Kiểm toán viên và Đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam

Lời nói đầu Tuy mới chỉ chính thức xuất hiện vào đầu thập niên 90 của thế kỷ XX với sự ra đời của các Công ty kiểm toán độc lập song kiểm toán đã nhanh chóng chứng tỏ được vai trò đặc biệt quan trọng của mình trong việc tăng cường và nâng cao hiệu quả của quản lý. Với chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động của đơn vị được kiểm toán, kiểm toán tạo niềm tin cho các nhà đầu tư, các nhà quản trị doanh nghiệp, khách hàng và những người quan tâm. Nó góp phần hướng dẫn nghiệp vụ v

doc53 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1440 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Kiểm toán viên và Đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à củng cố nền nếp hoạt động tài chính, kế toán nói riêng và hoạt động quản lý nói chung. Hơn hết, nó góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý. Việt Nam đã ra nhập AFTA, đã chính thức trở thành thành viên thứ 21 của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC) và đang tích cực đàm phán để sớm ra nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Trong bối cảnh chung đó, kiểm toán chính là một trong những ngành, những lĩnh vực thương mại dịch vụ được quan tâm trong đàm phán. Việc công khai hóa tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh được chứng nhận sự trung thực và hợp lý bởi một bên độc lập đã khiến cho kiểm toán ngày càng trở thành một hoạt động phổ biến và bắt buộc đối với các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế. Trong bối cảnh đó, việc có một đội ngũ kiểm toán viên giỏi có trình độ cao, đủ sức giải quyết các công việc thuộc ngành nghề chuyên môn phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chủ động hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới và tạo tiền đề, nền tảng cơ bản cho đào tạo CPA của Việt Nam theo tiêu chuẩn và chất lượng quốc tế trở thành một yêu cầu tất yếu. Đã có rất nhiều những ý kiến đóng góp để xây dựng nên một mô hình toàn diện trong đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam song hiện nay vẫn chưa có một mô hình chung, thống nhất. Với mong muốn được đóng góp một phần nhỏ bé vào việc xây dựng một mô hình hoàn thiện trong đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam, chúng em đã quyết định chọn đề tài: "Kiểm toán viên và Đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam" cho công trình nghiên cứu khoa học của mình. Công trình này gồm 3 chương: Chương I: cơ sở lý luận về kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên Chương II: Thực trạng về kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại việt nam Chương III: Một số đánh giá và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng đào tạo kiểm toán viên tại việt nam Hi vọng rằng thông qua Công trình nghiên cứu khoa học của mình, chúng em có thể góp một phần nhỏ trong việc đưa ra một số giải pháp có tính khả thi để góp phần xây dựng một mô hình đào tạo kiểm toán viên thống nhất tại Việt Nam. Do còn nhiều bỡ ngỡ, Công trình nghiên cứu khoa học của chúng em không thể tránh khỏi những thiếu sót cần phải sửa đổi, bổ sung, rất mong bạn đọc thông cảm và đóng góp xây dựng. Chúng em xin chân thành cảm ơn. Chương I: Cơ sở lý luận về Kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên I. Cơ sở lý luận về kiểm toán viên 1. Khái niệm kiểm toán viên Trên thế giới, thuật ngữ kiểm toán đã có từ lâu – từ khi xuất hiện nhu cầu xác định tính trung thực, độ tin cậy của thông tin trên Báo cáo tài chính và thực trạng tài sản của một chủ thể trong quan hệ kinh tế. Nhưng hoạt động kiểm toán chuyên nghiệp chỉ mới xuất hiện cách đây khoảng 300 năm, khởi đầu do cuộc Đại Cách mạng Công nghiệp. Do cuộc Cách mạng này đã có sự tách biệt giữa chức năng sở hữu và chức năng quản lý, đồng thời làm xuất hiện khái niệm chủ nhân và người quản lý. Vì vậy đã làm nảy sinh nhu cầu kiểm tra để phát hiện các gian lận của người quản lý và người làm thuê. Đến năm 1844, nước Anh ban hành Luật Công ty cổ phần - là luật Công ty cổ phần đầu tiên trên thế giới, cùng với đó là sự xuất hiện khái niệm kiểm toán viên. Từ đây, hình thức sơ khai về nghề nghiệp kiểm toán bắt đầu xuất hiện và các hiệp hội kiểm toán chính thức ra đời vào đầu thế kỷ XIX. Kiểm toán viên là khái niệm chung chỉ những người làm công tác kiểm toán cụ thể, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ tương xứng với công việc đó. Trong ý nghĩa hẹp, từ kiểm toán viên (Auditor) thường gắn với chức danh kế toán viên công chứng (Certified Public Accountant - CPA). Tuy nhiên, trong cả lý luận và thực tế, khái niệm kiểm toán viên cũng bao hàm cả kiểm toán viên nhà nước (Government Auditor) và cả kiểm toán viên nội bộ (Internal Auditor). Kiểm toán viên độc lập là những người hành nghề kiểm toán. Tại Việt Nam, theo Nghị định 105/NĐ-CP, kiểm toán viên phải có các tiêu chuẩn sau đây: - Có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, trung thực, liêm khiết, có ý thức chấp hành pháp luật; không thuộc đối tượng cấm đăng ký hành nghề kiểm toán. - Có bằng cử nhân chuyên ngành Kinh tế - Tài chính - Ngân hàng hoặc chuyên ngành Kế toán - Kiểm toán và thời gian công tác thực tế về tài chính, kế toán từ 5 năm trở lên hoặc thời gian thực tế làm trợ lý kiểm toán ở doanh nghiệp kiểm toán từ 4 năm trở lên. - Có khả năng sử dụng tiếng nước ngoài thông dụng và sử dụng thành thạo máy vi tính. - Có chứng chỉ kiểm toán viên do Bộ trưởng Bộ Tài chính cấp. Kiểm toán viên độc lập thường có hai chức danh: Một là, Kiểm toán viên. Theo quy định, kiểm toán viên là người đã tốt nghiệp đại học và sau 2 năm làm thư ký hoặc trợ lý kiểm toán, tốt nghiệp kỳ thi tuyển kiểm toán viên (quốc gia hoặc quốc tế) để lấy bằng (chứng chỉ) kiểm toán viên (CPA). Trên thực tế, kiểm toán viên phải có khả năng độc lập thực hiện công việc kiểm toán cụ thể. Hai là, Kiểm toán viên chính. Kiểm toán viên chính là người đã từng qua kiểm toán viên (thường từ 3-5 năm) và qua kỳ thi nâng bậc. Về chuyên môn họ phải có khả năng tổ chức một nhóm kiểm toán viên tiến hành những công việc kiểm toán có quy mô lớn. Những kiểm toán viên độc lập được hành nghề trong một tổ chức (Công ty) hoặc với văn phòng tư tùy điều kiện cụ thể do pháp luật quy định. Kiểm toán viên nội bộ thường là những người hành nghề kiểm toán không chuyên nghiệp. Họ có thể là những kế toán viên giỏi, những nhà quản lý có kinh nghiệm, những kỹ thuật viên có hiểu biết về các lĩnh vực có liên quan đến kiểm toán, đặc biệt là các loại hình công nghệ, các quy trình kỹ thuật, các định mức…Tuy nhiên, những người này cũng cần có trình độ nghiệp vụ tương xứng, có thể được đào tạo qua trường ví dụ như Trường Đào tạo Kiểm toán viên nội bộ Hoa Kỳ IIA…Hơn nữa, trong nhiều trường hợp, kiểm toán viên nội bộ cũng có thể là các kiểm toán viên chuyên nghiệp như những giám định viên trong hệ thống kiểm toán ở Tây Âu, các kiểm soát viên chuyên nghiệp trong những doanh nghiệp nhà nước và các đơn vị công cộng (có quy mô lớn) hoặc các chuyên gia được các Hội đồng quản trị sử dụng trong ủy ban kiểm toán. Kiểm toán viên nhà nước là những công chức (viên chức nhà nước) làm nghề kiểm toán. Do đó, họ được tuyển chọn và hoạt động do tổ chức kiểm toán nhà nước phân công. Đồng thời, họ được xếp vào các ngạch bậc chung của công chức (theo tiêu chuẩn cụ thể của từng nước, trong cùng thời kỳ): - Kiểm toán viên - Kiểm toán viên chính - Kiểm toán viên cao cấp Chức năng và quyền hạn cụ thể của từng ngạch bậc được quy định cụ thể tùy theo từng nước song nói chung cũng có sự gần gũi giữa các quốc gia và có các mối quan hệ tương ứng với các chức danh của kiểm toán viên độc lập. Riêng kiểm toán viên cao cấp thường giữ cương vị lãnh đạo cơ quan kiểm toán nhà nước hoặc là những chuyên gia cao cấp có chức năng và quyền hạn trong kiểm toán, trong tư vấn (kể cả soạn thảo luật pháp) thậm chí trong phán xử (như một quan tòa)…tùy quy định cụ thể của từng nước. 2. Vai trò của kiểm toán viên Trong xã hội nói chung và trong nền kinh tế nói riêng, hàng ngày, hàng giờ chúng ta luôn đứng trước việc phải đưa ra các quyết định. Một quyết định đúng đắn, kịp thời sẽ mang đến những thành công; ngược lại, một quyết định sai lầm sẽ dẫn tới những hậu quả xấu, những thất bại. Để ra được những quyết định sáng suốt thì một nguồn thông tin bảo đảm, đáng tin cậy và kịp thời là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên khi xã hội ngày càng trở nên phức tạp thì khả năng thông tin kém tin cậy được cung cấp cho những người ra quyết định ngày càng tăng thêm. Có nhiều nguyên nhân gây ra những rủi ro thông tin này như: sự cách trở của thông tin, thành kiến và động cơ của người cung cấp, do dữ kiện quá nhiều, do nghiệp vụ kinh tế phức tạp… Để giảm thiểu rủi ro thông tin này, người sử dụng thông tin có thể kiểm tra thông tin bằng cách đến trực tiếp doanh nghiệp để xem xét sổ sách và thu thập thông tin về độ tin cậy của các báo cáo. Thông thường, điều này không thực tế vì tốn kém. Ngoài ra, sẽ không có hiệu quả kinh tế nếu mọi người sử dụng đều tự mình kiểm tra thông tin. Một cách khác nữa mà người sử dụng thông tin có thể sử dụng là chia sẻ rủi ro thông tin cùng với Ban quản trị doanh nghiệp. Ban quản trị có trách nhiệm cung cấp thông tin đáng tin cậy cho người sử dụng. Nếu người sử dụng dựa trên các Báo cáo tài chính không chính xác và điều này dẫn tới những thiệt hại về mặt tài chính thì người sử dụng có căn cứ để kiện Ban quản trị. Điều trở ngại trong việc người sử dụng chia xẻ rủi ro thông tin với Ban quản trị là họ có khả năng không thu hồi được khoản lỗ. Nếu một công ty không có khả năng thanh toán nợ vì bị phá sản thì không chắc rằng Ban quản trị sẽ có đủ tiền để thanh toán cho người sử dụng. Cách hiệu quả nhất trong trường hợp này để hạn chế rủi ro thông tin là sử dụng các Báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Các kiểm toán viên sẽ tiến hành các cuộc kiểm toán để thu thập và đánh giá các bằng chứng nhằm đảm bảo rằng các thông tin trên Báo cáo tài chính là trung thực và hợp lý xét trên các khía cạnh trọng yếu. Thông tin đã kiểm toán sau đó sẽ được sử dụng trong quá trình ra quyết định với giả định là thông tin tương đối đầy đủ, chính xác và vô tư. Không những thế, nếu có các kiểm toán viên tiến hành kiểm tra thông tin sẽ tiết kiệm hơn việc những người cá biệt sử dụng thông tin tự mình kiểm tra. Xã hội ngày càng phức tạp thì sự tin cậy vào kiểm toán viên để làm giảm rủi ro thông tin càng tăng. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, vai trò đó của kiểm toán viên ngày càng quan trọng. Nó góp phần làm lành mạnh hoá nền tài chính, nâng cao tính minh bạch của các thông tin tài chính, từ đó nâng cao hiệu lực của quản lý nói riêng và góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế. 3. Yêu cầu đối với kiểm toán viên Kiểm toán viên làm công việc là kiểm tra độc lập, bày tỏ ý kiến về các thông tin trình bày trên Báo cáo tài chính. Đây là một lĩnh vực khoa học chuyên môn có phạm vi rộng, đòi hỏi người làm kiểm toán có một trình độ chuyên môn nhất định. Có như vậy, kiểm toán viên mới có thể đưa ra đuợc những ý kiến kiểm toán đúng đắn hữu ích trong việc ra quyết định của người sử dụng Báo cáo tài chính. Bên cạnh đó, có thể thấy kiểm toán là một lĩnh vực hoạt động mang tính chủ quan, bởi căn cứ vào các bằng chứng thu thập được, kiểm toán viên dựa trên các kinh nghiệm và óc xét đoán nghề nghiệp của mình để đưa ra ý kiến về các thông tin trình bày trên Báo cáo tài chính. Chất lượng của một cuộc kiểm toán sẽ có ảnh hưởng lớn đến những người sử dụng kết quả kiểm toán (Báo cáo tài chính đã kiểm toán) trong việc ra quyết định tài chính, trong khi những người sử dụng Báo cáo tài chính thông thường không thể đánh giá được công việc kiểm toán (do tính chất phức tạp của chuyên môn); cũng như một bệnh nhân không thể đánh giá liệu cuộc giải phẫu có được tiến hành đúng đắn không, liệu bác sĩ đã có chuyên môn tốt hay không, liệu bác sĩ đã cố gắng hết mức có thể chưa. Những người sử dụng Báo cáo tài chính đã kiểm toán không thể đánh giá được trình độ của kiểm toán viên, thái độ làm việc cũng như ý thức của kiểm toán viên khi thực hiện cuộc kiểm toán, họ không thể đánh giá chính xác liệu ý kiến của kiểm toán viên về Báo cáo tài chính như vậy có khách quan hay không... Nếu những người sử dụng dịch vụ kiểm toán không tin tưởng vào kiểm toán viên thì khả năng phục vụ khách hàng và công chúng một cách hiệu quả của các công ty kiểm toán sẽ bị giảm bớt. Bởi vậy ở mỗi quốc gia đều có những yêu cầu đối với những người làm nghề kiểm toán cả về trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp. 3.1. Yêu cầu về trình độ chuyên môn đối với kiểm toán viên Năng lực chuyên môn là nhân tố quan trọng đối với kiểm toán viên. Năng lực chuyên môn cao hay thấp sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của cuộc kiểm toán, bởi nó ảnh hưởng đến khả năng của kiểm toán viên trong việc đánh giá tính trung thực hợp lý của các thông tin trên Báo cáo tài chính, phát hiện ra các sai phạm và đưa ra ý kiến kiểm toán hợp lý. Năng lực chuyên môn đòi hỏi kiểm toán viên phải đạt được trình độ chuyên môn nhất định. Cụ thể, kiểm toán viên phải có kiến thức kinh tế, tài chính, kế toán và kiểm toán tương đối rộng. Cùng với đó, kiểm toán viên cũng cần có kiến thức pháp luật nói chung, đặc biệt pháp luật về tài chính, kế toán, kiểm toán. Để đạt được điều đó, kiểm toán viên phải có bằng cấp xác nhận trình độ được đào tạo như: trung cấp, cao đẳng, đại học, thạc sỹ, tiến sỹ về kinh tế, tài chính, ngân hàng hoặc kế toán, kiểm toán... Trình độ chuyên môn có thể còn yêu cầu về kinh nghiệm làm việc (thời gian thực tế hành nghề). Khi đã đạt được trình độ chuyên môn, kiểm toán viên phải giữ vững được trình độ chuyên môn bằng cách liên tục cập nhật những thay đổi trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán, tài chính... kể cả những công bố quốc gia và quốc tế, các quy định phù hợp và các yêu cầu khác của luật pháp. Kiểm toán viên phải tuân thủ ít nhất là chương trình cập nhật kiến thức hàng năm theo luật định để đảm bảo kiểm soát chất lượng trong hoạt động cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp, nhất quán với công bố quốc gia và quốc tế phù hợp. Trong điều kiện nền kinh tế tài chính thế giới ngày càng quốc tế hóa sâu rộng, kiểm toán viên cần phải thông thạo ngoại ngữ để có thể trao đổi với khách hàng để công việc kiểm toán có thể diễn ra thuận lợi và các báo cáo kiểm toán có giá trị quốc tế. Không những thế, có ngoại ngữ thành thạo cũng là điều kiện thuận lợi để các kiểm toán viên có thể học tập, nâng cao trình độ thông qua việc nghiên cứu các tài liệu của nước ngoài cũng như tham gia các khóa học trong và ngoài nước. Các kiểm toán viên cũng cần biết sử dụng các công cụ tin học trong kiểm toán. Hiện nay, trong thời đại mà công nghệ thông tin đang được ứng dụng một cách rộng rãi, việc sử dụng kế toán máy đã trở nên phổ biến, do vậy các kiểm toán viên cần phải có kiến thức về tin học để hỗ trợ cho công việc của mình. Cùng với đó, ở một số các công ty kiểm toán đã có các phần mềm kiểm toán như phần mềm AS/2 của Công ty kiểm toán Việt Nam (VACO)…hỗ trợ đắc lực cho các kiểm toán viên trong việc chọn mẫu kiểm toán, thực hiện các phân tích…Vì vậy kiến thức tin học là một điều rất cần thiết đối với các kiểm toán viên. Năng lực chuyên môn ở đây còn bao gồm cả khả năng giao tiếp. Trong cuộc sống hàng ngày, dù ở bất cứ nghề nghiệp nào, con người luôn cần phải giao tiếp với nhau. Giao tiếp tốt sẽ giúp cho chúng ta tránh được hiểu lầm với người đối thoại và để lại những ấn tượng tốt đẹp. Với một nghề nghiệp cần tiếp xúc nhiều với các khách hàng như kiểm toán thì một khả năng giao tiếp tốt càng quan trọng, không những thế nó còn cần phải được nâng lên thành một nghệ thuật. Có được một nghệ thuật giao tiếp tốt, kiểm toán viên sẽ tránh được những hiểu lầm, tạo thuận lợi trong việc thu thập các số liệu làm bằng chứng kiểm toán và nhất là có thể duy trì một mối quan hệ tốt đẹp và lâu dài giữa công ty kiểm toán và khách hàng kiểm toán. Cũng chính từ tầm quan trọng của năng lực chuyên môn đối với kiểm toán viên như vậy, hầu hết các công ty kiểm toán đều có những chính sách cụ thể cho việc tuyển nhân viên, đào tạo chuyên môn và các tiêu chuẩn về cơ hội thăng tiến đối với các kiểm toán viên cũng như các nhân viên khác trong công ty nhằm không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, kinh nghiệm hành nghề của kiểm toán viên, nâng cao chất lượng và uy tín của công ty kiểm toán. 3.2. Yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp đối với kiểm toán viên Trình độ chuyên môn nghiệp vụ là một yêu cầu không thể thiếu đối với các kiểm toán viên trong việc đưa ra các ý kiến kiểm toán hợp lý tạo niềm tin cho những người sử dụng Báo cáo tài chính. Song kiểm toán là một lĩnh vực hoạt động mang tính chủ quan, bởi căn cứ vào các bằng chứng thu thập được, kiểm toán viên dựa trên các kinh nghiệm và óc xét đoán nghề nghiệp của mình để đưa ra ý kiến về các thông tin trình bày trên Báo cáo tài chính, bởi vậy chỉ có một trình độ chuyên môn nghiệp vụ thôi là chưa đủ, người làm kiểm toán còn cần có một cái tâm trong sáng. Chúng ta hẳn vẫn chưa quên chuyện một số cá nhân kiểm toán viên thông đồng với tập đoàn viễn thông Worldcom ở Mỹ chưa lâu và ở nước ta, mới đây thôi là việc gian lận trong báo cáo tài chính của Công ty Tiếp thị và Đầu tư của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Đó chính là những ví dụ rõ ràng nhất về sự cần thiết của phẩm chất đạo đức nghề nghiệp trong hành nghề kiểm toán. Để nền kinh tế của chúng ta tăng trưởng bền vững, đưa đất nước ta thành công trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hơn thế nữa là để các nhà đầu tư nước ngoài tin tưởng khi đầu tư vào Việt Nam, chúng ta phải xây dựng được một nền tài chính minh bạch, lành mạnh. Điều đó không chỉ cần tài năng mà rất cần cái tâm của những người hành nghề. Rõ ràng, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp đối với kiểm toán viên là một vấn đề bức thiết cần được xem xét. Chuẩn mực kiểm toán số 200 về “Mục tiêu và nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán Báo cáo tài chính” có quy định: “Kiểm toán viên phải tuân thủ các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp kiểm toán như sau: Độc lập, chính trực, khách quan, năng lực chuyên môn và tính thận trọng, tính bí mật, tư cách nghề nghiệp, tuân thủ chuẩn mực chuyên môn”. Theo dự thảo chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán của Bộ Tài chính, các nguyên tắc cơ bản về đạo đức nghề nghiệp với các kiểm toán viên gồm có: 3.2.1. Tính độc lập: “Độc lập là nguyên tắc hành nghề cơ bản của kiểm toán viên”. Không có tính độc lập thì chức năng kiểm toán không còn có giá trị trong xã hội. Chuẩn mực Đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán yêu cầu mọi kiểm toán viên và thành viên nhóm kiểm toán cung cấp dịch vụ kiểm toán (dịch vụ đảm bảo), công ty kiểm toán phải độc lập với các khách hàng sử dụng dịch vụ kiểm toán. Tính độc lập có nghĩa là kiểm toán viên phải hoàn toàn vô tư trong việc khảo sát, đánh giá và đưa ra kết luận của mình về Báo cáo tài chính dựa trên cơ sở các bằng chứng kiểm toán đã thu thập được. Một kiểm toán viên không thể xem là độc lập nếu kiểm toán viên đó là luật sư của khách hàng hoặc là chủ một ngân hàng có liên quan đến khách hàng. Tính độc lập phải được xem như là một trong những phẩm chất chủ yếu nhất của kiểm toán viên. Bởi tất cả những người sử dụng các báo cáo của kiểm toán viên coi nó như một căn cứ về tính trung thực và hợp lý của các Báo cáo tài chính của doanh nghiệp để đưa ra các quyết định tài chính, họ đều tin tưởng vào tính độc lập, vào sự vô tư của kiểm toán viên trong việc đánh giá và đưa ra ý kiến về thông tin được trình bày trên Báo cáo tài chính. Tính độc lập bao gồm: độc lập về tư tưởng và độc lập về hình thức. Độc lập về tư tưởng là trạng thái suy nghĩ cho phép đưa ra ý kiến mà không chịu ảnh hưởng của những tác động trái với những đánh giá nghề nghiệp, cho phép một cá nhân hành động một cách chính trực, khách quan và có sự thận trọng nghề nghiệp. Độc lập về hình thức là không có các quan hệ thực tế và hoàn cảnh có ảnh hưởng đáng kể làm cho bên thứ ba hiểu là không độc lập, hoặc hiểu là tính chính trực, khách quan và thận trọng nghề nghiệp của nhân viên công ty hay thành viên của nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo không được duy trì. Sự độc lập về tư tưởng yêu cầu kiểm toán viên trong quá trình kiểm toán, phải thực sự không bị chi phối hoặc tác động bởi bất kỳ lợi ích vật chất hoặc tinh thần nào làm ảnh hưởng đến sự trung thực, khách quan trong việc đưa ra ý kiến về Báo cáo tài chính. Kiểm toán viên không được nhận làm kiểm toán cho các đơn vị mà mình có quan hệ kinh tế hoặc quyền lợi kinh tế như góp vốn cổ phần, cho vay hoặc vay vốn từ khách hàng, hoặc là cổ đông chi phối của khách hàng, hoặc có ký kết hợp đồng gia công, dịch vụ, đại lý tiêu thụ hàng hoá... Kiểm toán viên không được nhận làm kiểm toán ở những đơn vị mà bản thân có quan hệ họ hàng thân thuộc (như bố, mẹ, vợ, chồng, con cái, anh chị em ruột) với những người trong bộ máy quản lý (Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, các trưởng, phó phòng và những người tương đương) trong đơn vị được kiểm toán. Kiểm toán viên không được vừa làm dịch vụ kế toán (như trực tiếp ghi chép, giữ sổ kế toán và lập Báo cáo tài chính) vừa làm dịch vụ kiểm toán cho cùng một khách hàng. Tuy nhiên, không chỉ kiểm toán viên giữ thái độ độc lập khi thực thi trách nhiệm của mình mà còn cả những người sử dụng các Báo cáo tài chính phải có niềm tin vào tính độc lập đó (đó chính là tính độc lập về hình thức trong kiểm toán). Nếu kiểm toán viên thực sự độc lập nhưng người sử dụng Báo cáo tài chính lại tin rằng họ là những người bao che, biện hộ cho khách hàng thì phần lớn giá trị của cuộc kiểm toán sẽ không còn nữa. Trong quá trình kiểm toán, nếu có sự hạn chế về tính độc lập thì kiểm toán viên phải tìm mọi cách loại bỏ sự hạn chế này. Nếu không loại bỏ được thì kiểm toán viên phải nêu rõ điều này trong báo cáo kiểm toán. 3.2.2. Tính chính trực và khách quan Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp quy định chính trực là kiểm toán viên phải thẳng thắn, trung thực trong tư tưởng, có chính kiến rõ ràng, đồng thời phải công bằng, tín nhiệm, không có xung đột về lợi ích. Khách quan là kiểm toán viên phải công bằng, tôn trọng sự thật và không được thành kiến thiên vị. Ví dụ: Giả sử kiểm toán viên tin rằng tài khoản phải thu có thể không thu hồi được nhưng vì một lý do cá nhân nào đó, kiểm toán viên chấp nhận giải trình của Ban Giám đốc mà không xem xét lại một cách kỹ lưỡng, không có sự cân nhắc đánh giá độc lập về khả năng thu hồi. Trong trường hợp này, xét đoán của kiểm toán viên đã bị lệ thuộc, vì vậy mất khách quan. Kiểm toán viên không được chủ tâm phản ánh sai sự việc, và khi thực hiện hợp đồng kiểm toán độc lập (kể cả cung cấp dịch vụ kê khai thuế và dịch vụ tư vấn cho Ban quản trị) kiểm toán viên không được để sự phán xét của mình bị lệ thuộc vào người khác. Khi thực hiện dịch vụ thuế, kiểm toán viên có thể giải quyết điều nghi ngờ theo hướng có lợi cho khách hàng khi có sự chứng minh hợp lý đối với quan điểm của kiểm toán viên. Trong quá trình tiến hành cuộc kiểm toán, việc lựa chọn và áp dụng các tiêu chuẩn về đạo đức để đảm bảo nguyên tắc khách quan là rất quan trọng đối với kiểm toán viên. Một số trường hợp có thể dẫn đến vi phạm tính khách quan như: kiểm toán viên phải chịu áp lực mạnh từ phía cơ quan quản lý, đơn vị cấp trên, Giám đốc, người lãnh đạo đơn vị; hoặc khi có các quan hệ gia đình hay cá nhân. Các mối quan hệ hay lợi ích có thể có ảnh hưởng trái ngược, làm vi phạm hay đe dọa đến tính chính trực, khách quan của người kiểm toán viên thì cần được loại bỏ. Kiểm toán viên cần tránh các mối quan hệ dẫn đến sự thành kiến, thiên vị hoặc ảnh hưởng tới những người khác (trong nhóm kiểm toán) có thể dẫn tới vi phạm tính khách quan. Kiểm toán viên không nên nhận hoặc tặng quà, chiêu đãi, có thể làm ảnh hưởng đáng kể tới các đánh giá nghề nghiệp hoặc tới những người cùng làm việc trong nhóm kiểm toán. Vẫn biết rằng quà tặng và chiêu đãi là quan hệ tình cảm cần thiết nhưng kiểm toán viên nên tránh các trường hợp có thể ảnh hưởng đến tính chính trực, khách quan, hoặc dẫn đến tai tiếng nghề nghiệp. Hành vi cho mượn danh kiểm toán viên hành nghề cũng được coi là vi phạm tư cách nghề nghiệp và tính chính trực được quy định trong Chuẩn mực Đạo đức nghề nghiệp. Các kiểm toán viên cũng ý thức rằng, việc cho mượn danh để hành nghề sẽ đem đến nhiều rủi ro cho “kiểm toán viên cho mượn danh” như: sẽ làm giảm sự tín nhiệm của kiểm toán viên đối với xã hội nói chung, đối với khách hàng, đồng nghiệp nói riêng. Ngoài ra, khi sự cố xảy ra, không chỉ riêng công ty kiểm toán, mà cả “kiểm toán viên cho mượn danh” cũng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về các ý kiến của “người mang danh kiểm toán viên” trên các “báo cáo kiểm toán có vấn đề”. 3.2.3. Tính thận trọng Kiểm toán viên phải thực hiện công việc kiểm toán với đầy đủ năng lực chuyên môn cần thiết, với sự thận trọng cao nhất và tinh thần làm việc chuyên cần. Kiểm toán viên có nhiệm vụ duy trì, cập nhật và nâng cao kiến thức trong hoạt động thực tiễn, trong môi trường pháp lý và các tiến bộ kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu công việc. Kiểm toán viên không được thể hiện là có những kinh nghiệm và khả năng mà bản thân không có. Theo đó, tuy Chuẩn mực chưa quy định cụ thể, nhưng nhìn chung, kiểm toán viên chỉ nên nhận thực hiện những hợp đồng mà anh ta hoặc công ty anh ta dự kiến có đủ năng lực, nghiệp vụ để hoàn thành. Sự thận trọng thể hiện trong việc lập kế hoạch và giám sát một cách đầy đủ hợp đồng; thu thập số liệu thích hợp để đủ làm căn cứ hợp lý cho các kết luận hoặc kiến nghị liên quan tới hợp đồng; và đặc biệt là trường hợp kiểm toán viên không nên sử dụng tên của mình gắn cho các nghiệp vụ kinh tế tương lai phát sinh theo cách mà có thể dẫn đến sự tin tưởng là kiểm toán viên đó cam đoan khả năng có thể đạt được của dự án. Để giảm rủi ro kiểm toán, giảm bớt trách nhiệm của kiểm toán viên thì thận trọng là một nguyên tắc không thể thiếu trong khi hành sự kiểm toán. 3.2.4. Tính bảo mật Trong quá trình tiến hành cuộc kiểm toán, kiểm toán viên thu được một số lượng đáng kể thông tin bảo mật, gồm cả lương của các viên chức, quá trình định giá sản phẩm, các kế hoạch quảng cáo, và số liệu chi phí sản phẩm... Nếu kiểm toán viên tiết lộ những thông tin này cho những người ở bên ngoài hoặc cho các nhân viên của công ty khách hàng (là những người không được quyền tiếp cận với các thông tin đó), thì mối quan hệ giữa kiểm toán viên, công ty kiểm toán với ban giám đốc công ty khách hàng sẽ bị căng thẳng nghiêm trọng, và trong trường hợp cực đoan có thể sẽ làm phương hại đến công ty khách hàng. Vì những lý do trên, việc cẩn trọng để bảo vệ các bản tư liệu mật của công ty khách hàng là rất quan trọng. Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp quy định kiểm toán viên có nghĩa vụ tôn trọng nguyên tắc bảo mật các thông tin về khách hàng thu được trong quá trình kiểm toán, kể cả sau khi kết thúc hợp đồng kiểm toán. Trừ khi thông tin cần được cung cấp cho cơ quan chức năng có liên quan hoặc trách nhiệm nghề nghiệp hoặc luật pháp yêu cầu phải báo cáo, kiểm toán viên không được tiết lộ thông tin, không được sử dụng các thông tin này để thu lợi cá nhân hoặc thu lợi cho bên thứ ba. Kiểm toán viên không được công bố thông tin bảo mật về khách hàng kể cả thông tin khác nếu không được sự đồng ý của công ty khách hàng. Như vậy, kiểm toán viên có thể cung cấp thông tin cho người khác chỉ khi được sự cho phép của công ty khách hàng. Đây là một điều kiện bắt buộc, kể cả trong trường hợp kiểm toán viên bán kết quả làm việc của mình cho một công ty kiểm toán khác hoặc muốn cho phép người kiểm toán viên kế tục xem xét tư liệu lập cho công ty khách hàng trước đây. 3.2.5. Tư cách nghề nghiệp Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp quy định kiểm toán viên phải trau dồi và bảo vệ uy tín nghề nghiệp, không được gây ra những hành vi làm giảm uy tín nghề nghiệp. Hành vi làm mất tín nhiệm không được định nghĩa rõ ràng trong các nguyên tắc của chuẩn mực, một vài hành vi sau của kiểm toán viên có thể được xem là ví dụ (theo văn bản hướng dẫn thi hành chuẩn mực đạo đức của Viện kiểm toán độc lập Hoa Kỳ): Kiểm toán viên giữ lại sổ sách của khách hàng sau khi một đòi hỏi không được đáp ứng là một hành vi làm mất tín nhiệm. Ví dụ, giả sử Ban quản trị công ty khách hàng không trả thù lao cho công ty kiểm toán và do đó các kiểm toán viên từ chối trả lại sổ sách của khách hàng. Một công ty kiểm toán phân biệt đối xử giữa các chủng tộc, màu da, tôn giáo, giới tính, tuổi tác, hoặc quốc tịch cũng được xem là một hành vi làm mất tín nhiệm. Nếu một kiểm toán viên đồng ý thực hiện kiểm toán ở một cơ quan Nhà nước, mà cơ quan này qui định các thể thức kiểm toán khác với các chuẩn mực kiểm toán đã được thừa nhận, thì trách nhiệm đối với uy tín nghề nghiệp thể hiện ở chỗ kiểm toán viên phải tuân thủ cả các thể thức của cơ quan Nhà nước đó và các chuẩn mực kiểm toán đã được chấp nhận, trừ khi báo cáo kiểm toán được diễn đạt bằng một cách khác. Uống rượu quá say, hành động gây mất trật tự, hoặc những hành vi khác mà nhiều người xem là trái với tiêu chuẩn nghề nghiệp không hề cấu thành một hành vi làm mất tín nhiệm. Những gì cấu thành tư cách đạo đức nghề nghiệp tiếp tục là trách nhiệm của mỗi người hành nghề chuyên nghiệp. 3.2.6. Tuân thủ chuẩn mực chuyên môn Kiểm toán viên phải thực hiện công việc kiểm toán theo những kỹ thuật và chuẩn mực chuyên môn đã quy định trong chuẩn mực kiểm toánViệt Nam (hoặc chuẩn mực quốc tế được Việt Nam chấp nhận) và các quy định pháp luật hiện hành. II. Cơ sở lý luận về đào tạo kiểm toán viên 1. Mục tiêu đào tạo kiểm toán viên Đổi mới cơ chế kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa và công cuộc cải cách hành chính vào đầu những năm 1990 đã tạo nên những tiền đề kinh tế xã hội và những yêu cầu cấp thiết của sự ra đời các tổ chức kiểm toán ở Việt Nam. Sau hơn 10 năm kể từ khi ra đời, hệ thống kiểm toán bao gồm: Kiểm toán nhà nước, các Công ty kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ đã có những bước phát triển nhất định, dần khẳng định được vai trò của mình phục vụ cho quản lý tài chính vĩ mô và vi mô. Cùng với đó, đội ngũ kiểm toán viên cũng ngày càng được nâng cao cả về số lượng và chất lượng. Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ và việc Việt Nam sắp ra nhập WTO, đội ngũ kiểm toán viên Việt Nam đang đối diện với nhiều cơ hội, cùng với nó cũng là rất nhiều thách thức. Các kiểm toán viên Việt Nam sẽ có cơ hội tốt để làm việc và có thu nhập cao ở nước ngoài song đồng thời cũng gặp phải những thách thức về cạnh tranh: Khả năng mất thị phần và bị loại khỏi cuộc chơi nếu không tự đổi mới. Đào tạo kiểm toán viên cũng đứng trước thách thức, đó là nguy cơ đào tạo kế toán bậc đại học không đáp ứng yêu cầu hội nhập và nguy cơ tụt hậu nếu không thừa nhận chức danh CPA và có chiến lược tổng thể và đúng đắn về đào tạo CPA ở Việt Nam Với thực trạng trên, việc nâng cao chất lượng đội ngũ kiểm toán viên phải hướng tới một số mục tiêu chủ yếu sau: 1.1. Về mặt số lượng Trong 5 năm tới, số kiểm toán viên sẽ tăng gấp 2 - 2,5 lần so với hiện tại, chủ yếu là kiểm toán viên nhà nước và kiểm toán viên độc lập. Cùng với số kiểm toán viên hiện có được đào tạo và đào tạo lại đặt ra nhu cầu đào tạo tương đối lớn với những cấp độ đào tạo khác nhau. 1.2. Về cơ cấu Đội ngũ kiểm toán viên, một mặt cơ cấu kiểm toán._. viên được phân theo chủ thể kiểm toán (Kiểm toán viên nhà nước, kiểm toán viên độc lập, kiểm toán viên nội bộ) cần được đào tạo theo những chương trình có sự phân hóa nhất định. Mặt khác, cùng với sự phát triển của hoạt động quản lý kinh tế tài chính, chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán viên cũng cần được nâng cao theo hướng chuyên môn hóa theo chuyên ngành kiểm toán (ví dụ kiểm toán doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp thương mại dịch vụ, kiểm toán đầu tư xây dựng cơ bản…) Đồng thời, cần hướng tới đào tạo, bồi dưỡng theo từng ngạch bậc kiểm toán viên để đáp ứng yêu cầu sử dụng của các tổ chức kiểm toán. 1.3. Về mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng Cần có sự thay đổi về nhận thức, coi kiểm toán là một nghề nghiệp độc lập tương đối trong nền kinh tế quốc dân. Do vậy, kiểm toán viên cần có tiêu chuẩn riêng về nghề nghiệp (về đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ), trên cơ sở đó xây dựng mục tiêu và chương trình đào tạo phù hợp. Về chuyên môn nghiệp vụ, kiểm toán viên cần được đào tạo toàn diện về kiến thức, kỹ năng kiểm toán và các kỹ năng khác trong quá trình hoạt động kiểm toán một cách toàn diện, đặc biệt là năng lực về công nghệ thông tin và ngoại ngữ. 2. Yêu cầu đào tạo đối với kiểm toán viên Mục tiêu tổng quát của đào tạo chuyên ngành chuyên ngành Kế toán - Kểm toán ở bậc đại học trong quá trình hội nhập là đào tạo một đội ngũ cử nhân kế toán - kiểm toán có chất lượng cao, đủ sức giải quyết các công việc thuộc ngành nghề chuyên môn phục vụ cho sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước, chủ động và tích cực hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới và tạo tiền đề, nền tảng cơ bản cho đào tạo CPA của Việt Nam theo tiêu chuẩn và chất lượng quốc tế. Cụ thể, mục tiêu đào tạo kiểm toán bậc đại học là phải tạo ra một đội ngũ cán bộ đạt được các mức độ chất lượng cao của sản phẩm đào tạo, xét trên các khía cạnh và tiêu thức sau đây: 2.1. Về nội dung kiến thức và trình độ hiểu biết: Chương trình đào tạo phải cung cấp cho người học các kiến thức tổng hợp, bao gồm: Khoa học xã hội Khoa học nhân văn Về tổ chức và kinh doanh Toán và máy tính Cơ sở ngành Ngoại ngữ (Tiếng Anh) Chuyên ngành kế toán và kiểm toán Như trên đã phân tích, ngoài kiến thức chuyên môn, các cử nhân kiểm toán còn phải rất giỏi máy tính và thông thạo tiếng Anh, am hiểu kinh tế cũng như quản lý các ngành nghề. Đối với các lĩnh vực chuyên môn, họ phải được trang bị các kiến thức hiện đại về các chuẩn mực kế toán và kiểm toán quốc tế, các vấn đề lý luận cơ bản về kế toán và kiểm toán nói chung chứ không đơn thuần là các quy định về chính sách và chế độ như hiện nay. 2.2. Về kỹ năng nghề nghiệp Mục tiêu đào tạo phải đảm bảo để người học có được kỹ năng nghiệp vụ kế toán và kiểm toán thành thạo ở thứ bậc cao của nội hàm chất lượng đào tạo. Về nguyên tắc, sản phẩm đào tạo đại học không chỉ có kỹ năng bắt chước thuần túy hay thao tác một kỹ năng nào đó theo chỉ dẫn mà còn phải có khả năng chuẩn hóa, phối hợp và cao hơn nữa là kỹ năng tự động hóa (hoàn thành một hay nhiều kỹ năng một cách dễ dàng và tự nhiên mà không đòi hỏi một sự gắng sức về thể lực và trí lực) Cần chú ý là các kỹ năng nói trên phải đặt trong điều kiện ứng dụng rộng rãi các thành tựu của tin học và công nghệ thông tin. 2.3. Về năng lực nhận thức Người học không chỉ biết, hiểu, vận dụng đơn thuần mà còn có năng lực phân tích (tách từ tổng thể thành bộ phận và biết rõ sự liên hệ giữa các thành phần đó với nhau theo cấu trúc của chúng), tổng hợp (biết kết hợp các bộ phận thành một tổng thể mới từ tổng thể ban đầu), đánh giá (biết so sánh, phê phán, chọn lọc, quyết định và đánh giá trên cơ sở các tiêu chí xác định), chuyển giao ( có khả năng diễn giải, thuyết phục và truyền thụ kiến thức đã tiếp thu được cho đối tượng khác) và cao hơn nữa là năng lực sáng tạo, nghĩa là có thể sáng tạo ra những giá trị mới trên cơ sở các kiến thức đã tiếp thu được. 2.4. Về năng lực tư duy Các cử nhân kiểm toán không chỉ biết tư duy cụ thể (chỉ có thể tư duy trên cơ sở những thông tin cụ thể này đến các tư duy cụ thể khác có sẵn), tư duy logic (suy luận theo một chuỗi có tuần tự, có khoa học và có phê phán, nhận xét), mà còn phải đạt đến cấp độ rất cao của sản phẩm đào tạo là phải có năng lực tư duy hệ thống (suy luận, tiếp cận một cách có hệ thống các thông tin hoặc các vấn đề, nhờ đó có cách nhìn bao quát toàn bộ hệ thống) và khả năng tư duy trừu tượng (suy luận các vấn đề một cách sáng tạo và ngoài các khuôn khổ định sẵn). 2.5. Về phẩm chất nhân văn Các phẩm chất nhân văn như khả năng hợp tác, khả năng thuyết phục và cao hơn như khả năng quản lý đều rất cần thiết với mọi cán bộ có trình độ đại học. Đặc biệt, do đặc thù của nghề kế toán, kiểm toán mà các phẩm chất nhân văn và bồi dưỡng văn hóa nghề ngay trong quá trình đào tạo có một ý nghĩa rất quan trọng. Khả năng hợp tác: Sẵn sàng cùng đồng nghiệp chia sẻ và thực hiện các nhiệm vụ được giao. Khả năng thuyết phục: Thuyết phục đồng nghiệp chấp nhận các ý tưởng, các kế hoạch, các dự kiến…để cùng thực hiện. Các chuyên gia kế toán, kiểm toán còn phải có khả năng giải quyết một cách có hiệu quả và thuyết phục những bất đồng nghề nghiệp luôn có thể xảy ra giữa các đồng nghiệp cũng như với khách hàng và những đối tác khác. Khả năng quản lý: Khả năng tổ chức, điều phối và vận hành một tổ chức (bộ phận kế toán, Công ty, văn phòng hay chi nhánh kiểm toán) để thực hiện các mục tiêu xác định. Một vấn đề cần được quan tâm đặc biệt là gieo trồng và nuôi dưỡng đạo đức nghề nghiệp ngay khi ngồi trên ghế nhà trường. Người cán bộ kế toán, kiểm toán cần phải trau dồi và thường xuyên rèn luyện tính công minh, chính trực, khách quan, độc lập, vô tư và công bằng, cẩn thận và siêng năng về nghề nghiệp cao hơn mức độ tối thiểu cần thiết để có thể hoàn thành được nhiệm vụ và có thể tránh được sự trừng phạt của luật pháp. Đồng thời, hơn ai hết, người cán bộ kế toán, kiểm toán phải nhìn thanửg vào trách nhiệm của mình trước tiền đồ và tương lai của đất nước. 3. Kinh nghiệm đào tạo kiểm toán viên ở một số nước Kiểm toán với nghĩa kiểm tra độc lập và bày tỏ ý kiến đã du nhập vào các nước phát triển từ giữa thế kỷ XX cụ thể: Vào Bắc Mỹ từ những năm 30, vào Tây Âu từ những năm 60. Tại Việt Nam, kiểm toán Việt Nam được chính thức xuất hiện từ tháng 5/1991 với các Công ty kiểm toán độc lập, tháng 11/1994 với kiểm toán nhà nước và tháng 11/1997 với kiểm toán nội bộ. Với quãng đường gần 15 năm qua, so với các nước phát triển mà kiểm toán đã phát triển từ lâu, kiểm toán còn khá non trẻ và có thể học tập được nhiều kinh nghiệm quý báu từ các nước đi trước nhất là trong lĩnh vực đào tạo kiểm toán viên. Là một trong những tổ chức nghề nghiệp lớn nhất và có uy tín nhất, liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) đã ban hành chuẩn mực về giáo dục quốc tế cho các kiểm toán viên và kế toán viên chuyên nghiệp vào tháng 10 năm 2003. Chuẩn mực về đào tạo quốc tế cho các kiểm toán viên và kế toán viên chuyên nghiệp xây dựng nên những yêu cầu quan trọng mà các chương trình đào tạo kiểm toán viên cần phải có. Chuẩn mực về đào tạo quốc tế cho các kiểm toán viên chuyên nghiệp bao gồm: IES 1: Yêu cầu về đầu vào đối với một chương trình đào tạo kiểm toán viên chuyên nghiệp Với một người đang tìm kiếm một chương trình đào tạo kiểm toán viên chuyên nghiệp để trở thành thành viên trong một tổ chức thuộc IFAC, yêu cầu đàu vào tối thiểu là tương đương với yêu cầu đầu vào của một chương trình đại học được công nhận. Một người cần có trình độ thích hợp để tạo ra nền móng cần thiết cho việc học hỏi kiến thức chuyên môn , nhận thức, thái độ và đạo đức nghề nghiệp cần thiết để trở thành một kiểm toán viên chuyên nghiệp. IES 2: Nội dung chương trình đào tạo kiểm toán viên chuyên nghiệp Việc nghiên cứu để trở thnàh một kế toán viên nên là một phần của chương trình đào tạo kiểm toán viên chuyên nghiệp. Việc nghiên cứu phải đủ dài và chuyên sâu để cho phép các thí sinh có được những hiểu biết chuyên ngành yêu cầu với trình độ năng lực chuyên môn. Trình độ kế toán chuyên nghiệp trong chương trình đào tạo nên bao gồm ít nhất 2 năm học. Sinh viên có thể có được chứng chỉ về kế toán hay chứng chỉ chuyên môn để có được những kiến thức này. Nội dung của chương trình đào tạo kiểm toán viên chuyên nghiệp bao gồm: Kế toán, tài chính và các kiến thức liên quan Kiến thức về kinh doanh và tổ chức Kiến thức và năng lực về công nghệ thông tin IES 3: Các kỹ năng nghề nghiệp bao gồm: Kỹ năng trí tuệ Kỹ năng chức năng kỹ thuật Kỹ năng nhân văn Kỹ năng giao tiếp Kỹ năng quản trị kinh doanh và tổ chức IES 4: Nhận thức, thái độ và đạo đức nghề nghiệp Chương trình đào tạo cung cấp cho những kiểm toán viên tiềm năng một khuôn khổ về nhận thức, thái độ và đạo đức nghề nghiệp để đưa ra những xét đoán chuyên môn và cư xử một cách có đạo đức vì lợi ích của xã hội và lợi ích nghề nghiệp. IES 5: Yêu cầu về kinh nghiệm thực tế Kinh nghiệm thực tế để trở thành một kiểm toán viên chuyên nghiệp tối thiểu là 3 năm trong một môi trường được giám sát thích hợp. IES 6: Đánh giá năng lực nghề nghiệp Kiểm tra để đánh giá năng lực và trình độ chuyên môn của các kiểm toán viên chuyên nghiệp là một yêu cầu cần thiết để đảm bảo cho xã hội và các bên sử dụng về chất lượng công việc của các kiểm toán viên chuyên nghiệp. Một kỳ thi kiểm tra cuối kỳ phải đảm bảo những yêu cầu sau: Một tỷ lệ đáng kể bài làm phải dưới dạng được ghi chép lại Đáng tin cậy và hợp lệ Bao trùm một lượng thích hợp những kiến thức, kỹ năng, thái độ, nhận thức và đạo đức nghề nghiệp của một kiểm toán viên chuyên nghiệp để việc đánh giá là đáng tin cậy Phải gần nhất với thực tế tại thời điểm kết thúc đào tạo IES 7: Đào tạo liên tục Đào tạo liên tục là quá trình bổ sung và cập nhật kiến thức của các kiểm toán viên chuyên nghiệp sau khi đã nhận được chức danh nghề nghiệp. Đào tạo liên tục là một yêu cầu quan trọng đối với các kiểm toán viên chuyên nghiệp để đảm bảo rằng họ luôn có khả năng đáp ứng các yêu cầu của công việc trong những điều kiện kinh tế xã hội thường xuyên thay đổi. Một kiểm toán viên chuyên nghiệp phải có quá trình đào tạo liên tục tối thiểu là 120 giờ (hoặc tương đương) cho mỗi 3 năm và 20 giờ (hoặc tương đương) cho mỗi năm. Theo tổ công tác liên chính phủ của các chuyên gia trong lĩnh vực chuẩn mực quốc tế về kế toán và Báo cáo tài chính - ISAR - thuộc diễn đàn Liên hiệp quốc về thương mại và phát triển đã xây dựng và công bố: Khung chương trình đào tạo nghề nghiệp kiểm toán viên và kế toán viên chuyên nghiệp bao gồm các kiến thức và kỹ năng cần thiết của các kiểm toán viên và kế toán viên chuyên nghiệp Hướng dẫn về Khung chương trình đào tạo và các yêu cầu khác, bao gồm những yêu cầu với việc cấp chứng chỉ cho các kiểm toán viên và kế toán viên chuyên nghiệp cũng như hướng dẫn các tổ chức cấp chứng chỉ tại các nước Các tiêu chuẩn và hướng dẫn của ISAR được thiết lập hướng tới việc chuẩn hóa các hệ thống cấp chứng chỉ hành nghề tại các quốc gia nhằm đi đến một tiêu chuẩn chất lượng toàn cầu về kiểm toán viên và kế toán viên chuyên nghiệp, thu hẹp khoảng cách về đào tạo và cấp chứng chỉ giữa các nước, cắt giảm các chi phí để công nhận lẫn nhau và hỗ trợ cho việc cung cấp dịch vụ xuyên biên giới. Trong vòng 5 năm tới, mục tiêu tổng quát của đào tạo chuyên ngành kế toán - kiểm toán bậc đại học trong quá trình hội nhập là đào tạo một đội ngũ cử nhân kế toán - kiểm toán có chất lượng cao, đủ sức giải quyết các công việc thuộc ngành nghề chuyên môn phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chủ động hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới và tạo tiền đề, nền tảng cơ bản cho đào tạo CPA của Việt Nam theo tiêu chuẩn và chất lượng quốc tế. Chương II Thực trạng kiểm toán viên và đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam I. Thực trạng kiểm toán viên tại Việt Nam 1. Thực trạng kiểm toán viên Nhà nước Ngày 11-7-1994 Kiểm toán Nhà nước Việt Nam được thành lập theo Nghị định số 70/CP của Chính phủ. Theo đó, Kiểm toán Nhà nước là cơ quan thuộc Chính phủ và là cơ quan kiểm tra nền tài chính công của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện các việc kiểm toán đối với các cơ quan Nhà nước các cấp, các đơn vị có nhiệm vụ thu chi Ngân sách Nhà nước và các tổ chức đơn vị có quản lý, sử dụng công quỹ, tài sản quốc gia. Như vậy, ngay từ khi mới ra đời và cho đến trước khi Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Kiểm toán Nhà nước tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá IX ngày 20-5-2005 thì Kiểm toán Nhà nước vẫn là một cơ quan thuộc hệ thống các cơ quan hành pháp. Tuy nhiên, ngày 14-6-2005, Quốc hội đã ban hành Luật kiểm toán Nhà nước nhằm xác định rõ địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước. Theo đó tại Điều 13 ghi rõ: “Kiểm toán Nhà nước là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Việc xác định rõ địa vị pháp lý của Kiểm toán Nhà nước là một cơ sở quan trọng nhằm tạo điều kiện cho KTNN hoạt động có hiệu quả hơn, đồng thời cũng đòi hỏi KTV Nhà nước không ngừng nâng cao kiến thức và đạo đức nghề nghiệp của bản thân mình. Hơn 10 vừa học vừa làm, vừa xây dựng phát triên, vừa tìm tòi vừa cống hiến, từng bước vương lên ngang tầm với cuộc sống là không hề đơn giản. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo KTNN và đội ngũ của họ đã khẳng định được mình thông qua những thành tích được đổi bằng mồ hôi, trí tuệ và công sức mang lại lợi ích tiền của cho đất nước bằng kết quả của những cuộc kiểm toán. Những thành tích ấy như những viên đá tảng xây đắp cho nền móng cho KTNN tiến lên. Tuy nhiên, nhìn một cách khách quan thì đó mới chỉ là bước đầu. Yêu cầu của đất nước đối với đội ngũ KTV hiện nay chưa thể đáp ứng được. Qua hơn 10 năm xây dựng và phát triển, đội ngũ KTV của KTNN đã thể hiện những thế mạnh sau đây: - Đội ngũ KTV đã thể hiện là những người trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, với Hiến pháp và Pháp luật. - Đội ngũ KTV là những người có bản lĩnh chính trị, vượt qua được thử thách, đã được tôi luyện trong đấu tranh. - Đội ngũ KTV có trình độ ngày càng được nâng cao và hoàn thiện không ngừng. Song đội ngũ KTV cũng có những hạn chế nhất định, đó là: - Phạm vi và đối tượng phải được kiểm toán rất rộng, nhưng số lượng KTV quá ít ỏi chưa thể đáp ứng đủ yêu cầu. - Nghề kiểm toán là một nghề mới mẻ, phức tạp, đội ngũ hiện có được tập hợp từ nhiều nguồn, nhiều ngành khác nhau, chưa thật sự thành thạo với nghề mới và còn nhiều lúng túng. - Trình độ và năng lực hiện có chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao về chất lượng của các cuộc kiểm toán và yêu cầu về hội nhập khu vực và quốc tế. Rõ ràng là chúng ta đang thiếu những KTV có tầm cỡ quốc gia chứ chưa nói đến tầm cỡ quốc tế. Sau 12 năm thành lập và phát triển, việc tổ chức cán bộ máy, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức được coi là nhiệm vụ quan tâm hàng đầu của KTNN. Được sự quan tâm chỉ đạo của Chính phủ, sự phối hợp, hợp tác giúp đỡ của các Bộ, ngành liên quan, đến nay, sau khi Nghị định 93/NĐ-CP ngày 13/8/2003 của Chính Phủ có hiệu lực, KTNN đã xây dựng được hệ thống tổ chức bộ máy tương đối hoàn chỉnh từ Trung ương đến các KTNN khu vực và hiện đang từng bước củng cố hoàn thiện để đáp ứng chức năng, nhiệm vụ được giao. Từ chỗ ban đầu chỉ có 4 kiểm toán chuyên ngành và Văn phòng KTNN, đến nay đã có 19 đơn vị thuộc và trực thuộc KTNN bao gồm 7 KTNN chuyên ngành, 5 KTNN khu vực, 3 đơn vị sự nghiệp và 4 cơ quan chức năng giúp việc. Việc hình thành và phát triển hệ thống tổ chức KTNN không chỉ đơn thuần là sự tăng trưởng về số lượng đầu mối các đơn vị mà qua đó phản ánh sự lớn mạnh trưởng thành của KTNN để đáp ứng những nhu cầu đòi hỏi khách quan trong công cuộc đổi mới đất nước. Là cơ quan không có tổ chức tiền thân, đội ngũ cán bộ, công chức phải xây dựng từ đầu. KTNN luôn đứng trước đòi hỏi phải sớm có một đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng để hoàn thành nhiệm vụ đặt ra trong từng thời kỳ. Đến nay, KTNN đã tuyển dụng trên 600 cán bộ công chức, trong đó KTV chiếm trên 70%, tất cả KTV đều có trình độ Đại học trở lên. Đội ngũ cán bộ được tuyển dụng nhìn chung đảm bảo về chuyên môn, nghiệp vụ, đảm bảo về phẩm chất, đạo đức. Trong những năm qua, KTNN đã tổ chức đánh giá và phân loại đội ngũ cán bộ, công chức. Trên cơ sở đó tiến hành bồi dưỡng, đào tạo lại thích ứng với yêu cầu nhiệm vụ chuyên môn của ngành. KTNN đã đề nghị Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm được 2 cán bộ giữ chức Phó Tổng KTNN; Tổng KTNN bổ nhiệm 56 cán bộ lãnh đạo cấp vụ và 211 cán bộ lãnh đạo cấp phòng; đồng thời, đã xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ, sắp xếp, bố trí, sử dụng cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành và tiến trình cải cách hành chính. Song song với quá trình tuyển dụng đội ngũ, KTNN đã chú trọng đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, quản lý hành chính Nhà nước và thường xuyên cập nhật các chế độ, chính sách mới cho cán bộ, KTV... Với sự trợ giúp của một số cơ quan và tổ chức quôc tế, nhiều cán bộ, KTV của KTNN được tham dự các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ nâng cao ở nước ngoài, có điều kiện tiếp cận với những kiến thức kinh nghiệm phong phú và công nghệ kiểm toán hiện đại của các nước phát triển, tạo tiền đề để cho sự phát triển của KTNN phù hợp với sự phát triển và hội nhập kinh tế quốc tê. Trên cơ sở đó và qua công tác đánh giá, phân loại đội ngũ cán bộ, công chức, KTNN đã tổ chức cho 3219 lượt cán bộ, KTV tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán và cập nhật chế độ chính sách của Nhà nước; 466 cán bộ, công chức theo học các lớp quản lý hành chính Nhà nước ngạch chuyên viên, chuyên viên chính và chuyên viên cao cấp... Ngoài ra, KTNN còn phối hợp với các dự án ADB, GTZ mở các lớp bồi dưỡng cán bộ, KTV tiếp cận với kiến thức chuyên môn quốc tế, chuẩn bị cho quá trình hội nhập hoàn toàn và chủ động vào năm 2020. Như vậy, có thể thấy rằng đội ngũ KTV của KTNN hiện nay là chưa tương xứng với nhiệm vụ và mục tiêu đề ra. Do vậy, theo định hướng phát triển đến năm 2020, KTNN phải tiếp tục khẳng định là một mô hình tập trung, thống nhất trực tuyến của Cơ quan KTNN bao gồm các bộ phận giúp việc cho Tổng KTNN, các KTNN chuyên ngành ở Trung ương và các KTNN khu vực ở các địa phương. Kiện toàn cơ cấu tổ chức bộ máy KTNN Trung ương theo Nghị định 93/2003/NĐ-CP ngày 13/8/2003 của Chính phủ và Luật KTNN. Phát triển dần mạng lưới KTNN khu vực đủ để thực hiện nhiệm vụ kiểm toán NSNN trên địa bàn các địa phương theo phân vùng; xây dựng cơ cấu tổ chức KTNN khu vực phù hợp với yêu cầu kiểm toán NSNN trên địa bàn theo hướng tinh giản bộ máy hành chính gián tiếp để tăng cường cho bộ phận trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm toán. Đến năm 2010, hình thành đủ 9 KTNN khu vực để đáp ứng yêu cầu kiểm toán NSNN theo quy định của Luật NSNN sửa đổi; nghiên cứu để có thể thành lập một số văn phòng đại diện của KTNN tại một số Bộ, ngành có số thu, chi NSNN lớn. Theo hướng đó, trong thời gian sắp tới, KTNN phải xây dựng đội ngũ KTV đảm bảo đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, có kiến thức, kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp tương xứng với yêu cầu nghề nghiệp kiểm toán, đáp ứng yêu cầu của công cuộc hội nhập nền kinh tế. Cụ thể như sau: Thứ nhất, đội ngũ KTV phải hợp lý về cơ cấu với số KTV cấp cao chiếm 5% trên tổng số KTV; KTV chính từ 30 – 35% và KTV chiếm 60 -65%; số trợ lý kiểm toán không vượt quá 20% tổng số KTV; số công chức, viên chức làm công tác tham mưu, quản lý không quá 20% tổng số KTV. Để đảm bảo cơ cấu thực hiện các mục tiêu như trên, đến năm 2010 biên chế toán ngành là 1200 người, trong đó có khoảng 850 KTV, 150 trợ lý KTV và 200 người làm công tác tham mưu, quản lý và sự nghiệp. Trong đó, mỗi vụ có từ 15 – 20 người; mỗi KTNN chuyên ngành có 50 -60 người; Học viện kiểm toán có 40 – 50 người; Trung tâm tin học, Trung tâm thông tin, lưu trữ có 15 – 20 người. Thứ hai, chuẩn hoá tiêu chuẩn ngạch bậc KTV; định kỳ kiểm tra, sát hạch, đánh giá đội ngũ cán bộ, công chức, KTV để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng phù hợp. Khuyến khích các KTV của KTNN tham dự kỳ thi Quốc gia để được cấp chứng chỉ KTV chuyên nghiệp (CPA) của Việt Nam. Có kế hoạch tuyển chọn và tập trung kinh phí để đạo tạo trong và ngoài nước một số KTV có đủ bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức nghề nghiệp trong sáng, tinh thông về nghiệp vụ chuyên môn, thành thạo về tin học và ngoại ngữ, trong đó có một số chuyên gia đạt trình độ khá của khu vực và có khả năng hội nhập với KTNN các nước trên thế giới. Thứ ba, tăng cường năng lực cho Trung tâm khoa học và bồi dưỡng cán bộ, phấn đấu đến giai đoạn 2006 -2010 nâng cấp Trung tâm khoa học và bồi dưỡng cán bộ thành Học viện Kiểm toán, vừa thực hiện chức năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, KTV cho ngành KTNN, vừa thực hiện chức năng nghiên cứu khoa học. Hoàn thiện các quy chế quản lý đào tạo, bồi dưỡng; phát triển đội ngũ giảng viên cơ hữu và giảng viên kiêm chức trong và ngoài ngành; đổi mới phương pháp giảng dạy và phương pháp đánh giá chất lượng học viên; đến năm 2010 phải biên soạn và phát hành đồng bộ hệ thống giáo trình, tài liệu giảng dạy. 2. Thực trạng kiểm toán viên độc lập Hệ thống kiểm toán độc lập ở nước ta ra đời từ những năm đầu của thập kỷ 90, thế kỷ trước với việc Bộ Tài chính thành lập Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO). Cơ sở pháp lý cho hoạt động kiểm toán ở nước ta là Nghị định 07/CP ngày 29/1/1994 của Chính phủ về việc ban hành “Quy chế kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân” được thay thế bằng Nghị định số 105/NĐ-CP ngày 30/3/2004 về “Quy chế tổ chức kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân”. Trên cơ sở Nghị định của Chính phủ, Bộ Tài chính đã ban hành các Quyết định và Thông tư về “Quy chế thi tuyển và cấp chứng chỉ kiểm toán viên”, hướng dẫn đăng ký hành nghề kiểm toán, ban hành và công bố Hệ thống Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam. Cho đến nay đã có 33 Chuẩn mực kiểm toán đã được ban hành và công bố áp dụng cho kiểm toán độc lập. Hệ thống Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam đã đưa ra những quy định về các nguyên tắc, thủ tục cơ bản và thể thức áp dụng chúng trong tất cả các giai đoạn và từng bước công việc của cuộc kiểm toán giúp cho KTV thực hiện các cuộc kiểm toán một cách khoa học hợp lý, trên cơ sở đó đảm bảo cho việc nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán. Có thể nói các văn bản pháp quy về kiểm toán độc lập, trong đó đặc biệt là hệ thống Chuẩn mực kiểm toán đã là những cơ sở, căn cứ quan trọng cho việc hình thành và phát triển hệ thống kiểm toán độc lập ở nước ta, trong đó có đội ngũ KTV độc lập. Cho đến nay, hệ thống kiểm toán độc lập ở nước ta đã không ngừng phát triển cả về số lượng các công ty kiểm toán, số lượng các KTV độc lập cũng như quy mô hoạt động của các công ty. Đến tháng 1/2005, ngoài 6 công ty kiểm toán của nước ngoài hoạt động ở Việt Nam còn có hơn 70 công ty kiểm toán của Việt Nam được thành lập trong đó có 44 công ty được phép hành nghề kiểm toán BCTC. Trong 44 công ty được phép hành nghề kiểm toán có 3 công ty nước ngoài, 1 công ty hợp danh mới được thành lập, còn lại là các công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. So với đội ngũ KTV Nhà nước vốn xuất phát từ nhiều lĩnh vực khác nhau, đội ngũ KTV độc lập được đánh giá là chuyên nghiệp hơn và ngày càng hoàn thiện về mặt chuyên môn để đáp ứng yêu cầu hội nhập. Có thể thấy việc ban hành “Quy chế thi tuyển và cấp chứng chỉ KTV hành nghề” cho KTV độc lập là một động thái tích cực của Bộ Tài chính nhằm nâng cao chất lượng của KTV độc lập. Việc thành lập và phát triển nhiều công ty kiểm toán độc lập hiện nay đòi hỏi các công ty phải quan tâm đến chất lượng kiểm toán của mình ngay từ khầu đầu tiên là lựa chọn KTV nếu muốn tồn tại và đứng vững trên thị trường kiểm toán. Hầu hết các công ty kiểm toán độc lập sẽ dựa vào các tiêu chuẩn sau để tuyển chọn đội ngũ KTV của mình: Thứ nhất, tiêu chuẩn đầu tiên để lựa chọn một KTV độc lập là phải có khả năng thực hiện công việc đúng đắn, nhất là khả năng đưa ra một báo cáo kiểm toán mà người sử dụng báo cáo BCTC có thể tin tưởng. Thứ hai, tiêu chuẩn cũng rất quan trọng nữa là KTV có năng lực và hiểu biết về kinh doanh, có thể thực hiện được các công việc theo dự toán đã thoả thuận về thời gian và phí kiểm toán, thu thập được thông tin cần thiết cho cuộc kiểm toán mà không gây gián đoạn không cần thiết tới việc kinh doanh cũng như tới công việc của nhân viên phía công ty được kiểm toán. Thứ ba, KTV độc lập phải tạo cho doanh nghiệp được kiểm toán một cảm giác hài lòng và dễ chịu khi làm việc. Điều này đòi hỏi KTV phải có kỹ năng tiếp cận và giao tiếp phù hợp để tạo được sự hợp tác từ phía công ty khách hàng. Với những tiêu chuẩn đó được đặt ra cho KTV độc lập khi được tuyển chọn vào công ty kiểm toán, có thể đánh giá rằng chất lượng đội ngũ KTV độc lập ở Việt Nam đang dần đáp ứng được xu thế hội nhập và yêu cầu của thực tiễn. Hiện nay, Việt Nam có khoảng hơn 1000 KTV chuyên nghiệp được Bộ Tài chính cấp chứng chỉ hành nghề, trong đó đứng đầu là công ty kiểm toán Việt Nam (VACO) chiếm khoảng 20% số CPA của cả nước. Tuy nhiên, yêu cầu của Việt Nam hiện nay cần khoảng 3000 KTV chuyên nghiệp để có thể kiểm toán hết các doanh nghiệp bắt buộc phải kiểm toán và các doanh nghiệp có nhu cầu kiểm toán. Chính sự thiếu hụt về số lượng KTV độc lập đã buộc các KTV phải làm thêm giờ trong mùa kiểm toán. Điều này đôi khi tạo ra sức ép công việc lớn, làm cho chất lượng kiểm toán không đạt như mong muốn và đặc biệt tần suất di chuyển lao động trong ngành kiểm toán rất cao. Theo ước tính tại Việt Nam, số người gia nhập vào thị trường lao động kiểm toán luôn cân bằng với số người ra khỏi thị trường kiểm toán. Vì vậy đặc điểm nổi bật của lao động trong ngành kiểm toán độc lập là tuổi đời còn rất trẻ, khả năng tiếp thu công nghệ mới cao, khả năng thích ứng nhanh và phù hợp với tính chất của công việc. Chất lượng KTV độc lập ở Việt Nam được đánh giá là đang trong giai đoạn hội nhập với thế giới. Bằng chứng cho nhận định này là số lượng KTV được cấp chứng chỉ hành nghề của các hiệp hội trên thế giới như ACCA ngày càng tăng và đó trở thành chiến lược quốc tế hoá đội ngũ nhân viên ở các công ty. Theo thống kê cho thấy trong các kỳ thi ACCA vừa qua, 2 KTV có số điểm cao nhất thế giới đều là người Việt Nam đang làm việc cho các công ty kiểm toán nước ngoài. Điều này chứng tỏ tiềm năng của KTV độc lập ở Việt Nam là rất lớn song vấn đề mà chúng ta cần quan tâm là chế độ đãi ngộ để các KTV này phục vụ chính nền kiểm toán trong nước. Song song với việc chú ý đến chất lượng KTV độc lập thì vấn đề thiếu hụt trầm trọng về KTV độc lập chuyên nghiệp đang gây sức ép cho chính các KTV độc lập đang hoạt động trong ngành kiểm toán. Theo ước tính sơ bộ, hiện nay các KTV độc lập chuyên nghiệp phải đảm nhận khối lượng công việc đáng lẽ ra do 2 người tiến hành. Có thể thấy điều này là hoàn toàn chính xác vì theo Nghị định 105/NĐ-CP Nhà nước đã mở rộng đối tượng buộc phải kiểm toán độc lập nhưng tốc độ tăng trưởng của các KTV chuyên nghiệp không bắt kịp với tốc độ tăng của các loại hình doanh nghiệp thuộc đối tượng kiểm toán này. Vì vậy vấn đề đặt ra cho kiểm toán độc lập ở Việt Nam hiện nay là phải phát triển nhanh, mạnh đảm bảo về cả chất lượng và số lượng để trước hết là đáp ứng nhu cầu trong nước đồng thời thực hiện hội nhập chủ động với thế giới theo lộ trình đã được cam kết. 3. Thực trạng kiểm toán viên nội bộ Cho đến nay, kiểm toán nội bộ vẫn còn là một khái niệm không rộng rãi tại Việt Nam. Có thể nhận thấy rằng số lượng các công ty, doanh nghiệp có Uỷ ban kiểm toán nội bộ và do đó có KTV nội bộ là rất hạn chế. Hầu hết chúng ta chỉ thấy khái niệm KTV nội bộ tại Việt Nam trong các Ngân hàng lớn, trong đó Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là một điển hình. Bên cạnh đó, việc Nhà nước quy định các Tổng công ty 90, 91 phải có hệ thống kiểm soát nội bộ đã tạo ra cơ chế buộc các doanh nghiệp này phải có KTV nội bộ dù là không chuyên nghiệp. Nhìn chung đội ngũ KTV nội bộ tại Việt Nam có thể phân thành hai bộ phận như sau: Thứ nhất, một bộ phận không chuyên nghiệp được chuyển từ các bộ phận khác trong công ty. Những người này hầu hết đều có kiến thức về kế toán, kiểm toán nhưng không chuyên sâu. Công việc của họ thiên về kiểm tra giám sát việc thực hiện các quy chế tài chính hơn là đưa ra các kiến nghị kịp thời cho Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc. Do đó ảnh hưởng từ các nhận xét của họ đối với bộ phận kế toán tài chính tại công ty là không đáng kể. Thứ hai, bộ phận kiểm toán nội bộ chuyên nghiệp được tuyển dụng theo các yêu cầu khắt khe theo các tiêu chuẩn đặt ra của bản thân công ty và các quy định hiện hành. Thậm chí họ còn là các KTV độc lập chuyên nghiệp chuyển sang làm KTV nội bộ. Chúng ta có thể lấy trường hợp KTV nội bộ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là một ví dụ điển hình cho đội ngũ KTV nội bộ chuyên nghiệp. Vì vậy công việc của họ không chỉ dừng ở chỗ kiểm tra, giám sát mà chủ yếu là đưa ra các kiến nghị hợp lý, kịp thời cho Hội đồng quản trị hoặc Ban Giám đốc trong việc tổ chức một hệ thống kiểm soát nội bộ tốt. Và ảnh hưởng của các nhận xét của KTV nội bộ đối với bộ phận tài chính kế toán là rất lớn. Nếu nhận thấy làm việc không hiệu quả, KTV nội bộ hoàn toàn có thể đề nghị thay đổi toàn bộ hệ thống kế toán, kể cả kế toán trưởng. Theo xu thế hiện nay, việc các công ty phải tự nâng cao chất lượng hoạt động của mình là một vấn đề tất yếu. Do vậy việc tổ chức hệ thống kiểm soát trong doanh nghiệp ngày càng trở nên rộng rãi. KTV nội bộ tại Việt Nam vì thế mà ngày càng có cơ hội phát triển. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là phải phát triển một đội ngũ KTV nội bộ chuyên nghiệp đảm bảo cho việc hội nhập một cách chủ động. 4. Cơ hội và thách thức đặt ra cho kiểm toán viên Việt Nam hiện nay Ngày nay, kiểm toán đã và đang có sự thay đổi đáng kể nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế - xã hội. Các nhân tố mới xuất hiện có ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của kiểm toán, chẳng hạn như sự bùng nổ của công nghệ thông tin, sự ra đời và phát triển của thương mại điện tử trên nhu cầu của xã hội ngày càng đặt lên vai KTV những trọng trách trong việc kiểm tra, rà soát và báo cáo về các vấn đề phi tài chính như sự tuân thủ đối với Luật bảo vệ môi trường, tuân thủ các chuẩn mực quản trị chất lượng quốc tế (ISO)… Chính vì những nhân tố này cùng với sự thay đổi trong bản thân những chức năng truyền thồng của kiểm toán đã đặt ra cho KTV những thách th._.2. Về hệ thống giáo trình. Hiện nay, hầu hết các môn học được giảng dạy đều có hệ thống giáo trình, bài giảng giúp cho sinh viên nghiên cứu sâu hơn môn học. Mặc dù hệ thống giáo trình còn riêng biệt giữa các trường Đại học, nhưng nhìn chung, trên cơ sở giáo trình tại các trường, sinh viên có thể tự học, và sau đó trao đổi tại lớp các chương trình mà giáo viên không giới thiệu. 4.1.3. Về phương pháp giảng dạy. Do thống nhất được chương trình học, nên về cơ bản, phương pháp giảng dạy, kết cấu các trình học lý thuyết và học thực hành của các môn học kiểm toán hiện nay là thống nhất và khá phù hợp với yêu cầu đặt ra. Bên cạnh đó, việc giảng dạy tại các trường Đại học nói chung, cũng như các trường Đại học có đào tạo chuyên ngành kiểm toán nói riêng, có sự thay đổi và cải tiến về mặt phương pháp. Nếu những năm trước đây, phương pháp giảng dạy nặng nề độc thoại thầy nói trò ghi và ít chú ý đến thực hành do đó hạn chế việc mở rộng vấn đề, sinh viên ít động não dẫn đến hiệu quả thu nhận kiến thức chưa cao, không có tư duy mới và thiếu hiểu biết thực tế; thì trong những năm gần đây, phương pháp dạy và học đã có sự đổi mới. Cụ thể là khi trình bày các vấn đề mang tính lý luận, giảng viên đã phân tích diễn giải cơ sở khoa học của vấn đề, gợi mở các vấn đề để sinh viên chủ động suy nghĩ. Đồng thời giảng viên nêu câu hỏi tình huống, sinh viên trả lời và ngược lại. Như vậy, với phương pháp giảng dạy mới, đã có sự chủ động của cả 2 phía giảng viên và sinh viên. Cùng với sự kết hợp giữa thuyết trình với nêu vấn đề, giảng viên còn yêu cầu sinh viên đọc tài liệu (giáo trình, tài liệu tham khảo). Công việc này giảng viên giao cho sinh viên giờ học hôm trước, sinh viên chuẩn bị, nắm bắt những cốt lõi cơ bản để giờ học hôm sau thảo luận. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên có thể kết hợp hài hoà giảng các phương tiện giảng dạy hiện đại với truyền thống. Các phương tiện giảng dạy hiện đại cũng bước đầu được áp dụng. 4.2. Đào tạo nghề nghiệp lấy chứng chỉ nghề nghiệp 4.2.1. Sự cần thiết của chứng chỉ nghề nghiệp Chức năng của kiểm toán là đưa ý kiến độc lập của báo cáo tài chính của doanh nghiệp hoặc thực hiện các dịch vụ xác nhận (assurance service) khác. Hoạt động này có tác động sâu sắc và mạnh mẽ đến các đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán để ra quyết định, qua đó có thể ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của một số nhóm người trong cộng đồng. Do vậy, công việc kiểm toán cần những người có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt, năng lực chuyên môn giỏi và kinh nghiệm kế toán, kiểm toán. Tính đến nay, Bộ tài chính đã tổ chức 11 kỳ thi và cấp chứng chỉ cho 970 người (trong đó 615 người làm việc trong các công ty kế toán kiểm toán) trên tổng số hơn 5200 người hoạt động kế toán kiểm toán chuyên nghiệp tại Việt Nam. Hoạt động của các chuyên gia nói trên cũng cần được giám sát, kiểm tra và quản lý một cách khoa học để giảm thiểu những tổn thất do hành vi thiếu khách quan, trung thực hoặc do hạn chế về năng lực chuyên môn gây ra. Phạm vi quản lý không chỉ dừng ở việc cấp chứng chỉ và theo dõi mà còn bao gồm cả việc hỗ trợ các thành viên, kiểm tra giám sát họ, xử phạt vi phạm và thu hồi chứng chỉ hành nghề nếu cần. 4.2.2. Chứng chỉ hành nghề kiểm toán viên tại Việt Nam Trong những năm gần đây, với sự phát triển nhanh chóng của hoạt động kế toán, kiểm toán, khái niệm “Kế toán viên công chứng” (Certified Public Accountant – CPA) đã dần trở nên phổ biến trong cộng đồng doanh nghiệp và các đối tượng khác trong xã hội. CPA là chứng nhận về năng lực chuyên môn, kỹ năng, kinh nghiệm hành nghề và đạo đức nghề nghiệp của các kế toán, kiểm toán viên chuyên nghiệp. Chứng chỉ CPA thường được các tổ chức nghề nghiệp kế toán (như CA ở Anh, AICPA ở Mỹ, CPA Australia ở úc, ICPAS ở Singapore…) cấp và quản lý sau khi tiến hành các cuộc thi sát hạch, hỗ trợ, cập nhật, giám sát và kiểm tra đối với người hành nghề kế toán, kiểm toán. ở Việt Nam, CPA được hiểu là “Chứng chỉ kiểm toán viên” dành cho kiểm toán và ở mức ít yêu cầu hơn là “Chứng chỉ hành nghề kế toán” dành cho những người hành nghề kế toán, kiểm toán chuyên nghiệp. Bộ Tài chính là cơ quan tổ chức các kỳ thi cấp chứng chỉ CPA hàng năm kể từ năm 1996. Người có nguyện vọng lấy “Chứng chỉ kiểm toán viên” phải có đủ các điều kiện về phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, không thuộc các đối tượng không được hành nghề kế toán, hành nghề kiểm toán theo quy định của pháp luật; có bằng cử nhân kinh tế về chuyên ngành liên quan, có thời gian công tác thực tế về tài chính, kế toán, kiểm toán từ 4 – 5 năm. Người đăng ký dự thi lấy chứng chỉ kiểm toán viên phải thi đủ 8 môn: - Pháp luật về kinh tế - Tài chính - Tiền tệ, tín dụng - Kế toán - Kiểm toán - Phân tích hoạt động tài chính - Tin học (trình độ B) - Ngoại ngữ (trình độ C) 4.2.3. Các tổ chức đào tạo nghề nghiệp kiểm toán viên tại Việt Nam Ngoài kỳ thi chính thức gồm 8 môn để cấp chứng chỉ kiểm toán viên, trên phương diện quản lý Nhà nước trong 3 năm gần đây mới có chương trình, kế hoạch, bồi dưỡng thường xuyên, nâng cao trình độ nghiệp vụ, kinh nghiệm nghề nghiệp cho đội ngũ kiểm toán viên từ 25 – 50 giờ /năm. Các công ty kiểm toán lớn đã tự xây dựng được các chương trình bồi dưỡng thường xuyên, cập nhật kiến thức hoặc đào tạo cơ bản ở nước ngoài. Các công ty nhỏ hoặc mới thành lập chưa có chương trình đào tạo rõ ràng và còn thiếu năng lực vật chất, khả năng đào tạo nâng cao cũng còn yếu đối với hầu hết các công ty của Việt Nam. Có thể khái quát sơ qua các tổ chức đào tạo nghề nghiệp chính ở Việt Nam như sau: 4.2.3.1. Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam (VAA) Bất kỳ một Hiệp hội nghề nghiệp nào, muốn tồn tại và phát triển cũng luôn nhắm vào tôn chỉ và mục đích là tập hợp đông đảo đội ngũ thành viên trong nghề, duy trì và phát triển chuyên môn, giữ gìn và tôn vinh các phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. VAA cũng thế, hơn 10 năm hình thành và phát triển, VAA đã đạt được những thành quả cơ bản đặc biệt trong lĩnh vực đào tạo. Công tác đào tạo của VAA được hình thành từ hai nguồn thị phần quan trọng là: a) Từ chương trình bồi dưỡng KTT, luyện thi kiểm toán viên và hành nghề kiểm toán. b) Từ nhu cầu thực tế các doanh nghiệp và đơn vị kế toán trên thị trường. Từ lâu, phần lớn kế toán các doanh nghiệp Việt Nam thường tiếp nhận hướng dẫn nghiệp vụ trực tiếp từ cán bộ quản lý Nhà nước. Tuy nhiên gần đây, theo xu thế hội nhập quốc tế, họ chuyển sang tiếp nhận các dịch vụ tư vấn và đào tạo từ các công ty kiểm toán và VAA. Thực tiễn thời gian qua cho thấy, VAA đóng vai trò không nhỏ trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tự cập nhật kiến thức, chính sách, chế độ kế toán hiện hành cho kế toán doanh nghiệp của nền kinh tế quốc dân. Với đội ngũ giảng viên có trình độ học thuật, bề dày kinh nghiệm giảng dạy, kết hợp với chương trình đào tạo bài bản và có hệ thống, các trường Đại học và cao đẳng chuyên ngành đã đào tạo cho sinh viên kiến thức cơ bản nhưng công tác cập nhật những thay đổi về kiến thức thuộc về chính sách tài chính, chế độ kế toán, kiểm toán cho sinh viên có khó khăn do khuôn khổ chương trình đào tạo không cho phép. Vì vậy, vai trò của VAA nổi lên như một tất yếu của thị trường đào tạo trong nền kinh tế quốc dân. Là một kênh thông tin quan trọng để tiếp nhận và phổ biến chính sách chế độ kế toán kiểm toán, VAA đã quy tụ đội ngũ chuyên gia đào tạo, hình thành những chuyên đề huấn luyện thực tiễn, súc tích và hiệu quả. Qua việc chọn lọc và chiêu tập đội ngũ cán bộ giảng viên từ các trường Đại học, các cơ quan ban ngành, và từ các công ty kiểm toán độc lập, đặt ra yêu cầu cho lực lượng này về các đơn đặt hàng giảng dạy, VAA cũng chính là cầu nối quan trọng giúp đội ngũ giảng viên tài chính kế toán, kiểm toán, thuế… nắm bắt được nhu cầu đòi hỏi của thị trường lao động, từ đó họ cũng tự điều chỉnh, hoàn thiện định hướng nghiên cứu và giảng dạy của mình. 4.2.3.2. Hội Kiểm toán viên Việt Nam Sau một thời gian chuẩn bị, vừa qua Hội Kiểm toán viên Việt Nam (VACPA) - Tổ chức nghề nghiệp của những người thực tế đang hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ kiểm toán - đã tổ chức ra mắt, đánh dấu mốc phát triển mới của lĩnh vực kiểm toán Việt Nam. Hội ra đời sẽ giữ vai trò quan trọng trong việc quản lý, giám sát chất lượng chuyên môn và đạo đức hành nghề của kiểm toán viên. Ngoài ra, Hội sẽ xúc tiến các quan hệ hợp tác quốc tế, hỗ trợ cho cơ quan Nhà nứơc trong việc xây dựng, bổ xung, sửa đổi chính sách, chế độ tài chính, chuẩn mực kiểm toán, kế toán... VACPA là một tổ chức thành viên của Hội Kế toán – Kiểm toán Việt Nam (VAA) , hoạt động trên phạm vi cả nước, có văn phòng tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, chịu sự quản lý của Bộ Tài chính về mặt chuyên môn. Việc thành lập và đi vào hoạt động của VACPA là kịp thời và phù hợp với nhiều cam kết giữa Chính phủ và các tổ chức quốc tế như ADB, WB, IMF, IFAC gần đây. Theo đó, Bộ Tài chính sẽ chuyển giao một số chức năng quản lý hành nghề kế toán, kiểm toán cho các tổ chức hành nghề Việt Nam. Nghề kiểm toán độc lập ở Việt Nam đã hình thành và phát triển được 15 năm. Hiện cả nước có 84 doanh nghiệp kiểm toán với trên 5000 người làm việc, cung cấp khoảng 20 loại dịch vụ cho 10000 đối tượng khách hàng. Hầu hết mọi chỉ tiêu đã tăng hơn 2 lần so với năm 2001 và tăng vượt xa dự kiến của giai đoạn 2000 – 2010. 4.2.3.3. Trung tâm Khoa học và Bồi dưỡng cán bộ Kiểm toán Nhà nước (gọi tắt là Trung tâm khoa học): Đây là đơn vị trực thuộc Kiểm toán Nhà nước có chức năng giúp Tổng Kiểm toán Nhà nước quản lý và tổ chức công tác nghiên cứu khoa học trong toàn ngành; tổ chức thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Trung tâm Khoa học là đơn vị hoạt động sự nghiệp có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng, được mở tài khoản tại Ngân hàng và Kho bạc Nhà nước. Trung tâm Khoa học được Kiểm toán Nhà nước cấp kinh phí hoạt động hàng năm theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước và các nguồn kinh phí khác theo quy định của pháp luật. Đứng đầu Trung tâm Khoa học là Giám đốc trung tâm. Giúp việc cho Giám đốc có các phó giám đốc, Giám đốc và Phó Giám đốc đều do Tổng kiểm toán Nhà nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Giám đốc chịu trách nhiệm trước Tổng kiểm toán Nhà nước về hoạt động của Trung tâm, phó Giám đốc chịu trách nhiệm trước Giám đốc về nhiệm vụ được phân công. Trong công tác đào tạo, Trung tâm có các nhiệm vụ sau: - Tham gia xây dựng chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hàng năm và dài hạn của Kiểm toán Nhà nước. - Triển khai thực hiện chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức do Tổng kiểm toán Nhà nước phê duyệt. - Tổ chức biên soạn giáo trình, sách giáo khoa, tài liệu giảng dạy. - Trực tiếp đảm nhận một phần khối lượng giảng dạy cho các lớp học của Kiểm toán Nhà nước. - Tổ chức các lớp bồi dưỡng để thi tuyển, thi nâng ngạch theo quy định của pháp luật và của Tổng Kiểm toán Nhà nước. - Tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ kiểm toán cho các tổ chức và cá nhân có nhu cầu. - Phối hợp với văn phòng kiểm toán Nhà nước và Vụ tổ chức cán bộ để đảm bảo các điều kiện và cơ sở vật chất khi thực hiện nhiệm vụ bồi dưỡng cán bộ kiểm toán Nhà nước. - Chịu trách nhiệm tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ về hợp tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học với các tổ chức quốc tế và nước ngoài theo quy định của pháp luật và của Tổng kiểm toán Nhà nước. 4.2.3.4. Hiệp hội kế toán viên công chứng Hoàng gia Anh (ACCA) ACCA là tên viết tắt của Hiệp hội kế toán viên công chứng của Hoàng gia Anh. Đây là hiệp hội của các kế toán, kiểm toán, những người hoạch định tài chính rất có uy tín trên thế giới hiện nay. Được thành lập từ năm 1904 với hơn 345.000 học viên và hội viên tại 160 nước, ACCA chủ yếu tổ chức các kỳ thi quốc tế cấp bằng chuyên môn về kế toán, tài chính. ACCA cấp bằng, chứng chỉ sau khi thí sinh đã vượt qua các kỳ thi về kiểm toán, kế toán. Bằng, chứng chỉ của Hiệp hội được chia làm các loại khác nhau: Loại ACCA – CAT: là chứng chỉ “kế toán viên được xác nhận” ở mức thấp hơn kế toán, chủ yếu làm các công việc đơn giản hơn của một kế toán thông thường, công việc chính là ghi chép các thông tin kế toán để từ đó, kế toán tổng hợp và làm báo cáo. Loại ACCA – Professional: thường được gọi tắt là ACCA. Đây là bằng “kế toán kiểm chứng” và được cấp bởi Hiệp hội kế toán Hoàng gia Anh. Những người đã học xong ACCA có đủ điều kiện đề làm việc trong ngành kế toán, kiểm toán và có được kiến thức kế toán ở mức độ cao nhất. Loại Dip FM: là chứng chỉ về quản lý tài chính, dành cho những nhà quản lý nhưng chưa có nhiều kiến thức về kế toán cũng như quản lý tài chính ở doanh nghiệp. Tuy nhiên, đây chỉ là một khoá học ngắn hạn, chỉ trong một năm để giúp nhà quản lý có được những kiến thức cơ bản nhất. ACCA tổ chức các kỳ thi để đánh giá trình độ của các thành viên và khi đã vượt qua được các kỳ thi thì sinh viên của ACCA mới được cấp chứng chỉ. Tuy nhiên, ACCA không cung cấp các khoá học về kế toán phục vụ cho các kỳ thi mà chỉ làm việc theo nguyên tắc “hợp tác” với các trường Đại học, Cao đẳng để cấp chứng chỉ ACCA. Học viên có thể học ở bất cứ trường nào họ muốn, miễn là họ đăng ký với ACCA để làm thành viên, được phép tham gia các kỳ thi do ACCA tổ chức và có kết quả ở mức độ ít nhất là qua thì sẽ được cấp bằng, chứng chỉ. Các kỳ thi này được tổ chức 2 lần trong năm. Là tổ chức ra đề thi và cấp bằng chứng nhận, ACCA không tham gia vào việc giảng dạy để đảm bảo tính khách quan cho tất cả các thí sinh. Tuy nhiên, ACCA hỗ trợ học viên trong việc tìm những trung tâm giảng dạy phù hợp thông qua một chương trình đăng ký chất lượng giảng dạy (gọi tắt là UCRS). Những trung tâm đăng ký trong chương trình này phải đạt được những yêu cầu tối thiểu của ACCA về chất lượng giảng dạy và những hỗ trợ cần có cho học viên. Hiện nay tại Việt Nam có bốn trung tâm có tên trong chương trình UCRS nêu trên. Đó là: FTMS – FTMS Training Systems (Vietnam) Limited. 2. International Auditing and Financial Consulting Company Ltd. 3. PACE Vietnam. 4. Singapore Raffles Education Centre Ltd. Ngoài việc học tại các trung tâm luyện thi, học viên cũng có thể ôn luyện, tự học qua mạng hoặc hàm thụ từ xa. Tháng 5/2001, ACCA đã cấp chứng chỉ ACCA cho 9 người Việt Nam đầu tiên đã tốt nghiệp, đến nay Việt Nam đã có 106 người có chứng chỉ ACCA. Chương trình này sẽ được tiếp tục bên cạnh một chương trình mới với sự hợp tác của Bộ tài chính Việt Nam. Đó là từ năm 2006, Bộ tài chính và ACCA sẽ tổ chức các kỳ thi phối hợp, tức là thi theo chương trình và tiêu chuẩn của ACCA nhưng nội dung lại theo Luật của Việt Nam trong 2 môn thi là Thuế và Luật Doanh nghiệp. Như vậy, người Việt Nam nào đạt kết quả kỳ thi này thì sẽ được miễn các môn thi tương ứng trong kỳ thi của Việt Nam. Họ sẽ được cấp hầu như vừa chứng chỉ ACCA vừa chứng chỉ kiểm toán viên của Việt Nam. 4.2.3.5. Một số trung tâm đào tạo nước ngoài khác Đối với người nước ngoài đang hành nghề kiểm toán ở Việt Nam, một số người chưa có chứng chỉ kiểm toán viên, hoặc những người đã có thì rất nhiều loại chứng chỉ khác nhau, do nhiều tổ chức khác nhau cấp. Có loại do các tổ chức nghề nghiệp là thành viên của IFAC cấp (như Viện kế toán viên công chứng Philippines, Hiệp hội kế toán viên công chứng Hàn quốc…) Song cũng có nhiều loại chứng chỉ không do các tổ chức thành viên IFAC cấp (như: Bộ tư pháp Luxembourg, Uỷ ban giám quản hành nghề chuyên nghiệp Manila, Philippines..) Do đó, trình độ và kinh nghiệm của kiểm toán viên người nước ngoài khi vào Việt nam, trong bối cảnh hành nghề còn thiếu, đã chưa hoàn toàn phát huy được khả năng của họ, hoặc chưa thật phù hợp với môi trường Việt Nam. Chương III. Nhận xét và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng đào tạo kiểm toán viên tại Việt nam I. Một số vấn đề còn tồn tại trong đào tạo kiểm toán viên tại việt Nam 1.1. Trong đào tạo lấy bằng - học vị Ngoài những kết quả đã đạt được trong việc đổi mới nội dung chương trình, giáo trình và phương pháp giảng dạy cho phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế, hiện nay việc đào tạo các trường đại học và cao đẳng vẫn còn hạn chế và tồn tại trong từng khâu công việc như sau: Chương trình khung đào tạo ngành kế toán, kiểm toán đã được đào tạo và ban hành xong chưa được thử nghiệm trong thực tế. Việc áp dụng để cụ thể hoá chương trình đào tạo còn có sự lúng túng nhất là đối với các chương trình song ngành (kế toán, kiểm toán). Việc kiểm tra thực hiện chương trình còn hạn chế. Hiện nay khoa kế toán, kiểm toán tại các trường có xu hướng là chương trình, nội dung giảng dạy các môn học chuyên ngành kế toán, kiểm toán chạy theo các quy định, các chuẩn mực ban hành của Nhà nước. Mỗi khi Bộ ban hành thêm các Chuẩn mực thì nội dung các môn học kế toán, tài chính phải điều chỉnh và sửa đổi. Vấn đề vận dụng Chuẩn mực kế toán quốc tế vào nội dung, chương trình các môn học còn hạn chế. Mặc dù phương pháp giảng dạy đã có những cải tiến phù hợp tuy nhiên quá trình giảng dạy còn ít chú ý đến thực hành, nhất là thực hành trong các phòng thực hành kế toán. Do có những hạn chế nhất định về nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy nên thực tế cho thấy những sinh viên sau khi tốt nghiệp thì kỹ năng thực hành, kỹ năng vận dụng và sự am hiểu các vấn đề thực tế thuộc nghiệp vụ chuyên môn chưa thật tốt, kỹ năng giao tiếp (viết và nói), kỹ năng phân tích và giải quyết vấn đề chưa được chú ý trong quá trình đào tạo; khả năng làm việc độc lập và theo nhóm của sinh viên khi học tập cũng như khi ra trường làm việc còn rất hạn chế. Trình dộ ngoại ngữ, trình độ tin học và khả năng cập nhật khoa học, công nghệ thông tin còn nhiều bất cập so với yêu cầu của mục tiêu đào tạo. 1.2. Trong đào tạo lấy chứng chỉ Đặc trưng cơ bản ở Việt Nam là do chuyển đổi từ cơ chế kinh tế tập trung nên hầu hết mọi nguồn cung ứng hoạt động hành chính hay chuyên môn, quản lý hay đào tạo ... trước đây đều do cơ quan Nhà nước đảm trách. Tình trạng đề cao bằng cấp do cơ quan công quyền chính thức phát hành là phổ biến và sẽ còn tồn tại lâu dài. Trong lĩnh vực đào tạo chuyên gia kế toán, kiểm toán cũng vậy. Về công tác tổ chức thi lấy chứng chỉ hành nghề kiểm toán viên: Hiện nay thí sinh thi lấy chứng chỉ VN-CPA phải thi đủ và đạt điều kiện với 8 môn thi bắt buộc. Các môn thi này chủ yếu được thực hiện dưới hình thức thi viết (trừ tin học có 30 phút thực hành và ngoại ngữ có 30 phút vấn đáp). Tuy nhiên nội dung đề thi vẫn mang tính lý thuyết, chưa gắn liền với thực tế thực hiện công việc. Đối với các tổ chức nghề nghiệp AFA và IFAC: Đây là các tổ chức nghề nghiệp có uy tín mà đội ngũ kiểm toán viên Việt Nam rất cần nhận được sự giúp đỡ về công tác đào tạo, nguồn cung cấp tài liệu, nhất là các tài liệu có liên quan đến kỹ năng về hành nghề kiểm toán, soát xét chất lượng kiểm toán và kỹ năng quản lý theo từng cấp độ khác nhau. Khó khăn nhất hiện nay trong công tác đào tạo là chưa có một giáo trình chuẩn cho công tác đào tạo kiểm toán viên nâng cao. Mặt khác Việt Nam cũng đang rất cần những chuyên gia giỏi trong công tác đào tạo. Về tổ chức và quản lý công tác nghiên cứu khoa học về kế toán, kiểm toán: Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các hiệp hội kế toán, kiểm toán, các hãng cá nhân hành nghề với các trường đại học liên quan để cập nhật thực tiễn và hoàn thiện hệ thống lý thuyết kế toán, kiểm toán. Vì vậy các đề tài nghiên cứu khoa học vẫn còn tồn tại tình trạng dàn trải, trùng lặp nhưng lại không đáp ứng được nhu cầu thực tế của ngành. II. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam 2.1. Đào tạo lấy bằng - học vị Đổi mới nội dung chương trình, giáo trình và phương pháp giảng dạy là yêu cầu khách quan luôn được quan tâm đặc biệt vì nó quyết định chất lượng đào tạo. Nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy là sự phản ánh yêu cầu đào tạo của xã hội đối với nhà trường. Mỗi giai đoạn phát triển kinh tế xã hội đặt ra cho công tác đào tạo một nội dung chương trình và phương pháp đào tạo khác nhau cho phù hợp với yêu cầu và mục tiêu đề ra. Chính vì vậy, việc đổi mới nội dung chương trình đào tạo là hoàn toàn cần thiết và là việc cần làm thường xuyên. Tuy nhiên việc đổi mới nội dung chương trình đào tạo cần phải đảm bảo yêu cầu cơ bản, đó là: 2.1.1. Đổi mới nội dung chương trình: Chúng ta phải đổi mới trên những phương diện sau: Một là, xây dựng chương trình đào tạo hợp lý về cấu trúc của từng chuyên ngành đào tạo. Hiện nay, cấu trúc của chương trình đào tạo ngành bao gồm kiến thức giáo dục đại cương tối thiểu và kiến thức giáo dục chuyên nghiệp tối thiểu là hợp lý đối với ngành đào tạo mà Bộ Giáo dục và đào tạo đã ban hành nhằm giúp Bộ quản lý Nhà nước về chất lượng đào tạo. Tuy nhiên các trường đại học sẽ phải xây dựng và hoàn thiện kết cấu hợp lý về cơ cấu các môn học, đặc biệt là phần kiến thức giáo dục chuyên nghiệp. Mặt khác, tiếp tục chuẩn hóa chương trình, nội dung các môn học kế toán tài chính theo xu hướng: Một mặt phù hợp với chuẩn mực kế toán quốc tế và hội nhập quốc tế, đồng thời phải tương thích với quá trình phát triển của Việt Nam trong từng giai đoạn cụ thể; nhanh chóng nắm bắt nhu cầu thời đại, yêu cầu công khai thông tin kế toán trong quan hệ quốc tế, quan hệ đầu tư, thị trường chứng khoán để xây dựng chương trình, nội dung các môn học kế toán tài chính cho phù hợp. Đối với môn kế toán quản trị – là một môn rất quan trọng trong hệ thống các môn học chuyên ngành, cần thiết phải tăng thêm số tiết giảng dạy và bổ xung thêm một số chương chuyên sâu trong nội dung giảng dạy. Hai là, xây dựng chương trình đào tạo hợp lý về khối lượng các phần kiến thức. Có thể thấy rằng, chỉ khi khối lượng kiến thức phù hợp với từng chuyên ngành đào tạo thì mới có thể đáp ứng được mục tiêu đào tạo và việc nâng cao chất lượng đào tạo. Các môn thuộc phần kiến thức cơ sở khối ngành và ngành cần được cải tiến và giảm tải chương trình đối với những môn đại cương và cơ sở, bổ trợ; nội dung cần cập nhật thường xuyên, gắn lý thuyết với thực tiễn; nâng cao tính ứng dụng, giảm tính hàn lâm lý thuyết. Đặc biệt khi xác định các môn học thuộc phần kiến thức bổ trợ nên xuất phát từ mục tiêu đào tạo chứ không nên từ việc ổn định, bố trí công việc làm (đảm bảo số giờ lên lớp của các môn bổ trợ) Ba là, nội dung chương trình cần được đổi mới theo hướng lý luận kết hợp chặt chẽ với thực tiễn. Nhà trường cần xây dựng các trung tâm thực hành với mô hình doanh nghiệp ảo làm cơ sở cho sinh viên thực tập nâng cao trình độ, kỹ năng chuyên môn; cần áp dụng tối đa công nghệ tin học vào việc ra các bài toán, các phương pháp xử lý thực hành nghiệp vụ của sinh viên. 2.1.2. Đổi mới giáo trình: Đảm bảo tất cả các môn học giảng dạy của chuyên ngành đều có hệ thống giáo trình, bài tập ngân hàng câu hỏi; thường xuyên có sự bổ xung, cập nhật các kiến thức mới cho giáo trình. Tuy nhiên, giáo trình cũng không nên viết quá bám sát chế độ vì chế độ thường xuyên thay đổi thì giáo trình rất nhanh lạc hậu và phải sửa thường xuyên, viết giáo trình phải nâng tầm hơn là viết khái quát về chế độ. Mặt khác, do quỹ thời gian giảng dạy có hạn, trong khi khối lượng kiến thức, nội dung chi tiết chế độ ngày càng tăng, vì vậy cần phải cải tiến nội dung, giáo trình và bài giảng, kết hợp đổi mới phương pháp giảng dạy thì mới phù hợp. 2.1.3. Đổi mới phương pháp giảng dạy: Bao gồm cả phương pháp giảng dạy và phương pháp học tập theo hướng tạo điều kiện để cả người dạy và người học có thể chủ động trong nghiên cứu, học tập, có thể cập nhật những kiến thức mới, chủ động vận dụng sáng tạo những kiến thức đó vào thực tiễn giảng dạy, thực hiện hoạt động quản lý, sản xuất kinh doanh. Gắn giảng dạy, nghiên cứu với thực tiễn bằng cách mở rộng liên kết với các đơn vị sản xuất kinh doanh, tổ chức, cá nhân làm công tác nghiên cứu, chỉ đạo thực tiễn nhằm bổ xung kiến thức thực tế, nâng cao trình độ xử lý những tình huống nảy sinh trong đời sống kinh tế xã hội. Cần nhận thức rằng, đổi mới phương pháp giảng dạy không có nghĩa là bỏ phương pháp này, thay bằng phương pháp khác và cũng không có nghĩa là xây dựng một phương pháp giảng dạy cố định cho mỗi môn học, học phần; mà phải căn cứ vào đặc điểm của mỗi môn học, học phần để vận dụng linh hoạt các phương pháp theo hướng: Nâng cao năng lực và phương pháp tự học, tự nghiên cứu của sinh viên, tăng cường tính chủ động tích cực, sáng tạo của sinh viên. Đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng thay vì dạy “chữ” nên dạy phương pháp tiếp cận kiến thức, thay vì học “chữ” nên học cách tìm hiểu kiến thức. Đảm bảo người thầy thực hiện tốt 3 nhiệm vụ trong quá trình giảng dạy Đại học là: Dạy nghề nghiệp, dạy phương pháp và dạy thái độ cho sinh viên. 2.2. Đào tạo lấy chứng chỉ nghề nghiệp 2.2.1. Đối với Nhà nước Trong thời gian gần đây, Nhà nước đã tạo môi trường pháp lý thuận lợi, phù hợp cho hoạt động kiểm toán. Tuy nhiên, sự hỗ trợ về các nguồn lực chưa được nhiều, Nhà nước nên dành một phần một phần ngân sách hoặc thông qua các chương trình hợp tác quốc tế để hỗ trợ cho hoạt động đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam, và coi đó như một hình thức hỗ trợ đầu tư cho các doanh nghiệp. Việc làm này là rất cần thiết vì hầu hết các doanh nghiệp kiểm toán của Việt Nam hiện nay là doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiềm lực về tài chính còn rất nhỏ bé. Việc Nhà nước hỗ trợ ngân sách cho công tác đào tạo kiểm toán viên của Việt Nam cả trong nước và ngoài nước là một trong những biện pháp thiết thực nhằm thực hiện chủ trương công khai, minh bạch về tài chính trong nền kinh tế quốc dân. 2.2.2. Đối với Hội kế toán và kiểm toán Việt Nam, Hội kiểm toán viên hành nghề và các tổ chức nghề nghiệp: Trong xu thế hội nhập quốc tế, vai trò của hội ngày càng quan trọng mà đặc biệt là việc quản lý và đào tạo kiểm toán viên hành nghề. Tuy nhiên, các hội nghề nghiệp trên của Việt Nam còn non trẻ và chưa đủ sức để có thể thực hiện đầy đủ những chức năng của mình. Vì vậy hội phải hết sức năng động và phối kết hợp với các tổ chức nghề nghiệp khu vực và quốc tế, tranh thủ sự trợ giúp của Chính phủ để phát huy vai trò của mình. Đồng thời hội cần có kế hoạch để tập hợp được đội ngũ ngang tầm với nhiệm vụ được giao và làm việc chuyên trách về công tác hội để có thể gánh vác sứ mệnh nặng nề của hội trong thời gian tới. Hội cũng cần phải có kế hoạch đào tạo và việc đào tạo cần được thực hiện bởi các chuyên gia có uy tín cùng các chuyên gia nước ngoài có nhiều kinh nghiệm. 2.2.3. Đối với các công ty kiểm toán: Lợi ích thiết thực nhất trong công tác đào tạo kiểm toán viên vẫn là cá nhân các kiểm toán viên và các công ty kiểm toán đang quản lý đội ngũ này. Do vậy các công ty kiểm toán phải cố gắng hơn nữa trong công tác đào tạo, phải xây dựng được đội ngũ kiểm toán viên trở thành các chuyên gia giỏi về nghiệp vụ, có kỹ năng hành nghề và có đạo đức nghề nghiệp. Cần thấy rõ được trách nhiệm nặng nề của công ty nếu để xảy ra rủi ro kiểm toán trong quá trình hoạt động. Mỗi kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải tự mình đặt ra mục tiêu phấn đấu trong những thời hạn nhất định để vượt qua chính mình trong quá trình hành nghề kiểm toán. 2.2.4. Đối với khách hàng và các bên thứ ba Sự đòi hỏi của khách hàng và các bên thứ ba về chất lượng kiểm toán cũng góp phần nâng cao chất lượng kiểm toán viên. Khách hàng cần phải hiểu đúng về bản chất của dịch vụ kiểm toán độc lập. Cần sử dụng các dịch vụ này để góp phần thúc đẩy doanh nghiệp phát triển, phát hiện và ngăn ngừa những sai sót, gian lận; trên cơ sở đó hạn chế những rủi ro cho doanh nghiệp. Vì vậy, đòi hỏi trước hết của khách hàng đối với kiểm toán phải là chất lượng dịch vụ chứ không phải là sự thoả hiệp hoặc giá rẻ. Đối với các bên thứ ba: Các chủ nợ, các nhà đầu tư, thuế và các cơ quan quản lý Nhà nước… cũng cần hiểu sâu sắc hơn đến dịch vụ kiểm toán để có thể sử dụng kết quả kiểm toán và đưa ra các quyết định quản lý thích hợp và có hiệu quả. Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên đây sẽ góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ kiểm toán viên hành nghề của Việt Nam trong những năm tới, từng bước đạt được trình độ kiểm toán viên của các nước trong khu vực và thế giới theo lộ trình hội nhập quốc tế mà Việt Nam đã cam kết. Kết luận Hoạt động kiểm toán nói chung và các kiểm toán viên nói riêng ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Tuy mới chỉ ở những bước đi ban đầu song trong 15 năm qua, hoạt động kiểm toán cùng với đội ngũ kiểm toán viên ở Việt Nam đã liên tục có những bước phát triển đáng mừng, góp phần vào việc lành mạnh hóa đời sống kinh tế, nâng cao tính minh bạch trong hoạt động kinh doanh. Chính vì vậy, việc không ngừng hoàn thiện để có thể nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán và đội ngũ kiểm toán viên, để nó ngày càng phát huy được chức năng của mình nhất là trong giai đoạn đất nước ta đang tiến hành việc Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đát nước và hội nhập kinh tế thế giới là một yêu cầu tất yếu. Chỉ qua một thời gian ngắn nghiên cứu, chúng em đã cố gắng đi sâu tìm hiểu về Kiểm toán viên và Đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam. Với những kiến thức đã học được tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân, kết hợp với những hiểu biết về thực tế ít ỏi, chúng em đã mạnh dạn nêu lên một số nhận xét, đề xuất nhằm đóng góp một phần nhỏ vào việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của công tác đào tạo kiểm toán viên tại Việt Nam. Song, do lượng kiến thức còn hạn chế và thời gian nghiên cứu không được nhiều nên Công trình nghiên cứu khoa học của chúng em không thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Chính vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy cô giáo để Công trình được hoàn thiện và sát hơn với thực tế. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Kiểm toán tài chính/ GS.TS Nguyễn Quang Quynh/ NXB Tài chính – 2001 3. Kiểm toán/ Alvin A. Arens/ NXB. Thống kê - 2000 4. Kiểm toán nội bộ hiện đại. Victor Z.Brink and Herbert Witt/ NXB. Tài chính - 2000 5. VACO toàn tập / NXB. Tài chính – 1997 6. Phần mềm kế toán AS/2 7. Tạp chí kế toán các năm 2004, 2005, 2006 8. Tạp chí kiểm toán năm 2004, 2005, 2006 9. Tài liệu Kiểm toán nội bộ của Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO) Mục lục Trang Các ký hiệu viết tắt KTV : Kiểm toán viên KTNN : Kiểm toán Nhà nước KTĐL : Kiểm toán độc lập KTNB : Kiểm toán nội bộ KTVNN : Kiểm toán viên Nhà nước KTVĐL : Kiểm toán viên độc lập KTVNB : Kiểm toán viên nội bộ ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35804.doc