Kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng tại Sở Giao Dịch III- Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam- thực trạng và giải pháp

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Kinh tế - xã hội nước ta năm 2008 diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động phức tạp, khó lường. Năm 2008. kinh tế Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức lớn. GDP tăng 6.23 %, lạm phát tăng 22.97% thị trường tài chính tiền tệ có nhiều diễn biến phức tạp.Trên địa bàn Hà Nội, GDP Hà Nội năm 2008 tăng 10.58%; kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 35.5%; tổng số vốn FDI đạt 5 tỷ USD, tăng 2 lần so với năm 2007. N

doc95 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1507 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng tại Sở Giao Dịch III- Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam- thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gày càng có nhiều doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực. Đặc biệt ngân hàng là ngành tăng trưởng nóng nhất. Ngành ngân hàng với vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế quốc dân, là huyết mạch của nền kinh tế đã có bước đi hiệu quả khẳng định vị thế của mình. Nền kinh tế của Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ sang kinh tế thị trường đáp ứng yêu cầu khi ra nhập WTO. Điều này tạo nên cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các NHTM với nhau.Tạo ra sân chơi bình đẳng cho tất cả các ngân hàng tham gia thị trường tiền tệ. Hoạt động tín dụng là hoạt động ngân hàng truyền thống và giữ vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nhưng hoạt động tín dụng lại chứa đựng rất nhiều rủi ro vì hoạt động tín dụng có mối quan hệ với các cá nhân, thành phần kinh tế khác trong toàn bộ nền kinh tế. Các cá nhân hay tổ chức hoạt động kinh doanh luôn chứa đựng rủi ro thậm chí là phá sản, cho nên khi đặt mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng - khách hàng thì rủi ro tiềm ẩn mà ngân hàng phải gánh chịu là hiển nhiên. Mà trong tình hình cạnh tranh ngày nay có rất nhiều ngân hàng chạy theo lợi nhuận mà bất chấp rủi ro. Như vậy yêu cầu ngân hàng phải thiết lập một hệ thống kiểm soát chặt chẽ nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng của mình cũng như rủi ro trong hoạt động kinh doanh nói chung. Hệ thống KTNB ra đời và phát triển phải đáp ứng yêu cầu đó. Phải phát huy hết sức hiệu quả kiểm tra, giám sát nội bộ và tư vấn hoạt động cho ngân hàng.Từ đó nâng cao hiệu quả công tác hoạt động tín dụng cũng như quản lý điều hành trong hoạt động tín dụng. Một thực tế chung trong thời gian qua cho thấy rằng các NHTM Việt Nam hiện nay mới bắt đầu chú ý tới hoạt động KTNB.Tuy nhiên những bước phát triển của KTNB hiện nay mới chỉ mang tính định hình vì vậy mà chưa thể phát huy hết hiệu quả của chức năng KTNB. Vì vậy mà việc hoàn thiện công tác, tổ chức thực hiện của KTNB là một vấn đề hết sức bức bách hiện nay, nó là đòn bẩy và cũng là chìa khóa thành công trong quá trình cạnh tranh khốc liệt hiện nay giữa các NHTM. Nhận thức được sự cần thiết và vai trò của KTNB đối với hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng, cùng với kiến thức đã được trang bị trong quá trình 4 năm học tại Học viện ngân hàng, em đã mạnh dạn lựa chon đề tài: “Kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng tại Sở Giao Dịch III- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam- Thực trạng và giải pháp” 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Nhằm làm sáng tỏ vấn đề về lý luận và thực tiễn KTNB. Đi vào phân tích tình hình hoạt động tín dụng và công tác KTNB đối với hoạt động tín dụng tại Sở Giao Dịch III - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Qua đó để thấy được những ưu điểm cũng như hạn chế của công tác KTNB đối với hoạt động tín dụng.Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác KTNB tại SGDIII. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu là lý luận về KTNB, thực trạng công tác KTNB đối với hoạt động tín dụngvà các giải pháp kiến nghị được đề xuất. Phạm vi nghiên cứu là công tác KTNB của SGD III - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trong những năm gần đây. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp sử dụng chủ yếu là phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử kết hợp với so sánh và phân tích. 5. Kết cấu của đề tài Nội dung, kết cấu được chia thành 3 chương như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận chung về kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng của NHTM Chương 2: Thực trạng hiệu quả kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng tại Sở Giao Dịch III- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng tại Sở Giao Dịch III CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN NỘI BỘ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1 TỔNG QUAN VỀ KIỂM TOÁN NỘI BỘ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1.1 Khái niệm, bản chất,vai trò của kiểm toán 1.1.1.1 Khái niệm Quan niệm về kiểm toán đựơc chấp nhận phổ biến hiện nay là: “Kiểm toán là quá trình các kiểm toán viên độc lập và có năng lực tiến hành thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin được kiểm toán nhằm xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết lập” Ngoài ra theo liên đoàn kế toán quốc tế ( IFAC- The International Federation of Accountants) thì “ Kiểm toán là việc các kiểm toán viên độc lập kiểm tra và trình bày ý kiến của mình về bản báo cáo tài chính” Trong giáo trình kiểm toán của Alvin A.Rens và James K Loebbecker : “ Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng được của một đơn vị cụ thể nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết lập” 1.1.1.2 Bản chất - Hoạt động kiểm toán là hoạt động mang tính chuyên nghiệp cao - Được thực hiện bởi các cá nhân kiểm toán viên có đủ năng lực nghề nghiệp ( được đào tạo, có kinh nghiệm hay hiểu biết 1 cách hợp lí về vấn đề được chỉ định kiểm toán, có đủ khả năng thực hiện cuộc kiểm toán 1 cách độc lập , khách quan và chính trực) - Thực hiện hoạt động kiểm toán phải tuân theo những quy trình thủ tục xác định - Kết quả cuối cùng phải hình thành nên ý kiến kiểm toán ( nhận xét đánh giá, đề xuất kiến nghị) - Tất cả các ý kiến phải được dựa trên 1 khuân khổ xác định trước và kiểm toán viên thực hiện phải có đủ hiểu biết về hệ thống tiêu chuẩn trước đó. Khuân khổ kiểm toán được quy định bởi đối tựơng kiểm toán: loại hình doanh nghiệp, lĩnh vực hoạt động, chính sách nhà nước , quyđịnh pháp luật điều tiết và các quy định liên quan chi phối đến hoạt động của đối tượng đó. - Tất cả các ý kiến kiểm toán phải được đảm bảo bằng các bằng chứng ( đầy đủ và có hiệu lực). - Đối tượng kiểm toán- tuỳ thuộc vào từng cuộc kiểm toán, được quy định trong hợp đồng kiểm toán, quyết định kiểm toán. 1.1.1.3 Vai trò của kiểm toán trong nền kinh tế thị trường Chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường thực hiện chủ trương đa dạng hóa các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế được mở rộng và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Trong điều kiện nền kinh tế như vậy, thông tin tài chính của doanh nghiệp không chỉ để báo cáo cho các cơ quan quản lí nhà nước để kiểm tra và xét duyệt mà nay các thông tin này cần cho nhiều người, được nhiều đối tượng quan tâm, khai thác sử dụng cho các quyết định kinh tế. Tuy ở nhiều góc độ khác nhau nhưng tất cả các đối tượng này đều có cùng nguyện vọng là có được các thông tin có độ chính xác cao, tin cậy và trung thực. Luật pháp yêu cầu và để yên lòng người sử dụng các báo cáo tài chính phải được kiểm toán và chỉ có những thông tin kinh tế đã được kiểm toán mới là căn cứ tin cậy cho việc đề ra các quyết định hiệu quả và hợp lí. Việc các quy định mang tính pháp lí bắt buộc các thông tin tài chính trước khi công bố phải được kiểm toán, điều này thể hiện rõ nét vai trò của kiểm toán trong quá trình đổi mới nền kinh tế. Trong các quan hệ kinh tế nhờ có kiểm toán mà các doanh nghiệp đã tìm được tiếng nói chung đó là sự tin cậy lẫn nhau, sự thẳng thắn, trung thực trình bày về tình hình tài chính của mình. Đây là yếu tố hết sức quan trọng để đánh giá, lựa chọn đối tác kinh doanh. Đặc biệt trong quan hệ hợp tác kinh doanh với nước ngoài, nếu nhà đầu tư nước ngoài muốn tìm hiểu về hoạt động kinh doanh và đánh giá tình hình của một doanh nghiệp trước khi đầu tư, hợp tác kinh doanh thì chi phí cho cuộc kiểm toán sẽ hiệu quả và rẻ hơn nhiều so với chi phí mà hai bên phải bỏ ra để đàm phán tự chứng minh về khả năng tài chính của mình. Đồng thời ý kiến khách quan của kiểm toán luôn đáng tin cậy hơn. Ngay cả khi các công ty có vốn đầu tự nước ngoài được thành lập thì nhu cầu kiểm toán của các công ty này là tất yếu bởi yêu cầu quản lí của các đối tác nước ngoài trong doanh nghiệp. Hoạt động kiểm toán còn thu hút được lực lượng lớn các lao động có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao và đặc biệt là lực lượng chuyên gia tư vấn nước ngoài làm việc tại các công ty kiểm toán quốc tế. Kiểm toán thực hiện kiểm tra tính trung thực hợp lí hợp pháp của thông tin trong hoạt động kinh tế, tài chính làm lành mạnh hoá các quan hệ tài chính, cung cấp các thông tin trung thực cho quản lí vĩ mô trong nền kinh tế. Với bên thứ ba, kiểm toán đã giúp ngân hàng, các công ty tài chính, các nhà đầu tư, các cổ đông, đối tác… có đủ thông tin tin cậy, bằng chứng xác đáng để đưa ra quyết định có đầu tư, liên quan đến đơn vị được kiểm toán. 1.1.2 Phân loại kiểm toán 1.1.2.1 Phân loại theo mục đích kiểm toán a) Kiểm toán báo cáo tài chính Khái niệm: Kiểm toán báo cáo tài chính là loại kiểm toán nhằm kiểm tra và xác nhận tính trung thực hợp lí của các BCTC được kiểm toán. Mục đích của kiểm toán báo cáo tài chính: để xác định mức độ trung thực và hợp lí của báo cáo tài chính Đối tượng kiểm toán: là các loại báo cáo tài chính của một số niên độ xác định của một tổ chức, cá nhân xác định Hình thức báo cáo kiểm toán: thông thường bằng văn bản theo quy định Cơ sở của kiểm toán báo cáo tài chính: là tất cả các quy định liên quan đến các nội dung phải thể hiện và được thể hiện trên báo cáo tài chính được kiểm toán. b) Kiểm toán tuân thủ Khái niệm: kiểm toán tuân thủ là loại kiểm toán nhằm để xem xét đơn vị được kiểm toán có tuân thủ các qưy định mà các cơ quan có thẩm quyền cấp trên hoặc cơ quan chức năng của nhà nước hoặc cơ quan chuyên môn đề ra hay không. Mục đích kiểm toán : là xác định mức độ tuân thủ các quy định chi phối đến hoạt động của một đối tượng xác định Đối tượng kiểm toán: có thể là một báo cáo, một hoạt động hay một sản phẩm, dịch vụ( kết quả của hoạt động) .Đối tượng của kiểm toán tuân thủ rất đa dạng, có thể là một báo cáo tài chính, hoạt động của một cửa hàng, một chi nhánh, một công trình, hạng mục công trình hay một quy trình. Cơ sở của kiểm toán: Là các quy định cần phải kiểm tra sự tuân thủ đối với đối tượng kiểm toán. Hình thức kiểm toán: phụ thuộc vào yêu cầu đối với từng cuộc kiểm toán. c) Kiểm toán hoạt động Khái niệm: Kiểm toán hoạt động là loại kiểm toán nhằm để xem xét và đánh giá về tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả của các hoạt động được kiểm toán. Mục đích: là để đánh giá mức độ hiệu quả trong hoạt động của một cá nhân, tổ chức, trong một giai đoạn xác định. Kiểm toán hoạt động còn được gọi là kiểm toán 3 Es: tính kinh tế, tính tiết kiệm/tính hiệu năng và tính hiêu quả( Economics,Effectiveness and Effciency). Đây là một loại hình kiểm toán có nhiều tranh cãi giữa các quan điểm. + Tính kinh tế : được đánh giá trên một cơ sở so sánh quan hệ tương quan giữa đầu ra và đầu vào. Một hoạt động được đánh giá là tính kinh tế khi nó tiêu tốn một mức chi phí thấp nhất để đạt được một mức đầu ra xác định, hoặc ngược lại là tạo được một lượng đầu ra cao nhất với mức chi phí thấp nhất. + Tính hiệu năng: Được đánh giá trong mối tương quan giữa tiến độ thực hiện và mức dự kiến phải đạt được( về chỉ tiêu này hiên nay còn rất nhiều cách hiểu khác nhau). + Tính hiệu quả: được đánh giá trên cơ sở mức độ đáp ứng yêu cầu, mục tiêu đặt ra đối với hoạt động. 1.1.2.2 Phân loại theo đối tượng kiểm toán a) Kiểm toán báo cáo tài chính Đối tượng tác nghiệp kiểm toán: là các báo cáo tài chính BCTC hàng năm của một doanh nghiệp: gồm báo cáo kết quả kinh doanh, bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu chuyển tiền tệ cà thuyết minh báo cáo tài chính. Tại hầu hết các quốc gia, BCTC được quy định theo mẫu do một cơ quan có thẩm quyền ban hành. Báo cáo thu chi NSNN của một tỉnh, thành phố Báo cáo tình hình thu chi NSNN trên địa bàn của sở tài chính một tỉnh Báo cáo thu chi của một trường học Báo cáo quyết toán khối lượng hoàn thành Báo cáo tài chính của một dự án, của một ban quản lí dự án Báo cáo ngân sách của một tổ chức phi chính phủ: IMF,WB, Hội kế toán,.. Mục đích kiểm toán: có thể là để xác nhận mức độ trung thực hợp lí của báo cáo tài chính, cũng có thể là để phục vụ cho mục đích khác như đánh giá hiệu quả hoạt động, hay mức độ tuân thủ Cơ sở kiểm toán: tuỳ thuộc vào yêu cầu đối với cuộc kiểm toán. b) Kiểm toán nghiệp vụ Đối tượng kiểm toán: là các hoạt động nghiệp vu của các cá nhân, tổ chức liên quan Ví dụ : kiểm toán nghiệp vụ tín dụng của một ngân hàng thương mại Ví dụ : Kiểm toán nghiệp vụ an toàn vệ sinh thực phẩm của Metro, BigC Cơ sở của kiểm toán : là các quy định liên quan đến nghiệp vụ được kiểm toán Mục đích kiểm toán: thu thập thông tin về thực tế hoạt động nhằm phát huy những thành tích , xác định trách nhiệm, khắc phục các hạn chế, khiếm khuyết. c) Kiểm toán liên kết /liên ngành Đối tượng của cuộc kiểm toán: liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề hoặc nhiều địa phương. Mục đích kiểm toán: thu thập thông tin đầy đủ về tình hình hoạt động, phát hiện các ưu điểm, nhược điểm, các tồn tại, nhằm cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác phục vụ cho công tác quản lí. Cơ sở của cuộc kiểm toán : tuỳ theo từng cuộc kiểm toán. Ví dụ: Kiểm toán chương trình phát triển hệ thống thông tin trong các cơ quan hành chính nhà nước. Ví dụ : Kiểm toán chương trình phát triển hệ thống tưới tiêu nội đồng. 1.1.2.3 Phân loại theo đối tượng tiến hành kiểm toán a) Kiểm toán nội bộ ( Internal Audit) Theo liên đoàn kế toán quốc tế IFAC thì khái niệm KTNB được nêu ra: “ Một hoạt động được lập ra trong một đơn vị kinh tế, như một loại dịch vụ cho đơn vị đó,có chức năng kiểm tra, đánh giá và giám sát tính thích hợp và hiệu quả của hệ thống kế toán và KTNB” Mục tiêu: Kiểm tra và đánh giá tính phù hợp, hiệu lực và hiệu quả trong hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm tra xác nhận độ tin cậy của thông tin kinh tế, tài chính của báo cáo tài chính, báo cáo kế toán của đơn vị trước khi trình BGĐ ký Kiểm tra và theo dõi sát sao việc chấp hành các chính sách, chế độ kế toán, các nghị quyết của hội đồng quản trị và của BGĐ thông qua việc rà soát lại hệ thống kế toán,các quy chế về hệ thống kiểm soát nội bộ có liên quan. Phát hiện những sở hở yếu kém, gian lận trong quản lí và bảo vệ tài sản ,có các ý kiến đề xuất đề có thể hoàn thiện các quy trình nghiệp vụ cũng như hệ thống quản lí điều hành kinh doanh. KTNB chủ yếu thực hiện kiểm toán hoạt động và kiểm toán tuân thủ là chính. Ngoài ra có thể thực hiện kiểm toán việc xây dung các báo cáo tài chính của các bộ phận chức năng và nếu kiểm toán viên nội bộ có đủ năng lực thì có thể thực hiện cả 3 hình thức kiểm toán nêu trên. Kết quả của KTNB chủ yếu phục vụ cho chính bản thân đơn vị, không có tính chất áp dụng cho bên ngoài, tuy nhiên nó cũng là căn cứ để các nhà đầu tư, khách hàng tham khảo khi muốn có quan hệ làm ăn với đơn vị. b) Kiểm toán Nhà nước( Government Audit) Kiểm toán nhà nước là loại hình kiểm toán do cơ quan kiểm toán nhà nước tổ chức tiến hành theo quy định. KTNN tiến hành xem xét việc chấp hành các chính sách chế độ và pháp luật của nhà nước tại các đơn vị có sử dụng vốn ngân sách của nhà nước. Hình thức mang tính bắt buộc với mọi đơn vị có sử dụng nguồn vốn của nhà nước và các đơn vị này không phải thực hiện nghĩa vụ trả phí kiểm toán vì hoạt động này được trả phí từ ngân sách và nằm trong kế hoạch kiểm toán hàng năm. Kết quả kiểm toán chủ yếu phục vụ cho cấp có thẩm quyền( cơ quan nhà nước). KTNN được quyền góp ý, yêu cầu đơn vị đựơc kiểm toán phải sửa chữa sai phạm, kiến nghị với cấp có thẩm quyền xử lí các vi phạm. Kiểm toán nhà nước được coi là mức độ KTNB cao nhất cho toàn bộ các tổ chức nhà nước hay các tổ chức có sử dụng nguồn ngân sách của nhà nước.Tại Mỹ, cơ quan KTNN là Genaral Accounting Office( GAO) hay chính là văn phòng kế toán trưởng. Bộ phận này trực thuộc nghị viện Mỹ.Tại các bộ phận khác của nhà nước như giáo dục, xã hội, quốc phòng…đều có các nhân viên KTNB riêng.Tuy vậy chúng ta có thể thấy một số nét chung giữa KTNB và KTNN.Trong đó thì KTNN tập trung vào tính hiệu quả, tiết kiệm và hiệu năng của việc sử dụng các tài sản công và các nguồn lực khác. Còn ở Việt Nam, KTNN SAV ( State Audit of Viet Nam) được thành lập theo nghị định số 70/ CP, Ngày 11/7/1994 về thành lập KTNN. KTNN là cơ quan có chức năng quản lý, có nhiệm vụ kiểm toán các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước hay vốn nhà nước của các doanh nghiệp nhà nước. c) Kiểm toán độc lập ( Independent Audit) Kiểm toán được tiến hành bởi các nhân viên của công ty kiểm toán độc lập. Kiểm toán độc lập là loại hình dịch vụ và tư vấn được pháp luật thừa nhận và bảo hộ, chịu sự quản lí chặt chẽ của các hiệp hội chuyên ngành về kế toán và kiểm toán. Kiểm toán viên của công ty kiểm toán độc lập là các kiểm toán viên chuyên nghiệp. Lĩnh vực hoạt động chủ yếu là kiểm toán báo cáo tài chính Cũng có thể theo yêu cầu của đơn vị được kiểm toán mà các KTV sẽ tiến hành kiểm toán các lĩnh vực khác hay kiểm toán tuân thủ… KTĐL cung cấp dịch vụ tư vấn kế toán tài chính như tư vấn kế toán, tư vấn thuế, hoặc quản trị tổ chức. Kết quả của cuộc kiểm toán không chỉ phục vụ cho chính bản thân doanh nghiệp mà còn phục vụ cho cá nhân hay tổ chức quan tâm sử dụng. Tuy KTĐL ra đời muộn hơn KTNN nhưng vai trò của KTĐL ngày càng trở nên quan trọng, cần thiết với toàn bộ nền kinh tế hiện nay. Ở Việt Nam hiện nay có một số công ty kiểm toán độc lập đang hoạt động rất hiệu quả như Erns & Young, PWC… đã khẳng định được vị trí tầm quan trọng của kiểm toán trong nền kinh tế thị trường. 1.1.3 Phương pháp kiểm toán Phương pháp kiểm toán được hiểu là các biện pháp ,cách thức và thủ pháp được vận dụng trong công tác kiểm toán nhằm đạt được mục đích kiểm toán đã đặt ra. Phương pháp kiểm toán là sản phẩm của sự nhận thức khoa học quá trình kiểm toán và thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị. Có nhiều phương pháp được sử dụng trong kiểm toán nhưng trong thực tế có 2 phương pháp được sử dụng phổ biến là : Phương pháp kiểm toán hệ thống Phương pháp kiểm toán cơ bản 1.1.3.1 Phương pháp kiểm toán hệ thống Là phương pháp kiểm toán trong đó các thủ tục , kỹ thuật kiểm toán được thiết lập để thu thập các bằng chứng về tính hiệu quả( tính tuân thủ) hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán, các KTV sử dụng phương pháp này để tiếp cận quy trình nghiệp vụ để từ đó xây dựng các thủ tục kiểm toán. Các phương pháp được áp dụng phổ biến : a. Khảo sát hệ thống ( walk through): Hay còn gọi là kỹ thuật điều tra hệ thống. Đòi hỏi việc kiểm tra chi tiết một loạt các nghiệp vụ từ đầu đến cuối để xem xét, đánh giá các bước kiểm soát áp dụng trong hệ thống điều hành nội bộ. b.Các thử nghiệm chi tiết đối với kiểm soát: Là các thử nghiệm được tiến hành để thu thập bằng chứng về sự hữu hiệu của các quy chế kiểm soát và các bứơc kiểm soát, làm căn cứ cho việc thiết kế phương pháp kiểm toán cơ bản. 1.1.3.2 Phương pháp kiểm toán cơ bản Là phương pháp kiểm toán trong đó các thủ tục kiểm toán được thiết kế nhằm thu thập bằng chứng có liên quan do hệ thống kế toán xử lí và cung cấp. Đặc trưng của phương pháp này là việc tiến hành các thử nghiệm, các đánh giá đều dựa trên số liệu, các thông tin trên báo cáo tài chính và hệ thống kế toán của đơn vị ( gọi là phương pháp thử nghiệm trên số liệu).Trong Kiểm toán cơ bản người ta thường sử dụng phương pháp phân tích và kiểm tra chi tiết. Các bước thử nghiệm số liệu bao gồm: a.Phân tích số liệu: Trên cơ sở sử dụng các tỷ lệ, các mối quan hệ tài chính để xác định những tính chất hay những sai lệch không bình thường trong bảng cân đối kế toán và các báo cáo tài chính khác của doanh nghiệp. Phân tích số liệu cho phép kiểm toán viên có cái nhìn khái quát về tình hình hoạt động kinh doanh và tài chính của đơn vị được kiểm toán, phát hiện những điều kiện không hợp lí, những điều bất thường những biến động lớn và những trọng tâm trọng yếu trong kiểm toán. Kỹ thuật chủ yếu dùng để phân tích, đánh giá các thông tin tài chính của doanh nghiệp là: + Phân tích so sánh về lượng trên cùng một chỉ tiêu hay còn gọi là phân tích ngang.Ví dụ về phân tích ngang như: so sánh số liệu kỳ này với kỳ trước hoặc giữa các kỳ với nhau, so sánh số liệu với các đơn vị cùng ngành, cùng quy mô. + Phân tích tỷ suất hay còn gọi là phân tích dọc, bằng cách so sánh, xác định tỷ lệ tương quan giữa các chỉ tiêu, các khoản mục khác nhau. Các tỷ suất được lựa chọn sử dụng tuỳ theo kinh nghiệm , trình độ của kiểm toán viên như: các tỷ suất về khả năng thanh khoản, khả năng sinh lời, cấu trúc tài chính của doanh nghiệp. b. Kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ và các số dư tài khoản: KTV sẽ phải kiểm tra trực tiếp cụ thể toàn bộ hoặc chọn một số mẫu nghiệp vụ kinh tế phát sinh hay số dư tài khoản, đánh giá mức độ chính xác của các nghiệp vụ. Phương pháp này thích hợp với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, các loại nghiệp vụ không có tính chất phức tạp. Còn đối với các doanh nghiệp có quy mô hoạt động lớn thì việc kiểm tra chi tiết tất cả nghiệp vụ và số dư là không thể.Khi đó , việc kiểm tra chi tiết chủ yếu dựa trên cơ sở kiểm tra mẫu của một số nghiệp vụ cùng loại. 1.1.3.3 Kỹ thuật chọn mẫu( Audit Sampling) Chọn mẫu kiểm toán là việc áp dụng phương pháp kiểm toán cơ bản và tuân thủ để kiểm tra được 100% các khoản mục trong phạm vi số dư của một tài khoản loại nghiệp vụ để giúp các KTV thu thập , đánh giá bằng chứng của các số dư, nghiệp vụ có đặc điểm tương tự nhau nhằm hình thành các ý kiến kết luận về các số dư và nghiệp vụ đó. Như vậy, lấy mẫu kiểm toán tức là chỉ kiểm tra một phần dữ liệu ( mẫu) để rút ra kết luận hợp lí cho toàn bộ dữ liệu tổng thể. KTV tiếp nhận những điều không chắc chắn nào đó trong kết quả của phép thử kiểm toán vì những lý do: - KTV không tìm kiếm mọi sự chắc chắn, chính xác tuyệt đối của số học Bằng chứng thu được từ mẫu kiểm toán chỉ là 1 trong các nguồn bằng chứng của các KTV. - Việc kiểm tra toàn bộ 100% tổng thể có thể chưa cung cấp được chắc chắn tuyệt đối vì có thể có những nghiệp vụ vẫn chưa được ghi chép. - Chi phí cho cuộc kiểm tra toàn bộ mọi số dư tài khoản là không kinh tế.Tính kinh tế của kiểm toán là một vấn đề mà các KTV, đặc biệt là các KTV độc lập đều phải lưu tâm. - Với các lí do trên việc chọn mẫu trong kiểm toán luôn được lưu tâm hàng đầu. Hiện nay có 2 phương pháp chọn mẫu chính đó là phương pháp chọn mẫu xác suất và phương pháp chọn mẫu phi xác suất a.Phương pháp chọn mẫu xác suất : Trong phương pháp chọn mẫu này mỗi phần tử trong tổng thể đều có cơ hội như nhau để được chọn mẫu. Các kỹ thuật chọn mẫu ngẫu nhiên thường được sử dụng là bảng số ngẫu nhiên, chương trình chọn số ngẫu nhiên và nhiều chữ số. Bảng ngẫu nhiên là một bảng liền kề ngẫu nhiên các chữ số được lập, được sắp xếp 1 cách thuận lợi dưới dạng biểu để thuận tiện cho việc chọn các số ngẫu nhiên có nhiều chữ số. Chọn mẫu hệ thống : Trong quá tình chọn mẫu có hệ thống, KTV xuất phát từ 1 điểm ngẫu nhiên rồi lựa chọn các phần tử cách nhau 1 khoảng đã xác định trước.Khoảng cách này được xác định bằng cách chia số phần tử của tổng thể cho số lượng phần tử mong muốn trong mẫu. Ví dụ: KTV dự tính kiểm tra 1 mẫu gồm 100 hồ sơ tín dụng trong tổng thể 3000 hồ sơ thì khoảng cách để chọn mẫu là 3000/100= 30 Như vậy KTV sẽ chọn số ngẫu nhiên trong khoảng từ 0 - 29 để xác định điểm bắt đầu của mẫu. Ưu điểm của phương pháp chọn mẫu này là rất dễ dàng trong việc lựa chọn các phần tử của mẫu và KTV không nhất thiết phải đánh số lại tổng thể vì chỉ cần căn cứ trên khoảng cách là có thể xác định được phần tử nào chọn mẫu. Nhưng hạn chế của phương pháp này là mẫu đựơc chọn bị thiên lệch, không đại diện cho tổng thể nếu các phần tử trong mẫu không được sắp xếp một cách ngẫu nhiên. b.Chọn mẫu phi xác suất: Phương pháp này các phần tử của tổng thể không có cơ hội như nhau để đựơc lựa chọn vào mẫu. Phương pháp chọn mẫu phi xác suất chỉ được áp dụng trong lấy mẫu phi thống kê, không được chấp nhận trong lấy mẫu thống kê. Có 3 cách chọn mẫu phi xác suất phổ biến là: Chọn mẫu theo lô Chọn mẫu tình cờ Chọn mẫu theo sự xét đoán 1.2 KIỂM TOÁN NỘI BỘ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NHTM 1.2.1 Kiểm toán nội bộ trong các NHTM 1.2.1.1 Vai trò của các NHTM Ngân hàng là 1 loại hình tổ chức có vai trò quan trọng với nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng. Ở Việt Nam, Pháp lệnh ngân hàng ngày 23-05-1990 của hội đồng Nhà nước Việt Nam xác định : Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. Theo Điều 20 luật các TCTD Việt Nam 1997 đã quy định: “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp đựơc thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung cấp các dịch vụ thanh toán...” Với các chức năng như trên, NHTM tỏ rõ vị thế quan trọng của mình trong nền kinh tế thị trường. Ngân hàng đựơc ví như huyết mạch của nền kinh tế quốc dân. Phó thủ tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng đã so sánh hệ thống ngân hàng, tài chính như “ hệ thần kinh” chi phối hoạt động của nền kinh tế đất nước mà trong tình hình hiện nay “hệ thần kinh” này cần hoạt động mạnh hơn nữa, đưa ra những dự báo, chiến lược thông minh, hiệu quả giúp Chính phủ giải quyết khó khăn, duy trì đà tăng trưởng. Hoạt động của NHTM ngày càng được đa dạng hoá, các dịch vụ ngân hàng đựơc cung cấp ngày càng chu đáo , với nhiều tiện ích hiện đại như Internet Banking, Home Banking…Ngân hàng thực sự trở thành cầu nối không thể thiếu và không thể thay thế trong nền kinh tế thị trường đang được quốc tế hoá cao, đang xâm nhập vào mọi mặt của đời sống xã hội. Ngân hàng là một tổ chức đặc biệt về tiền tệ tín dụng được thể hiện thông qua : Ngân hàng đóng vai trò tập trung vốn cho nền kinh tế: Thực hiện được điều này NHTM huy động và tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, mặt khác với số vốn này NHTM sẽ đáp ứng được nhu cầu vốn của nền kinh tế để sản xuất kinh doanh. Qua đó nó thúc đẩy nền kinh tế phát triển. NHTM vừa là người đi vay vừa là người cho vay và với số lãi suất chênh lệch có được nó sẽ duy trì hoạt động của mình. Vai trò trung gian này trở nên phong phú hơn với việc phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu… NHTM có thể làm trung gian giữa công ty và các nhà đầu tư, chuyển giao mệnh lệnh trên thị trường chứng khoán, đảm nhận việc mua trái phiếu công ty. NHTM làm trung gian thanh toán và quản lí các phương tiện thanh toán. Khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông và độc quyền quản lí các công cụ đó( séc, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán..) đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều về chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá. Ở các nước phát triển phần lớn thanh toán được thực hiện qua séc và được thực hiện bù trừ thông qua hệ thống NHTM. Ngoài ra việc thực hiên chức năng là thủ quỹ của các doanh nghiệp qua việc thực hiện các nghiệp vụ thanh toán đã tạo cơ sở cho ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ cho vay. NHTM còn có vai trò thực thi chính sách tiền tệ : NHTW khi hoạch định chính sách tiền tệ đã và đang sử dụng các công cụ tài chính để thực hiện được mục đích của mình. Và các NHTM là chủ thể chịu tác động trực tiếp của NHTW thông qua các công cụ để thực hiện các chính sạch tiền tệ của mình. NHTM với chức năng làm trung gian tài chính nên mọi sự biến động của nền kinh tế sẽ đều phản hồi qua NHTM rồi mới tới NHTW, chính điều này sẽ giúp cho việc sửa đổi, bổ sung các chính sách tiền tệ cho phù hợp. NHTM là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nên kinh tế: Thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các ngân hàng trong hệ thống đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng ra lưu thông. Bên cạnh đó NHTM chính là cầu nối trung gian giữa nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới, tham gia quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu.Với các chức năng của mình chính NHTM đã góp phần thúc đẩy hoạt động ngoại thương ngày càng phát triển, dẫn đến sự hợp tác giữa các ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài. SƠ ĐỒ 1-MÔ HÌNH CHỨC NĂNG NHTM HIỆN ĐẠI Chức năng tín dụng Chức năng ủy thác Chức năng tiết kiệm Chức năng quản lý tiền mặt Chức năng ngân hàng đầu tư và bảo lãnh Chức năng môi giới Chức năng lập kế hoạch đầu tư Chức năng thanh toán Chức năng bảo hiểm NGÂN HÀNG HIỆN ĐẠI 1.2.1.2 Sự cần thiết phải kiểm toán hoạt động Ngân hàng thương mại NHTM là bề nổi của nền kinh tế, là dấu hiệu sức khoẻ của nền kinh tế quốc dân. NHTM hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, có chứa đựng nhiều rủi ro và biến động. Mỗi sự biến động của yếu tố vĩ mô hay vi mô cũng có thể tác động tới các ngân hàng.Bởi nó sẽ tác động trực tiếp tới ngân hàng hoặc thông qua các khách hàng sẽ tác động một cách gián tiếp đến ngân hàng.Ví dụ như trong tình hình khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay, thị trường xuất khẩu của Việt Nam giảm sút nghiêm trọng làm ảnh hưởng xấu đến các hợp đồng xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. Làm ảnh hưỏng xấu đến tình hình tài chính của các công ty, từ đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp đối với ngân hàng. Khi xảy ra rủi ro, không chỉ có một ngân hàng phải gánh chịu và lâm vào khủng hoảng mà do hiệu ứng dây chuyền sẽ làm cho cả hệ thống các ngân hàng chịu ảnh hưởng chung.Vì giữa các ngân hàng có mối quan hệ tín dụng với nhau trực tiếp hoặc gián tiếp. Bằng chứng là cuộc khủng hoảng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997-1998 tại khu vực Đông Nam Á sau đó lan rộng ra toàn thế giới. Mà một trong những nguyên nhân chính dẫn đến cuộc khủng hoảng chính là sự yếu kém của hệ thống các ngân hàng trong khu vực. Do vậy nếu một ngân hàng trong hệ thống có tình hình hoạt động kinh doanh xấu, khả năng thu hồi nợ kém sẽ dẫn đến nhiều vấn đề mà hậu quả khó lường trước, trước hết bản thân ngân hàng có thể bị phá sản, sau đó có thể kéo theo các ngân hàng khác và khủng hoảng kinh tế rất dễ có thể xảy ra. Điều này giải thích vì sao kiểm toán ngân hàng lại rất cần thiết. Khi tham gia thiết lập quan hệ với ngân hàng, các chủ thể khác cũng cần phải có cơ sở đảm bảo đề ra quyết định .Ví dụ như khi một._. NHTM nào đó tiến hành IPO, một nhà đầu tư muốn đầu tư vào ngân hàng sẽ cân nhắc xem liệu các thông tin ngân hàng đưa ra có đúng đắn không? Có đáng tin cậy không?...từ đó để ra quyết định mua cổ phiếu của ngân hàng. Các thông tin tài chính được ngân hàng công bố, để đảm báo tính trung thực khách quan cần có sự chứng thực của bên thứ ba - Kiểm toán độc lập đáp ứng được yêu cầu đó. Bởi họ có đội ngũ nhân viên có chuyên môn nghiệp vụ về hoạt động đó.Vì thế hiện nay các ngân hàng đều phải tiến hành kiểm toán độc lập trước khi các thông tin trong báo cáo tài chính đựơc công bố . Ngân hàng phải quản lí một khối lượng tiền tệ rất lớn, nó không chỉ là của ngân hàng mà còn của cả khách hàng nên khả năng rủi ro bị chiếm đoạt, bị thâm hụt tài sản có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Như vậy các ngân hàng thường sử dụng các biện pháp kiểm tra, giám sát chặt chẽ tài sản tránh bị hao hụt hoặc mất mát. Với xu hướng phát triển chung hiện nay, các ngân hàng có xu hướng phát triển theo hướng mô hình ngân hàng bán lẻ hiện đại. Như vậy các sản phẩm dịch vụ ngân hàng có sự phát triển mạnh mẽ vượt khỏi phạm vi điều chỉnh của các nguyên tắc kế toán và kiểm toán nên cần có một bộ phận theo dõi hoạt động diễn ra hàng ngày. Bộ phận giữ vai trò đó chính là kiểm toán nội bộ trong ngân hàng. Trong xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế toàn cầu hiện nay, hoạt động ngân hàng không còn bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà đã mở rộng phạm vi hoạt động giao dịch, thanh toán trên toàn thế giới. Vì vậy, mục tiêu an toàn kinh doanh không chỉ dừng lại là mối quan tâm của một cá nhân, một quốc gia nào mà nó trở thành vấn đề mang tính quốc tế hoá cao.Việc thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh ngân hàng là việc không thể thiếu và rất cần thiết để hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra cho ngân hàng. Từ việc nhận thức được vai trò của công tác kiểm toán, bên cạnh việc kiểm tra của các kiểm toán viên bên ngoài, mỗi ngân hàng cần xây dựng một bộ phận kiểm toán riêng cho mình để thực hiện công việc kiểm tra, kiểm soát và giám sát hoạt động kinh doanh của bản thân ngân hàng. Đây chính là bộ phận KTNB. 1.2.1.3 Khái niệm, chức năng, nhiệm vụ của KTNB NHTM a) Khái niệm KTNB Theo Viện kiểm toán nội bộ - IIA: “Kiểm toán nội bộ là hoạt dộng xác nhận và tư vấn mang tính độc lập, khách quan được thiết lập nhằm tạo ra giá trị gia tăng, nâng cao hiệu quả hoạt động của một tổ chức”. KTNB giúp cho tổ chức đạt được các mục tiêu của mình thông qua việc tạo ra một cách tiếp cận có hệ thống, có tính kỷ luật để đánh giá, nâng cao hiệu lực của quy trình quản trị doanh nghiệp, quy trình kiểm soát và việc quản lí rủi ro. KTNB NHTM được hiểu là quá trình hoạt động một cách có tổ chức, có kỷ luật và độc lập của những người có thẩm quyền trong ngân hàng nhằm kiểm tra, đánh giá về chất lượng và độ tin cậy của các thông tin tài chính và phi tài chính của ngân hàng, đồng thời đưa ra khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quản lí rủi ro, kiểm soát nội bộ và quản trị điều hành của ngân hàng. Thống đốc NHNN Việt Nam đã ban hành quy chế mẫu về tổ chức và hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ trong các TCTD hoạt động tại Việt Nam theo số QĐ 03/1997/QĐ-NHNN trong đó đưa ra khái niệm về KTNB như sau: “ Kiểm tra, kiểm toán nội bộ( gọi chung là kiểm tra nội bộ) trong các tổ chức tín dụng là việc TCTD thực hiện các phương pháp kiểm tra, giám sát và kiểm toán nội bộ nhằm bảo đảm thực hiện đúng các quy định của pháp luật, các quy chế quản lí ngành và quy định nội bộ của TCTD, hạn chế các rủi ro trong hoạt động và bảo vệ an toàn tài sản, bảo đảm tính toàn diện và tin cậy của số liệu”. KTNB là một bộ phận quan trọng cấu thành hệ thống cơ chế kiểm tra ,giám sát nội bộ trong ngân hàng nên KTNB ngân hàng sẽ không bị bó hẹp phạm vi hoạt động kinh doanh trong một công việc,bộ phận nào mà phải mở rộng phạm vi nghiên cứu ra tới tất cả loại hình nghiệp vụ mà ngân hàng đã, đang và sẽ thực hiện. Được như vậy thì KTNB mới hướng công việc của mình vào cải thiện và nâng cao chất lượng hoạt động, tăng cường sức mạnh cho cơ chế kiểm soát nội bộ phát huy hiệu quả. KTNB nằm ngoài quy trình,độc lập và tách rời với quy trình nghiệp vụ, sẽ không chịu trách nhiệm về tình hình,kết quả hoạt động của nghiệp vụ đó mà chỉ có trách nhiệm kiểm tra và đánh giá một cách khách quan xem quy trình nghiệp vụ đó hay toàn hệ thống đã vận hành an toàn, hiệu quả hay chưa, thông tin đưa ra có chính xác hay không? Từ đó rút ra đựơc các điểm yếu cần phải khắc phục , đưa ra ý kiến nhận xét để hoàn thiện quy trình, nhắc nhở các cán bộ nhân viên có ý thức tuân theo những chuẩn mực, quy định đã đề ra. Như vậy khi mới ra đời KTNB chỉ đóng vai trò chống gian lận, sai sót nhưng hiện nay đã mở rộng phạm vi chức năng hoạt động bao gồm cả việc kiểm tra những rủi ro mà ngân hàng phải tránh đỡ. Một thực tế đã được thừa nhận trong thời gian qua là công tác kiểm toán nội bộ đã quyết định vào việc đạt được các mục tiêu đề ra và đảm bảo tồn tại về mặt tài chính của một ngân hàng. Công tác KTNB trong ngân hàng được cấu thành bởi 5 yếu tố: Trách nhiệm của BGĐ và môi trường kiểm tra Nhận biết và đánh giá rủi ro Các biện pháp kiểm tra và phân tách trách nhiệm Thông tin và liên lạc Giám sát và khắc phục thiếu sót Việc kết hợp vận hành 5 yếu tố trên một cách hiệu quả là tiền đề cho một ngân hàng đạt được mục tiêu thông tin và mục tiêu tuân thủ. Góp phần nâng cao hiệu quả quản trị điều hành hoạt động của ngân hàng. b) Chức năng của KTNB KTNB tham gia công tác kiểm tra , giám sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là do KTNB mang 4 chức năng sau: Chức năng kiểm tra Chức năng đánh giá Chức năng xác nhận Chức năng tư vấn - Chức năng kiểm tra: Là việc sử dụng các biện pháp kỹ thuật để xem xét, đối chiếu mức độ trung thực của các thông tin, tài liệu và tính hợp pháp của việc thực hiện các nghiệp vụ hay lập các bản khai tài chính. - Chức năng đánh giá: Thông qua kiểm tra, KTNB thực hiện đánh giá tính đúng đắn, trung thực và hợp pháp của các số liệu, thông tin, tài liệu được kiểm tra. - Chức năng xác nhận: Thông qua kiểm tra, đánh giá, KTNB xác nhận thực trạng của thông tin đã kiểm tra về tính đúng đắn, trung thực và hợp pháp của các thông tin đó. - Chức năng tư vấn: Trên cơ sở những phát hiện trong quá trình kiểm tra, đánh giá, KTNB đề xuất và tư vấn giải pháp để khắc phục sai sót, cải tiến và hoàn thiện hệ thống KSNB, giúp NH đạt được mục tiêu của mình. c) Nhiệm vụ của KTNB Tổ chức và hoạt động của KTNB trong các TCTD hoạt động ở Việt Nam được quy định trong quy chế 03/1997/QĐ-NHNN. Trong đó đưa ra những quy định và quyền hạn chung của KTNB Tổ chức KTNB có nhiệm vụ thực hiện việc kiểm tra , giám sát hoạt động của TCTD. Thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau: Kiểm tra,đánh giá độ tin cậy, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ, của công tác quản lí rủi ro Kiểm tra, thẩm định tính xác thực, độ tin cậy của các thông tin quản lí, thông tin tài chính Kiểm tra, đánh giá tính tuân thủ pháp luật và quy định nội bộ của ngân hàng Kiến nghị các biện pháp sửa chữa, khắc phục sai sót, xử lí các sai phạm, đề xuất các biện pháp hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ, hệ thống quản lí rủi ro của ngân hàng. Các nhiệm vụ cụ thể của KTNB trong việc giám sát an toàn hoạt động ngân hàng theo quan điểm của uỷ ban BASEL( Uỷ ban bao gồm các chuyên gia giám sát hoạt động ngân hàng được thành lập bởi một số Thống đốc Ngân hàng Trung ương vào năm 1975. Uỷ ban này bao gồm đại diện cao cấp của các cơ quan giám sát nghiệp vụ ngân hàng tại 10 quốc gia trên thế giới, bao gồm Mỹ , Nhật Bản, Anh, Pháp,Đức, Italia,Hà Lan,Canada,Thuỵ Điển và Bỉ.) bao gồm 11 nhiệm vụ cụ thể sau: 1.Kiểm tra và đánh giá sự phù hợp và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ 2.Đánh giá việc áp dụng hiệu quả của các quy trình quản lí rủi ro cũng như phương pháp đánh giá rủi ro. 3.Đánh giá hệ thống thông tin quản lí và hệ thống thông tin tài chính, bao gồm cả hệ thống thông tin điện tử và dịch vụ ngân hàng điện tử. 4.Đánh giá tính chính xác và độ tin cậy của các sổ sách kế toán và các báo cáo kế toán tài chính- quản trị 5. Đánh giá các biện pháp đảm bảo an toàn tài sản 6.Đánh giá hệ thống đánh giá vốn của ngân hàng trong mối tương quan với các rủi ro ước lượng của nó. 7.Đánh giá hiệu quả và mức độ tiết kiệm của các nghiệp vụ ngân hàng 8.Thử nghiệm các giao dịch và sự vận hành của các quy trình kiểm soát cụ thể 9.Xem xét các hệ thống đã được xây dung nhằm đáp ứng yêu cầu của pháp luật, quy định về hành vi và sự áp dụng các chính sách và quy định. 10.Kiểm nghiệm độ tin cậy và tính đúng lúc của các báo cáo do luật quy định 11.Tiến hành các hoạt động điều tra đặc biệt 1.2.1.4 Cơ cấu tổ chức KTNB trong NHTM Xét về mặt tổ chức quản trị, KTNB nằm bên ngoài quy trình và đi sau quy trình SƠ ĐỒ 2- MÔ HÌNH TỔ CHỨC KTNB TRONG CÔNG TÁC QUẢN TRỊ TỔ CHỨC QUẢN TRỊ KIỂM SOÁT NỘI BỘ (Trong quy trình Đi cùng quy trình) KIỂM TOÁN NỘI BỘ (Ngoài quy trình Đi sau quy trình) Cơ cấu tổ chức bộ phận KTNB của các ngân hàng về cơ bản có cấu trúc như sau: SƠ ĐỒ 3 -MÔ HÌNH TỔ CHỨC KTNB TRONG NHTM Chủ tịch HĐQT Tổng giám đốc Các phó TGĐ Các phòng KTNB Ban KTNB Uỷ ban Kiểm Toán Giám đốc CN a,Uỷ ban kiểm toán: Uỷ ban kiểm toán trực thuộc HĐQT, có chức năng giúp việc cho HĐQT trong việc giám sát quản lí hoạt động của ngân hàng. - UBKT không tham gia điều hành và độc lập với việc quản lí - Nhiệm vụ điển hình là giám sát hoạt động của bộ phận KTNB và là kênh liên lạc trực tiếp với cấp lãnh đạo cao nhất. - Thực hiện xác nhận về điều lệ hoạt động KTNB, kế hoạch kiểm toán và nguồn lực cần thiết b,Ban KTNB: Ban KTNB là nơi tập trung chức năng kiểm toán của toàn đơn vị ngân hàng.Có nhiệm vụ báo cáo trực tiếp lên Uỷ ban KTNB về kết quả kiểm toán và các vấn đề liên quan đến Ban điều hành Thiết lập mối quan hệ làm việc và báo cáo công việc hàng ngày với Tổng giám đốc/ Giám đốc Xây dựng, trình duyệt kế hoạch kiểm toán hàng năm c, Phòng KTNB: + Có chức năng tham mưu cho Ban kiểm soát, kiểm toán nội bộ để quản lí, chỉ đạo điều hành hoạt động KTNB + Xây dựng, trình duyệt kế hoạch từng cuộc kiểm toán + Trực tiếp tổ chức thực hiện nhiệm vụ KTNB + Lập, trình các báo cáo kiểm toán theo quy định 1.2.1.5 Nội dung quy trình KTNB trong NHTM Quy trình kiểm toán nội bộ là trình tự tiến hành công việc kiểm toán nội bộ, được sắp xếp theo thứ tự phù hợp với diễn biến khách quan của hoạt động kiểm toán nội bộ nhằm thực hiện được mục tiêu của kiểm toán nội bộ. Nội dung quy trình KTNB bao gồm 4 giai đoạn: Giai đoạn 1: Lập kế hoạch kiểm toán hàng năm Giai đoạn 2: Thực hiện cuộc kiểm toán Giai đoạn 3: Lập báo cáo kiểm toán Giai đoạn 4: Đảm bảo chất lượng SƠ ĐỒ 4 -SƠ ĐỒ CÁC GIAI ĐOẠN TRONG QUY TRÌNH KTNB NHTM GĐ 1 GĐ 2 GĐ 3 GĐ 4 Báo cáo thường kỳ Hoàn thành Tóm tắt báo cáo Đảm bảo chất lượng nội bộ Đảm bảo một độ thoả mãn của các bên hữu quan Triển khai Đảm bảo chất lượng bên ngoài Kế hoạch chi tiết Lưu tài liệu Báo cáo chi tiết Mong muốn của các bên hữu quan Tổng quan về doanh nghiệp Đánh giá rủi ro Hoạch định chiến lược Phê duyệt KH chiến lược KH chiến lược được đánh giá lại 1.2.2 KTNB hoạt động tín dụng trong các NHTM 1.2.2.1 Vai trò và đặc điểm của tín dụng NHTM a) Vai trò của hoạt động tín dụng đối với NHTM Tín dụng ( credit) xuất phát từ chữ Latinh là credo ( tin tưởng, tín nhiệm). Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau; ngay cả trong quan hệ tài chính, tuỳ theo bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có một nội dung riêng. Trong quan hệ tài chính, tín dụng có thể hiểu theo các nghĩa sau: Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay. Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. Như một công ty công nghiệp hoặc thương mại bán hàng trả chậm cho một công ty khác, trong trường hợp này người bán chuyển giao hàng hoá cho bên mua và sau một thời gian nhất định theo thoả thuận bên mua phải trả tiền cho bên bán. Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng. NHTM hoạt động cung cấp nhiều loại hình sản phẩm dịch vụ, trong đó hoạt động tín dụng là hoạt động truyền thống và chiếm tỷ trọng lớn trong thu nhập của NHTM. Đối với hầu hết các NHTM trên thế giới, dư nợ tín dụng thường chiếm phần lớn tổng tài sản có và thu nhập từ tín dụng chiếm từ 1/2 đến 2/3 tổng thu nhập của ngân hàng. Ở Việt Nam thì tỷ trọng này cũng ở mức cao, nhất là các NHTM quốc doanh. Hoạt động tín dụng có vai trò lớn như vậy đối với ngân hàng cho nên rủi ro hoạt động tín dụng có tác động rất lớn đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trong hoạt động kinh doanh của mình, NHTM có thể gặp phải các loại rủi ro như: Rủi ro lãi suất Rủi ro hối đoái Rủi ro hoạt động Nguyên nhân của những rủi ro trên bao gồm cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Có thể thấy một số nguyên nhân cơ bản sau: + Do trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng chưa đáp ứng được yêu cầu,đánh giá không đúng hiệu quả của dự án, phân tích thông tin đưa ra kết quả không chính xác… + Do việc bất cân xứng thông tin + Do BGĐ chỉ đạo chưa sát sao, các quy định , thủ tục kiểm soát còn lỏng lẻo tạo điều kiện cho sự gian lận của CBTD với khách hàng. Chính vì vậy các ngân hàng cần có các biện pháp nhằm quản lí, giám sát và kiểm soát rủi ro tín dụng này. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt quyết liệt, các ngân hàng buộc phải nới rộng hơn các điều kiện tín dụng nhằm thu hút khách hàng.Rủi ro tín dụng vì vậy mà tăng cao, yêu cầu đối với các ngân hàng phải thực hiện công tác kiểm soát tốt hơn nữa. b) Đặc điểm của tín dụng NHTM Các nghiệp vụ tài sản có trong bảng cân đối tài sản của NHTM bao gồm cho vay doanh nghiệp, cho vay cá nhân, cho vay các TCTD trong và ngoài nước,nghiệp vụ cho thuê tài chính, góp vốn đầu tư, liên doanh liên kết….NHTM còn có các hoạt động ngoại bảng như cam kết bảo lãnh, cam kết tín dụng..Khi định giá khoản vay NHTM thường áp dụng phương pháp định giá theo thị trường hoặc tương đương theo thời gian. Điều đó có nghĩa là việc định giá tài sản sẽ không theo một chuẩn mực khách quan nào. Đây chính là khó khăn của KTV khi đánh giá các giá trị của khoản vay. Vốn và tiền vừa là phương tiện, vừa là mục đích kinh doanh nhưng đồng thời cũng là đối tượng kinh doanh của NHTM. Và chính đặc điểm này sẽ bao trùm hơn và rộng hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác. NHTM kinh doanh chủ yếu bằng vốn của người khác.Vốn tự có của NHTM chiếm một tỷ lệ rất thấp trong tổng nguồn vốn hoạt động, nên việc kinh doanh của NHTM luôn gắn liền với một rủi ro mà ngân hàng buộc phải chấp nhận với một mức độ mạo hiểm nhất định. Bởi vì trong hoạt động kinh doanh hằng ngày của mình, NHTM không những phải đảm bảo nhu cầu thanh toán, chi trả như mọi loại hình doanh nghiệp khác, mà còn phải đảm bảo tốt nhu cầu chi trả tiền gửi của khách hàng. Rủi ro khi đã xảy ra với NHTM thường là rủi ro rất lớn. Rủi ro xảy ra với hoạt động tín dụng khi ngân hàng không đánh giá chính xác được hết khách hàng của mình. Độ an toàn của một hợp đồng tín dụng chỉ được biết khi hợp đồng tín dụng đó kết thúc.Yêu cầu đó buộc NHTM phải có phương pháp quản trị rủi ro một cách hiệu quả. Đối phó với những rủi ro luôn xảy ra và có thể xảy ra trong môi trường cạnh tranh khốc liệt ngày nay, mỗi NHTM phải lập ra một hệ thống kiểm soát toàn bộ các công đoạn trong ngân hàng. Hay nói cách khác KTNB là hoạt động cần thiết khách quan góp phần giảm thiểu và ngăn chặn các rủi ro. 1.2.2.2 Rủi ro tín dụng của NHTM nhà nước Rủi ro tín dụng( RRTD) là khả năng khách hàng nhận khoản vốn vay nhưng không thể hoàn trả vốn và lãI hoặc hoàn trả không đầy đủ các khoản vay và lãi cho ngân hàng, gây tổn thất cho ngân hàng. Có một số tiêu chí để đánh giá rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại nhà nước như: Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ Tỷ lệ nợ xấu trên vốn chủ sở hữu Tỷ lệ nợ xấu trên quỹ dự phòng tổn thất Nợ đáng nghi ngờ có khả năng chuyển thành nợ xấu cao Nợ không có tài sản đảm bảo Các dấu hiệu để xem là các doanh nghiệp có rủi ro là các khoản nợ không trả được khi đến hạn, với một tổ chức cụ thể một khoản nợ đến hạn không trả được, thì các khoản nợ khác chưa đến hạn cũng được coi là có rủi ro, thậm chí dù nợ chưa đến hạn, hoặc đến hạn vẫn trả được, song tình hình tài chính yếu kém, môi trường kinh doanh có biến động, không thuận lợi cho khách hàng thì khoản nợ đó cũng được coi là có rủi ro.Theo quyết định 493 của NHNN, nợ của các NHTM được chia thành 5 nhóm, với nợ từ loại 3 đến 5 là nợ xấu, nợ nhóm 1- nợ thông thường-trích dự phòng 0% và nợ nhóm 2, trích dự phòng 5%. Như vậy các loại nợ với mức rủi ro khác nhau sẽ quy định tỷ lệ trích lập dự phòng khác nhau, bước đầu tiên đã tạo nên quỹ dự phòng để xử lí những tổn thất có thể gặp phải. Trên thực tế việc kiểm soát các khoản nợ xấu không phải là chuyện dễ, trong thời kì đầu phát triển, tín dụng phát triển với tốc độ rất cao.Trong bối cảnh đó,do thiếu các thông tin đáng tin cậy vì vậy không thể có đánh giá chính xác về chất lượng danh mục nợ và dự phòng khiến ta không thể đưa ra một đánh giá đầy đủ về chất lượng tài sản ngân hàng, nếu tính theo tiêu chuân kế toán trong nước, theo NHNN đánh giá thì tỷ lệ nợ xấu vào khoảng 3%, tuy nhiên theo Fitch trên cơ sở chuẩn mực IAS( International Accounting Standards) thì con số này có thể lên tới 15%. Năm 2004 bộ phận chuyên môn của IMF đã đánh giá rằng nhu cầu vốn của khu vực ngân hàng sẽ vào khoảng từ 15-25% GDP. Việc nhà nước tái cấp vốn cho các NHTM nhà nước, nhằm cổ phần hóa các ngân hàng này, đã nâng cao mức vốn hoá của các NHTM nhà nước, song mức độ vốn hoá này hiện vẫn còn thấp, nếu xét tới tốc độ tăng trưởng nhanh của tín dụng và nguy cơ mất ổn định gắn liền với các nền kinh tế đang nổi có tốc độ tăng trưởng cao.Theo đánh giá do Fitch thực hiện vào năm 2006, hệ số đủ vốn ( Capital Adequacy Ratio) của các ngân hàng Việt Nam ở mức trung bình khoảng 5%, thấp hơn rất nhiều so với mức của các nước Châu Á mới nổi như 14% ở Thái Lan, 13% ở Malayxia, 22% ở Indonexia. Mặt khác do vẫn còn chịu tác động của chính sách tín dụng chỉ định và cơ chế áp chế tài chính, kể từ những năm 90 các NHTM nhà nước đã trải qua nhiều giai đoạn căng thẳng vì thiếu vốn và điều này buộc chính phủ Việt Nam phải nhiều lần tái cấp vốn. 1.2.2.3 Sự cần thiết phải KTNB đối với hoạt động tín dụng trong NHTM Một hợp đồng tín dụng luôn tiềm ẩn rủi ro, RRTD này chỉ hết khi hợp đồng tín dụng được thanh lý. Hoạt động tín dụng lại là mảng hoạt động chủ đạo của mỗi ngân hàng thương mại. RRTD luôn ẩn chứa trong mỗi hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Như vậy một khi xảy ra rủi ro sẽ tác động rất lớn tới rủi ro mất mát tài sản của ngân hàng mà tình huống xấu hơn nữa là rủi ro phá sản của ngân hàng. Đây không phải chỉ là đề cập đến vấn đề có thể xảy ra mà nó đã xảy ra trong quá khứ. Trong năm 2008 vừa qua đánh dấu hậu quả rủi ro hoạt động tín dụng mà các NHTM Mỹ phải gánh chịu khi mà các ngân hàng này phải gánh chịu những khoản nợ xấu kếch xù. Năm 2008 cũng là năm đánh dấu cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng nổ. Ngân hàng thương mại lớn nhất nước Mỹ - Washington Mutual Inc(WaMu) - đã sụp đổ do sức nặng của những khoản nợ xấu kếch xù liên quan đến thị trường cho vay thế chấp. Hay một số ngân hàng khác phải đóng cửa như Ocala National Bank có tổng tài sản 223,5 triệu USD, ngân hàng Suburban Federal có tổng tài sản 306 triệu USD… Điều đó thể hiện rằng rủi ro mà ngân hàng gặp phải là rất lớn và gây hậu quả hết sức nặng nề. Công việc quản lý của ngân hàng là rất khó khăn, khối lượng công việc quản lý của các nhà quản lý ngân hàng là rất lớn do ngân hàng thường có quy mô mạng lưới hoạt động rộng khắp. Điều đó dẫn đến một vấn đề đặt ra là liệu nhân viên tín dụng của mình có làm đúng nguyên tắc, đảm bảo tính đầy đủ về mặt pháp lý trong hoạt động hay chưa?...Công tác điều hành quản lý tín dụng của họ đã phù hợp chưa? Các chính sách tín dụng đã được ban hành có mang tính khả thi và đem lại hiệu quả tốt chưa? Rồi rủi ro tín dụng mà ngân hàng phải gánh chịu đang ở mức độ nào? KTNB chính là bộ phận giải quyết được các yêu cầu trên, là phương tiện và công cụ đắc lực trong công tác quản lý điều hành cho ban lãnh đạo ngân hàng. Bằng chức năng, nhiệm vụ và hoạt động cụ thể của mình, KTNB góp phần nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng. Bởi vì KTNB thực hiện kiểm tra giám sát hoạt động tín dụng của ngân hàng, kịp thời phát hiện hay có những đánh giá về tính tuân thủ hoạt động tín dụng của ngân hàng mình.Trên cơ sở đó phát hiện kịp thời những sai sót, những hạn chế trong hoạt động tín dụng để có giải pháp xử lý hay đề xuất kiến nghị cải tiến đổi mới hoạt động tín dụng làm cho hoạt động tín dụng mang lại hiệu quả cao hơn. Đảm bảo cho hoạt động tín dụng tuân thủ đúng các chuẩn mực, chính sách, quy định của pháp luật. Vì thế KTNB hoạt động tín dụng là công cụ đắc lực giúp ngân hàng dự đoán, nhận biết và kiểm soát đựơc rủi ro này một cách hiệu quả. 1.2.2.4 Mục tiêu, đối tượng và nhiệm vụ của KTNB đối với hoạt động tín dụng của NHTM a) Mục tiêu KTNB đối với hoạt động tín dụng của NHTM KTNB đối với hoạt động tín dụng của NHTM nhằm đánh giá tính nghiêm túc, đúng đắn trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện nghiệp vụ tín dụng, như: Chiến lược, chính sách, các điều kiện khung trong kinh doanh tín dụng, phân chia về chức năng hoạt động. KTNB nhằm giúp phát hiện những sơ hở trong hoạt động tín dụng , những rủi ro và tiềm ẩn rủi ro hoạt động tín dụng của NHTM từ đó đề xuất với HĐQT, ban lãnh đạo các biện pháp nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Xác định tính phù hợp của các khoản vay, tính chính xác, trung thực, phù hợp của các số liệu kế toán: Dư nợ, nợ quá hạn, lãi suất cho vay, định giá tài sản đảm bảo, mức trích lập dự phòng. Đánh giá ảnh hưởng của nghiệp vụ tín dụng tới hiệu quả hoạt động tài chính của ngân hàng. b) Đối tượng của KTNB đối với hoạt động tín dụng của NHTM Đối tượng của KTNB đối với hoạt động tín dụng của NHTM bao gồm tất cả các bước cho vay của ngân hàng đối với khách hàng. Trước hết KTNB làm công việc kiểm toán tổng thể cơ cấu nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng, phát hiện những rủi ro tiềm ẩn, rủi ro luỹ kế qua cơ cấu tín dụng của ngân hàng. Kiểm toán việc tổ chức và quy trình nghiệp vụ tín dụng Hệ thống các văn bản hiện có về nghiệp vụ tín dụng có phù hợp không? Có tối ưu không? Hệ thống các văn bản đó có đựơc chấp hành/ tuân thủ trong thực tế không? Kiểm toán đánh giá chi tiết từng khoản vay( từng món tín dụng) c) Nhiệm vụ của KTNB hoạt động tín dụng Đề xuất các giải pháp hoàn thiện hệ thống điều hành quản lí kinh doanh ngân hàng trên cơ sở phát hiện sơ hở yếu kém, gian lận trong quản trị tín dụng, bảo vệ tài sản và nguồn vốn của ngân hàng. Kiểm tra đánh giá tính tuân thủ các nguyên tắc hoạt động và quản trị tín dụng. Kiểm tra, đánh giá tính hiệu lực, phù hợp của hệ thống kiểm soát nội bộ trong ngân hàng, độ tin cậy của các thông tin tín dụng trước khi ký quyết định cấp tín dụng cho khách hàng. Kiểm tra, xác nhận độ tin cậy của các tài liệu liên quan trong bộ hồ sơ tín dụng, đánh giá tính hợp lí, đầy đủ của hồ sơ tín dụng. Đánh giá tính tuân thủ pháp luật và quy định cấp tín dụng của NHNN và bản thân ngân hàng . Kiểm tra đánh giá tính hiệu quả của việc sử dụng vốn. 1.2.2.5 Những nội dung chủ yếu của KTNB hoạt động tín dụng Nội dung chủ yếu của KTNB hoạt động tín dụng là việc kiểm tra tính tuân thủ quy trình tín dụng, tuân thủ nguyên tắc hoạt động và quản lí tín dụng của NHNN và của chính bản thân hệ thống ngân hàng. KTNB hoạt động tín dụng chủ yếu tập trung vào hai mặt là kiểm toán cơ cấu tín dụng và kiểm toán quy trình nghiệp vụ cấp tín dụng. Kiểm toán tính hiệu quả, tính kinh tế cũng như khả năng hoạt động của cơ chế kiểm soát nội bộ. Rủi ro tín dụng, hiệu quả của hoạt động tín dụng thể hiện ngay trong cơ cấu tín dụng. Kiểm toán cơ cấu tín dụng sẽ cho cái nhìn tổng quan về mức độ tập trung tín dụng cũng như RRTD của ngân hàng. Kiểm toán về quy trình nghiệp vụ cấp tín dụng sẽ đánh giá việc tổ chức, chỉ đạo điều hành hoạt động tín dụng có hiệu quả không, có khoa học không? Kiểm tra, đánh giá xem các quy trình nghiệp vụ tín dụng trên thực tế có được tuân thủ nghiêm túc không? Trên cơ sở đó KTNB phát hiện những sai sót yếu kém , sơ hở hay gian lận trong quản trị tín dụng, bảo vệ an toàn tài sản cho ngân hàng.Cũng từ đó đưa ra những biện pháp cải thiện và hoàn thiện cơ chế điều hành, hoạt động tín dụng nói riêng hay hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung. KTNB cũng kiểm tra đánh giá tình hình tài chính của mỗi khách hàng thông qua việc tiến hành kiểm tra chi tiết từng khoản mục tín dụng riêng lẻ của khách hàng, rồi từ đó đánh giá độ an toàn của khoản vay cũng như tình hình rủi ro chung có thể xảy ra với ngân hàng. 1.3 KINH NGHIỆM KTNB HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI MỘT SỐ NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI CitiBank, công ty hơn nửa vốn thuộc tập đoàn Citicorp được thành lập vào năm 1812 tại United States và hiện giờ có trên 3400 chi nhánh ở trên 100 nước. Citibank là ngân hàng phát hành thẻ tín dụng lớn nhất thế giới. Citibank - Ngân hàng Mỹ đầu tiên tiến hành hoạt động tại khu vực Châu á năm 1902, là hãng phát triển rộng nhất trong khu vực Châu Á ở lĩnh vực tài chính với hơn 200 chi nhánh tại 21 nước. Citi là ngân hàng Mỹ đầu tiên được cấp giấy phép thành lập chi nhánh tại Việt Nam năm 1994. Ngoài chi nhánh tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, Citi có mạng lưới cộng tác rộng khắp 63 tỉnh thành trên cả cả nước, cung cấp toàn bộ dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam bao gồm dịch vụ ngân hàng doanh nghiệp, ngân hàng đầu tư và các dịch vụ giao dịch toàn cầu khác như kinh doanh ngoại hối, thanh toán xuất nhập khẩu, chứng khoán và quỹ. Điều đó để thấy Citibank là một ngân hàng tầm cỡ thế nào? Vậy bộ máy KTNB của Citibank hoạt động ra sao? Bộ phận QA& Control Unit( hệ thống KTNB) của Citibank được tổ chức theo mô hình kết hợp, hệ thống này trực thuộc HĐQT của ngân hàng. Sơ đồ 5-Mô hình tổ chức hệ thống KTNB của Citibank Kiểm soát và tuân thủ vùng BAN GIÁM ĐỐC CITIBANK Trưởng bộ phận KTNB Bộ phận kiểm soát ( Control) Bộ phận đảm bảo chất lượng Nhìn vào sơ đồ bộ máy tổ chức hệ thống KTNB của Citibank mang tính độc lập rất cao và phù hợp đối với những ngân hàng có quy mô lớn, mạng lưới chi nhánh phân bố rộng trên nhiều vùng lãnh thổ. Trong quá trình hoạt động, bộ phận KTNB Citibank Việt Nam tuy cũng chịu sự quản lý của BGĐ ngân hàng Citibank Việt Nam nhưng bộ phận này cũng có thẩm quyền gửi trực tiếp các báo cáo kiểm toán đến cho bộ phận Kiểm soát và tuân thủ khu vực Châu Á. Điều đó thể hiện tính độc lập tương đối cao của bộ phận này và tính hiệu quả của bộ phận này trong kiểm tra hoạt động của ngân hàng. Đây là mô hình hệ thống KTNB tiến bộ rất có hiệu quả, vừa đáp ứng được tính độc lập nhưng cũng nắm bắt được tình hình biến động đặc trưng của vùng 1 cách kịp thời. Đối với các NHTM lớn của một quốc gia đang trên con đường phát triển trở thành 1 tập đoàn tài chính như BIDV thì đây là 1 mô hình đáng để cho BIDV học hỏi và ứng dụng trong tương lai. TÓM TẮT CHƯƠNG 1 Qua nghiên cứu cơ sở lý luận về KTNB đối với hoạt động tín dụng trong NHTM, chúng ta nắm bắt được tính cấp thiết và vai trò quan trọng của KTNB đối với NHTM nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Đặc biệt là trong điều kiện ngày nay thì vấn đề này ngày càng phải được quan tâm nhiều hơn vì vị thế và chức năng của nó. Chúng ta đã phần nào hiểu hơn một cách thống nhất và cụ thể về hoạt động kiểm toán nói chung với những khái niệm, chức năng và vai trò của nó. Cũng như việc phân loại và các phương pháp tiến hành kiểm toán. Để từ đó ta tiếp cận sát hơn về hoạt động KTNB của ngân hàng. Làm rõ những vấn đề về KTNB trong NHTM, với vai trò của NHTM và cơ cấu tổ chức của KTNB đã làm nổi bật lên chức năng của KTNB đối với NHTM. Đặc biệt qua việc phân tích những rủi ro tín dụng mà các NHTM gặp phải trong hoạt động tín dụng của mình đã thể hiện được sự cần thiết phải KTNB như thế nào ? Đặc biệt qua chương 1 đã nêu lên được những mục tiêu, đối tượng và nhiệm vụ của KTNB đối với hoạt động tín dụng trong NHTM. Và những nội dung chủ yếu của KTNB hoạt động tín dụng. Với việc KTNB hoạt động tín dụng chủ yếu tập trung vào hai mặt là kiểm toán cơ cấu tín dụng và kiểm toán quy trình nghiệp vụ tín dụng. Bên cạnh đó là cơ sở hành lang pháp lý với các văn bản quy định cho hoạt động của KTNB nói chung và KTNB đối với hoạt động tín dụng nói riêng tại SGD III. Đây là trọng tâm chủ yếu trong nghiên cứu cơ sở của KTNB đối với hoạt động tín dụng để làm nền tảng cho việc đánh giá thực trạng hiệu quả KTNB hoạt động tín dụng tại Sở Giao Dịch III – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Cũng thông qua nghiên cứu cơ sở lý luận trong chương 1 cho ta thấy các cách thức ( phương pháp) mà KTNB tiến hành nhằm thực hiện được đúng và đủ các chắc năng ưu việt của mình là chức năng kiểm tra, đánh giá, xác nhận và tư vấn của mình. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KIỂM TOÁN NỘI BỘ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI SỞ GIAO DỊCH III - NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 2.1 KHÁI QUÁT VỀ SỞ GIAO DỊCH III 2.1.1 Sơ lược về hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam-BIDV Ngân hàng Đầu Tư và Phát triển Việt Nam có tên tiếng Anh là Bank for Investment and Development of Vietnam, tên gọi tắt là BIDV. Đây là một trong số ít NHTM nhà nước. Ngân hàng Đầu Tư và Phát triển Việt Nam đựơc thành lập theo quyết định số 177/TTg ngày 26/4/1957 của Thủ tướng Chính Phủ. BIDV là một ngân hàng thương mại kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực về tài chính, tiền tệ, dịch vụ ngân hàng và phi ngân hàng phù hợp với quy định của pháp luật không ngừng nâng cao lợi nhuận của ngân hàng và góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, phục vụ phát triển kinh tế đất nước. Trong quá trình hoạt động và trưởng thành của mình, Ngân hàng được mang các tên gọi khác nhau để phù hợp với tình hình hoạt động thực tiễn và đ._. điều chỉnh chính thức. Cho nên điều thiết yếu bây giờ về phía nhà nước là cần ban hành thêm các văn bản điều chỉnh cụ thể hơn nữa về hoạt động kiểm toán. Vì đa phần các văn bản quy định về hoạt động kiểm toán không cập nhật so với tình hình thực tế hiện nay vốn biến động phức tạp. Văn bản ban hành gần đây nhất về hoạt động KTNB là: Quy chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ của TCTD ban hành kèm theo Quyết định số 36/2006/QĐ-NHNN ngày 01/8/2006 của Thống đốc NHNN. Như vậy về phía cơ quan quản lý nhà nước cần tạo ra một hành lang pháp lý thống nhất, đồng bộ làm cơ sở chung cho các NHTM làm căn cứ thực hiện. Ngoài các văn bản điều chỉnh chung, về phía BIDV cũng cần có những văn bản hướng dẫn nhằm cụ thể hóa hoạt động. Điều này sẽ giúp ích rất nhiều cho các chi nhánh, phòng giao dịch trong toàn hệ thống vận hành hoạt động một cách trơn tru. Làm căn cứ cho các chi nhánh tổ chức cơ cấu hoạt động KTNB, cũng như ban hành chính sách, quy chế về kiểm tra, kiểm soát nội bộ cũng như giám sát đảm bảo quản lý hệ thống theo tiêu chuẩn ISO về chất lượng tín dụng. SGD III là chi nhánh của BIDV, giữ một vị trí quan trọng trong toàn hệ thống cả về vị trí hoạt động cũng như đóng góp về kết quả hoạt động kinh doanh. Cùng với sự đổi mới về tổ chức cũng như phạm vi hoạt động, BIDV hướng tới mục tiêu là trở thành một NHTM bán lẻ đến năm 2011. Như vậy cùng với sự vận động và phát triển chung của toàn hệ thống BIDV thì SGD III cũng đang dần đa dạng về phạm vi hoạt động và danh mục sản phẩm tín dụng. Tức là công tác quản lý, điều hành cũng đòi hỏi cao hơn và sâu sát hơn nữa cũng như độ phức tạp của hoạt động tín dụng tăng lên nhiều lần. Như vậy kéo theo rủi ro tín dụng tăng lên, đòi hỏi công tác KTNB càng phải được chú trọng và cải tiến chất lượng hoạt động để đáp ứng yêu cầu phát triển chung và vai trò riêng vốn có của KTNB. SGD III là chi nhánh trực thuộc Hội sở chính tuy nhiên SGD III vẫn được phép ban hành các văn bản quy chế riêng hướng dẫn quy trình nghiệp vụ cho phù hợp với thực tiễn hoạt động của đơn vị. SGD III chính là nơi hiểu rõ nhất những điểm mạnh cũng như hạn chế của mình, dự đoán được những rủi ro tiềm tàng trong hoạt động tín dụng của chi nhánh mình. Vì vậy ngoài quy trình tín dụng chung của BIDV ban hành thì SGD III cũng cần nghiên cứu điều chỉnh cho phù hợp hơn với hoạt động của mình, SGD III có thể đề nghị tới HĐQT cũng như Ban Tổng Giám Đốc sửa đổi một số bước quy trình nghiệp vụ tín dụng cho phù hợp hơn và đem lại hiệu quả cao hơn. Nhưng trước hết đội ngũ cán bộ tín dụng của SGD III vẫn cần phải thực hiện tốt và đúng nguyên tắc quy trình hoạt động tín dụng. Đảm bảo sự sâu sát trong công tác tín dụng của mình, tích cực trau dồi nâng cao kỹ năng nghiệp vụ cũng như theo dõi, giám sát các khoản cho vay do mình phụ trách. Thường xuyên tổ chức đánh giá rủi ro của các khoản vay. Như vậy điều quan trọng trước hết về hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động KTNB của SGD III là phía SGD III cần phải có văn bản bổ sung nhằm làm rõ hơn chức năng công tác cũng như tổ chức hoạt động của KTNB, tránh tình trạng chức năng KTNB bị lồng ghép vào phòng nghiệp vụ khác như hiện nay. 3.2.2 Cải cách tổ chức KTNB tại SGD III Theo Quyết Định 680/QĐ-HĐQT ban hành ngày 03/9/2008 về mô hình tổ chức mẫu của BIDV, theo công văn số 5292/CV-TCCB3 ngày 1/10/2008 của BIDV về chuyển đổi mô hình tổ chức tại SGD III. Và quyết định số 4598/QĐ-TCCB2 ngày 4/9/2008 về ban hành chức năng nhiệm vụ của các phòng trực thuộc chi nhánh. Theo đó làm căn cứ, SGD III đã ban hành Quyết định 99/QĐ - TCHC ngày 1/10/2008 về việc đổi tên phòng và quy định tạm thời chức năng nhiệm vụ của phòng Quản lý rủi ro tín dụng. Trong đó,quy định cụ thể về chức năng và nhiệm vụ KTNB đối với hoạt động tín dụng tại SGD III do bộ phận này phụ trách. Như vậy, công tác KTNB của SGD III được lồng ghép vào phòng Quản lý rủi ro. Nhiệm vụ KTNB thuộc về phòng quản lý rủi ro phụ trách, bên cạnh đó phòng còn làm luôn nhiệm vụ đảm bảo hệ thống quản lý chất lượng tín dụng theo tiêu chuẩn ISO. Mà đòi hỏi của KTNB là phải có tính độc lập cao, KTNB mới phát huy hết khả năng hiệu quả công tác của mình. Hoạt động của KTNB tốt sẽ góp phần bảo vệ và nâng cao giá trị của SGDIII, tăng sức mạnh thương hiệu của BIDV nói chung và SGD III nói riêng, làm tăng sức cạnh tranh của ngân hàng đối với các ngân hàng khác. Yêu cầu nên làm hiện nay đối với tổ chức bộ máy KTNB là tách rời chức năng nhiệm vụ KTNB ra đứng riêng. Để bộ phận này chỉ chuyên trách nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát nội bộ và là bộ phận giúp việc đắc lực cho Ban KTNB trung ương. Vì với tổ chức như hiện nay, công tác KTNB còn nằm trong phòng nghiệp vụ khác, chịu nhiều mối quan hệ tác động qua lại về lợi ích với BGĐ và phòng ban khác trong ngân hàng. Muốn được như vậy thì bước đầu tiên cần phải điều chỉnh tổ chức KTNB phải chịu trực tiếp sự quản lý điều hành của HĐQT. Điều đó sẽ làm tăng tính hiệu quả của KTNB trong kiểm tra, kiểm soát nội bộ với hoạt động tín dụng nói riêng. Điều này sẽ đáp ứng cho yêu cầu chuyển đổi mô hình của ngân hàng và lộ trình cổ phần hóa trước mắt. Như vậy với việc tách bộ phận KTNB ra đứng riêng rẽ và trực tiếp chịu sự chỉ đạo của ban KTNB theo vùng. Điều này sẽ làm tăng tính hỗ trợ và sâu sát hơn nữa, giúp cho Ban KTNB trung ương kịp thời nắm bắt được tình hình chi nhánh và có những đánh giá, đề xuất kịp thời. Khi đó bộ phận KTNB tại SGD III sẽ phát huy được hết vai trò và hiệu quả của mình. Dưới đây là mô hình tổ chức KTNB để cho BIDV nói chung và SGD III có thể tham khảo, và nếu có thể thì ứng dụng để hoàn thiện hơn công tác KTNB của mình. Sơ đồ 8- Mô hình kiểm toán nội bộ cải tiến của BIDV HĐQT BAN KTNB BAN TGĐ KTNB VÙNG1 KTNB VÙNG 2 KTNB VÙNG 3 PHÒNG KTNB CHI NHÁNH PHÒNG KTNB CHI NHÁNH PHÒNG KTNB SGD III Như vậy điều có thể nhận thấy sau khi có điều chỉnh như vậy, hoạt động KTNB của BIDV nói chung và SGD III sẽ được cải thiện lên rất nhiều về tính hiệu quả và độc lập. Nhờ đó có thể phát huy hết khả năng, vai trò của bộ phận KTNB. Trong tương lai hoạt động thì đây sẽ là cái nôi đào tạo cán bộ nguồn, cán bộ lãnh đạo cho SGD III nói riêng và của toàn hệ thống BIDV nói chung. Điều đó sẽ giúp cho công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ đối với hoạt động tín dụng. Mà trên hết là sẽ đảm bảo cho bộ phận KTNB làm tốt chức năng tư vấn đồng thời giám sát hoạt động quản lý điều hành của BGĐ đơn vị. Trong đó ban KTNB theo vùng vẫn tiến hành các cuộc kiểm toán theo định kỳ và đột xuất kết hợp với hoạt động của KTNB tại đơn vị theo quyền hạn của mình. Mô hình trên đây là mô hình KTNB kết hợp vừa tập trung vừa phân tán. Nhưng nó sẽ phù hợp với hoạt động của SGD III hiện tại và trong tương lai và sẽ thích hợp cho cả hệ thống kiểm soát nội bộ của BIDV. 3.2.3 Lựa chọn cách thức kiểm toán linh hoạt Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ đạo của các NHTM nói chung cũng như đối với SGD III nói riêng, nhưng hoạt động tín dụng thì luôn đi kèm với nó là những rủi ro tiềm ẩn. Rủi ro tín dụng chi hết khi hợp đồng tín dụng đó kết thúc. Nhưng không chỉ có rủi ro trong quy trình tác nghiệp mà còn có cả rủi ro về mặt đạo đức, hành vi của khách hàng, của cán bộ tín dụng hay chính của lãnh đạo...Vì vậy tiến hành KTNB đối với hoạt động tín dụng không thể chỉ có một khuân mẫu cứng nhắc đối với mọi đối tượng được kiểm toán mà cần có một cách thức thích hợp, linh hoạt với đối tượng áp dụng cụ thể. Đó không chỉ là thực hiện kiểm tra, kiểm soát cụ thể nghiệp vụ tín dụng mà còn là sự giám sát, điều chỉnh từ xa bằng các quy định, chế tài. Việc lựa chọn cách thức kiểm toán nội bộ đúng đã thể hiện sự thành công bước đầu của công tác KTNB tại đơn vị. Xu hướng chung hiện nay trong các doanh nghiệp nói chung và NHTM nói riêng đang có sự chuyển dịch từ kiểm toán cơ bản( chi tiết) sang kiểm toán hệ thống. Với việc tiến hành theo phương pháp kiểm toán hệ thống sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu chi phí thời gian, nhân lực và vật lực. Nhưng đem lại hiệu quả cao hơn vì các KTV khoanh vùng được rủi ro, có cái nhìn tổng thể về hoạt động, vì thế mà kết quả kiểm toán tốt hơn và có những đánh giá cũng như kiến nghị giải pháp điều chỉnh xử lý đạt hiệu quả cao hơn. Cũng từ điều chỉnh này thì đòi hỏi các cán bộ làm công tác KTNB cần có năng lực cao hơn, có hiểu biết sâu rộng hơn nữa về các hoạt động quản lý điều hành cũng như nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng. KTV cần tận dụng khai thác triệt để các phần mềm hỗ trợ để dùng phân tích đánh giá rút ra những nhận xét chính xác hơn về các sai phạm. Đồng thời các KTV cũng phải xây dựng cho mình phương pháp thu thập bằng chứng một cách khách quan, khoa học và việc thiết lập các hồ sơ công tác. Các cán bộ làm công tác KTNB phải tiến hành khảo sát, nghiên cứu một cách kỹ lưỡng cơ cấu tín dụng, quy trình cấp phát tín dụng. Để từ đó có những đánh giá đúng đắn về rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động tín dụng của đơn vị. Không chỉ dừng lại ở đó KTNB còn phải tiến hành kiểm toán giữa các bộ phận nghiệp vụ tín dụng có mối quan hệ ràng buộc với nhau. Đây cũng là điều mà ngân hàng chưa thực hiện tốt được khi mà nhiệm vụ KTNB còn nằm trong phòng ban thực hiện công tác nghiệp vụ của mình. Trước mắt ngân hàng cần làm công tác lên kế hoạch kiểm toán chi tiết các nghiệp vụ, bố trí thời gian kiểm toán phù hợp để không làm ảnh hưởng đến công tác hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Để có được định hướng đúng về quy trình thực hiện kiểm toán của mình thì các cán bộ phụ trách KTNB cần tận dụng hết khả năng phân tích cũng như xây dựng bảng câu hỏi nhằm đánh giá về các chốt kiểm soát của cán bộ tín dụng trong quy trình tín dụng như: + Khi các thông tin không rõ ràng, thiếu minh bạch thì có nên tiến hành khấu trừ giá trị của tài sản thế chấp không? + Văn bản hướng dẫn có liệt kê đầy đủ yêu cầu của hồ sơ về mặt pháp lý không? + Việc phân cấp thẩm quyền cấp tín dụng được ngân hàng quy định bằng các văn bản có đúng và đủ hay không? + Quy định về hạn mức tín dụng, gia hạn tín dụng hay cơ cấu lại thời hạn tín dụng đối với khách hàng có phù hợp hay không? Có phải điều chỉnh gì không?.. + Việc tiến hành giám sát đối với khoản vay của khách hàng có được tiến hành sâu sát và thường xuyên hay không? + Có thường xuyên kiểm tra và đánh giá lại tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng hay không? 3.2.4 Cải thiện, nâng cao trình độ của đội ngũ làm công tác KTNB Sự tăng trưởng nóng hiện nay của các ngân hàng thương mại đòi hỏi có những KTV nội bộ để giảm thiểu các rủi ro. KTV nội bộ có khả năng ngăn chặn, phát hiện và chỉnh sửa các vấn đề tiêu cực phát sinh cao nhất trong nội bộ ngân hàng, đóng vai trò như một người bảo vệ giá trị của ngân hàng. Song hiện tại nguồn cung các KTV chuyên nghiệp vẫn còn quá mỏng chưa đáp ứng được so với nhu cầu của ngân hàng. Từ việc phân tích về tổ chức và cách thức hoạt động ở trên của bộ phận phụ trách KTNB của SGD III, thì cán bộ chuyên trách là ít trong khi theo nhận định của em về khối lượng công việc kiểm toán là nhiều và ngày càng nhiều và phức tạp trong tương lai gần. Vì vậy yêu cầu đặt ra cho hệ thống KTNB tại SGD III nói riêng và BIDV nói chung là việc tách rời bộ phận KTNB ra đứng riêng rẽ làm chức năng nhiệm vụ của mình. Bên cạnh đó là yêu cầu đào tạo thêm các KTV mới, bồi dưỡng cho các cán bộ làm công tác kiểm toán nâng cao trình độ khả năng của mình. Sự thiếu về cán bộ cũng đã được đề cập tới trong định hướng công tác năm 2009, trong đó định hướng bổ sung thêm vào đội ngũ cán bộ 17 người. Trong đó bổ sung lực lượng cán bộ cho bọ phận liên quan đến hoạt động tín dụng là 6 -7 người. Với đội ngũ KTV giỏi có năng lực sẽ giúp ích rất nhiều cho hoạt động quản lý điều hành của BGĐ ngân hàng. Làm tăng tính chính xác và an toàn trong các quyết định đưa ra. Tức là KTV thực hiện vai trò tư vấn của mình, vì thế đòi hỏi KTV phải có trình độ năng lực tốt,có hiểu biết chuyên sâu về nhiều lĩnh vực quản lý, kế toán và tín dụng…Và còn một điều nữa là KTV cần giữ được sự bí mật trong nghề nghiệp, giữ được sự độc lập cần thiết trong công việc. KTV cần đáp ứng được 1 tiêu chuẩn nghề nghiệp kiểm toán quan trọng là đạo đức nghề nghiệp, đảm bảo sự vô tư, khách quan, công tâm, nhiệt tình và chính xác. Ngoài việc bồi dưỡng cho nguồn cán bộ hiện có làm công tác KTNB, ngân hàng nên tuyển chọn thêm một số cán bộ bổ sung. Tuy nhiên tuyển chọn KTV làm công tác nội bộ là không đơn giản và phải có tiêu chí, đòi hỏi rõ ràng hơn đối với các vị trí tuyển dụng khác. Có thể căn cứ vào một số tiêu chí sau đây: KTV phải có trình độ đại học trở lên và có chuyên môn trong lĩnh vực làm kiểm toán: tài chính, ngân hàng, kế toán, công nghệ thông tin…Cần có thêm điều kiện bổ sung đối với các ứng viên này có thâm niên, kinh nghiệm công tác ở vị trí làm công tác kiểm toán. Điều này giúp cho ngân hàng giảm bớt gánh nặng và chi phí đào tạo đối với cán bộ làm công tác KTNB. KTV cần có năng lực chuyên môn chuyên sâu, cần nắm chắc các quy trình nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng mình...đồng thời không ngừng tích lũy cải thiện khả năng, hiểu biết của mình về các lĩnh vực khác của ngân hàng. Nắm bắt được xu thế vận động của ngân hàng trong tương lai. Điều này sẽ góp phần tăng thương hiệu của SGD III nói riêng và BIDV nói chung, góp phần tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong hoạt động tín dụng với các đối thủ cạnh tranh khác. Thực hiện mục tiêu vươn lên trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu của Việt Nam. Về đạo đức nghề nghiệp: cán bộ làm công tác KTNB cần phải không ngừng rèn luyện phẩm chất, tính kiên định, làm việc khách quan, tính độc lập trong công việc. Giữ tính bí mật trong công tác, không bao che cho các sai phạm, có khả năng giao tiếp thuyết trình để thực hiện công tác thu thập thông tin kiểm toán thuận lợi hơn và rõ ràng hơn. Chính vì vậy, ngân hàng cần chú trọng ngay vào công tác bồi dưỡng, đào tạo cho cán bộ kiểm toán, lựa chọn ra các KTV giỏi đáp ứng tốt yêu cầu vị trí của công việc. Ngân hàng có thể tận dụng việc tuyển các sinh viên có trình độ khá, giỏi từ nguồn các trường đại học như Kinh Tế Quốc Dân, Học Viện Ngân Hàng, Học Viện Tài Chính… Nhưng giải pháp trước mắt để ngân hàng giải quyết vấn đề nhân sự cho bộ phận KTNB là việc chọn các cán bộ từ phòng ban khác có năng lực phù hợp sang làm nhiệm vụ KTNB chuyên biệt. Thực hiện được yêu cầu đó thì việc KTNB hoạt động tín dụng sẽ trở nên đơn giản và hiệu quả. Cùng với định hướng phát triển của BIDV sẽ trở thành NHTM bán lẻ hàng đầu của Việt Nam đến năm 2011, và việc triển khai theo mô hình mới của SGD III cũng như việc mở rộng phạm vi hoạt động, cung cấp đa dạng hóa danh mục sản phẩm. Như vậy công tác quản lý phức tạp và yêu cầu cũng cao và cấp thiết hơn. Mà trong đó hoạt động tín dụng vẫn giữ vai trò chủ đạo, chiếm phần lớn nguồn thu của ngân hàng. Cho nên KTNB đối với hoạt động tín dụng càng phải chú trọng hơn, sâu sát hơn. Đòi hỏi KTV nắm bắt tốt hơn kỹ năng nghiệp vụ, hiểu rõ hơn quy trình nghiệp vụ ngân hàng hiện đang áp dụng thực hiện. Việc cải thiện và nâng cao trình độ cán bộ làm công tác KTNB thực sự là đòi hỏi nâng cao cả về chất và lượng. Đáp ứng được yêu cầu đó sẽ giúp cho hoạt động kiểm toán đạt hiệu quả cao hơn. Trong giai đoạn hiện nay, các ngân hàng không chỉ cạnh tranh nhau trong việc cung cấp sản phẩm, dịch vụ chăm sóc khách hàng mà còn cạnh tranh nhau về thương hiệu, uy tín của ngân hàng. Chính hoạt động KTNB là chìa khóa giải quyết vấn đề này của ngân hàng. 3.2.5 Có chế độ quan tâm ưu đãi đối với đội ngũ làm công tác KTNB Đối với SGD III thì bộ phận làm công tác KTNB là cơ quan giúp việc đắc lực cho BGĐ, ngoài việc tư vấn cho BGĐ thì bộ phận KTNB còn làm công tác kiểm tra, giám sát mọi hoạt động tại ngân hàng. Ngay từ khi tuyển cán bộ công tác KTNB như nói ở trên đã có những đòi hỏi cao hơn bộ phận khác của TCTD, chính vì vậy cần có một chế độ đối nội hợp lý cho KTV nội bộ cũng như có chế độ đãi ngộ hợp lý. Trước hết ngân hàng cần quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của KTV nội bộ bằng chính sách tiền lương, tiền thưởng hợp lý cân bằng với chức năng nhiệm vụ của bộ phận KTNB nhưng cũng không thái quá so với mức độ công việc được giao, thực hiện. Ngân hàng tạo điều kiện đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ công tác cho cán bộ làm công tác KTNB của mình bằng việc cho cán bộ đi tham dự các lớp học bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn do NHNN tổ chức, do BIDV tổ chức hay các cuộc hội thảo về công tác KTNB của ngân hàng… Có chế độ thưởng hợp lý phù hợp với kết quả công việc của KTV nội bộ, động viên khích lệ kịp thời đối với hoạt động của KTNB khi có những đề xuất, giải pháp tối ưu và tiên tiến. BGĐ đồng thời cũng là đối tượng kiểm toán của bộ phận KTNB cho nên BGĐ cần tạo mọi điều kiện cho KTNB hoạt động, phát triển đảm bảo tính độc lập và hiệu quả cao. Trong hoạt động tín dụng của ngân hàng có nhiều hợp đồng được ký kết, chính các cán bộ tín dụng trực tiếp quản lý là người hiểu rõ và nắm bắt chắc nhất đối với khoản vay, khách hàng. Việc kiểm tra tất cả các hoạt động tín dụng là không phải dễ vì vậy các cán bộ tín dụng cần cung cấp một cách đầy đủ, xác thực các thông tin cần thiết khi được cán bộ KTNB yêu cầu. Các thông tin hoạt động tín dụng cần được cung cấp, chuyển về bộ phận KTNB một cách thường xuyên, cập nhật hàng ngày để tiện cho KTNB giám sát và rà soát. Ngân hàng tạo điều kiện cho các cán bộ KTNB làm việc trong môi trường độc lập, mà không chịu bất kể sự chi phối nào khi đưa ra các kết luận, đánh giá và nhận xét của mình. Ngân hàng cần xây dựng hệ thống văn bản điều chỉnh để thấy rõ hơn vai trò hoạt động của KTNB tín dụng. Từ đó để cho cán bộ làm công tác KTNB thấy rõ hơn vai trò và trách nhiệm của mình trong thực hiện kiểm tra, kiểm soát nội bộ đối với hoạt động tín dụng cũng như lợi ích khi tham gia công tác KTNB. Điều đó sẽ góp phần làm cho cán bộ KTNB có động lực làm việc và tích cực đóng góp, gắn bó với ngân hàng. Từ đó góp phần giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng, tăng cường hiệu quả kinh doanh do hoạt động tín dụng mang lại. 3.2.6 Cải tiến và ứng dụng khoa học công nghệ thông tin tiên tiến trong hoạt động KTNB Ngày nay, việc ứng dụng công nghệ tin học hiện đại vào trong hoạt động của các NHTM đã trở nên phổ biến, là đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển. Đa phần các ngân hàng đã ứng dụng mạng WAN( wide area network), là mạng diện rộng trong hoạt động của mình.Từ đó mà việc liên kết giữa các chi nhánh của ngân hàng với nhau đảm bảo tính thông suốt. Các thông tin trong hoạt động tín dụng được cập nhật hơn. Tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý dữ liệu và điều hành công tác. Một hiện trạng của các ngân hàng hiện nay khi tiến hành kiểm toán vẫn còn mang tính thủ công, còn mất nhiều thời gian cho việc phân tích, đối chiếu và so sánh các chứng từ, hồ sơ.. Bộ phận KTNB cần làm tốt hơn việc đối chiếu so sánh thông qua công tác quản lý lưu trữ hồ sơ và thông tin cập nhật về phòng. Điều này đòi hỏi các cán bộ làm công tác KTNB cũng phải có trình độ nhất định về tin học để đáp ứng kịp yêu cầu công việc. Vận dụng được ưu điểm của công nghệ tin học trong quản lý, đối chiếu, so sánh và phân tích các dữ liệu. Hơn nữa KTNB còn mang tính giám sát, dự báo và tư vấn cho nên cần có thêm phần mềm tin học tiên tiến đặc thù hơn nữa phục vụ cho công tác kiểm toán. Việc ứng dụng công nghệ hiện đại vào KTNB đối với hoạt động tín dụng sẽ làm giảm bớt khối lượng thời gian, công việc nhưng đảm bảo chất lượng và tính chính xác cao hơn. Việc ứng dụng công nghệ tin học tiên tiến hiện nay vào công tác KTNB của các NHTM ở Việt Nam mới bắt đầu được chú ý, đầu tư cho nên việc cải tiến công nghệ ứng dụng tại SGD III là phải mang tính lộ trình và phụ thuộc nhiều vào hội sở chính. Tuy nhiên có thể thấy SGD III có điều kiện thuận lợi là có phòng Đào tạo và công nghệ thông tin cho nên việc cải tiến công nghệ ứng dụng vào trong hoạt động sẽ nhanh chóng và dễ dàng hơn. Đây cũng là điểm thuận lợi tạo điều kiện bồi dưỡng nâng cao trình độ khả năng tin học cho đội ngũ nhân viên hiện thời của ngân hàng. Đảm bảo tính thống nhất và áp dụng đồng bộ công nghệ mới cho ngân hàng. Tóm lại SGD III cần tăng cường đầu tư cho công tác phát triển ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông đề làm nền tảng đáp ứng tốt nhất cho hoạt động kinh doanh và quản trị điều hành theo hướng phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại 3.2.7 Tăng cường công tác kiểm tra tín dụng Theo các Quyết định số 4275/QĐ-VP ngày 25/8/2008 về Quy trình tín dụng khách hàng doanh nghiệp hay Quyết định số 4321/QĐ-TD3, Ngày 27/8/2008 về quy trình cấp tín dụng bán lẻ cho thấy quy trình cấp tín dụng bao gồm rất nhiều bước, mỗi bước là một mắt xích có mối liên quan tới nhau.Trong đó có những mắt xích trọng yếu và mắt xích bổ trợ. Chính vì vậy mà công tác KTNB không chỉ diễn ra sau khi hợp đồng tín dụng kết thúc( hết rủi ro tín dụng với hợp đồng đó) để kiểm tra lại việc thực hiện tốt hay không? hay trước khi diễn ra ký kết hợp đồng tín dụng nhằm kiểm soát rủi ro là không đầy đủ và hợp lý. Việc kiểm toán phải được diễn ra cả trước, trong và sau ký kết hợp đồng tín dụng. Việc kiểm tra nội bộ đối với hoạt động tín dụng sẽ đưa ra cái nhìn khái quát về tính tuân thủ các chính sách, nguyên tắc trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Điều này sẽ đảm bảo cho mọi hoạt động được diễn ra an toàn linh hoạt nhưng vẫn tuân thủ đúng các chuẩn mực của quy trình tín dụng. Việc kiểm tra, kiểm soát tốt chính là tiền đề cho hoạt động KTNB được diễn ra thuận lợi và hiệu quả. Vấn đề kiểm tra giám sát hoạt động tín dụng trước hết cần đề cao ở ngay chính các cán bộ tín dụng. Cán bộ tín dụng trước hết cần làm tốt công tác tự kiểm tra, giám sát tín dụng của mình để giảm thiểu rủi ro hoạt động cũng như có báo cáo đầy đủ kịp thời cho bộ phận kiểm tra nội bộ theo dõi phân tích và đánh giá. Việc kiểm tra đối với hoạt động tín dụng cần được phân tách cụ thể cho từng đối tượng cán bộ trong ngân hàng. Nhưng điều có thể thấy là rất cần thiết, đó chính là việc kiểm tra tín dụng cần được tiến hành thường nhật. Bởi hoạt động tín dụng vốn dĩ đã rất phức tạp, chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn mà không phải ngân hàng có thể kiểm soát được hết. Nhưng mục đích chung là góp phần hạn chế và cải thiện hiệu quả tín dụng. 3.2.8 Phối kết hợp giữa KTNB tại đơn vị với KTNB của hội sở Với cơ chế hiện nay của BIDV, thì tại SGD III, Phòng quản lý rủi ro làm nhiệm vụ kiểm tra nội bộ và là đầu mối phối hợp với đoàn kiểm tra nội bộ của hội sở đối với hoạt động tín dụng của mình. Như vậy có thể thấy tại SGD III đã có bộ phận làm chức năng KTNB và đảm bảo hệ thống quản lý chất lượng tín dụng theo tiêu chuẩn ISO. Việc đoàn kiểm tra của hội sở hay nói đúng hơn là đoàn kiểm tra theo phân vùng chỉ làm công tác xem xét lại một lần nữa mang tính hệ thống về việc đảm bảo chất lượng ISO và tính tuân thủ trong hoạt động tín dụng của SGD III. Như vậy điều cho thấy trước mắt cần sửa đổi mà em đã nêu ở giải pháp trên là việc tách riêng bộ phận KTNB ra đứng riêng rẽ thực hiện chuyên biệt chức năng của mình. Cần có sự liên hệ gắn kết chặt chẽ hơn nữa giữa bộ phận KTNB tại ngân hàng với ban KTNB vùng. KTNB tại ngân hàng thực hiện tốt 2 chức năng của mình là: - Đảm bảo chất lượng - Kiểm tra, kiểm soát nội bộ Bộ phận KTNB tại ngân hàng nên báo cáo thường xuyên trực tiếp tình hình giám sát, kiểm tra của ngân hàng lên Ban KTNB vùng từ đó để Ban KTNB có nhưng kết quả tổng hợp đánh giá kịp thời và có những báo cáo lên ủy ban KTNB trung ương. Chính vì vậy mà các giải pháp kiến nghị của bộ phận KTNB mới được nắm bắt và triển khai kịp thời, góp phần làm tăng hiệu quả hoạt động của KTNB. Đồng thời cũng đảm bảo KTNB tại ngân hàng đảm bảo được tính độc lập khách quan. Thực hiện được đúng và đủ vai trò chức năng của vị trí KTNB trong ngân hàng. 3.3 KIẾN NGHỊ 3.3.1 Kiến nghị đối với NHNN và các cơ quan quản lý nhà nước Các văn bản pháp lý hiện nay quy định về KTNB là chưa đủ và chưa đáp ứng tính thực tiễn cũng như độ phức tạp ngày càng cao của công tác kiểm toán nói chung và KTNB nói riêng. Hai văn bản mới nhất quy định về công tác kiểm toán được NHNN Việt Nam ban hành vào năm 2006. Quyết định số 36/2006/QĐ-NHNN về “ Ban hành quy chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ của TCTD” và Quyết định số 37/2006/ QĐ-NHNN về “quy chế KTNB của TCTD”. Các văn bản trên được NHNN ban hành nhằm đáp ứng yêu cầu thiết yếu bấy giờ nhằm định hình cho công tác KTNB trong các TCTD. Tuy nhiên cùng với tình hình kinh tế biến động phức tạp trong 3 năm từ 2006 đến nay, cùng với đó là hoạt động tín dụng trở nên phong phú và phức tạp hơn rất nhiều. Sự phát triển bùng phát của hệ thống NHTM, sự cạnh tranh khốc liệt và kèm theo đó là rủi ro trong hoạt động tín dụng trở nên phức tạp, khó lường hơn trước. Trước yêu cầu đó KTNB cần phát triển tương xứng để với vai trò của mình có thể góp phần làm cho hoạt động tín dụng trở nên lành mạnh hiệu quả. Vậy yếu tố tiên quyết là phía NHNN nên có những chỉnh sửa, điều chỉnh và bổ sung hợp lý và thống nhất các văn bản pháp luật điều chỉnh trong phạm vi hoạt động kiểm toán này. Việc chỉnh sửa bổ sung các văn bản quy định điều chỉnh hoạt động KTNB trước hết cần phải thống nhất với nhau về nội dung cơ bản của kiểm toán, KTNB, có tính hiệu lực cao, văn bản mang tính mở để có thể bổ xung sửa chữa kịp thời nếu cần. Điều đầu tiên nên làm là cần tiếp tục xem xét, bổ sung luật các TCTD 02/1997/QH10. Trong đó có những đề cập về KTNB và hệ thống kiểm soát nội bộ. Các văn bản cần nêu bật được khái niệm, chức năng, tổ chức của hệ thống KTNB để tránh tình trạng cách hiểu không thống nhất hiện nay giữa các ngân hàng. Cần có quy định chuẩn về tiêu chí tổ chức hoạt động, cán bộ KTNB. Quy định về kế hoạch kiểm toán, cách thức kiểm toán để làm căn cứ cho các NHTM thực hiện, vận dụng phù hợp với điều kiện cụ thể của ngân hàng mình nhưng vẫn mang tính đồng bộ về cơ bản trong quá trình tiến hành. Đồng thời NHNN cần quy định về sự phối hợp kiểm tra giữa cơ quan thanh tra, giám sát của NHNN với bộ phận KTNB của ngân hàng. Điều đó đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ, làm tăng tính hiệu quả của công tác kiểm tra của NHNN vừa đảm bảo chức năng quản lý các TCTD của NHNN. Vì như vậy cùng hướng chung tới một mục đích là tăng hiệu quả kiểm tra, giám sát nội bộ, đảm bảo tính tuân thủ các nguyên tắc, chính sách hoạt động tín dụng của các TCTD. Vì vậy có thể nói rằng các văn bản quy định cần đảm bảo tính sát thực, thống nhất, đồng bộ tạo nên hành lang pháp lý cơ bản cho hoạt động KTNB của ngân hàng tuân theo. 3.3.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Với xu thế phát triển mạnh mẽ hiện nay của các NHTM và định hướng phát triển theo mô hình tập đoàn tài chính của BIDV thì việc cần hoàn thiện hệ thống tổ chức nói chung và hệ thống KTNB nói riêng là bước đi cấp thiết và hết sức quan trọng. Hiện nay, BIDV triển khai tổ chức theo mô hình tập trung theo chiều dọc. Hệ thống KTNB trực thuộc lãnh đạo của Tổng Giám Đốc, bao gồm có các ban KTNB theo phân vùng. Như vậy điều kiện cho bước phát triển tiếp theo là phải chú trọng tới công tác KTNB ngay tại các chi nhánh cấp 1. Công tác kiểm tra giám sát phải được thực hiện tốt ngay từ khâu cơ sở, như vậy việc tuân thủ nguyên tắc, chính sách mới được đảm bảo tốt. BIDV cần ban hành bổ sung thêm các quy định về tổ chức, quy trình, chức năng cũng như nhiệm vụ của bộ phận KTNB tuyến cơ sở. Ban hành cẩm nang về KTNB cho toàn bộ các hội viên cũng như nhân viên trong toàn hệ thống. Hướng các cán bộ làm công tác KTNB làm việc một cách chủ động linh hoạt và sáng tạo, nhưng trên nguyên tắc thống nhất và đảm bảo phù hợp với thực tiễn. Cần có văn bản điều chỉnh hướng dẫn cho KTV chú trọng vào công tác lựa chọn kỹ thuật kiểm toán cũng như phương pháp kiểm toán. Chú trọng tới công tác bồi dưỡng đào tạo cán bộ có năng lực, đảm bảo thực hiện được nhiệm vụ khắt khe của công tác kiểm tra, giám sát nội bộ. Tổ chức cho KTV tham dự các buổi hội thảo có liên quan đến lĩnh vực kiểm toán của ngành, hay do NHNN tổ chức. KẾT LUẬN Để thực sự nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng và đảm bảo quản lý hệ thống chất lượng tín dụng theo tiêu chuẩn ISO thì công tác KTNB phải thực sự được chú trọng và quan tâm phát triển. Với sự phát triển của KTNB thì hoạt động tín dụng sẽ ngày càng phát triển một cách lành mạnh hóa, đảm bảo chính xác và an toàn hơn. Giúp ích cho ban lãnh đạo ngân hàng trong việc ra các quyết định tín dụng một cách an toàn và hiệu quả. Trước yêu cầu phát triển hội nhập của toàn ngành thì ban lãnh đạo giờ đây đã nhận thức sâu sắc hơn về sự cần thiết của bộ phận kiểm tra, kiểm toán nội bộ.KTNB không đơn thuần chỉ là phương tiện góp phần giảm thiểu rủi ro tín dụng mà nó còn là công cụ tư vấn hiệu quả cho ban lãnh đạo ngân hàng. KTNB từ khi được ra đời và phát triển cho đến nay, đã ngày càng thể hiện rõ vai trò, vị thế của mình trong công tác hoạt động tín dụng của các NHTM. Nó là trợ lý đắc lực cho ban lãnh đạo ngân hàng, giúp ngân hàng đạt các mục tiêu đề ra một cách hiệu quả tối ưu hơn. KTNB đã dần chuyển sang theo hướng kiểm toán hệ thống để đáp ứng theo yêu cầu hoạt động kinh doanh đã đề ra. KTNB là chìa khóa để cho ngân hàng nắm bắt cơ hội chiến thắng trong cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng với nhau. Nó góp phần bảo vệ và tăng giá trị của ngân hàng. KTNB sẽ dần là nơi ươm mầm cho các cán bộ nguồn, cán bộ lãnh đạo tương lai của ngân hàng. Là nơi cung cấp cán bộ lãnh đạo chủ chốt cho toàn hệ thống. Trong phạm vi cho phép, với nội dung của khóa luận đã nêu ra, chỉ rõ thực trạng và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác KTNB của SGD III. Hy vọng trong thời gian tới SGD III sẽ có những bước đi tiếp đúng đắn từng bước nâng cao hơn nữa hiệu quả của KTNB tại đơn vị. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình kiểm toán ngân hàng – Học viện ngân hàng Giáo trình lý thuyết kiểm toán – Học viện tài chính Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam Kiểm toán nội bộ hiện đại ( Victor Z.Brink and Herbert V.Wirt) Internal Auditing : Basic and Best Practices( David Mc Namee) Đề án khung đối với các cơ chế kiểm tra nội bộ trong các tổ chức ngân hàng của ủy ban BASEL về giám sát ngân hàng 9/1998 Tạp chí ngân hàng Luật các tổ chức tín dụng Trang web của hiệp hội các NHTM Việt Nam: www.vnba.org.vn Trang web kiểm toán Việt Nam : www.kiemtoan.com.vn Và các nguồn tin Internet khác ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2113.doc