 2.2. Các yếu tố thuộc về nội tại doanh nghiệp 2.2.1. Hiện trạng về tài sản trong doanh nghiệp Tài sản trong DN là toàn bộ tài sản hữu hình và vô hình nằm trong danh mục bảng cân đối kế toán tại thời điểm đánh giá. Đây là một quan niệm cần thiết để phân biệt nó với lợi thế thương mại. Số lượng và cơ cấu các loại tài sản thường có sự khác nhau giữa các DN ngay cả khi chúng ở trong cùng ngành SXKD. Khi xác định GTDN, bao giờ người ta cũng quan tâm đến hiện trạng tài sản vì: Tài sản DN là biểu hiện của yếu tố vật chất cần thiết, tối thiểu đối với quá trình SXKD. Số lượng, chất lượng, trình độ kỹ thuật và tính đồng bộ của các loại tài sản là yếu tố quyết định đến số lượng, chất lượng sản phẩm của DN. Tức là, khả năng cạnh tranh của DN phụ thuộc trực tiếp vào yếu tố này. Giá trị tài sản của DN được coi là một căn cứ và là một sự bảo đảm rõ ràng nhất về GTDN. Vì thay cho việc dự báo các khoản thu nhập tiềm năng thì người sở hữu có thể bán chúng bất cứ lúc nào để nhận được thu nhập từ tài sản đó. Do đó, trong thực tế, người ta thường vận dụng phương pháp có liên quan trực tiếp đến việc xác định giá trị tài sản của DN. 2.2.2. Vị trí kinh doanh Vị trí kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với SXKD. Vị trí kinh doanh bao gồm các yếu tố như địa điểm, diện tích của DN và các chi nhánh của DN, yếu tố địa hình, thời tiết, môi trường sinh thái, an ninh khu vực, thu nhập dân cư trong vùng, tốc độ phát triển kinh tế và khả năng cung cấp các dịch vụ cho sản xuất của khu vực đó. DN hoạt động thương mại có vị trí thuận lợi là DN hoạt động ở khu vực đông dân cư, trung tâm buôn bán, các đầu mối giao thông quan trọng. Với vị trí thuận lợi, DN có thể giảm được chi phí vận chuyển, bảo quản, lưu kho, giao dịch… đồng thời DN có những thuận lợi lớn để tiếp cận với nhu cầu, thị hiếu của thị trường,… Bên cạnh đó, DN phải chịu những chi phí cao về thuê văn phòng, thuê lao động, và có thể phải di chuyển trụ sở đi nơi khác do sự quy hoạch của nhà nước. Những thuận lợi và bất lợi cơ bản của yếu tố vị trí đối với SXKD là lý do chủ yếu giải thích sự chênh lệch về giá cả đất đai, giá thuê nhà giữa các khu vực với nhau. Và vì thế, khi nói về yếu tố lợi thế thương mại, người ta thường trước hết đề cập đến yếu tố vị trí. Trong thực tế, do có sự khác nhau về vị trí kinh doanh mà có sự chênh lệch rất lớn khi đánh giá về GTDN. Vì vậy, vị trí kinh doanh cần được coi là một trong các yếu tố quan trọng hàng đầu khi đưa ra phân tích, đánh giá GTDN. 2.2.3. U._.y tín kinh doanh Uy tín kinh doanh của DN được thể hiện ở sự ổn định của khách hàng, ở sự gia tăng nhanh chóng thị phần và doanh số bán. Uy tín kinh doanh là sự đánh giá của khách hàng về sản phẩm của DN nhưng nó lại được hình thành bởi nhiều yếu tố khác nhau từ bên trong DN như: do chất lượng sản phẩm cao, do trình độ và năng lực quản trị kinh doanh giỏi, do có nghệ thuật quảng cáo, do thái độ phục vụ tận tình của nhân viên... Trong thực tế, có những DN trong nước có thể sản xuất những mặt hàng có chất lượng không thua kém gì hàng nước ngoài nhưng không thể bán với giá cao vì chưa gây được uy tín với khách hàng. Như vậy, có thể thấy rằng, khi sản phẩm đã được đánh giá cao trong con mắt của khách hàng thì uy tín đã trở thành một tài sản thực sự, chúng có giá, và người ta gọi chúng là giá trị của nhãn mác hay thương hiệu. Trong nền kinh tế thị trường, người ta có thể mua bán quyền dán nhãn mác các sản phẩm, quyền dán nhãn mác có khi được đánh giá rất cao. Vì vậy, uy tín của DN được đông đảo các nhà kinh tế thừa nhận là một yếu tố quan trọng hình thành nên GTDN. 2.2.4. Trình độ kỹ thuật và tay nghề của người lao động Một trong những yếu tố quyết định sự thắng lợi trong cạnh tranh là chất lượng sản phẩm sản xuất ra phải được thị trường đánh giá cao. Chất lượng sản phẩm DN một mặt phụ thuộc vào trình độ của máy móc thiết bị, một mặt phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật và tay nghề của nhân viên. Trình độ kỹ thuật và sự lành nghề của người lao động không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn có thể làm giảm chi phí SXKD do việc sử dụng hợp lý NVL,... trong quá trình sản xuất, giảm được chi phí đào tạo, bồi dưỡng từ đó góp phần nâng cao thu nhập cho DN. Để đánh giá về trình độ kỹ thuật tay nghề của người lao động ta không chỉ xem ở bằng cấp, bậc thợ, số lượng lao động đạt được các chuẩn mực đó mà quan trọng hơn, trong điều kiện hiện nay, còn phải xem xét hàm lượng tri thức có trong mỗi sản phẩm mà DN sản xuất. Khi đánh giá khả năng tồn tại và phát triển, khả năng sáng tạo ra lợi nhuận của DN, cần thiết phải xem xét đến trình độ kỹ thuật và tay nghề của người lao động, coi chúng như một yếu tố nội tại quyết định đến GTDN. 2.2.5. Năng lực quản trị kinh doanh Một trong những yếu tố quyết định đến hoạt động SXKD, chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh… là khả năng quản lý. Cách tổ chức tốt trong việc sử dụng các nguồn lực sản xuất, tận dụng, nắm bắt các cơ hội nảy sinh, ứng phó năng động với sự biến động của môi trường,… là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng tồn tại của DN trên thị trường. Do đó, năng lực quản trị kinh doanh là một yếu tố quan trọng đặc biệt trong GTDN. Năng lực quản trị kinh doanh của một DN cần được xem xét về khả năng hoạch định chiến lược, chiến thuật, trình độ tổ chức bộ máy quản lý, năng lực quản trị các yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất, khả năng quản trị nguồn nhân lực. Năng lực quản trị kinh doanh là một yếu tố định tính nhiều hơn là yếu tố định lượng. Vì vậy, khi đánh giá cần phải xem xét chúng dưới sự tác động của môi trường. Ngoài ra, năng lực quản trị kinh doanh còn được thể hiện thông qua các chỉ tiêu tài chính của DN. Do đó, thực hiện phân tích một cách toàn diện tình hình tài chính trong những năm gần đây với thời điểm đánh giá cũng có thể rút ra những kết luận quan trọng về năng lực quản trị và sự tác động của nó đến GTDN. Tóm lại, GTDN bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài. Các yếu tố đã phân tích trên có tác động lẫn nhau, chúng được xác định về mặt định tính nhiều hơn định lượng. Thực hiện sự đánh giá về chúng, người ta xây dựng các tiêu thức cơ bản rồi áp dụng phương pháp xếp hạng cho điểm. Tuy nhiên, phương pháp này mang nặng tính chủ quan của người đánh giá, do đó để hạn chế yếu điểm này, người ta đánh giá chúng bởi số đông, có thể là một hội đồng. Mặc dù vậy, quyết định xếp hạng không phải lúc nào cũng đúng. Quyết định khách quan cuối cùng là thị trường. GTDN là khoản thu nhập mà DN có thể mang lại cho nhà đầu tư, người mua DN không phải là mua lấy những tài sản, uy tín kinh doanh và trình độ quản lý giỏi... mà là sự đánh đổi lấy các khoản thu nhập tiềm năng ở DN. Do đó, ta phải nghiên cứu chúng để phân biệt các yếu tố tác động tới cấu thành DN và làm cơ sở để xác định GTDN. III. Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp 3.1. Xác định giá trị doanh nghiệp là gì? Ta có các nhận xét sau: GTDN có thể khác xa so với giá bán DN trên thị trường. GTDN được đo bằng độ lớn của các khoản thu nhập mà DN có thể đem lại cho các nhà đầu tư. Giá mua bán của DN hình thành trên thị trường chịu ảnh hưởng bởi các quy luật trên thị trường như quy luật cung-cầu DN, cung-cầu về chứng khoán và tiền tệ... Khi nào còn tồn tại DN với tư cách là một tổ chức pháp nhân thì còn tồn tại khái niệm GTDN ngay cả khi không còn tồn tại quan hệ mua bán DN. Do đó, GTDN cần bên thứ ba xác định để đảm bảo yếu tố trung thực khách quan trong việc xác định GTDN. Xác định GTDN không đơn giản chỉ để mua bán, sát nhập, hợp nhất, chia nhỏ DN mà còn có tác dụng cổ phần hoá, xác định vị thế tín dụng, cung cấp cho hoạt động quản lý vĩ mô,... Như vậy, xác định GTDN hay còn gọi là định giá DN thực chất là việc lượng hoá các khoản thu nhập mà DN có thể tạo ra trong quá trình SXKD làm cơ sở cho các hoạt động giao dịch thông thường thuộc thị trường. 3.2. Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp Cùng với sự đa dạng về cách nhìn nhận, đánh giá GTDN ở các góc độ khác nhau dẫn đến tồn tại nhiều phương pháp xác định GTDN. 3.2.1. Phương pháp giá trị tài sản thuần a)Cơ sở lý luận Phương pháp này dựa trên quan điểm : “giá trị của một DN được tính bằng tổng giá thị trường của số tài sản mà DN hiện đang sử dụng vào SXKD”. DN có hoạt động được là nhờ vào số vốn và tài sản hiện có trong DN, trong quá trình hoạt động DN có thể phát triển số tài sản hoặc thâm hụt số tài sản của mình b) Phương pháp xác định Trong số tài sản của DN trên Bảng cân đối kế toán, có những tài sản thuộc sở hữu của DN nhưng có nhiều tài sản không thuộc quyền sở hữu của DN như các khoản phải trả (công nhân viên, người bán, nhà nước...). Do vậy, khi xác định GTDN ta phải loại bỏ các khoản này, có nghĩa là, ta phải xác định giá trị tài sản thuần. V0=Vt-Vn Vo: Giá trị tài sản thuần thuộc về chủ sở hữu DN Vt: Tổng giá trị tài sản mà DN sử dụng vào SXKD Vn: Giá trị các khoản nợ Do đó, theo cách này, người ta có thể : Xác định GTDN bằng cách dựa vào Bảng cân đối kế toán Giá trị doanh nghiệp thuần = Tổng tài sản – Tổng các khoản nợ Ngắn hạn và Dài hạn 2) Xác định giá trị tài sản theo giá thị trường Cách này có ưu điểm hơn vì: Giá trị tài sản phản ánh trên sổ kế toán là giá gốc, có tính lịch sử nên có thể đã bị thay đổi tại thời điểm xác định GTDN Giá trị còn lại của TSCĐ phản ánh trên sổ kế toán cao hay thấp phụ thuộc vào việc DN đang sử dụng phương pháp khấu hao nào, thời điểm mà DN xác định nguyên giá và sự lựa chọn tuổi thọ kinh tế của TSCĐ. Vì vậy, giá trị TSCĐ phản ánh trên sổ kế toán thường không phù hợp với giá thị trường tại thời điểm xác định gía trị DN. Đối với HTK (hàng hoá, vật tư, công cụ dụng cụ...) hoặc hàng đang dùng trong sản xuất, một mặt phụ thuộc vào phương pháp tính giá hàng tồn kho, phụ thuộc vào tiêu thức phân bổ chi phí khác nhau cho số hàng hoá dự trữ, mặt khác chất lượng HTK tại thời điểm xác định GTDN có thể bị thay đổi do HTK đã để lâu ngày kém, mất phẩm chất, không dùng được... Để xác định giá trị tài sản theo giá thị trường, trước hết người ta loại ra những tài sản không cần dùng(nếu vẫn có giá trị vẫn không tính vào tài sản của DN CPH) và không có khả năng đáp ứng các yêu cầu của SXKD, sau đó tiến hành đánh giá số tài sản còn lại trên nguyên tắc sử dụng giá thị trường để tính cho từng tài sản hoặc từng tài sản cụ thể: Đối với TSCĐ và lưu động là hiện vật thì đánh giá theo giá thị trường nếu trên thị trường có bán những tài sản như vậy. Nếu trên thị trường, không tồn tại loại TSCĐ đã cũ, đã qua sử dụng. Khi đó, người ta xác định giá trị tài sản dựa theo công dụng hay khả năng phục vụ sản xuất của tài sản để áp dụng một tỷ lệ khấu trừ trên giá trị của một TSCĐ mới. Đối với những TSCĐ không còn tồn tại trên thị trường thì người ta áp dụng một hệ số quy đổi so với các TSCĐ khác loại có tính năng tương đương. Các tài sản bằng tiền được xác định bằng cách kiểm quỹ, đối chiếu số dư trên tài khoản. Nếu là ngoại tệ sẽ được quy đổi về đồng nội tệ theo tỷ giá thị trường tại thời điểm đánh giá. Vàng, bạc, kim đá quý... cũng được xác định tương tự như vậy. Các khoản phải thu: Do khả năng đòi nợ các khoản này ở nhiều mức độ khác nhau nên bao giờ người ta cũng bắt đầu từ việc đối chiếu công nợ, xác minh tính pháp lý, đánh giá độ tin cậy của từng khoản phải thu nhằm loại ra những khoản mà DN không có khả năng đòi được hoặc khả năng đòi được là thấp. Đối với các khoản đầu tư ra bên ngoài DN : Về mặt nguyên tắc phải thực hiện đánh giá một cách toàn diện về giá trị đối với các DN hiện đang sử dụng khoản đầu tư đó. Tuy nhiên, nếu các khoản đầu tư này không lớn, người ta thường trực tiếp dựa vào giá thị trường của chúng dưới hình thức chứng khoán hoặc căn cứ vào số liệu của bên đối tác liên doanh để xác định theo cách thứ nhất Đối với các tài sản cho thuê và quyền thuê bất động sản : Tính theo chiết khấu dòng thu nhập tương lai. Các tài sản vô hình theo phương pháp này người ta chỉ thừa nhận giá trị của các tài sản vô hình đã được xác định trên sổ kế toán và thường không tính đến lợi thế thương mại của DN. Ta có công thức sau: Giá trị tài sản DN thuần = Giá trị của các tài sản đã được xác định - Các khoản nợ - Khoản tiền thuế tính trên giá trị tăng thêm của số tài sản được đánh giá tại thời điểm xác định GTDN Phương pháp này có đặc điểm là: Không coi DN là một thực thể, bỏ qua các giá trị về lợi thế DN, đánh giá tài sản DN như một thực thể riêng rẽ, không có mối liên quan với nhau nên không phản ánh được tầm nhìn chiến lược của DN, triển vọng sinh lời của DN. Trong nhiều trường hợp, xác định giá trị tài sản thuần trở nên phức tạp do một tập đoàn có nhiều chi nhánh lại có số lượng rất lớn các tài sản chi tiết. Do vậy, chi phí đánh giá tốn kém và không chính xác do phụ thuộc vào thông số kỹ thuật của tài sản mà các nhà kỹ thuật chuyên nghành đưa ra, vì vậy sai số đánh giá có thể rất cao. Tuy nhiên, phương pháp này lại phản ánh chính xác giá trị mà người chủ sở hữu có được trong DN dựa trên giá thị trường của các tài sản, nó làm giá cơ sở cho việc xác định giá bán DN. Phương pháp này rất phù hợp với những DN có quy mô nhỏ. 3.2.2. Phương pháp hiện tại hoá các nguồn tài chính trong tương lai Phương pháp này nhìn nhận xác định GTDN dưới góc độ đánh giá độ lớn các khoản thu nhập mà DN có thể mang lại cho các nhà đầu tư trong tương lai. Vo = Vo: GTDN Ft: Thu nhập đem lại cho nhà đầu tư ở năm thứ t i: tỷ suất hiện tại hoá (tỷ suất chiết khấu) N: thời gian nhận được thu nhập (năm) Phương pháp hiện tại hoá các nguồn tài chính tương lai bao gồm: Phương pháp hiện tại hoá lợi nhuận Phương pháp định giá chiết khấu Phương pháp hiện tại hoá các dòng thu nhập của DN trong tương lai 3.2.3. Phương pháp định lượng Goodwill (lợi thế thương mại) Phương pháp này xác định dựa trên giả định sau: Một DN A ứng ra một lượng vốn là 100, thu về khoản lợi nhuận là 10 (ú 10% tỷ suất lợi nhuận trên vốn), DN B cũng ứng ra 100, thu về một khoản thu nhập là 15 (ú 15% tỷ suất lợi nhuận trên vốn). Tại sao DN B cũng ứng ra một lượng vốn như vậy lại sinh ra một khoản lợi nhuận cao hơn A, chỉ có thể giải thích được rằng vì B có vị trí kinh doanh thuận lợi hơn, mạng lưới hàng hoá rộng hơn, chất lượng sản phẩm tốt hơn, trình độ quản lý giỏi hơn,... Đó là những yếu tố vô hình, chúng hội tụ lại đã làm nên khoản lợi nhuận vượt trội (5 đơn vị tiền tệ) so với DN A. Nếu như 10% là tỷ suất lợi nhuận trung bình trên thị trường thì khoản lợi nhuận 5 (5=15-10) là siêu lợi nhuận. Như vậy, cơ sở xác định giá trị của tài sản vô hình là giá trị hiện tại của khoản thu nhập do tài sản vô hình tạo ra. Tức là bằng gía trị hiện tại của các khoản siêu lợi nhuận. Vo = ANC + GW Vo: GTDN ANC: giá trị tài sản thuần GW: giá trị tài sản vô hình (lợi thế thương mại) GW = Bt: lợi nhuận năm t (t=1,n) At: giá trị tài sản đưa vào kinh doanh r: Tỉ suất lợi nhuận bình thường của tài sản đưa vào kinh doanh r*At: lợi nhuận bình thường của tài sản năm t Bt-r*At: siêu lợi nhuận ở năm t. 3.2.4. Phương pháp định giá dựa vào PER (Price Earning Ratio) PER được xác định dựa trên các nhận định cơ bản : Giá cả chứng khoán phụ thuộc vào cung cầu chứng khoán, đầu cơ,... Do đó, giá cả chứng khoán thường không phản ánh đúng giá trị chứng khoán của DN đã phát hành. Thị trường chứng khoán hoàn hảo. Khi đó: PER== Vo: giá trị của DN P: lợi nhuận thuần hàng năm i: tỷ suất hiện tại hoá Giá trị của DN = Lợi nhuận dự kiến đạt được * PER quá khứ Trong đó, PER là thông tin của những công ty lớn được công bố thường xuyên trên thị trường và kể cả PER trung bình của các DN cùng một lĩnh vực kinh doanh có chứng khoán đựơc giao dịch tại thị trường này. Vì vậy, người ta phải sử dụng PER ở các kỳ trước. IV. Quy trình xác định giá trị doanh nghiệp trong công tác kiểm toán 4.1. Vai trò của kiểm toán trong xác định giá trị doanh nghiệp Có thể nói, hoạt động kiểm tra kiểm soát luôn tồn tại song song với hoạt động quản lý. Hoạt động kiểm tra kế toán ra đời ngay từ khi xuất hiện hoạt động kế toán nguyên thuỷ như dấu hiệu trên các sợi dây, thân cây, lá cây,... Cùng với sự phát triển của quy luật ấy, kiểm tra nói chung cũng như kiểm tra kế toán nói riêng đã được quan tâm ngay từ thời kỳ bắt đầu xây dựng đất nước. Từ những năm 90, ở Việt nam, kiểm toán độc lập đã hình thành và kiểm toán nhà nước cũng được thành lập. Có nhiều quan niệm về kiểm toán, nhưng có thể nói một cách tổng quát: “Kiểm toán là hoạt động xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động cần được kiểm toán bằng một hệ thống phương pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ do các kiểm toán viên có trình độ, nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực” – Giáo trình Lý thuyết kiểm toán – Nguyễn Quang Quynh - ĐHKTQDHN. Như vậy, có thể nói, chức năng của kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến. Chức năng xác minh của kiểm toán khẳng định tính trung thực của tài liệu, tính pháp lý của việc thực hiện các nhiệm vụ hay việc lập các BCTC. Xác minh BCTC phải đảm bảo 2 mặt: Tính trung thực của các con số Tính hợp thức của các biểu mẫu phản ánh tình hình tài chính Chức năng bày tỏ ý kiến có thể được hiểu với ý nghĩa kết luận về chất lượng thông tin và cả tính pháp lý. Đối tượng trực tiếp của kiểm toán là các BCTC của các tổ chức hay một thực thể kinh tế. Thông thường, các bản khai này được hiểu là các bảng tổng hợp kế toán (Bảng cân đối, bảng kết quả, bảng chu chuyển tiền tệ...) Khách thể kiểm toán là thực thể kinh tế hay một tổ chức. Thực thể hay tổ chức ở đây là một thực thể pháp lý (một công ty, một đơn vị của Chính phủ, một chủ sở hữu...) hoặc một bộ phận, thậm chí một cá nhân. Chủ thể thực hiện kiểm toán là những KTV độc lập, có nghiệp vụ (Tính độc lập của KTV được quy định ở chuẩn mực Kiểm toán Việt nam số 510). Quan niệm độc lập ở đây được hiểu là khi tham gia vào hoạt động kiểm toán có thái độ độc lập hay độc lập về nghiệp vụ. Còn trình độ nghiệp vụ là trình độ lựa chọn và tập hợp Báo cáo kiểm toán. Cơ sở thực hiện kiểm toán là những luật định, tiêu chuẩn hay chuẩn mực chung. Các luật định hoặc chuẩn mực này bao gồm cả lĩnh vực kế toán và kiểm toán. Có thể nói, có rất nhiều đối tượng cần biết đến số liệu chính xác của GTDN CPH như các nhà đầu tư, nhà nước,... Vì vậy, đảm bảo tính chính xác, trung thực và khách quan thì đảm bảo phải có một tổ chức có tính độc lập và đủ quyền hạn, trách nhiệm pháp lý để đảm đương công việc xác định GTDN. Và như vậy, công ty kiểm toán độc lập thực hiện công việc này là hợp lý. Đây cũng là pháp luật quy định, vì theo nguyên tắc xác định giá trị DN năm 1998, “khi xác định giá trị thực tế của DN không nhất thiét phải thuê kiểm toán độc lập, những DN không thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về chế độ kế toán thống kê thì cơ quan quyết định giá trị DN xem xét thuê kiểm toán độc lập xác định”. Thực chất của kiểm toán xác định GTDN là hoạt động kiểm toán BCTC kết hợp với các đặc thù của xác định GTDN là: - Phân loại tài sản - Đánh giá chất lượng tài sản - Định giá tài sản dựa trên giá thị trường của tài sản đó hay giá tương đương của tài sản đó trên thị trường 4.2. Các phương pháp kiểm toán được sử dụng trong xác định giá trị doanh nghiệp Kiểm toán là một môn khoa học cho nên nó cũng có những phương pháp chung như những cơ sở lý luận và phương pháp luận để hình thành nên phương pháp xác minh và bày tỏ ý kiến của mình phù hợp với đối tượng kiểm toán. Hoạt động kiểm toán cũng có những phương pháp thực hiện riêng của mình là kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ. Thực chất của kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp mà tác giả đề cập ở đây là xác định dựa trên bảng cân đối tài sản của DN. Do đó, nó cũng sử dụng các phương pháp kiểm toán tài chính thông thường. 4.2.1. Phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ Phương pháp này bao gồm: kiểm kê, điều tra và trắc nghiệm Kiểm kê Là quá trình kiểm tra tại chỗ những đối tượng có dạng vật chất cụ thể như hàng tồn kho, tài sản cố định, tiền mặt, giấy thanh toán có giá trị,… Ưu điểm của kiểm kê là mang lại bằng chứng có độ tin cậy cao vì tính khách quan của nó. Tuy nhiên, kiểm kê chỉ cho biết được sự hiện hữu của đối tượng mà không cho biết giá trị, quyền sở hữu của tài sản đó. Do đó, kỹ thuật kiểm kê được kết hợp với các kỹ thuật khác. Quy trình kiểm kê được thực hiện theo các bước sau: Chuẩn bị kiểm kê: phải căn cứ vào mục tiêu, quy mô, thời hạn kiểm kê để bố trí lực lượng và cơ cấu nhân viên, các thiết bị đo lường phù hợp và chính xác. Đây là yếu tố quyết định chất lượng kiểm kê nói riêng và kiểm toán nói chung. Thực hiện kiểm kê: phải theo đúng yêu cầu và ghi chép đầy đủ theo từng mã cân, lô hàng,… Phiếu, sổ mã cân trở thành chứng từ kiểm toán. Kết thúc kiểm kê: cần có biên bản trong đó phải nêu rõ chênh lệch, các nguyên nhân và xử lý cụ thể. Biên bản cần được đính kèm phiếu kiểm kê (mã cân) và bảng kê chất lượng về kết quả kiểm kê. Sự khác biệt trong kiểm kê của kiểm toán BCTC ở doanh nghiệp thông thường và kiểm toán BCTC DNNN để CPH có sự khác biệt là: Nếu kiểm toán BCTC hướng tới kiểm kê tất cả các tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp thì kiểm toán BCTC DNNN để CPH chỉ tiến hành kiểm kê theo hướng phân loại tài sản đang dùng, không cần dùng, chưa dùng, chờ thanh lý và theo nguồn hình thành tài sản (từ quỹ khen thưởng, phúc lợi,…) Phương pháp kiểm kê kết hợp với các phương pháp kiểm toán khác (đối chiếu tổng hợp, logic, kiểm tra chứng từ… ), nhằm bảo đảm các cơ sở dẫn liệu của kiểm toán. Điều tra Điều tra là phương pháp xác định lại một tài liệu hoặc một thực trạng để đi đến những quyết định hay kết luận kiểm toán. Điều tra được sử dụng rất rộng rãi trong kiểm toán. Chẳng hạn: Tìm hiểu khách thể kiểm toán hay làm quen với khách hàng kiểm toán. Có thể tìm hiểu trực tiếp hoặc thông qua KTV tiền nhiệm hoặc gửi phiếu điều tra phỏng vấn... Đây là bước điều tra sơ bộ nhằm đưa ra quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận kiểm toán. Tiếp cận với các bên liên quan: dò hỏi, phỏng vấn, thu lượm, tích luỹ dữ liệu, loại dần và thu gọn đối tượng xác minh cho những vấn đề kiểm toán. Xác minh bằng văn bản qua thư xác nhận của các bên liên quan: có hai loại thư xác nhận: +)Thư xác nhận khẳng định (posititive confirmation): đòi hỏi thông báo quả quyết của bên nợ trên mọi giấy yêu cầu xác nhận về khoản nợ hoặc tiền hàng của chủ nợ hoặc đúng, sai hoặc có phần lưu ý. Trong trường hợp này, mọi giấy yêu cầu đều được trả lời. +)Thư xác nhận phủ định (negative confirmation): chỉ đòi hỏi thông báo của bên nợ khi không đồng tình với số tiền ghi trên giấy yêu cầu xác nhận và găm trên báo cáo của người mua. Vì vậy, với xác nhận khẳng định, khi chưa nhận được trả lời, thường phải làm thêm những trình tự xác minh, do đó, xác nhận này là bằng chứng đáng tin cậy hơn xác nhận phủ định. Ngược lại với xác nhận phủ định, việc không trả lời cũng không coi là phủ định ngay cả khi người mua không biết có yêu cầu xác nhận. Cũng vì thế, chi phí cho xác nhận khẳng định lớn hơn chi phí cho xác nhận phủ định. Việc sử dụng loại bằng chứng nào là tuỳ thuộc vào kinh nghiệm và phán đoán của KTV. Trong kiểm toán BCTC để xác định GTDN, phương pháp này được sử dụng nhiều trong việc xác minh giá trị các khoản nợ vay, tiền gửi ngân hàng. Độ chính xác của các bằng chứng thu thập được từ phương pháp này là lớn do tính khách quan của nó (bằng chứng thu thập được từ bên thứ ba). Chọn mẫu hoặc chọn điển hình các đối tượng kiểm toán, xác minh làm rõ các vấn đề kiểm toán. Để đảm bảo hiệu quả kiểm toán, điều tra cần đựơc kết hợp với hàng loạt kỹ thuật dự báo, dự đoán cụ thể như chi tiết, phân loại, tổng hợp đối tượng kiểm toán, chọn mẫu ngẫu nhiên hoặc chọn điển hình và cả những kinh nghiệm trong việc tiếp cận, tìm hiểu những đối tượng liên quan. Cũng như với cuộc kiểm toán thông thường khác, kiểm toán BCTC của DNNN để CPH, cũng chọn mẫu đối tượng kiểm toán khi số lượng các đối tượng chi tiết kiểm toán là quá lớn. Từ một đối tượng các mẫu nhỏ, đặc trưng, mang tính đại diện cao mà cụ thể là có giá trị lớn, KTV sẽ ước lượng, xác định giá trị đối với tổng thể. Nhưng đối với những tài sản chiếm phần lớn giá trị trong tổng tài sản của DN thì KTV sẽ thực hiện kiểm toán trên toàn bộ đối tượng tài sản. Đặc điểm khác biệt lớn nhất của kiểm toán báo cáo tài chính và kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp là báo cáo tài chính thực hiện kiểm toán dựa trên giá gốc, kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp chủ yếu dựa trên giá thị trường của tài sản đó. Do đó, KTV chỉ thực hiện xác minh lại giá trị đối với những tài sản cần thiết phải dùng đễn số liệu trên sổ sách như đối với những tài sản mới mua sắm, các khoản phải thu, phải trả, nợ vay, tiền gửi ngân hàng. Thực nghiệm Thực nghiệm là phương pháp diễn lại hoặc nghiên cứu phân tích từng yếu tố cấu thành của một tài sản, một quá trình đã có, đã diễn ra cần xác minh lại. Do vậy, thực nghiệm còn được gọi là phương pháp “làm lại”. Chẳng hạn, để xem xét lại hao phí hoặc kết quả sản xuất có thể phải làm thử lại một mẻ hàng để khẳng định rõ những điểm nghi vấn. VD: mức hao phí vật liệu hoặc sản lượng hoặc lao động... tương ứng. Trong một số trường hợp, kiểm toán phải sử dụng nhiều cách thức trong hoá nghiệm, trong kỹ thuật hình sự,... để khẳng định một vụ việc trước khi đưa ra những kết luận kiểm toán. Trong kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp, KTV sử dụng phương pháp này để xác minh lại chất lượng hoạt động của tài sản cố định, qua đó đánh giá công suất, và xác định tỷ lệ còn lại. Ngoài ra, kỹ thuật này còn được sử dụng trong xác minh lại qui trình sản xuất, để đánh giá lại sản phẩm dở dang. 4.2.2. Phương pháp kiểm toán chứng từ Phương pháp kiểm toán chứng từ bao gồm: kiểm toán các cân đối kế toán, đối chiếu trực tiếp, đối chiếu logic. Kiểm toán cân đối Phương pháp kiểm toán cân đối dựa trên mối liên hệ thống nhất và mâu thuẫn giữa hai mặt đối lập của một sự vật hiện tượng. Các quan hệ này được cụ thể hoá bằng các quan hệ khác nhau như cân đối giữa nguồn lực và kết quả, giữa số phát sinh Nợ và phát sinh Có, giữa tài sản và nguồn hình thành tài sản đó. Trong kiểm toán, ta có phương trình cân đối tổng quát theo từng đối tượng. Ví dụ, với bảng cân đối tài sản: Tài sản = Vốn chủ sở hữu + Công nợ Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn Với bảng cân đối số phát sinh Tổng phát sinh Nợ của các Tài khoản = Tổng phát sinh có của các Tài khoản Trong kiểm toán cân đối phải dựa vào số ghi Nợ và số ghi Có và giữa số đầu kỳ và số tăng trong kỳ với số cuối kỳ và số giảm trong kỳ của kế toán kép. Kiểm toán báo cáo tài chính DNNN để CPH sử dụng kỹ thuật này để kiểm tra tính đúng đắn của số liệu được cộng dồn trên các sổ kế toán, qua đó, có hướng xác minh tiếp theo. Đối chiếu trực tiếp Đối chiếu trực tiếp là so sánh về mặt lượng trị số của cùng một chỉ tiêu trên các chứng từ kiểm toán. Đối chiếu này thường có trong các trường hợp sau: Đối chiếu giữa số đầu kỳ và số cuối kỳ năm và giữa các kỳ trên các Bảng cân đối tài sản để nghiên cứu động thái của các mặt hoạt động tương ứng với chỉ tiêu trên đó (đối chiếu ngang) hoặc giữa các bộ phận tổng thể để xem xét cơ cấu, phân bố từng quần thể (đối chiếu dọc). Đối chiếu giữa số dự toán, định mức, kế hoạch với số thực tế để đánh giá mức độ phấn đấu, thực hiện các mục tiêu thể hiện trên các chỉ tiêu tương ứng. Đối chiếu trị số của cùng một chỉ tiêu trong cùng một thời kỳ trên các chứng từ tổng hợp khác nhau. Chẳng hạn, chỉ tiêu lợi nhuận hay lợi nhuận còn lại trên các bảng cân đối. Đối chiếu các con số của cùng một chứng từ được bảo quản lưu trữ ở các địa điểm khác nhau. Loại đối chiếu này được thực hiện phổ biến trong kiểm toán các khoản giao dịch với ngân hàng, các khoản thu về bán hàng và các khoản chi về mua hàng. Đối chiếu trị số và các chỉ tiêu với các trị số cấu thành chỉ tiêu đó. Chẳng hạn, đối chiếu các yếu tố số lượng, đơn giá với số tiền trên các chứng từ gốc, đối chiếu các khoản mục cấu thành các loại tài sản hoặc nguồn vốn trong Bảng cân đối tài sản, đối chiếu các khoản thu chi với các loại hoạt động trong bảng chu chuyển tiền tệ hoặc bảng báo cáo kết quả kinh doanh. Tuy nhiên đối chiếu trực tiếp chỉ được sử dụng trong trường hợp các chỉ tiêu được hạch toán theo cùng một chuẩn mực, cùng nội dung, phương pháp, đơn vị tính toán và trong cùng một khoảng thời gian điều kiện tương tự nhau. Trong kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp, phương pháp này được sử dụng để tính toán, cộng dồn số liệu trên các chứng từ gốc, so sánh với sổ chi tiết, sổ cái để xác định giá trị hợp lý. Đối chiếu logic Đối chiếu logic là việc xem xét mức biến động tương ứng về trị số và các chỉ tiêu có quan hệ kinh tế trực tiếp song có thể có mức biến động khác nhau và có thể theo hướng khác nhau. Ví dụ: HTK giảm có thể dẫn đến tiền mặt, tiền gửi ngân hàng và các khoản phải thu tăng. Xu hướng biến động giữa HTK và các khoản mục liên quan nói trên là ngược nhau và mức biến động cũng có thể không đồng nhất trên từng khoản mục. TSCĐ tăng có thể dẫn đến tiền vay ngắn và dài hạn tăng hoặc chi phí xây dựng giảm. Trường hợp này, có thể mức biến động tương xứng và xu hướng biến động có thể cùng chiều (nếu vay nợ) hoặc ngược chiều (nếu kết chuyển chi phí xây lắp hoặc dùng tiền để mua). Vốn bằng tiền giảm có thể dẫn tới hàng hoá vật tư tăng hoặc các khoản phải trả giảm. Phương pháp này được sử dụng rất sử dụng phổ biến trong việc xem xét các quan hệ kế toán tài chính của đối tượng kiểm toán. Từ đó định hướng cho việc kiểm toán các đối tượng cụ thể khi phát hiện mâu thuẫn và xua hướng biến động của các chỉ tiêu liên quan. Phương pháp này được sử dụng rộng rãi hơn như những cách tư duy suy lý cho những mối liên hệ kể cả chưa được lượng hoá trong công tác kiểm toán. Theo đó, kiểm toán tài chính đã hình thành 3 loại trắc nghiệm: trắc nghiệm công việc, trắc nghiệm trực tiếp các số dư, và trắc nghiệm phân tích. Cũng như trong kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp sử dụng phương pháp này để đánh giá tính hợp lý của số liệu, tìm ra xu hướng hoặc tìm ra những khoản mục nghi vấn, định hướng cho việc xác minh. 4.3. Hệ thống mục tiêu của kiểm toán BCTC để cổ phần hoá và mục tiêu xác định giá trị doanh nghiệp Nếu như kiểm toán báo cáo tài chính hướng tới tính hợp pháp, hợp lý và trung thực của số liệu trên báo cáo tài chính, và kết quả cuối cùng là đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính đó thì kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp quan tâm đến số liệu kiểm kê thực tế qua đó định giá lại tài sản, phần liên quan đến báo cáo tài chính cũng được KTV đưa ra trong phần kiến nghị, nhận xét nhưng không phải chỉ nhận xét về báo cáo tài chính mà còn về cả các yếu tố bên trong và bên ngoài DN. ở đây, ta chỉ xem xét cuộc xác định GTDN đối với các DNNN không thực hiện đúng chế độ kế toán hiện hành. Khi đó, việc xác định giá trị DN phải đi cùng với kiểm toán các thông tin trên BCTC, phân loại tài sản và kết hợp với việc định giá lại tài sản, loại ra khỏi GTDN những tài sản không cần dùng. Như vậy, việc kiểm toán BCTC để cổ phần hoá và để xác định GTDN cũng tương tự như kiểm toán BCTC nhưng có đặc điểm là phân loại tài sản và định giá lại tài sản. Do đó, ngoài các mục tiêu chung mà kiểm toán BCTC phải hướng, kiểm toán báo cáo tài chính để xác định giá trị doanh nghiệp còn phải hướng tới các mục tiêu đặc thù. Các mục tiêu chung của kiểm toán báo cáo tài chính là: Tính có thực của thông tin: thông tin phản ánh tài sản hoặc vốn phải được đảm bảo bằng sự tồn tại của tài sản, vốn hoặc tính thực tế xảy ra của nghiệp vụ. Tính trọn vẹn: thông tin không bị bỏ sót trong quá trình xử lý. Tính đúng đắn của việc tính giá với ý nghĩa giá tài sản cũng như giá phí (giá thành) đều được tính theo phương pháp kế toán là giá thực tế đơn vị phải chi ra đê mua hoặc thực hiện các hoạt động. Tính chính xác cơ học: các phép tính cộng dồn khi chuyển sổ, sang trang phải được tính đúng đắn. Tính đúng đắn trong phân loại và trình bày: phân loại tài sản và nguồn vốn đúng, định khoản phù hợp với bảng tài khoản của đơn vị,… những trường hợp đặc biệt phải được phản ánh rõ ràng. Tính đúng đắn trong việc phản ánh quyền và nghĩa vụ của đơn vị: tài sản phản ánh trên BCTC phải thuộc quyền sở hữu của đơn vị, còn vốn và công nợ phản ánh đúng nghĩa vụ của dơn vị này. Như vậy, mục tiêu chung của kiểm toán BCTC cũng là mục tiêu của kiểm toán BCTC của DNNN để xác định giá trị DN để CPH. Ngoài những mục tiêu mà kiểm toán BCTC phải hướng tới, hệ thống mục tiêu kiểm toán BCTC để xác định giá trị DNNN để CPH còn phải hướng tới : Tính phân loại hợp lý: các tài sản không cần dùng, chưa cần dùng, tài sản chờ thanh lý, tài sản kém, mất phẩm chất,… cần phải được phân loại đúng đắn Tính hợp lý về mặt định giá: đảm bảo chính xác trong kiểm kê, đánh giá chất lượng tài sản, định giá ._.h giá trị vốn góp liên doanh trên là Vốn chủ sở hữu (không gồm số dư quỹ khen thưởng phúc lợi) Tỷ lệ vốn góp vào liên doanh của DN Tỷ giá giữa đồng ngoại tệ góp vốn với đồng Việt nam Trường hợp góp vốn liên doanh với nước ngoài bằng giá trị quyền sử dụng đất thì giá trị quyền sử dụng đất góp vốn liên doanh cũng đựơc tính vào GTDN cổ phần hoá. Giá trị xác định được ở trên là căn cứ để xác định GTDN. Không điều chỉnh giá trị vốn góp liên doanh trên giấy phép đầu tư. 12)Đối với các khoản dự phòng và lãi chưa phân phối Các khoản này bao gồm dự phòng giảm giá hàng tồn kho, nợ phải thu khó đòi, giảm giá chứng khoán, chênh lệch tỷ giá, dự phòng trợ cấp mất việc làm, dự phòng tài chính… và các khoản lãi chưa phân phối. KTV thực hiện xử lý các khoản dự phòng bằng cách: sau khi bù đắp tổn thất về giảm giá, thực hiện hoàn nhập vào thu nhập của DN. 13)Đối với giá trị quyền sử dụng đất Đối với giá trị quyền sử dụng đất áp dụng theo Luật đất đai đã được quy định. 14)Đối với DN có lợi thế kinh doanh Lợi thế kinh doanh của DN là các lợi thế về mặt vị trí địa lý, uy tín, tính độc quyền về sản phẩm, mẫu mã, thương hiệu, tỷ suất lợi nhuận sau thuế thấp hơn lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm ở thời điểm gần nhất trước thời điểm định giá thì phải tính thêm giá trị lợi thế kinh doanh vào giá trị thực tế của DN cổ phần hoá. Quy định này mâu thuẫn đối với việc xác định tài sản vô hình ở mục trên vì bản chất, lợi thế kinh doanh là một phần giá trị của tài sản vô hình. Công thức xác định giá trị lợi thế kinh doanh như sau: Giá trị lợi thế kinh doanh của dn = Giá trị phần vốn Nhà nước tài DN theo sổ kế toán tại thời điểm định giá x ( Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn Nhà nước bình quân trong 3 năm trước - Lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm tại thời điểm gần nhất ) Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn nhà nước bình quân 3 năm trước khi cổ phần hóa = Lợi nhuận sau thuế bình quân 3 năm liền kề trước cổ phần hoá X 100% Vốn nhà nước theo sổ kế toán bình quân 3 năm liền kề trước cổ phần hoá Giá trị phần vốn Nhà nước tài DN theo sổ kế toán tại thời điểm định giá = Tổng giá trị thực tế của DN - ( Nợ phải trả + Số dư quỹ khen thưởng phúc lợi + Nguồn kinh phí sự nghiệp ) Nếu DN có giá trị thương hiệu đã được xác định hoặc được thị trường chấp nhận cao hơn giá trị lợi thế kinh doanh xác định theo quy định trên thì căn cứ vào giá trị thương hiệu đã phản ánh trên thị trường hoặc trên sổ kế toán để tính vào giá trị DN cổ phần hoá. Nếu thấp hơn thì tính thêm phần chênh lệch vào GTDN cổ phần hoá. KTV căn cứ vào bảng thu nhập của DN 3 năm trước khi CPH để xác định lợi thế kinh doanh. Biểu 13: Báo cáo lợi nhuận 3 năm của công ty A. Đơn vị: triệu đồng Tt Chỉ tiên Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Tổng cộng I. Tổng lợi nhuận xác định 127 234 230 591 II. Khoản giảm trừ từ lợi nhuận 725 112 74 263 1. Thúê TNDN 32 75 74 180 2. Thu sử dụng vốn 41 42 - 84 III. Lợi nhuận sau thuế 54 117 157 328 Lợi nhuận sau thuế bình quân 3 năm 109 IV. Vốn nhà nước 2.78 2.837 3.059 8.375 1. Tổng tài sản theo báo cáo của DN 21.055 30.747 34.563 8.637 2. Nợ phải trả theo báo cáo của DN 18.633 28.054 31.702 78.305 3. Quỹ khen thưởng phúc lợi theo báo cáo của DN (56) (144) (197) (398) Vốn NN bình quân 3 năm 2.791 V. Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn nhà nước 3.92% VI. Lãi suất trái phiếu chính phủ 9.17% VII. Lợi thế kinh doanh của DN 0 Nếu lãi suất trái phiếu chính phủ là 3% thì lợi thế kinh doanh của DN là : 2.791 x ( 3.92-3) = 2.56773. 2.3. Báo cáo xác định giá trị doanh nghiệp Sau khi thực hiện kiểm toán và định giá tài sản, KTV tiến hành tổng hợp các tài sản có cùng đặc điểm từ các bảng kê chi tiết. Tập hợp các biên bản xác định giá trị kiểm toán, các bảng kê tổng hợp, bảng tổng hợp tài sản, bảng cân đối kế toán, và biên bản xác định GTDN… hợp thành báo cáo xác định GTDN. Báo cáo này được in làm ít nhất 3 bản, một bản lưu lại công ty, một bản gửi lên doanh nghiệp và một bản trình lên hội đồng định giá phê duyệt. Sau khi phát hành báo cáo xác định giá trị DN, công tác xác định đã hoàn thành. Kết quả xác định giá trị DN được trình bày theo mẫu sau: Biểu 14: Kết quả xác định giá trị doanh nghiệp tại công ty A Thời điểm: 31/12/2002 Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Sổ kế toán Xác định lại Chênh lệch A. Tài sản đang dùng 11.140 11.701 561 I. TSCĐ và đầu tư dài hạn 1.981 2.542 560 1. TSCĐ 1.725 2.286 560 a. TSCĐHH 1.725 2.286 560 b. TSCĐVH - - - 2.Các khoản đầu tư tài chính dài hạn - - - 3.Chi phí xây dựng cơ bản dở dang 256 256 - 4. ký cược ký quỹ dài hạn - - - II. TSLĐ & Đầu tư NH 9.158 9.159 1 1. Tiền 567 568 1 - Tiền tồn quỹ 301 301 - - TGNH 266 267 1 -Tiền đang chuyển - - -- 2. Đầu tư TC ngắn hạn - - - 3.PhảI thu 2.715 2.715 - 4. Vật tư hàng hoá tồn kho 5.664 5.664 - 5. TSLĐ khác 212 212 - 6. Chi phí hành chính sự nghiệp - - - III. Giá trị lợi thế kinh doanh của dn 0 0 0 Giá trị thực tế của DN (I+II+III) 11.140 11.702 562 IV. Nợ phải trả 4.140 4.140 - - Nợ phải trả 4.013 4.013 - Số dư quỹ khen thưởng phúc lợi 87 87 - Tổng giá trị phần vốn nhà nước tại DN. 7.000 7.562 562 B.Tài sản cố định không cần dùng. - - - I. TSCĐ&Đầu tư DH - - - … Các khoản ký cược ký quỹ dài hạn - - - II. TSLĐ & đầu tư NH 431 431 - C. Tài sản chờ thanh lý - - - D. Tài sản nguồn hình thành khác 381 381 - Sau đó, KTV thực hiện phân tích nguyên nhân tăng, giảm các tài sản trong doanh nghiệp kèm theo báo cáo này. Cũng kèm theo báo cáo này, KTV đưa ra các nhận xét và kiến nghị đối với tình hình hoạt động của bộ máy kế toán của công ty và cách thức áp dụng kết quả xác định GTDN. Kết quả này là kết quả mang tính chất tham khảo, là cơ sở để tính giá trị các cổ phiếu, giá trị của cổ phiếu doanh nghiệp sẽ do thị trường quyết định dưới sự tác động của quy luật giá trị và tình hình tài chính trong doanh nghiệp. Chương III Phương hướng giải quyết và giải pháp hoàn thiện đổi mới công tác xác định giá trị DNNN để Cổ phần hoá tại AASC 3.1. Tính tất yếu phải hoàn thiện công tác xác định giá trị doanh nghiệp ở AASC Như đã trình bày ở trên, CPH DNNN ở Việt nam là một xu thế tất yếu. Trong thời gian qua, nhà nước đã liên tục có kế hoạch CPH các DNNN. CPH DNNN đã đem lại lợi ích rõ rệt cho người lao động và cho xã hội. Thông qua việc CPH, nguồn vốn kinh doanh của DN tăng lên nhờ huy động được từ các tổ chức, cá nhân tập thể bên ngoài. Nhờ đó, vốn nhà nước không những được bảo toàn mà còn tăng thêm. Trước năm 2001, 370 DNNN được CPH với tổng số vốn nhà nước là 854 tỷ đồng đã thu hút gần 1432 tỷ đồng ngoài xã hội đồng thời nhà nước thu gần 714 tỷ đồng từ việc nhà nước rút bớt phần vốn tại các DN này. Sau khi CPH DNNN hoạt động kinh doanh của các DN đã có những biến đổi rõ rệt. Doanh thu tăng gấp 2 lần so với trước khi CPH. Ví dụ: công ty Cơ điện lạnh đạt 94 tỷ đồng so với 46 tỷ đồng trước CPH. Số lượng lao động tăng trên 20%, ví dụ, công ty Chế biến hàng Xuất nhập khẩu Long An từ 900 lao động lên 1280 lao động, công ty Cơ điện lạnh từ 244 lên 806 lao động. Thu nhập người lao động tăng bình quân 20%/năm, ví dụ công ty Cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển từ 1.1 lên 4.4 triệu đồng/người/năm. Lợi nhuận bình quân tăng 2-3 lần, nộp ngân sách bình quân 2-2.5 lần, vốn điều lệ tăng 2.5 lần. Tuy nhiên, số DN CPH không thực hiện đúng theo kế hoạch: năm 1998 đạt 55%, năm 1999 đạt 63%, năm 2000 đạt 36%. Nguyên nhân chủ yếu làm chậm tiến trình CPH là: Sự hiểu biết của công chúng về CPH còn hạn chế, phần lớn các DNNN được thành lập từ trước với trình độ công nghệ còn lạc hậu, sản phẩm sản xuất không có tính cạnh tranh. Các chế độ chính sách ở Việt nam như vấn đề công khai hoá các bảng khai tài chính chưa được thực hiện, thị trường chứng khoán phát triển chưa mạnh. Quan điểm CPH chưa thống nhất vì nếu CPH sẽ không còn gì để quản lý. Nhà nước chậm ban hành các văn bản tạo khuôn khô pháp lý cho tiến trình CPH, chưa tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các DN. Và đặc biệt, vấn đề xác định GTDN trước khi CPH gặp không ít khó khăn làm kéo dài lịch trình. Vấn đề đánh giá lợi thế và bất lợi của DN cũng chưa toàn diện. Vấn đề xác định GTDN là một vấn đề mới và nó cần được hoàn thiện, đổi mới để phù hợp với tốc độ CPH ở DN Việt nam hiện nay. Vấn đề xác định GTDN là một vấn đề phức tạp, do đó nó luôn cần được hoàn thiện. Việc xác định GTDN là cần thiết vì người ta đưa doanh nghiệp ra thị trường bán như một loại hàng hoá. Giá trị thực tế của doanh nghiệp cần thiết phảI được xác định chính xác làm căn cứ xác định giá cổ phiếu. Có thể thấy: - Khách sạn Sài Gòn được tính theo 2 phương pháp, thì giá trị là: Phương pháp 1: 12.271 tỷ VND Phương pháp 2: 20.364 tỷ VND Chênh lệch là: 8.093 tỷ đồng, BTC thẩm định lại là 16.132 tỷ đồng, chênh lệch so với hai phương pháp trên là 4 tỷ VND. - Công ty Hoá phẩm sông Gấm Hải Phòng: GTDN tự xác định: 7.147 tỷ VND Nhà nước thẩm định:6.369 tỷ VND Chênh lệch: 0.778 tỷ đồng. - Công ty Bê tông, Tổng Công ty Xây dựng 1: Công ty Kiểm toán Việt nam xác định: 13.7 tỷ VND BTC thẩm định: 14 tỷ VND Chênh lệch: 0.3 tỷ đồng. Như vậy, có thể thấy, sự chênh lệch khác nhau qua việc xác định GTDN theo nhiều phương pháp. Điều này có thể hiểu được là, ở mỗi phương pháp ta lại có cách nhìn nhận khác nhau về DN. Chẳng hạn, đối với phương pháp xác định giá trị tài sản thuần, người ta nhìn nhận DN dưới góc độ tổng giá trị tài sản riêng lẻ của DN, đối với phương pháp dòng tiền chiết khấu, người ta nhìn DN dưới góc độ một thực thể có khả năng sinh lời trong tương lai. Từ thực tế nêu trên, có thể thấy, công tác xác định GTDN là một công tác phức tạp và cần có sự hợp tác hoàn thiện của nhà nước và các cơ quan, bộ ngành liên quan. Phương châm hoạt động của AASC là: phục vụ tốt khách hàng tất cả mọi dịch vụ chuyên nghành của công ty, không ngừng học hỏi nâng cao nghiệp vụ. Xác định GTDN cũng là một hoạt động chuyên nghành của công ty, mặc dù nó chiếm tỷ trọng doanh thu không lớn trong tổng doanh thu nhưng nó hiện tại đang là một thế mạnh của công ty và tạo nên uy tín cho công ty. Gần đây, hoạt động CPH các DNNN là một hiện tượng mới nổi lên ở Việt nam, số lượng hợp đồng mà công ty nhận về ngày càng nhiều, mặc dù thời gian kiểm toán rút xuống chỉ còn 3-5 ngày nhưng AASC vẫn không ngừng hoàn thiện công tác của mình. 3.2. Định hướng hoàn thiện Công tác xác định GTDN cần hướng tới mục tiêu là: Đánh giá đúng thực trạng, cơ cấu giá trị tài sản, các nguồn vốn hình thành giá trị tài sản do DNNN đang quản lý và sử dụng, số vốn nhà nước hiện còn tại DN trên cơ sở đó đánh giá khả năng trả nợ của DN, lập phương án xử lý những tồn tại về tài sản, góp phần làm lành mạnh hoá DN. Đánh giá đúng hoạt động của công ty về lợi thế kinh doanh như năng lực quản lý của cán bộ, khả năng làm việc của người lao động, vị trí địa lý, quyền sử dụng đất. Giá trị của DN phản ánh sát tình trạng của DN và giá trị trên thị trường. 3.3. Thực trạng công tác xác định giá trị doanh nghiệp 3.3.1. Đối với AASC AASC đã tuân thủ đúng các hướng dẫn mà BTC ban hành qua các thông tư 76,79/2002/TT-BTC và nghị định 64/2002/NĐ-CP. Tuy nhiên, dù với bất kỳ loại hình DN nào, dù là hoạt động trong lĩnh vực SXKD hay thương mại dịch vụ, AASC đều sử dụng phương pháp giá trị tài sản thuần. Điều này sẽ dẫn đến sự không chính xác về GTDN, vì các DN thương mại dịch vụ, số lượng tài sản là hiện vật chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản DN. Quan điểm xác định giá trị của AASC là DN là một tập hợp riêng rẽ các tài sản thuộc quyền sở hữu của DN. Quan điểm này là quan điểm phiến diện vì DN là một tổ chức kết hợp hoạt động của con người và tài sản để sản sinh ra thu nhập. AASC chỉ đánh giá các tài sản hiện có làm cơ sở cho việc định giá DN. Giá cổ phiếu của DN bán ra trên thị trường dựa trên 2 cơ sở: Giá trị thuần của DN. Giá đấu thầu. Như vậy, GTDN sẽ do thị trường chứng khoán quyết định dựa trên giá trị cổ phiếu bán được trên thị trường chứng khoán, nó sẽ dao động quanh giá trị mà AASC thực hiện. - Phương pháp xác định giá trị hiện hành là duy nhất, đối với DN SXKD, sử dụng phương pháp giá trị tài sản thuần, đối với DN thương mại sử dụng phương pháp dòng tiền chiết khấu. Việc phân loại DN theo đặc điểm SXKD là phù hợp với việc áp dụng phương pháp xác định GTDN. Tuy nhiên, nếu chỉ áp dụng duy nhất một phương pháp sẽ không có công cụ để kiểm chứng tính chính xác, toàn diện của kết quả tính toán. - Tại một số đơn vị mà AASC thực hiện xác định GTDN, AASC dùng tài liệu kiểm kê và phân loại của DN. Điều này làm giảm tính khách quan của việc xác định GTDN song vì thời gian có hạn, công việc nhiều cho nên AASC không có điều kiện để kiểm kê và phân loại hàng hoá, tài sản của đơn vị. - Việc thực hiện kiểm tra chi tiết trên giấy tờ của một số tài khoản là phi hiện vật không thực sự cụ thể. Chẳng hạn, đối với khoản phải thu không có giấy xác nhận công nợ, KTV chỉ thực hiện kiểm tra đối chiếu trên các chứng từ của đơn vị mà không có dấu hiệu nào chứng tỏ có bằng chứng xác nhận là con nợ vẫn còn tồn tại. Hoặc đối với các khoản chi phí dở dang, KTV chỉ thực hiện đối chiếu trên chứng từ mà không thực hiện tính lại giá của thành phẩm nhập kho. KTV của AASC xem xét xem có sự hợp lý giữa giá thành phẩm nhập kho và giá mua vào của NVL không, nếu thấy giá thành phẩm nhập kho lớn hơn hoặc bằng giá hoá đơn của NVL thì kết luận có sự hợp lý và giải thích rằng do trong quá trình chế biến phát sinh chi phí chế biến ???. Thiết nghĩ công tác này không hợp lý và không cần thiết. Vấn đề chính là KTV phải thực hiện đánh giá lại chi phí thành phẩm nhập kho. Ví dụ, trên giấy tờ làm việc của KTV đối với công ty A, ghi như sau: “ Mục đích: Kiểm tra khớp sổ Cái, báo cáo kiểm kê Kiểm kê chọn mẫu tại từng từng cửa hàng bán lẻ, tính ngược lại số tồn thực tế tài 31/12/2002, sau đó tìm nguyên nhân chênh lệch. Kiểm tra tính hợp lý của đơn giá hàng gửi bán trên cơ sở so sánh giá mua vào NVL nhỏ hơn hoặc bằng giá vốn thành phẩm (???)...” Công ty không thực hiện tính giá trị quyền sử dụng đất Việc tìm hiểu về tình hình của khách hàng, KTV đã bỏ qua một số tiêu thức quan trọng như tình hình hoạt động của bộ máy kế toán, và một số yếu tố khác của kiểm toán nội bộ, chẳng hạn, trên một số giấy tờ của KTV ghi nhận sự tìm hiểu về khách hàng như sau: “Tổng quan về doanh nghiệp Giám đốc: Ông Hùng Kế toán trưởng: Bà Bính Công ty thành lập lần đầu tiên năm 1959, sau đó kinh doanh lại vào năm 1991 01 xí nghiệp (XNo 195) hạch toán phụ thuộc vào công ty Diện tích : 45.000 m2 Nhà xưởng xây dựng năm 1960 Cán bộ công nhân viên: 60 người Hoạt động SXKD: Hoạt động thương mại 95%, sản xuất 5% Khách hàng; chủ yếu là khách hàng trong nước (mọi loại khách hàng) Nhập khẩu vật tư hàng hoá đến thời điểm 31/12/2002 không còn công nợ với khách hàng” Trong báo cáo tổng kết công tác năm 2003 và phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2004 có đoạn viết “tiếp tục đẩy mạnh công tác tiếp thị, nâng cao sức cạnh tranh, giữ vững khách hàng cũ, tìm kiếm thêm khách hàng mới đặc biệt là các Tổng Công ty 90,91, khuyến khích toàn thể cán bộ nhân viên trong phòng tiếp thị, tìm kiếm khách hàng với các hình thức phù hợp...” và “... phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ kiểm toán ...”. Đó là những phương hướng và mục tiêu mà công ty sẽ đạt được trong năm tới. Có thể thấy, trong năm 2003 vừa qua, nước ta đã thực hiện chuyển đổi từ DNNN sang công ty Cổ phần được 52 DN và bộ phận DN, từ đầu năm 2004 đến nay, được 25 DN và bộ phận DN. Dự kiến sang năm 2005 sẽ thực hiện chuyển đổi 3 DNNN sang hình thức công ty Cổ phần nhưng nhà nước giữ số cổ phiếu chi phối (theo Quyết định 125/2003/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề án tổng thể sản xuất, đổi mới tổng công ty nhà nước và DNNN của Bộ Công nghiệp giai đoạn 2003-2005). Do đó, để cạnh tranh và luôn đứng vững trên thị trường, giữ vững uy tín của công ty là một trong những công ty hàng đầu của Việt nam trong lĩnh vực kiểm toán, thì công ty cần phải nhìn thấy những điểm chưa tốt và phải sửa đổi, không ngừng hoàn thiện công tác kiểm toán. - Thực tế đơn vị kiểm toán chỉ thực hiện xác định lại gía trị trên cơ sở báo cáo tài chính nhưng doanh nghiệp cũng chủ yếu căn cứ vào số liệu kiểm kê thực tế của đơn vị, do đó số liệu xác định giá trị doanh nghiệp không mang tính khách quan, do đó có thể không chính xác. - Đối với hàng tồn kho là công cụ dụng cuj đã qua sử dụng, đã trích hết khấu hao nhưng vẫn còn sử dụng được thì nguyên giá được xác định lại bằng 20% nguyên giá mới của tài sản trên thị trường. Biện pháp này nghe có vẻ hơi cứng nhắc, vì giá trị thực tế của tài sản phụ thuộc vào giá trị thanh lý của tài sản đó, công dụng cũng như chất lượng của tài sản. Do đó, đối với những tài sản này, việc xác định theo cách trên sẽ có lợi cho Nhà nước vì giá trị thực tế của DN xác định sẽ lớn hơn. Mặc dù đối với một số tổ chức kinh doanh hiện đại, có thể số lượng hàng tồn kho loại này không lớn, nó có thể ảnh hưởng ít trọng yếu đến kết quả giá trị doanh nghiệp, nhưng nếu đối với những đơn vị kinh doanh tất cả các tài sản đều đã trở nên cũ không còn phù hợp với thị trường nhưng vẫn dùng vào sản xuất kinh doanh thì sẽ không còn chính xác. Đưa ra tỉ lệ 20% là cứng nhắc mặc dù nó làm giảm tính phức tạp của công tác định giá. - Đối với tài sản không còn tồn tại trên thị trường thì đơn vị chấp nhận theo nguyên giá hạch toán trên sổ kế toán. Điều này không đúng khi tài sản có sự hao mòn vô hình, tức là trên thị trường đã có một số tài sản có công dụng tương đương nhưng công suất tốt hơn và nhiều tính năng hơn. Do đó, khi định lại giá của tài sản, phải quan tâm đến công dụng, chất lượng và giá của tài sản tương đương trên thị trường. - Đối với tài sản là nhà cửa, vật kiến trúc, nguyên giá phải không nhỏ hơn 20%. Nguyên tắc này cũng cứng nhắc như nguyên tắc trên. 3.3.2. Đối với các chế độ hiện hành Nhà nước coi giá trị quyền sử dụng đất, giá trị tài sản vô hình và lợi thế kinh doanh là khác nhau. Thật vậy, theo Thông tư 79/2002/TT-BTC, giá trị thực tế của DN được xác định trên cơ sở kết quả kiểm kê, phân loại và định giá xác định theo giá thị trường tại thời điểm định giá. Theo Nghị định 64/2002/NĐ-BTC, giá trị thực tế của DN là gái trị toàn bộ tài sản hiện có tại DN tại thời điểm CPH có tính đến khả năng sinh lời của DN mà người mua và người bán cổ phần đều chấp nhận được. Như vậy, ngầm hiểu lợi thế kinh doanh chính là giá trị phản ánh khả năng sinh lời của DN. Vậy đâu là giá trị của các tài sản vô hình khác như trình độ quản lý, trình độ làm việc... Các giá trị này không thấy phản ánh trên giấy tờ làm việc cũng như trên báo cáo của KTV. Gần như có sự lẫn lộn giữa quyền sử dụng đất và giá trị tài sản vô hình. Cụ thể, Thông tư 79/2002/TT-BTC quy định tại mục 2.6 : “Đối với tài sản vô hình (nếu có) thì tính theo giá còn lại ghi trên sổ kế toán”, và tại mục 2.10, lại ghi, “Đối với quyền sử dụng đất,...”. Tuy nhiên, theo em, giá trị tài sản vô hình phải do thị trường quyết định tại thời điểm CPH. Giá trị tài sản vô hình bao gồm: Quyền sử dụng đất Quyền phát hành Bản quyền, bằng phát minh, sáng chế Nhãn hiệu hàng hoá Phần mềm máy tính Giấy phép và giấy phép nhượng quyền TSCĐ vô hình khác Như vậy, vô hình trung đã xem giá trị quyền sử dụng đất nằm ngoài tài sản vô hình của DN và bỏ ngoài giá trị tài sản vô hình của DN lợi thế kinh doanh. Việc xác định giá trị thực tế của DN được thực hiện theo nguyên tắc “giá trị thực tế của DN là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của DN tại thời điểm CPH mà người mua, người bán CPH đều chấp nhận được”. Nguyên tắc này dường như phù hợp với nguyên tắc thị trường song lại mang nặng tính hình thức vì trên thực tế, giữa người mua và người bán cổ phần không có thoả thuận gì. ở đây phải ngầm hiểu là thoả thuận sẽ chỉ được thực hiện khi có người mua cổ phần của DN. Nói cách khác, sự thoả thuận được chứng minh bằng việc người mua cổ phần có mua hay không mua cổ phần. Những người tham gia mua cổ phần không trực tiếp biết nội dung và phương pháp xác định GTDN. Việc xác định GTDN do một hội đồng xác định, làm cơ sở xác định giá bán cổ phần cho các cổ đông, do vậy gía bán cổ phần vẫn còn nhiều yếu tố chủ quan, không phản ánh đúng quy luật kinh tế thị trường. Mặt khác, cổ phần chủ yếu ưu tiên bán cho người làm việc trong DN dẫn đến tình trạng người bán và người mua lẫn lộn nên việc định giá DN càng chứa đựng nhiều yếu tố chủ quan. 3.4. Những kiến nghị để thực hiện Đối với công ty Nhằm không ngừng hoàn thiện chất lượng công tác xác định GTDN, em xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị như sau: - Công ty không ngừng bổ sung, hướng dẫn và cung cấp các tài liệu về xác định GTDN cho nhân viên trong công ty, không ngừng mở các khoá đào tạo, trang bị kiến thức cho nhân viên trong công ty. Vì theo em biết, trong mỗi phòng chỉ có một số người có thể thực hiện được công tác này. - KTV của công ty cần thực hiện kiểm tra chi tiết hơn đối với từng khoản mục. Chẳng hạn, đối với khoản mục phải thu khách hàng, khi không có giấy xác nhận công nợ, cần tìm hiểu xem con nợ có còn tồn tại không, hoặc đối với khoản mục chi phí SXKD dở dang, KTV nên bỏ qua bước kiểm tra bất đẳng thức “ giá mua NVL <= giá vốn thành phẩm”, mà nên tìm hiểu về phương pháp tính và thực hiện tính lại. Bởi vì, đối với những đơn vị hoạt động SXKD, số lượng thành phẩm lớn có thể ảnh hưởng trọng yếu đến giá trị DN. - KTV cần đi sâu, đi sát hơn trong vấn đề tìm hiểu tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng, KTV cần tìm hiểu về môi trường xung quanh khách hàng, khí hậu, tình hình chính trị, nội bộ của DN,... để có các đánh giá và có cái nhìn sâu hơn về tình hình khách hàng. Công ty cần ban hành một quy trình chuẩn cho công tác xác định giá trj doanh nghiệp nhằm đảm bảo chất lượng hoạt động xác định GTDN và thuận tiện cho việc kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp. Công ty nên áp dụng nhiều phương pháp định giá doanh nghiệp, qua đó có thể đưa ra nhiều giá trị giúp cho DN tham khảo, so sánh, tìm ra giá trị hợp lý nhất để định giá cổ phiếu. Đối với tài sản mà nguyên giá xác định thấp nhất là 20%, cần phải xác định một cách linh động hơn, xác định dựa vào công dụng và chất lượng tài sản, qua đó xác định tỷ lệ chất lượng còn lại, áp dụng giá của hàng đó hoặc mặt hàng tương tự trên thị trường, qua đó xác định lại giá. Để đảm bảo tính khách quan và phù hợp với cơ chế thị trường trong việc định giá doanh nghiệp, KTV cần tìm hiểu kỹ hơn và sâu hơn về các yếu tố nội tại của DN như trình độ nhân viên, quan hệ khách hàng, cơ cấu tổ chức bộ máy, khả năng quản lý, uy tín kinh doanh, vị trí địa lý và đưa các nhận xét này vào báo cáo xác định giá trị doanh nghiệp. Đối với các quy định của Nhà nước về xác định giá trị doanh nghiệp. Sau khi nghiên cứu các Quyết định 64/2002/QĐ-BTCvà Thông tư 76,79/2002/TT-BTC về vấn đề xác định GTDN, em thấy có một số chỗ chưa hợp lý, em xin đề xuất như sau: -Chuyển mục 2.10 (về giá trị quyền sử dụng đất) vì: Mục 2.6, nói về tài sản vô hình đã bao gồm quyền sử dụng đất, đã quy định, tài sản vô hình xác định lại theo giá trên sổ kế toán. Để cho đơn giản trong việc xác định giá trị quyền sử dụng đất, giá trị này sẽ được lấy là giá thị trường của tổng số đất đai mà DN có hoặc sẽ tính là giá thuê đất cộng với chi phí giải phóng mặt bằng (nếu có). - Sửa đổi lại định nghĩa về giá trị lợi thế kinh doanh. ở đây ta xem xét: Giá trị doanh nghiệp = Tổng giá trị thực tế của doanh nghiệp + Giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp Như vậy, giá trị lợi thế kinh doanh của DN có được là do sự kết hợp giữa các tài sản của DN lại thành một tổ chức có khả năng sinh lời. Vì vậy, nó không phải là uy tín, vị trí địa lý,.. mà nó là sự kết hợp thông qua ý chí của con người thành một thực thể hoạt động. Công thức xác định lợi thế kinh doanh của DN dựa trên tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn nhà nước bình quân trong 3 năm trước khi cổ phần hoá và lãi suất trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm tại thời điểm gần nhất là hợp lý vì nó phản ánh được ưu thế sinh lời của DN so với mức đầu tư ít rủi ro nhất. Quan điểm này dựa trên cách nhìn nhận từ phía các nhà đầu tư. Giá trị tài sản vô hình đã bao gồm tất cả các yếu tố vô hình trong DN như quyền sử dụng đất, quyền phát hành, bản quyền, bằng sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá, phần mềm máy tính, giấy phép và giấy phép nhượng quyền và tài sản vô hình khác... Bên cạnh đó, còn một số bất cập trong định giá như Nhà nước quy định việc đánh giá tài sản không dưới 20% đối với những tài sản đã trích khấu hao hết nhưng vẫn còn sử dụng. Điều này làm cho giá trị của doanh nghiệp tăng lên. Trong điều kiện Việt nam chưa phát triển thị trường chứng khoán thì điều này càng có lợi cho Nhà nước vì giá trị cổ phiếu đưa ra bán cao nhưng làm mất đi tính khách quan trong cơ chế thị trường. Do vậy, Nhà nước cần có sự đánh giá khách quan trong việc định giá tài sản, không nên đưa ra một tỷ lệ tài sản cứng nhắc như vậy. Kết luận Công tác xác định GTDN còn là một chuyên nghành mới của hoạt động kiểm toán tại Việt nam, mặc dù nó đã xuất hiện ở các nước XHCN khác từ rất lâu. Việt nam đi sau, tuy chậm nhưng bù lại, lại được kế thừa những kinh nghiệm của các nước đi trước. Tuy nhiên, từ lý luận đi đến thực tiễn là cả một vấn đề lớn. Nhìn lại chặng đường phát triển công tác xác định GTDN ở Việt nam vừa qua, ta thấy sự khác biệt rõ rệt từ việc xác định GTDN tốn mất thời gian từ 8 tháng đến 2 năm những năm 1996, dưới 3 tháng những năm 1996-1998, và chỉ còn 5-6 ngày từ năm 1998 trở lại đây. Như vậy, xác định GTDN ngày càng được hoàn thiện và phù hợp với tình hình thực tế. Nhờ đó mà công tác CPHđược đẩy mạnh. Việc thực hiện xác định GTDN phải do một bên độc lập thực hiện, và công tác này rất phù hợp với kiểm toán độc lập vì nó đảm bảo tính khách quan cao. Về phía nhà nước, nhà nước muốn GTDN cao vì nhà nước sẽ bán được cổ phiếu với giá cao, thu hồi về được nhiều vốn nhưng người mua cổ phiếu lại bị thiệt. Còn về phía DN, DN muốn GTDN thấp vì DN muốn bán cho “người nhà của mình” đó là những cán bộ công nhân viên trong công ty. Như vậy một tổ chức kiểm toán độc lập đứng giữa thực hiện là hợp lý. Công tác xác định GTDN là một dịch vụ mới của kiểm toán, nó phát triển song song cùng với kiểm toán nhưng công tác này có tính lịch sử, nó chỉ tồn tại khi còn DNNN để cổ phần hoá. Nhà nước CPHDN mình nhưng không có nghĩa là nhà nước mất quyền kiểm soát đối với các DN này. Đối với các DN quan trọng, nhà nước chiếm số cổ phần ưu thế hoặc chiếm trên 51% cổ phần. Và như thế, vai trò của nhà nước không bị mất đi. Là một công ty kiểm toán nhà nước có uy tín trên cả nước, AASC luôn thực hiện đúng và tuân thủ các quy định về kiểm toán nói chung và về xác định GTDN nói riêng. Tuy nhiên, công ty kiểm toán cần phải bồi dưỡng, trau dồi kiến thức nghiệp vụ cho KTV hơn nữa để cạnh tranh với các công ty khác như KPMG, Earnt & Young, A&C, VACO, Grant Thomson, Price Waterhouse,... để từng bước mở rộng thị trường kiểm toán ra nước ngoài. Một lần nữa em chân thành cảm ơn TS. Chu Thành và các anh chị phòng Kiểm toán và Tư vấn kế toán đã giúp em hoàn thành chuyên đề này. Danh mục các tài liệu tham khảo Thông tư số 76/2002/TT-BTC ngày 09/09/2002 hướng dẫn những vấn đề về tài chính khi chuyển DNNN thành công ty cổ phần. Thông tư số 79/2002/TT-BTC hướng dẫn phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp Nghị định số 64/2002/NĐ-CP về việc cổ phần hóa các DNNN Tổng kiểm kê tài sản và xác định lại giá trị tài sản của DNNN ngày 1/1/2000- Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp số 8/1999 Xác định giá trị doanh nghiệp – Quan điểm của nhà đầu tư và nhà quản trị – Tạp chí Tài chính doanh nghiệp số 2/2000 Một số đánh giá về công tác định giá tài sản của doanh nghiệp cổ phần hoá ở Việt nam – Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp – số 3/2000 Một số nhận thức về giá trị doanh nghiệp – Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp – số 3/2000 Phân chia tương lai khi xác định gía bán doanh nghiệp – Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp – số 3/2000 Bàn về mô hình xác định gía trị DNNN – Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp – số 4/2000 Định giá doanh nghiệp trên cơ sở BCTC – Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp – số 5/2000 Một số vấn đề về tài chính trong tiến trình cổ phần hoá DNNN – Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp – số 4/2001 Công tác kế toán, kiểm toán đối với DN có vốn đầu tư nhà nứơc – Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp – số 9/2001 Một số ý kiến về lập kế hoạch kiểm toán – tạp chí Kiểm toán – số Xuân Canh thìn Những nội dung cơ bản của quy trình kiểm toán DNNN – Tạp chí Kiểm toán - số 4/1998 Đổi mới cơ chế xác định giá trị doanh nghiệp trước khi cổ phần hóa – Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp – số 5/2002 Cổ phần hoá DNNN, một số tiêu điểm – tạp chí Thị trường Chứng khoán – số 6/2000 Thấy gì qua kết quả kiểm kê và xác định lại giá trị tài sản DNNN – Tài chính doanh nghiệp – số 9/2001 Những vấn đề tài chính khi thực hiện chuyển đổi DNNN thành công ty TNHH một thành viên – Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp – số 2/2001 Điều có thể xảy ra trong tổng kiểm kê tài sản năm 2000 – Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp - số 12/1999 Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa kiểm toán nhà nước và DNNN – tạp chí Kiểm toán – số 1/2001 Danh mục hệ thống tài khoản kế toán Việt nam đã sửa đổi bổ sung đến tháng 2/2004 Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp – Luận án tiến sĩ kinh tế – 2001 – Nguyễn Minh Hoàng - Đại học Tài chính Kế toán Đánh giá doanh nghiệp – Nguyễn Hải Sản – 1998 – NXB Tài chính Hà Nội Công văn số 04/KK/TW của ban chỉ đạo kiểm kê TW về phương án kiểm kê tài sản và xác định lại giá trị DNNN để cổ phần hoá thời điểm 0h ngày 31/12/2000 Cổ phần hoá DNNN Thông tư số 104-1998/TT-BTC ngày 18/7/1998 hướng dẫn những vấn đề tài chính khi chuyển đổi DNNN thành công ty cổ phần Thông tư số 50/TC /TCDN ngày 30/08/1996 của Bộ tài chính hướng dẫn những vấn đề về tài chính, bán cổ phần và phát hành cổ phần trong việc chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần Thông tư 36/TC-CN theo Quyết định 2002/CT ngày 08/06/1992 Kế toán quản trị – Nguyễn Tấn Bình Phân tích tài chính doanh nghiệp – Josette Peyrard Cổ phần hoá các DNNN ở Việt nam – PGS PTS Hoàng Công Thi và PTS Phùng Thị Đoan – 1992 Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28692.doc
Tài liệu liên quan