MỞ ĐẦU
Kiểm toán mới xuất hiện tại Việt Nam khoảng 15 năm và thực sự phát triển khoảng 10 trở lại đây. So với thế giới, kiểm toán Việt Nam còn rất non trẻ. Tuy vậy, kiểm toán đã và đang trở thành một ngành kinh tế độc lập đầy triển vọng của nước ta, một công cụ đắc lực giúp quản lý Nhà nước, một ngành có đóng góp quan trọng vào sự thịnh vượng nói chung của nề kinh tế quốc dân.
Trước những chính sách khuyến khích của Chính phủ, các công ty kiểm toán đang có rất nhiều cơ hội phát triển, không
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1644 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Kiểm toán chu trình Bán hàng - Thu tiền do Công ty TNHH Grant Thornton thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kể công ty trong hay ngoài nước. Thành lập năm 1993, Grant Thornton khi đó là một trong hai công ty nước ngoài đầu tiên được cấp giấy phép hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán tài chính ở nước ta. Với bộ máy quản lý linh hoạt, am hiểu địa phương, đội ngũ nhân viên trẻ, nhiệt tình, Công ty đang dần xây dựng được một hình ảnh tin cậy trong giới các doanh nghiệp dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán.
Được sự phân công của Nhà trường Kinh tế Quốc dân và sự đồng ý của Công ty Grant Thornton, em đã có khoảng thời gian 3 tháng tìm hiểu thực tế tại Phòng Kiểm toán của Công ty. Nhận thức được tầm quan trọng của chu trình Bán hàng- Thu tiền trong kinh doanh nói chung và trong kiểm toán nói riêng, em đã lựa chọn và thực hiện chuyên đề thực tập tốt nghiệp với đề tài: “Kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền do Công ty TNHH Grant Thornton thực hiện”. Bài viết gồm 3 phần:
Chương 1: Cơ sở lý luận về kiểm toán và kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền.
Chương 2: Thực trạng kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền do Công ty TNHH Grant Thornton Việt Nam thực hiện
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền tại Công ty TNHH Grant Thornton Việt Nam
Đây là những tìm hiểu của bản thân em trong những ngày đầu tiếp xúc với một môi trường kiểm toán chuyên nghiệp, vì vậy bài viết hẳn còn nhiều thiếu sót và em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thày cô cũng như của các anh, chị kiểm toán viên.
Để hoàn thành chuyên đề, em xin chân thành cảm ơn Thày giáo, PSG- TS Ngô Trí Tuệ, người đã nhiệt tình hướng dẫn em trong quá trình thực tập. Em cũng xin cảm ơn các anh, các chị Phòng Kiểm toán, Công ty TNHH Grant Thornton Việt Nam đã tạo điều kiện mọi mặt cho em trong suốt thời gian thực tập tại Công ty và khi thực hiện bài viết này.
Hà Nội, tháng 4 năm 2007
Sinh viên thực tập
Cao Thị Hồng Minh
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN VÀ KIỂM TOÁN CHU TRÌNH BÁN HÀNG- THU TIỀN
1.1. Khái quát chung về kiểm toán
1.1.1. Các quan điểm về kiểm toán
Trong lịch sử hình thành và phát triển văn minh nhân loại, loài người xưa nay vẫn có xu hướng quan tâm đến các hoạt động quản lý kinh doanh cũng như vai trò của việc kiểm soát quá trình quản lý. Các nhà khoa học khẳng định rằng, cách đây 6000 năm, loài người đã biết sử dụng hình thức tính toán trong các hoạt động của mình. Nhiều quy trình dược coi là nền tảng của việc hình thành nên các chuẩn mực tính toán đã được các nhà khoa học, triết học thời cổ đại dày công nghiên cứu như Platon, Aristotle… Các tài liệu đầu tiên liên quan đến lĩnh vực kiểm toán được tìm thấy trong thư viện của Cục Ngân khố Hoàng gia Anh. Các tài liệu này cho chúng ta thấy rằng, hoạt động kiểm toán đã hình thành ngay từ những năm 1130- 1200.
Từ thế kỷ 18, các tổ chức kiểm toán đã được thành lập với mục đích bảo vệ và duy trì quyền lợi của các đế chế cầm quyền. Năm 1714 ở Đức, dưới thời vua Phổ- Friedrich Wilhelm I, Sắc lệnh thành lập phòng thẩm kế tối cao đã được ban hành. Năm 1807, dười thời Hoàng đế Napoleon I tại Pháp, Toà thẩm kế (Cour des comptes) cũng được thành lập. Năm 1867, ở Nga, trong danh mục các tước quan quan trọng nhất có hẳn một chương mục dành để mô tả vị trí kiểm toán viên- những người có hàm vị trong lực lượng quân đội. Theo thời gian, cùng với những biến động của lịch sử và kinh tế, hình ảnh một kiểm toán viên đã không còn gói gọn trong màu áo nhà binh nữa và suy nghĩ của con người về thuật ngữ kiểm toán đã có nhiều thay đổi. Cho đến tận ngày nay, thuật ngữ kiểm toán được hình thành theo nhiều kiểu khác nhau, và theo thời gian, kiểm toán đã trở thành công cụ đắc lực của chính quyền các quốc gia trong việc quản lý hoạt động tài chính của các công ty, doanh nghiệp hoạt động trong lãnh thổ quốc gia đó.
Thuật ngữ kiểm toán mới chỉ thực sự xuất hiện và được sử dụng ở nước ta từ hơn một chục năm cuối thế kỷ XX. Trong quá trình đó, cách dùng và cách hiểu khái niệm này còn chưa thống nhất. Cho đến nay, có thể khái quát các cách hiểu về kiểm toán theo 3 loại quan điểm như sau:
Theo quan điểm thứ nhất, kiểm toán được hiểu theo đúng ý nghĩa thời cuộc của nó: phát sinh cùng với cơ chế thị trường. theo đó, kiểm toán có thể được hiểu là “sự kiểm tra độc lập và là sự bày tỏ ý kiến về những bản khia tài chính của một xí nghiệp do một kiểm toán viên được bổ nhiệm để thực hiện những công việc đó theo đúng với bất cứ nghĩa vụ pháp định có liên quan” (“Giải thích các chuẩn mực kiểm toán”- Vương quốc Anh). Kiểm toán cũng có thế được hiểu là “một quá trình mà qua đó một người độc lập, có nghiệp vụ tập hợp và đánh giá rõ ràng về thông tin có thể lượng hoá có liên quan đến một thực thể kinh tế riêng biệt nhằm mục đích xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa thông tin có thể lượng hoá với những tiêu chuẩn đã được thiết lập” ( quan điểm của các chuyên gia kiểm toán Hoa Kỳ) hay “là việc nghiên cứu và kiểm tra các tài khoản niên độ của một tổ chức do một người độc lập, đủ danh nghĩa gọi là kiểm toán viên tiến hành để khẳng định rằng những tài khoản đó phản ánh đúng đắn tình hình tài chính thực tế, không che dấu sự gian lận và chúng được trình bày theo mẫu chính thức của luật định” (Quan niệm trong giáo dục và đào tạo kiểm toán ở Cộng hoà Pháp). các định nghĩa trên tuy có khác nhau về mặt hình thức nhưng chung quy đều bao hàm 5 yếu tố cơ bản:
-Chức năng của kiểm toán: xác minh và bày tỏ ý kiến. Đây là vấn đề chính, cơ bản, chi phối cả quá trình kiểm toán và bộ máy kiểm toán.
-Đối tượng trực tiếp của kiểm toán: là các bảng khai tài chính của các tổ chức hay một thực thể kinh tế.
-Khách thể kiểm toán: là thực thể kinh tế hay một tổ chức (một công ty, một đơn vị, hay một cá nhân).
-Chủ thể kiểm toán: là những kiểm toán viên độc lập, có nghiệp vụ.
-Cơ sở thực hiện kiểm toán: là những luật định, tiêu chuẩn hay những chuẩn mực chung. Các chuẩn mực này được giải thích với khái niệm rộng bao gồm cả trong lĩnh vực kế toán và kiểm toán hoặc rộng hơn tuỳ theo từng cuộc kiểm toán.
Theo quan điểm thứ hai, kiểm toán được đồng nghĩa với việc kiểm tra kế toán, một chức năng của bản thân kế toán, một thuộc tính cố hữu của kế toán. Theo đó, kiểm toán đồng nghĩa với việc rà soát các thông tin từ chứng từ kế toán đến bảng tổng hợp cân đối kế toán. Đây là quan điểm truyền thống trong điều kiện kiểm tra chưa phát triển và trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung.
Từ khi chuyển đổi cơ chế kinh tế, với chủ trương đa phương hoá đầu tư, đa dạng hoá các thành phần kinh tế, nhà nước không còn là chủ sở hữu duy nhất, không thể thực hiện can thiệp đối với mọi thành phần kinh tế bằng kế hoạch hay bằng kiểm tra trực tiếp, cách thức can thiệp cũng không thể như cũ. Mặt khác, người quan tâm đến thông tin kế toán tài chính không chỉ là nhà nước mà còn mở rộng ra các nhà đầu tư, nhà quản lý, khách hàng và ngay cả người lao động. Điều đó đòi hỏi phải tách kiểm toán ra khỏi các hoạt động kế toán và nên một ngành khoa học kiểm toán độc lập. Cũng trong quá trình phát triển đó, kiểm toán không chỉ bó hẹp trong kiểm toán bảng khai tài chính hay tài liệu kế toán mà còn thâm nhập vào nhiều lĩnh vực khác nhau, như hiệu quả hoạt động kinh tế, hiệu năng quản lý xã hội, hiệu lực của hệ thống pháp luật. Chính vì vậy, một quan điểm thứ ba, một quan điểm tương đối toàn diện về kiểm toán đã được hình thành. Quan điểm này được gọi là quan điểm hiện đại, theo đó, kiểm toán là một phạm trù rất rộng, bao gồm các lĩnh vực chủ yếu sau:
`-Kiểm toán về thông tin (Information audit), hướng vào đánh giá tính trung thực và hợp pháp của các tài liệu làm cơ sỏ pháp lý cho việc giải quyết các mối quan hệ về kinh tế và tạo niềm tin cho những người quan tâm đến tài liệu kế toán.
-Kiểm toán tính quy tắc (Regularity audit), hướng vào việc đánh giá tình hình thực hiện các chế độ, thể chế, luật pháp của đơn vị được kiểm tra trong quá trình hoạt động.
-Kiểm toán hiệu quả (Effeciency audit) có đối tượng trực tiếp là các yếu tố, các nguồn lực trong từng loại nghiệp vụ kinh doanh, giúp ích trực tiếp cho việc hoạch định chính sách và phương hướng, giải pháp cho việc hoàn thiện hoặc cải tổ hoạt động kinh doanh của đơn vị được kiểm toán.
-Kiểm toán hiệu năng (Effectiveness audit) được đặc biệt quan tâm ở khu vực công cộng, cần và có thể ứng dụng đối với quản lý toàn bộ doanh nghiệp hoặc với từng bộ phận quản lý của đơn vị được kiểm toán.
Vậy kiểm toán là gì?
Từ những quan điểm trên đây có thể đi đến kết luận: Kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động cần được kiểm toán bằng phương pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ, do các kiểm toán viên có trình độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu lực.
1.1.2. Chức năng của kiểm toán
Dù được tiếp cận dưới nhiều góc độ, nhìn nhận theo nhiều quan điểm, nhưng bản chất của kiểm toán vẫn chỉ ra hai chức năng cơ bản là xác minh và bày tỏ ý kiến.
-Chức năng xác minh: nhằm khẳng định mức độ trung thực của tài liệu, tính pháp lý của việc thực hiện các nghiệp vụ hay việc lập các bảng khai tài chính.
Chức năng xác minh là chức năng cơ bản nhất, gắn liền với sự ra đời và tồn tại của hoạt động kiểm toán. Chức năng này không ngừng phát triển và được thể hiện khác nhau tuỳ vào đối tượng của kiểm toán là bảng khai tài chính hay nghiệp vụ kinh tế cụ thể. Ngày nay, theo chuẩn mực kiểm toán tài chính, chức năng xác minh không chỉ biểu hiện thông qua hình thức chứng thực mà còn chuyển hoá thành báo cáo kiểm toán cho từng trường hợp cụ thể khác nhau. Đối với các thông tin đã được lượng hoá, việc xác minh được thực hiện trước hết thông qua hệ thống kiểm soát nội bộ. Đối với kiểm toán các nghiệp vụ hoạt động, ban đầu được giới hạn ở hoạt động tài chính và sau này được mở rộng ra ở lĩnh vực hiệu năng và hiệu quả hoạt động.
-Chức năng bày tỏ ý kiến: có thể được hiểu rộng với ý nghĩa cả kết luận về chất lượng thông tin và cả pháp lý, tư vấn qua xác minh. Việc thực hiện chức năng xác minh cũng khác nhau giữa các khu vực. các thể chế, giữa các nước hay các khu vực có cơ sở kinh tế và pháp lý khác nhau.
Ở khu vực công cộng (bao gồm các xí nghiệp công, các cơ quan, đơn vị sự nghiệp và các cá nhân thụ hưởng ngân sách nhà nước), các hoạt động đều được đặt dưới sự kiểm soát của kiểm toán nhà nước. Trong quan hệ này, chức năng xác minh về kết luận về chất lượng thông tin của kiểm toán được thực hiện tương tự nhau, nhưng chức năng bày tỏ ý kiến về pháp lý và tư vấn kiểm toán lại rất khác nhau.
Ở khu vực kinh doanh hoặc các dự án ngoài ngân sách nhà nước, chức năng bày tỏ ý kiến được thực hiện trên phương thức tư vấn, biểu hiện chủ yếu dười hình thức lời khuyên hoặc các đề án.
Ngoài chức năng tư vấn cho quản trị doanh nghiệp, các công ty kiểm toán chuyên nghiệp còn phát triển chức năng tư vấn trong nhiều lĩnh vực chuyên sâu, như tư vấn đầu tư, tư vấn thuế,…
1.1.3. Các cách thức phân loại kiểm toán
Kiểm toán được tìm hiểu và nhìn nhận dưới rất nhiều góc độ khác nhau. Để hiểu biết một cách sâu sắc về kiểm toán cũng như các đặc trưng của nó đồng thời có cơ sở tổ chức tốt công tác kiểm toán, cần thiết phải tiến hành phân loại kiểm toán. Kiểm toán có thể phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau, tuỳ thuộc vào mục đích tìm hiểu:
-Theo đối tượng cụ thể: kiểm toán có thể phân thành kiểm toán tài chính, kiểm toán nghiệp vụ và kiểm toán liên kết.
-Theo lĩnh vực cụ thể của kiểm toán: có thể phân kiểm toán thành kiểm toán thông tin, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hiệu năng và kiểm toán hiệu quả.
-Theo phương pháp áp dụng trong kiểm toán: có thể phân kiểm toán thành kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ.
-Theo quan hệ chủ thể và khách thể kiểm toán: có thể phân thành nội kiểm và ngoại kiểm.
-Theo phạm vi tiến hành kiểm toán: có thể phân kiểm toán thành kiểm toán toàn diện và kiểm toán chọn điểm.
-Theo tính chu kỳ của kiểm toán: có thể phân thành kiểm toán thường kỳ, kiểm toán định kỳ và kiểm toán bất thường.
-Theo quan hệ về thời điểm kiểm toán với thời điểm thực hiện nghiệp vụ: kiểm toán bao gồm kiểm toán trước, kiểm toán hiện hành và kiểm toán sau.
-Theo tổ chức bộ máy kiểm toán: có thể phân thành kiểm toán nhà nước, kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ.
-Theo quan hệ pháp lý của kiểm toán: có kiểm toán bắt buộc và kiểm toán tự nguyện.
-Theo tính chất và phạm vi của cuộc kiểm toán: có kiểm toán ngân sách và tài sản công, kiểm toán dự án và các công trình, kiểm toán các đơn vị dự toán…
1.2. Cơ sở lý luận về chu trình bán hàng- thu tiền.
1.2.1. Chu trình bán hàng- thu tiền trong quá trình kinh doanh.
1.2.1.1. Đặc điểm, nội dung và vị trí của chu trình Bán hàng- Thu tiền trong sản xuất kinh doanh.
Bán hàng- Thu tiền là quá trình chuyển quyền sở hữu của hàng hoá qua quá trình trao đổi hàng-tiền. Quá trình này được bắt đầu từ yêu cầu mua của khách hàng và kết thúc bằng việc chuyển đổi hàng hoá thành tiền.
Theo những quy định kế toán hiện hành của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quá trình tiêu thụ được ghi nhận khi hàng hoá, lao vụ dịch vụ đã được chuyển giao cho người mua, được người mua trả tiền hoặc chấp nhận thanh toán. Về bản chất, tiêu thụ là quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá, dịch vụ ,lao vụ đồng thời tạo vốn để tái sản xuất mở rộng. Thực hiện tốt quá trình tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp mới có thể thu hồi và thực hiện được giá trị thặng dư- một nguồn thu quan trọng để tích luỹ vào ngân sách và các quỹ của doanh nghiệp nhằm mở rộng quy mô sản xuất và nâng cao đời sống của người lao động.
Dưới góc độ kiểm toán, quá trình Bán hàng- Thu tiền liên quan đến nhiều chỉ tiêu quan trọng trong Bảng cân đối kế toán (như tài khoản Tiền, Các khoản phải thu, Dự phòng phải thu khó đòi…) và Báo cáo kết quả kinh doanh (Doanh thu, Các khoản giảm trừ, Chi phí dự phòng, Thu nhập bất thường có từ các khoản hoàn nhập dự phòng,…). Đây là những chỉ tiêu cơ bản mà những người quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp dùng để phân tích khả năng thanh toán, tiềm năng, hiệu quả kinh doanh, triển vọng phát triển cũng như những rủi ro tiềm tàng trong tương lai. Đây cũng là những chỉ tiêu rất dễ bị phản ánh sai lệch hoặc dễ xảy ra gian lận khi hạch toán hay ghi nhận.
Đặc điểm của chu trình Bán hàng- Thu tiền:
-Số lượng nghiệp vụ phát sinh lớn và tương đối phức tạp.
-Liên quan đến các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp.
-Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của quy luật cung- cầu.
-Doanh thu là một trong những cơ sở đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và lập phương án phân phối thu nhập và thực hiện nghĩa vụ với nhà nước, do đó chỉ tiêu này rất dễ bị ghi nhận một cách không trung thực.
-Các quan hệ thanh toán trong mua bán rất phức tạp, bao gồm những việc như chiếm dụng vốn, công nợ khó đòi,… Tuy nhiên việc lập các khoản dự phòng phải thu khó đòi lại mang tính chủ quan, thường dựa vò ước đoán trong khâu lập kế hoạch, do đó rất khó khăn cho việc kiểm tra và thường bị lợi dụng để ghi tăng chi phí.
-Rủi ro và gian lận đối với các khoản mục trong chu trình này xảy ra theo nhiều chiều hướng khác nhau. Doanh thu có thẻ bị ghi tăng hay giảm dựa trên mục đích và hoàn cảnh cụ thể. Chẳng hạn, khoản phải thu có thể được ghi tăng nhằm che đậy hành vi biển thủ công quỹ, hoặc bị ghi giảm trong trường hợp doanh nghiệp muốn trốn tránh nghĩa vụ thuế với nhà nước,…
Vì những đặc điểm nêu trên, việc kiểm toán chu trình bán hàng- Thu tiền tương đối phức tạp, tốn kém về vật chất và thời gian. Với chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến cho các thông tin tài chính nói chung và thông tin về chu trình Bán hàng- Thu tiền nói riêng, kiểm toán viên không thể không xem xét những đặc điểm của chu kỳ và ảnh hưởng của nó đến việc lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán sao cho có hiệu quả.
1.2.1.2. Tổ chức kế toán Bán hàng- Thu tiền
Bán hàng- Thu tiền là một giai đoạn quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh, là giai đoạn thứ hai sau quá trình mua vào và thanh toán đối với doanh nghiệp thương mại và sau quá trình sản xuất đối với doanh nghiệp sản xuất. Bán hàng- Thu tiền bao gồm những nội dung sau:
*Tổ chức chứng từ kế toán:
Đây là quá trình thiết kế khối lượng chứng từ kế toán và quy trình hạch toán trên chứng từ theo chỉ tiêu hạch toán và đơn vị hạch toán cơ sở. Dưới đây là sơ đồ tổ chức chứng từ hạch toán chu trình Bán hàng- Thu tiền:
Sơ đồ 1.1: Tổ chức chứng từ kế toán trong chu trình Bán hàng- thu tiền.
Bộ phận cung ứng
Thủ trưởng, KTT
Bộ phận quản lý hàng
Kế toán thanh toán
Lập chứng từ bán hàng: Hoá đơn bán hàng
Ký duyệt hoá đơn, phê duyệt bán chịu
Giao nhận hàng: Phiếu xuất kho, phiếu biên nhận
Ghi sổ và theo dõi thanh toán: Sổ doanh thu, các khoản phải thu
Nhu cầu bán hàng: Đơn đặt hàng
Lưu trữ, bảo quản chứng từ
*Tài khoản sử dụng:
Chu trình này được hạch toán trên cơ sở sổ tài khoản, vận dụng phương pháp đối ứng tài khoản để phân loại và ghi chép, phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào hệ thống sổ chi tiết và tổng hợp. Để phản ánh đầy đủ các thông tin liên quan, kế toán sử dụng bộ tài khoản sau đây:
Tài khoản 511: Doanh thu bán hàng
Tài khoản 512: Doanh thu bán hàng nội bộ
Tài khoản 521: Chiết khấu bán hàng
Tài khoản 531: Doanh thu hàng bán bị trả lại
Tài khoản 532: Giảm giá hàng bán
Tài khoản 131: Phải thu khách hàng
Tài khoản 3387: Doanh thu nhận trước
Tài khoản 139: Dự phòng phải thu khó đòi
Tài khoản 641: Chi phí bán hàng
Tài khoản 642: Chi phí quản lý doanh nghiệp
Tài khoản 721: Thu nhập bất thường
Tài khoản 3331: Thuế giá trị gia tăng đầu ra
Tài khoản 111: Tiền mặt tại quỹ
Tài khoản 112: Tiền gửi ngân hàng
Tài khoản 004: Nợ khó đòi đã xử lý
*Hệ thống sổ sách sử dụng
Trong trường hợp doanh nghiệp áp dụng hình thức nhật ký chung thì hệ thống sổ sách bao gồm:
-Nhật ký chung
-Nhật ký thu tiền
-Nhật ký các khoản phải thu
-Sổ chi tiết các khách hàng nợ
-Sổ chi tiết doanh thu bán hàng
*Quy trình hạch toán quá trình tiêu thụ
Sơ đồ 1.2: Quy trình hạch toán chu trình Bán hàng- Thu tiền
TK 111, 112, 131...
Thuế GTGT đầu ra phải nộp
(Phương pháp khấu trừ)
TK 33311
Doanh thu bán hàng
Kết chuyển doanh thu thuần để xác định kết quả
Kết chuyển các
khoản giảm trừ doanh thu
Thuế TTĐB, thuế xuất khẩu, thuế
GTGT trực tiếp phải nộp
TK 911
TK 511
TK 333
TK 521, 531, 532
*Báo cáo số liệu kế toán
Trên cơ sở hệ thống sổ chi tiết và sổ tổng hợp, cuối kỳ kế toán lập bảng cân đối tài khoản và báo cáo kết quả kinh doanh phục vụ thông tin cho công tác quản lý. Từ đó, nắm rõ được nội dung và quá trình hạch toán chu trình Bán hàng- Thu tiền, kiểm toán viên tiến hành kiểm toán.
1.2.2. Chu trình Bán hàng- thu tiền với công tác kiểm toán
1.2.2.1. Hệ thống kiểm soát nội bộ trong quản lý chu trình Bán hàng- Thu tiền
a. Các mục tiêu của hệ thống kiểm soát nội bộ
Bất kỳ một nhà quản trị doanh nghiệp chân chính nào cũng luôn mong muốn hoạt động kinh doanh tại đơn vị mình diễn ra một cách có hiệu quả nhất. Điều đó thể hiện bằng việc thu hồi vốn nhanh, chi phí thấp, lợi nhuận cao, từ đó có thể mở rộng sản xuất kinh doanh theo cả chiều rộng và chiều sâu. Để đạt được điều đó, tất cả các hoạt động kinh doanh tại đơn vị đều phải được kiểm soát chặt chẽ, nhằm đảm bảo tất cả các thông tin là đúng sự thực, từ đó giúp cho các nhà quản lý nắm bắt được thông tin và đưa ra các quyết định kịp thời. Như vậy, lý do để doanh nghiệp xây dựng một hệ thống kiẻm soát nội bộ là để giúp doanh nghiệp thoả mãn các mục tiêu của mình. Điều quan trọng là để đảm bảo thành công cho quá trình kiểm tra, kiểm soát trong nội bộ đơn vị, doanh nghiệp cần xây dựng cho mình một hệ thống kiểm soát nội bộ phù hợp với đặc điểm và quy mô hoạt động của doanh nghiệp.
Theo định nghĩa của Liên đoàn Kế toán quốc tế thì hệ thống kiểm soát nội bộ là một hệ thống chính sách và thủ tục nhằm vào 4 mục tiêu sau:
-Bảo vệ tài sản của đơn vị
-Bảo đảm độ tin cậy của các thông tin
-Bảo đảm để thực hiện các quy định pháp lý
-Bảo đảm hiệu quả của hoạt động
Như vậy, đối với một doanh ngiệp, hệ thống kiểm soát nội bộ là toàn bộ các chính sách và thủ tục kiểm toán do đơn vị thiết lập và duy trì nhằm điều hành các hoạt động của đơn vị để đảm bảo các mục tiêu sau;
-Điều khiển và quản lý các hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
-Đảm bảo mọi hoạt động của đơn vị được thực hiện đúng trật tự và được giám sát.
-Phát hiện những sự kiện bất thường trong hoạt động kinh doanh để tìm cách xử lý.
-Ngăn chặn và phát hiện kịp thời các sai sót và gian lận trong đơn vị. Bảo vệ tài sản và thông tin, tránh sử dụng sai mục đích.
-Ghi chép đầy đủ, chính xác và theo đúng thể thức.
-Lập báo cáo tài chính kịp thời, có đủ độ tin cậy và tuân theo các yêu cầu pháp định có liên quan.
b. Các công việc kiểm soát nội bộ chủ yếu.
*Sự đồng bộ của sổ sách:
Hệ thống kế toán chứng từ đến sổ kế toán và bảng tổng hợp có tác dụng kiểm soát tối đa các nghiệp vụ. Khung pháp lý chung đối với mỗi đơn vị là như nhau, nhưng mỗi doanh nghiệp lại có thể lựa chọn các hình thức kế toán khác nhau, do vậy mà trình tự kế toán cụ thể cúng khác nhau. Bên cạnh đó, mọi văn bản pháp lý chỉ là khung tối thiểu, còn thực tế lại đa dạng và phức tạp. Do vậy, mỗi doanh nghiệp cần định sẵn trình tự cụ thể tương ứng với hệ thống sổ sách tạo thành yếu tố kiểm soát có hiệu lực.
*Việc đánh số thứ tự các chứng từ:
Doanh nghiệp sử dụng chứng từ có đánh số trước theo thứ tự liên tục có tác dụng vừa đề phòng bỏ sót, giấu diếm, vừa tránh được trùng lặp các khoản phải thu, các khoản ghi sổ bán hàng. Việc đánh số trước phải có mục đích rõ ràng, kèm theo việc tổ chức hợp lý theo hướng tích cực dể đạt được mục đích đó.
*Lập bảng cân đối thanh toán tiền hàng và gửi cho người mua.
Các doanh nghiệp có nghiệp vụ bán hàng và thu tiền với quy mô lớn, thông thường hàng tháng có tổng hợp và lập bảng cân đối giữa giá trị hàng bán với các khoản đã thu tiền, các khoản phải thu để kiểm soát công việc bán hàng và thu tiền một cách có hiệu quả.
Các bảng cân đối này có liên quan đến thông tin từ phía người mua, vì vậy cần được gửi đến người mua để thông báo, đồng thời xác nhận quan hệ mua bán đã phát sinh trong thực tế. Để đảm bảo tính khách quan trong xác nhận, việc lập và gửi các bảng cân đối này nên được thực hiện một cách độc lập, bởi một người độc lập, không có liên quan tới việc thu tiền hay ghi sổ bán hàng.
*Xét duyệt nghiệp vụ báng hàng:
Việc bán hàng và thu tiền (thu tiền ngay hoặc bán chịu) cho khách hàng cần thiết phải được duyệt y một cách cẩn trọng trước khi bán hàng và hàng bán cũng chỉ được vận chuyển sau khi duyệt với đầy đủ chứng cứ (tài khoản, con dấu, chữ ký hợp pháp của mỗi bên), nhằm tránh tình trạng tổn thất khi vận chuyển hàng đến cho người mua hay người mua chưa có khả năng thanh toán. Giá bán cũng được duyệt bao gồm cả chi phí vận chuyển, giảm giá, bớt giá và các điều kiện thanh toán nhằm tránh thất thu, kích thích tăng thu cũng như giải quyết hợp pháp và hiệu quả các quan hệ lợi ích giữa các bên trong quan hệ mua- bán.
*Nguyên tắc phân công phân nhiệm:
Đây là công việc trọng yếu trong kiểm soát nội bộ nhằm ngăn ngừa những gian lận và sai sót kế toán nói chung và trong chu trình Bán hàng- Thu tiền nói riêng. Trong Bán hàng – Thu tiền, nếu sổ bán hàng và sổ thu tiền được hai kế toán theo dõi độc lập nhau và sổ thu tiền cũng được theo dõi độc lập, đối chiếu thường xuyên với sổ cái và sổ quỹ theo hình thức kiểm tra chéo, sẽ tạo được mức độ tin tưởng cao cho người sử dụng thông tin. Trong nhiều trường hợp, để ngăn ngừa gian lận, nơi làm việc của thủ quỹ và những nhân viên có nhiệm vụ ghi chép bán bàng hay sổ quỹ phải được ngăn cách độc lập. Chức năng bán hàng và chức năng xét duyệt bán chịu cũng cần phải được phân cách nhằm ngăn chặn những gian lận hay tiêu cực có thể phát sinh trong khâu bán hàng và khả năng thất thu trong khâu thanh toán.
*Tính độc lập của người kiểm tra, kiểm soát:
Tính độc lập của người kiểm tra, kiểm soát là nhân tố chủ yếu trong việc phát huy hiệu lực của hoạt động kiểm soát nội bộ. Có sự hỗ trợ của một hệ thống kiểm soát nội bộ tốt không chỉ giúp ích cho các nhà quản lý mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho công việc kiểm tra, kiểm toán của các kiểm toán viên trong việc hoàn thành các mục tiêu kiểm toán.
1.2.2.2. Mục tiêu kiểm toán đối với chu trình bán hàng- Thu tiền.
Kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền nói riêng và kiểm toán nói chung đều đòi hỏi ngay từ đầu việc định rõ phạm vi công việc và mục tiêu kiểm toán cụ thể, tạo cơ sở cho việc thu thập các bằng chứng kiểm toán, giúp kiểm toán viên đưa ra ý kiến của mình về các bảng khai tài chính của khách thể kiểm toán.
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 200 đã nêu rõ: “Mục tiêu của kiểm toán tài chính là giúp cho kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến xác nhận rằng báo cáo tài chính có được lập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kiểm toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), có tuân thủ pháp luật liên quan và có phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay không”.
Để thực hiện công việc một cách hiệu quả, trước tiên kiểm toán viên cần xác định rõ các mục tiêu kiểm toán thông qua các xác nhận của ban quản trị khách thể kiểm toán. Đối với chu trình Bán hàng- Thu tiền, các xác nhận này bao gồm:
-Xác nhận về sự hiện hữu: Doanh thu ghi nhận trên báo cáo tài chính phản ánh quá trình trao đổi hàng hoá, dịch vụ thực tế phát sinh, các khoản phải thu trên bẳng cân đối kế toán là có thực vào ngày lập các cân đối kế toán.
-Xác nhận về tính đầy đủ: Tất cả doanh thu về bán hàng và cung cấp dịch vụ, các khoản đã thu và phải thu đã được ghi sổ đầy đủ và được đưa vào các báo cáo tài chính.
-Xác nhận về quyền sở hữu: Hàng hoá và các khoản phải thu của doanh nghiệp vào ngày lập báo cáo tài chính đều thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp.
-Xác nhận về sự định giá và phân loại: Doanh thu và các khoản phải thu được tính toán đúng đắn và được phân loại đúng bản chất, đối tượng.
-Xác nhận về sự trình bày: Doanh thu và các khoản phải thu được trình bày trung thực và đúng đắn trên các báo cáo tài chính theo đúng hệ thống kế toán của doanh nghiệp và các chuẩn mực kế toán hiện hành.
Bên cạnh các xác nhận của ban quản trị, kiểm toán viên cũng cần xem xét các mục tiêu chung và các mục tiêu đặc thù của kiểm toán. Bàn hàng- Thu tiền là một chu trình quan trọng, được cấu thành bởi các nghiệp vụ cụ thể và từ đó hình thành nên các khoản mục trên báo cáo tài chính, nên các mục tiêu đặc thù của chu trình này cần được cụ thể hoá thành các mục tiêu kiểm toán tài chính và kiểm toán nghiệp vụ một cách phù hợp. Các nghiệp vụ bán hàng và thu tiền dù cấu thành một chu trình chung nhưng lại đòi hỏi được hạch toán một cách độc lập tương đối trên các sổ sách kế toán riêng. Chính vì vậy, các mục tiêu đặc thù cho các nghiệp vụ bán hàng và thu tiền cần được định hướng một cách cụ thể thông qua các mục tiêu kiểm toán đặc thù riêng biệt.
*Nhóm các mục tiêu chung bao gồm:
-Mục tiêu hợp lý chung: giúp kiểm toán viên đánh giá thông tin về các số dư trên tài khoản phải thu khách hàng có hợp lý hay không dựa trên thông tin chung về tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng.
-Các mục tiêu chung khác:
+Tính có căn cứ hợp lý: Số tiền ghi trên sổ và trên báo cáo tài chính thực sự là số tiền phát sinh trong quá trình xảy ra nghiệp vụ bán hàng và các nghiệp vụ khác có liên quan.
+Tính đầy đủ: Mọi nghiệp vụ phát sinh đều được ghi sổ.
+Quyền sở hữu: Số tiền hoặc tài sản được ghi nhận thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp tại ngày lập báo cáo tài chính.
+Sự đánh giá: tiền và tài sản của doanh nghiệp phải được đánh giá đúng với giá trị hiện tại trên thị trường và được ghi sổ chính xác, hợp lý.
+Sự phân loại: Số tiền ghi trên sổ phải được phản ánh đúng nội dung tài khoản và các tài khoản phải được trình bày một cách đúng đắn trên các báo cáo tài chính.
+Tính đúng kỳ: Các nghiệp vụ kinh tế phát sinh được ghi chép đúng với thời gian phát sinh nghiệp vụ.
*Các mục tiêu đặc thù của chu trình Bán hàng- Thu tiền:
-Tính có căn cứ hợp lý: Hàng bán vận chuyển đến khách hàng và các khoản phải thu khách hàng là có thật.
-Tính đầy đủ: Mọi nghiệp vụ bán hàng và mọi khoản phải thu khách hàng là có thật.
-Quyền sở hữu: Hàng hoá đã bán thuộc quyền sở hữu của đơn vị và các khoản phải thu có người sở hữu.
-Sự đánh giá: Hàng đã vận chuyển và có hoá đơn ghi giá bán được thoả thuận. Các khoản phải thu được đánh giá đúng.
-Sự phân loại: Doanh thu phải được phân loại đúng đắn thành các loại doanh thu bán ra và doanh thu nội bộ, doanh thu hàng bán bị trả lại, doanh thu nhận trước. Các khoản phải thu được phân loại đúng.
-Tính đúng kỳ: Doanh thu và các khoản phải thu khách hàng được ghi chép đúng kỳ, không có hiện tượng ghi giảm doanh thu, ghi tăng các khoản phải thu và ngược lại.
-Trình bày và thể hiện: Doanh thu tiền mặt và các khoản phải thu được trình bày chính xác trên các báo cáo tài chính theo đúng các chế độ và quy định hiện hành.
1.2.2.3. Chứng từ và sổ sách sử dụng trong kiểm toán chu trình Bán hang- Thu tiền
*Các chứng từ sử dụng:
-Báo cáo kết quả kinh doanh của năm trước và năm nay.
-Các đơn đặt hàng của khách hàng: đây là cơ sở pháp lý ràng buộc trách nhiệm của các bên tham gia hợp đồng.
-Hợp đồng đã ký kết về bán hàng và cung cấp dịch vụ.
-Hoá đơn bán hàng, hoá đơn kiêm phiếu xuất kho.
-Các quyết toán, thanh lý hợp đồng bán hàng.
-Các phiếu thu tiền mặt, séc, giấy báo nợ, sao kê của ngân hàng.
-Các hợp đồng, khế ước tín dụng.
-Các chứng từ hay hợp đồng vận chuyển hàng hoá.
*Sổ sách sử dụng:
Nếu doanh nghiệp áp dụng hình thức nhạt ký chung để hạch toán kế toán thì hệ thống sổ sách bao gồm:
-Nhật ký chung
-Nhật ký thu tiền
-Sổ cái các khoản phải thu
-Các sổ liên quan khác (nếu có)
1.2.3. Trình tự kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền trong kiểm toán tài chính.
Do chu trình Bán hàng- Thu tiền bao gồm những khoản mục cấu thành nên báo cáo tài chính, nên khi tiến hành kiểm toán cũng phải tuân theo quy trình kiểm toán chung của một cuộc kiểm toán để đảm bảo tính nhất quán.
Trình tự kiểm toán bao gồm các giai đoạn sau:
-Lập kế hoạch, thiết kế phương pháp kiểm toán với chu trình Bán hàng- Thu tiền.
-Thực hiện kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền.
-Kết thúc kiểm toán, hoàn tất và công bố báo cáo kiểm t._.oán.
1.2.3.1. Lập kế hoạch kiểm toán
a. Chuẩn bị kiểm toán
Ngoài các công việc chung trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên cần tiến hành thu thập đầy đủ các thông tin cần thiết sau đây:
-Tìm hiểu về doanh nghiệp: Bao gồm sơ đồ tổ chức các phòng ban, bao gồm phòng kinh doanh, bộ phận bán hàng, các loại chứng từ, sổ sách sử dụng tại doanh nghiệp liên quan đến chu trình.
-Thực địa tại nhà xưởng, cơ sở sản xuất: Nhằm thu thập các thông tin về tính chất, đặc điểm của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được doanh nghiệp sản xuất hay cung cấp, cũng như các thông tin về công tác bảo vệ tài sản, nhà xưởng, kho hàng,…
-Xem xét các chính sách của công ty: Cần tìm hiểu các chính sách bán hàng, khuyến mại, chiết khấu, giảm giá của doanh nghiệp cũng như các chính sách tín dụng áp dụng cho khách hàng.
-Thu thập các thông tin về trách nhiệm pháp lý của khách hàng:
+Biên bản cuộc họp: Có hay không các thông tin liên quan đến các chính sách, thủ tục trong chu trình Bán hàng- Thu tiền,
+Các hợp đồng: Như trên đã nêu, đây là các tài liệu quan trọng chứa đựng các thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng trong kinh doanh, cung cấp hàng hoá, dịch vụ. Kiểm toán viên cần tìm hiểu để biết chắc chắn rằng doanh nghiệp có hợp đồng cung cấp sản phẩm dịch vụ dài hạn hay hợp đồng đặc biệt nào với khách hàng hay không.
b. Đánh giá trọng yếu và rủi ro trong kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền
Trên cơ sở các thông tin đã thu thập được, kiểm toán viên tiến hành đánh giá, nhận xét để đưa ra một kế hoạch kiểm toán chi tiết, phù hợp.
*Đánh giá tính trọng yếu:
Sau khi đánh giá mức trọng yếu cho toàn bộ báo cáo tài chính, kiểm toán viên tiến hành phân bổ mức đánh giá này cho từng khoản mục.
Đối với chu trình Bán hàng- Thu tiền, kiểm toán viên tiến hành phân bổ mức ước lượng trọng yếu cho các khoản mục như doanh thu, các khoản phải thu và khoản mục tiền. Thông qua đó, kiểm toán viên có thể xác định được số lượng bằng chứng kiểm toán thích hợp phải thu thập đối với từng khoản mục ở mức chi phí thấp nhất có thể mà vẫn đảm bảo được tổng các sai sót trên báo cáo tài chính không vượt quá mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu.
*Đánh giá rủi ro
Trong bước này, kiểm toán viên phải xác định mức độ rủi ro kiểm toán trong quá trình thực hiện chu trình Bán hàng- Thu tiền là cao hay thấp, bao gồm việc đánh giá rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện.
-Rủi ro tiềm tàng (IR): đối với chu trình Bán hàng- Thu tiền, IR là rủi ro đối với quản lý tiền mặt hay các phương tiện thanh toán khác, tính trung thực của ban giám đốc khách hàng trong việc khai báo các khoản doanh thu, các nghiệp vụ bán hàng bất thường, các ước tính kế toán,…
-Rủi ro kiểm soát (CR): đối với chu trình Bán hàng- Thu tiền, CR là việc khách thể kiểm toán không tuân thủ theo các quy định của hệ thống kiểm soát nội bộ như quy tắc phân công phân nhiệm, nguyên tắc bất kiêm nhiệm,…
-Rủi ro phát hiện (DR): là khả năng xảy ra các sai sót hợc gian lận trên báo cáo tài chính mà không được ngăn chặn hay phát hiện bởi hệ thống kiểm soát nội bộ, cũng như không được phát hiện bởi kiểm toán viên trong quá trình thực hiện kiểm toán.
c. Tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng và đánh giá rủi ro kiểm soát
*Tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng: Được thực hiện trên các mặt chủ yếu là thiết kế kiểm soát nội bộ bao gồm thiết kế về quy chế và về bộ máy kiểm soát, tính hoạt động liên tục và có hiệu lực. Kiểm toán viên cần tìm hiểu về quy trình hoạt động cùng các thủ tục kiểm soát được thực hiện để ngăn ngừa sai phạm xảy ra đối với từng bước trong chu trình, từ việc ký hợp đồng với khách hàng, chuyển giao hàng, thu tiền và ghi sổ doanh thu,…
*Đánh giá rủi ro kiểm soát: Sau khi đã có được sự hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên cần tiến hành đánh giá rủi ro kiểm soát đối với cơ sở dẫn liệu cho số dư các tài khoản hay các loại nghiệp vụ kinh tế chủ yếu.
d. Thiết kế chương trình kiểm toán và các thủ tục tiến hành kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền.
Kiểm toán viên xác định các thủ tục cần thiết phải thực hiện đối với chu trình Bán hàng- thu tiền bao gồm thử nghiệm kiểm soát, thủ tục phân tích và kiểm tra chi tiết,…
1.2.3.2. Thực hiện kế hoạch kiểm toán.
a. Thực hiện thủ tục kiểm soát
*Thực hiện thủ tục kiểm soát đối với nghiệp vụ bán hàng
Kiểm toán viên tiến hành thực hiện các thử nghiệm kiểm soát theo các mục tiêu sau:
*Tính hiệu lực: các nghiệp vụ bán hàng được ghi sổ là có thật. Kiểm toán viên tiến hành:
-Xem xét, đối chiếu các hoá đơn bán hàng của một nghiệp vụ cũng như các vận đơn và đơn đặt hàng có liên quan.
-Xem xét tính hiệu lực của các hoá đơn bán hàng đã được đánh số trước, chú ý tính liên tục của các hoá đơn đó.
-Kiểm tra xem quá trình gửi bảng cân đối bán hàng- thu tiền có được thực hiện độc lập hay không, cũng như tiếp nhận các xác nhận hay khiếu nại của người mua.
…
*Tính cho phép: Các nghiệp vụ bán hàng được phê duyệt đầy đủ và đúng đắn. Mục tiêu này có liên quan trực tiếp đến các quyết định về bán chịu, về vận chuyển và về giá cả. Kiểm toán viên cần xem xét những quyết định về chính sách chung cũng như những thay đổi cụ thể trong từng thương vụ. Kiểm toán viên tiến hành các công việc sau:
-xem xét bảng kê hay sổ chi tiết bán hàng.
-Đối chiếu hợp đồng mua hàng, thu tiền đối với từng khách hàng
-Đối chiếu lệnh vận chuyển, hợp đồng vận chuyển
-Đối chiếu các chứng từ phê chuẩn xuất kho hàng hoá và phương thức bán hàng.
-Xem xét chức vụ và quyền hạn của người phê duyệt.
*Các nghiệp vụ bán hàng được ghi sổ đầy đủ:
Kiểm toán viên tiến hành xem xét tính liên tục của các chứng từ vạn chuyển, hoá đơn bán hàng để xác minh xem doanh nghiệp có thực hiện việc đấnh số thứ tự trước hay không, xem xét các chứng từ vận chuyển để kiểm tra tính đầy đủ của các bộ chứng từ vận chuyển,…
*Tính phân loại: Các nghiệp vụ bán hàng đã được phân loại thích hợp. Với các nghiệp vụ bán hàng, phân loại chính xác các nghiệp vụ vào các tài khoản thường không chứa đựng nhiều vấn đề như các loại nghiệp khác. Tuy nhiên việc kiểm tra các nghiệp vụ này vẫn cần được kiểm toán viên tiến hành bằng cách xem xét thông qua sơ đồ tài khoản, hay dấu hiệu của việc kiểm soát nội bộ trên các chứng từ,…
*Tính kịp thời: Các nghiệp vụ bán hàng được ghi sổ kịp thời. Các nghiệp vụ bán hàng cần được ghi sổ cập nhật để tránh bỏ sót các nghiệp vụ. Kiểm toán viên cần kiểm tra các chứng từ vận chuyển chưa lập hoá đơn để tìm ra các khoản đã lập hoá đơn nhưng chưa vào sổ, đồng thời xem xét dấu hiệu kiểm soát nội bộ trên các chứng từ liên quan.
*Tính chính xác: các nghiệp vụ được vào sổ đúng và cộng dồn chính xác. Việc vào sổ, cộng dồn và chuyển sổ chính xác phản ánh tương quan giữa bán hàng- thu tiền và quan hệ giữa hàng- tiền đã thu và còn phải thu, đặc biệt là đối với các khoản còn tồn đọng.
Kiểm toán viên cần xem xét việc thực hiện các thủ tục phân cách trách nhiệm, kiểm tra việc lập bảng cân đối bán hàng- thu tiền cho người mua và các dấu hiệu kiểm soát nội bộ.
*Thực hiện thử nghiệm kiểm soát đối với nghiệp vụ thu tiền
-Các khoản thu tiền ghi sổ thực tế đã nhận.
Kiểm toán viên kiểm tra việc phân cách trách nhiệm giữa người thu tiền và người ghi sổ, đồng thời xem xét việc thực hiện đối chiếu với ngân hàng trên các tài khoản có liên quan.
-Khoản chiết khấu đã được xét duyệt đúng đắn, phiếu thu tiền đã được đối chiếu và ký duyệt.
Kiểm toán viên xem xét quy chế tu tiền hàng, trao đổi với các giám đốc tài chính hoặc kinh doanh, xem xét giấy báo nhận tiền trước thời hạn, khoả sát trình tự lập phiếu thu tiền.
-Tiền mặt thu được đã được ghi nhận đầy đủ vào Sổ quỹ và nhật ký thu tiền.
Kiểm toán viên tiến hành kiểm tra việc phân cách trách nhiệm giữa thủ quỹ và nghười ghi sổ; xem xét tính liên tục của các giấy báo nhận tiền hoặc bảng kê tiền mặt đánh số trước; xem xét dấu hiệu kiểm soát nội bộ; rà soát quan hệ giữa các séc và bảng kê.
-Các khoản thu tiền đã ghi sổ và đã nộp đều đúng với giá hàng bán
Kiểm toán viên tiến hành khảo sát kế toán chi tiết các khoản phải thu; xem xét việc thực hiện đối chiếu hàng tháng với ngân hàng.
-Các khoản thu tiền đều được phân loại đúng
Kiểm toán viên xem xét việc tổ chức thực hiện sơ đố tài khoản và các quy định về đối ứng; xem xét dấu hiệu của kiểm soát nội bộ.
-Các khoản thu tiền ghi đúng thời hạn
Kiểm toán viên xem xét việc tổ chức ghi thu, chế độ báo cáo thu tiền ở các bộ phận có liên quan; xem xét dấu hiệu kiểm soát nội bộ.
-Các khoản thu tiền ghi đúng vào sổ quỹ, sổ cái và được tổng hợp đúng.
Kiểm toán viên kiểm tra tính độc lập của người ghi sổ quỹ và người thanh toán; thẩm tra việc gửi các bảng cân đối bán hàng- thu tiền; xem xét dấu hiệu kiểm soát nội bộ.
b. Thực hiện thủ tục phân tích
*Phát triển một mô hình: Cần xác định các biến tài chính, biến hoạt động và mối quan hệ giữa chúng. Với mỗi mô hình cần căn cứ vào mục đích cụ thể của việc áp dụng thủ tục phân tích cũng như các nguồn thông tin về dữ liệu. Việc dự đoán thay đổi số dư năm nay so với năm trước áp dụng trong trường hợp số dư của năm trước đã được kiểm toán.
*Xem xét tính độc lập và tin cậy của dữ liệu tài chính và nghiệp vụ: Để đảm bảo tính trung thực và độc lập của các dữ liệu cần chi tiết hoá các dự tính. Kiểm toán viên cần xem xét nhiều yếu tố như nguồn dữ liệu, tính kế thừa và phát triển của các thủ tục kiểm toán, mở rộng phạm vi dữ liệu sử dụng,…
*Ước tính giá trị so sánh và giá trị ghi sổ: Chú ý tới tính thường xuyên của việc đánh giá mối quan hệ đang được nghiên cứu, biến động tất yếu và biến động bất thường.
*Phân tích nguyên nhân chênh lệch: Nếu có chênh lệch phát sinh, kiểm toán viên phải tiến hành phân tích và tìm hiểu nguyên nhân chênh lệch
*Xem xét những phát hiện của kiểm toán: Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 520 quy định: “Trường hợp quy trình phân tích phát hiện được những chênh lệch trọng yếu hoặc mối liên hệ không hợp lý giữa các thông tin tương ứng hoặc có chênh lệch lớn hơn so với dự tính, kiẻm toán viên phải tiến hành các thủ tục điều tra để thu thập bằng chứng kiểm toán thích hợp”.
Các thủ tục phân tích cụ thể như sau:
-So sánh doanh thu bán hàng của từng loại hàng hoá, dịch vụ giữa kỳ này với kỳ trước, tỉ lệ lãi gộp của năm nay so với năm trước.
-So sánh tỉ lệ doanh thu hàng bán bị trả lại, các khoản giảm giá trên doanh thu kỳ này so với kỳ trước.
-So sánh số dư của các khách hàng có giá trị lớn giữa các kỳ để phát hiện doanh thu và các khoản phải thu bị ghi khống.
-So sánh tỉ lệ dự phòng các khoản nợ phải thu khó đòi trên tổng doanh thu hay trên tổng các khoản phải thu khách hàng kỳ này so với kỳ trước để đánh giá khả năng tài chính của khách hàng và có cơ sở trích lập dự phòng phải thu khó đòi.
-So sánh các khoản thu lớn chưa thanh toán hoặc đá đến hạn, quá hạn chưa thanh toán năm nay so với năm trước.
-So sánh tỷ lệ phần trăm các khoản phải thu phân loại theo bảng phân tích tuổi nợ trên tổng các khoản phải thu của năm nay so với năm trước.
-So sánh sự biến động của chỉ tiêu tiền mặt và tiền gửi ngân hàng qua các năm.
c. Thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết
*Thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết đối với doanh thu bán hàng: dựa trên các mục tiêu sau:
-Doanh thu bán hàng được ghi sổ là có thật
-Doanh thu được ghi sổ đầy đủ
-Doanh thu được phê chuẩn đúng đắn
-Doanh thu được tính toán đúng đắn
-Doanh thu được phân loại đúng đắn
-Doanh thu được ghi chép đúng kỳ
-Doanh thu được tổng hợp và chuyển sổ đúng đắn
*Thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết đối với các khoản thu tiền mặt: Kiểm toán viên hướng tới các mục tiêu:
-Các khoản thu tiền thực tế đã nhận
-Các khoản chiết khấu được xét duyệt đúng đắn, phiếu thu tiền được đối chiếu và ký duyệt.
-Tiền mặt được ghi đầy đủ vào sổ quỹ và các nhật ký thu tiền
-Các khoản tiền đã ghi sổ và đã nộp đúng với giá hàng bán
-Các khoản thu tiền đều được phân loại đúng.
-Các khoản thu tiền được ghi sổ kịp thời
-Các khoản thu tiền ghi đúng vào sổ cái, sổ quỹ và được tổng hợp đúng.
* Thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết đối với các khoản phải thu
-Số dư các tài khoản bán hàng và thu tiền đều hợp lý
-Các khoản phải thu trong bảng kê hoặc bảng cân đối thu tiền theo thời hạn khớp đúng với sổ theo dõi thu tiền và số tổng cộng được chuyển đúng vào sổ cái
-Các khoản phải thu trong bảng kê hoặc bảng cân đối thu tiền theo thời hạn đều có thật
-Các khoản phải thu hiện hữu đều đã được ghi sổ
-Các khoản phải thu khách hàng thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp
-Các khoản phải thu trong bảng kê hoặc bảng cân đối theo thời hạn đều được tính giá đúng
-Các khoản phải thu được phân loại đúng đắn
-Các khoản phải thu được ghi sổ đúng kỳ
1.2.3.3. Kết thúc kiểm toán
Kết thúc kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền là việc tổng hợp các thông tin đã thu được để đi đến một kết luận chung về sự trình bày các khoản mục có liên quan đến chu trình Bán hàng- Thu tiền trên báo cáo tài chính có trung thực và hợp lý hay không. Để đưa ra kết luận cuối cùng, kiểm toán viên cần thực hiện các thủ tục bổ sung sau:
-Xem xét các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ: kiểm toán viên cần tiến hành kiểm tra chọn mẫu những nghiệp vụ kế toán xảy ra trong vòng 5 đến 10 ngày kể từ ngày kết thúc niên độ đã được ghi sổ, theo dõi các nghiệp vụ bán hàng, thanh toán, kiểm tra sổ chi tiết doanh thu, phải thu khách hàng,…
-Xem xét giả thuyết hoạt động liên tục của khách thể kiểm toán. Theo Chuẩn mực Kiểm toán số 01 “Chuẩn mực chung” quy định: “Ban giám đốc đơn vị được kiểm toán phải xem xét, đánh giá cụ thể khả năng hoạt động liên tục của đơn vị vì theo giả định là đơn vị hoạt động liên tục thì tài sản và nợ phải trả được ghi nhận dựa trên cơ sở là đơn vị có khả năng thực hiện giá trị của tài sản và thanh toán các khoản nợ phải trả trong điều kiện kinh doanh bình thường”.
-Thu thập thư giải trình của Ban giám đốc
-Tổng hợp kết quả kiểm toán và lập báo cáo kiểm toán.
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG KIỂM TOÁN CHU TRÌNH BÁN HÀNG- THU TIỀN DO CÔNG TY TNHH GRANT THORNTON VIỆT NAM THỰC HIỆN
A. Khái quát về Công ty
Công ty TNHH Grant Thornton Việt Nam (sau đây được gọi là “Công ty”), thành viên độc lập của Tập đoàn Grant Thornton International, là công ty 100% vốn nước ngoài, được thành lập vào năm 1993, khi đó là công ty kiểm toán quốc tế thứ hai được cấp giấy phép hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán và tư vấn tại Việt Nam. Công ty có hai văn phòng tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Với mục tiêu trở thành nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp hàng đầu tại Việt Nam, đặc biệt là trong giới doanh nghiệp vừa và nhỏ, Công ty mong muốn tạo ra giá trị gia tăng cho hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp thông qua các giải pháp mang tính thực tiễn cao, dựa trên kinh nghiệm thực tế và hiểu biết sâu sắc về địa phương. Dưới đây là một số thông tin cơ bản về Công ty:
●Địa chỉ: Văn phòng Công ty Kiểm toán Grant Thornton Việt Nam tại Hà Nội, số 879 đường Hồng Hà, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Văn phòng Công ty Kiểm toán Grant Thorrnton Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh, lầu 15, toà nhà Bitexco, 19- 25 Nguyễn Huệ, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh.
●Điện thoại: 84 4 932 4401
●Chủ sở hữu: Tập đoàn Grant Thornton International
●Tại thời điểm năm 2006, số lượng nhân viên của Công ty là 57 người
1. Chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm kinh doanh
1.1. Chức năng của Công ty
Công ty được thành lập với chức năng cung cấp các dịch vụ chuyên nghiệp, bao gồm Kiểm toán, Tư vấn thuế, Tư vấn Tài chính Doanh nghiệp, Tư vần Đầu tư và Quản lý, Dịch vụ công ty, Dịch vụ chiến lược và tăng trưởng.
1.2. Nhiệm vụ của Công ty
Công ty là thành viên độc lập của tập đoàn Grant Thornton International. Với tư cách là một doanh nghiệp hạch toán độc lập, Công ty có trách nhiệm tự kinh doanh và hạch toán, tìm hiểu và nắm bắt thông tin thị trường tài chính Việt Nam nhằm kinh doanh có hiệu quả.
1.3. Đặc điểm kinh doanh
Công ty hiện có các phòng ban như sau:
Phòng kiểm toán
Phòng Dịch vụ tư vấn và kinh doanh
Phòng kế toán tổng hợp
Phòng hành chính tổng hợp
Phòng kiểm soát chất lượng
Là thành viên độc lập của Tập đoàn Grant Thornton International, Công ty độc lập trong kinh doanh với chính sách tự quản lý và hạch toán, kinh doanh theo phương châm và những quy định chung của tập đoàn và những quy định của nước sở tại (Việt Nam).
1.2. Tổ chức bộ máy quản lý và kinh doanh của Công ty
Bộ máy quản lý của Công ty được phân theo cơ cấu trực tiếp chức năng và đơn giản hoá các phòng ban, bộ phận. Dưới đây là sơ đồ mô tả cơ cấu bộ máy tổ chức quản lý của Công ty:
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ CỦA CÔNG TY
Tổng giám đốc
Phòng Kiểm toán
Phòng kế toán tổng hợp
Phòng Dịch vụ Tư vấn
Phòng hành chính tổng hợp
Phòng kiểm soát chất lượng
Tv Thuế
Tư vấn TCDN
Tư vấn ĐT- QL
Dịch vụ Công ty
Tư vấn CL- TT
Nhận xét: cơ cấu bộ máy tổ chức của Công ty gọn nhẹ, tập trung. Cơ cấu này giúp cho việc quản lý tại đơn vị cũng như quản lý chung tại tập đoàn được đơn giản và hiệu quả.
●Tổng giám đốc: là người chịu trách nhiệm chính về toàn bộ hoạt động kinh doanh cũng như tổ chức quản lý điều hành của Công ty.
●Phòng kiểm toán: là một trong hai bộ phận chủ chốt của Công ty, thực hiện các hợp đồng kiểm toán chủ yếu cho các dự án và các công ty có vốn đầu tư nước ngoài.
●Phòng dịch vụ tư vấn và kinh doanh: là bộ phận chủ chốt thứ hai trong Công ty, với chức năng chính là thực hiện các hợp đồng tư vấn và các dịch vụ liên quan khác. Phòng bao gồm các bộ phận như sau:
-Bộ phận tư vấn thuế: thực hiện tư vấn thuế bao gồm các hoạt động tư vấn về thuế phải nộp, hỗ trợ các hoạt động quốc tế để đầu tư vốn vào những nơi hay những lĩnh vực có mức thuế suất thấp, cung cấp các giải pháp về lương trọn gói có tính hiệu quả cao về thuế, các giải pháp chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, cung cấp các thông tin cập nhật về thuế, tổ chức các buổi hội thảo, đào tạo về thuế…
-Bộ phận tư vấn tài chính doanh nghiệp: Xây dựng các kế hoạch và chiến lược hiệu quả với nhiều phương án, thông qua các dịch vụ đa dạng như: tư vấn cơ cấu chiến lược, hỗ trợ giao dịch, định giá doanh nghiệp, tư vấn cổ phần hoá, chuẩn bị niêm yết và tài chính dự án,…
-Bộ phận tư vấn đầu tư và quản lý: cung cấp các dịch vụ như hỗ trợ thành lập doanh nghiệp, thành lập công ty ở nước ngoài, hoạch định kinh doanh chiến lược, rà soát hoạt động kinh doanh, nghiên cứu khả thi, nghiên cứu thị trường,…
-Bộ phận dịch vụ công ty: cung cấp các biện pháp cải thiện hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ, giúp doanh nghiệp tập trung vào các hoạt động sản xuất kinh doanh chính, thông qua các dịch vụ như: cung cấp các giải pháp phần mềm trọn gói để duy trì hệ thống kế toán hiệu quả và tiết kiệm, tư vấn hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ, chuẩn bị sổ sách báo cáo, công việc hành chính và quy trình lập bảng lương…
-Bộ phận dịch vụ chiến lược và tăng trưởng: cung cấp các chương trình phát triển doanh nghiệp thông qua các công cụ như hội thảo chiến lược, nhiệm vụ chiến lước đặc biệt, các chương trình cắt giảm chi phí đặc biệt (PRISMA),…
●Phòng kế toán: có trách nhiệm lập các báo cáo tài chính định kỳ hàng tháng, hàng quý theo yêu cầu của Công ty và báo cáo tài chính năm.
●Phòng hành chính nhân sự: là bộ phận hỗ trợ cho các bộ phận khác của văn phòng trong các hoạt động về hành chính và các vấn đề liên quan đến tuyển dụng, quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động.
●Phòng kiểm soát chất lượng: là bộ phận kiểm tra chất lượng hoạt động của các bộ phận, phòng ban theo các tiêu chuẩn của Công ty.
2. Cơ cấu tổ chức kinh doanh của phòng Kiểm toán
Dịch vụ kiểm toán của Công ty tập trung vào việc hỗ trợ các công ty có vốn đầu tư nước ngoài và trong nước, các nhà tài trợ và các tổ chức phi chính phủ ở Việt Nam. Công ty thực hiện kiểm toán độc lập, tuân theo các chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam và quốc tế, bao gồm các hoạt động tư vấn hàng năm về cách thức cải thiện các hệ thống hoạt động và kiểm soát nội bộ.
Công ty là một trong những công ty kiểm toán quốc tế đầu tiên được cấp giấy phép kiểm toán cho các công ty có vốn đầu tư trong nước.
Cơ cấu tổ chức phòng Kiểm toán của Công ty.
SƠ ĐỒ MÔ TẢ CƠ CẤU BỘ MÁY TỔ CHỨC PHÒNG KIỂM TOÁN
Giám đốc kiểm toán (Partner)
Chủ nhiệm kiểm toán
(Audit manager)
Giám sát kiểm toán (Audit supervisor)
Kiểm toán viên chính (Senior auditor)
Kiểm toán viên
(Auditor)
●Giám đốc kiểm toán (Partner): chịu trách nhiệm chung trong việc quản lý các mối quan hệ khách hàng cũng như toàn bộ hoạt động kinh doanh của Công ty. Là người cuối cùng ký vào các báo cáo kiểm toán và chịu trách nhiệm trước khách hàng về các kết quả kiểm toán được thực hiện bởi các nhân viên cấp dưới.
●Chủ nhiệm kiểm toán (Audit manager): chịu trách nhiệm quản lý các mối quan hệ với khách hàng, trực tiếp đi xuống đơn vị của khách hàng để kiểm tra tiến độ công việc cũng như tình hình thực tế, huấn luyện và đánh giá các nhân viên cấp dưới, lập và thống nhất kế hoạch kiểm toán, kế hoạch tuyển dụng nhân sự, kiểm tra dữ liệu báo cáo, chỉnh sửa các sai sốt của nhân viên cấp dưới trong các báo cáo, quản lý các mối quan hệ với khách hàng đồng thời xác định thời hạn ra báo cáo kiểm toán.
Giám sát kiểm toán (Audit Supervisor): Kiểm tra, soát xét (review) các công việc của nhóm kiểm toán trực tiếp phụ trách tại một khách hàng cụ thể (job) để đảm bảo công việc các bước kiểm toán cũng như các phần hành đã được kiểm toán một cách hợp lý trước khi đệ trình lên cho cấp quản lý cao hơn.
●Kiểm toán viên chính (Audit senior): Quản lý việc thực hiện công việc của nhóm nhân viên dưới quyền bằng việc kiểm tra các số liệu mà họ đã thực hiện, giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình kiểm toán, tạo dựng và phát triển mối quan hệ với khách hàng, giữ liên lạc thường xuyên với giám đốc kiểm toán hoặc partner để cập nhật thông tin về công việc mà nhóm mình đang thực hiện.
●Kiểm toán viên (Auditor): thực hiện phần kỹ thuật bao gồm phân tích, điều tra các thông tin kế toán được cung cấp . Dưới sự điều hành của các senior, các nhân viên này tiếp xúc với khách hàng để tiếp nhận thông tin kế toán đồng thời xác định tính hiệu lực của thông tin đó.
2.2.Các phương pháp kỹ thuật chủ yếu được áp dụng trong quá trình kiểm toán của Công ty.
Dịch vụ kiểm toán của Công ty có khả năng đáp ứng các nhu cầu chuyên biệt của các doanh nghiệp nhờ vào Phương pháp luận Kiểm toán Horizon và phần mềm kiểm toán Explorer.
Phương pháp kiểm toán Horizon và phần mềm kiểm toán Explorer được thiết kế nhằm đạt được một chuẩn mực nhất quán của dịch vụ kiểm toán trong tất cả các công ty thành viên của Grant Thornton International. Phương pháp kiểm toán Horizon được áp dụng cho kiểm toán độc lập, trên mạng lưới toàn cầu, liên tục được cập nhật theo những thay đổi mới nhất của các chuẩn mực và quy định về kiểm toán.
●Đặc điểm của phương pháp kiểm toán Horizon:
-Được điều hành trực tiếp bởi giám đốc kiểm toán với sự tham gia của các chuyên viên kiểm toán kinh nghiệm ở mọi giai đoạn của quy trình kiểm toán.
-Đánh giá hệ thống kiểm soát tài chính nội bộ và đưa ra lời khuyên hữu dụng về cách thức cải tiến.
-Tập trung hiểu được các chu kỳ giao dịch quan trọng tác động đến doanh nghiệp.
-Sử dụng các phương pháp kiểm toán tiên tiến phù hợp với phương thức hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bất kể quy mô và địa điểm.
-Chất lượng dịch vụ cao trên toàn thế giới.
Kết thúc quá trình kiểm toán, Công ty sẽ gửi cho Ban giám đốc công ty khách hàng một bức thư kiến nghị về các vấn đề cần thực hiện tại doanh nghiệp để cải thiện các quy trình kiểm soát nội bộ tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn.
Ngoài đặc trưng là phương pháp kiểm toán Horizon và phần mềm kiểm toán Explorer, Công ty còn sử dụng các phương pháp kiểm toán thông thường khác như kiểm toán chứng từ (kiểm toán cân đối, đối chiếu trực tiếp, đối chiếu logic), kiểm toán ngoài chứng từ (kiểm kê, thực nghiệm, điều tra).
2.3. Tổ chức thực hiện công tác kiểm toán tại Công ty
Trình tự thực hiện công tác kiểm toán tại Công ty bao gồm các bước như sau:
-Chuẩn bị kiểm toán
-Thực hành kiểm toán
-Kết thúc kiểm toán và lập báo cáo kiểm toán
2.3.1. Chuẩn bị kiểm toán
2.3.1.1. Xác định mục tiêu, phạm vi kiểm toán
Phạm vi kiểm toán là giới hạn về không gian và thời gian của đối tượng kiểm toán, được xác định đồng thời với mục tiêu kiểm toán và là một hướng để cụ thể hoá mục tiêu này.
Mục tiêu và phạm vi kiểm toán có thể đã được xác định từ trước trong kế hoạch kiểm toán hàng năm đối với các khách hàng quen thuộc hoặc trong thư mời kiểm toán đối với các khách hàng mới hay các khách hàng đặc biệt. Tuy nhiên trước mỗi cuộc kiểm toán, mục tiêu và phạm vi vẫn được xác định lại cho chuẩn xác và phù hợp.
Chỉ định người phụ trách công việc kiểm toán
Tuỳ thuộc vào mục tiêu và phạm vi kiểm toán, các giám đốc kiểm toán (Audit managers) chỉ định người sẽ chủ trì cuộc kiểm toán lần này. Người được chỉ định là người có trình độ tương xứng với mục tiêu, phạm vi của cuộc kiểm toán. Công việc này được công ty thực hiện đúng theo chuẩn mực thứ nhất trong mười chuẩn mực kiểm toán được chấp nhận phổ biến và theo đúng các quy định của công ty. Cùng với việc chỉ định về nhân lực, Công ty còn tiến hành chuẩn bị các thiết bị đi kèm khác như phương tiện tính toán và kiểm tra, phương tiện kiểm kê,…
Thu thập thông tin
Việc thu thập thông tin dựa trên việc tận dụng tối đa nguồn tài liệu đã có, song khi cần thiết vẫn tiến hành các biện pháp điều tra bổ sung.
Công việc này thường được các kiểm toán viên chính phụ trách cuộc kiểm toán (audit senior in charge) giao cho các kiểm toán viên dưới quyền hoặc các trợ lý kiểm toán tiến hành.
Lập kế hoạch kiểm toán.
Việc xác định nhu cầu thực hiện chủ yếu qua việc cụ thể hoá mục tiêu và phạm vi kiểm toán đã dự kiến, bao gồm việc xác định những công việc cụ thể phải làm, trên cơ sở đó lượng hoá quy mô từng việc và xác định thời hạn kiểm toán tương ứng.
Trên cơ sở tính toán cụ thể số người, phương tiện và thời gian kiểm toán, kiểm toán viên chính phụ trách sẽ tính toán kinh phí cần thiết cho cuộc kiểm toán và báo cáo lên giám đốc kiểm toán phê duyệt. Trình tự lập kế hoạch kiểm toán cũng được xác định trên cơ sở trình tự lập kế hoạch nói chung. Kế hoạch sau khi dự kiến được thảo luận, thu thập ý kiến của các chuyên gia, của các giám đóc kiểm toán và của kiểm toán viên trực tiếp thực hiện hợp đồng.
Xây dựng chương trình kiểm toán.
Trên cơ sở kế hoạch kiểm toán tổng quát, chương trình kế hoạch cụ thể được xây dựng cho từng phần hành. Quá trình này được thực hiện bởi các kiểm toán viên trực tiếp phụ trách công việc, có sự tham khảo ý kiến và phê duyệt của các nhà lãnh đạo cấp cao như giám đốc kiểm toán hay tổng giám đốc (partner).
Thực hiện kiểm toán
Trong quá trình này, nhóm các kiểm toán viên và trợ lý kiểm toán viên nhận trách nhiệm thực hiện đồng bộ các công việc đã ấn định trong kế hoạch, chương trình kiểm toán, trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản sau đây:
-Trong mọi trường hợp, kiểm toán viên phải tuân thủ theo các chương trình đã được xây dựng, không được tự ý thay đổi.
-Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên phải thường xuyên ghi chép lại những phát hiện, nhận định nhằm tích luỹ bằng chứng.
-Định kỳ thực hiện tổng hợp kết quả kiểm toán theo các bảng kê chênh lệch hoặc bảng kê xác minh.
-Mọi điều chỉnh về nội dung, phạm vi, trình tự kiểm toán… đều phải có ý kiến thống nhất của kiểm toán viên phụ trách.
2.3.3. Kết thúc kiểm toán
Kết thúc kiểm toán, kiểm toán viên đưa ra kết luận kiểm toán hoặc biên bản kiểm toán. Để lập báo cáo kiểm toán và kết thúc kiểm toán, kiểm toán viên phải thực hiện một loạt công việc như: xem xét nợ ngoài dự kiến, xem xét các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ, xem xét các giả thuyết về tính hoạt động liên tục,…
Về báo cáo kiểm toán, Công ty tuân thủ theo những chuẩn mực về báo cáo kiểm toán được đề cập trong các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam.
Đặc điểm tổ chức công tác kế toán tại Công ty
Cơ cấu tổ chức bộ máy kế toán tại Công ty
SƠ ĐỒ MÔ TẢ CƠ CẤU BỘ MÁY TỔ CHỨC PHÒNG KẾ TOÁN
Kế toán trưởng
Kế toán 1
Kế toán 2
Kế toán trưởng: là người chịu trách nhiệm trực tiếp trước tổng giám đốc về tình hình ghi chép và thực hiện các chính sách trong kế toán. Dưới sự điều hành của kế toán trưởng, phòng kế toán có hai thành viên là kế toán 1 và kế toán 2.
Kế toán 1: là người chịu trách nhiệm thực hiện các công việc kế toán liên quan đến tiền lương và ghi chép doanh thu.
Kế toán 2: theo dõi các khoản thanh toán, kiêm thủ quỹ.
3.2. Hình thức sổ kế toán áp dụng.
-Công ty thực hiện công tác kế toán dựa trên hệ thống kế toán máy theo quy định số 15- Chuẩn mực Kế toán Việt Nam.
-Công ty sử dụng đồng Đôla Mỹ (USD) làm đơn vị tiền tệ chính để hạch toán. Các khoản mục tài sản, công nợ có gốc bằng các đơn vị tiền tệ khác được quy đổi sang đồng Đôla Mĩ theo tỉ giá hối đoái của ngày kết thúc niên độ kế toán. Các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong năm được thanh toán bằng các đơn vị tiền tệ không phải là đồng Đôla Mĩ được quy đổi sang đồng Đôla Mĩ theo tỉ giá hối đoái xấp xỉ tỉ giá hối đoái xấp xỉ tại ngày giao dịch.
-Các báo cáo tài chính được lập như Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh được lập dựa trên nguyên tắc, thủ tục kế toán theo đúng quy định của Hệ thống kế toán Việt Nam.
3.3. Tình hình thực hiện công tác kế toán tại Công ty
Công ty áp dụng quy trình kế toán máy với các phần mềm kế toán chuyên dụng và được thực hiện theo quy trình như sau:
QUY TRÌNH THỰC HIỆN CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẠI CÔNG TY
Chứng từ gốc
Máy tính
Sổ cái
Báo cáo kế toán quản trị
Nhận xét: Quy trình kế toán máy với những phần mềm chuyên dụng sẽ giảm thiểu chi phí cho nhân lực kế toán, đồng thời cũng giúp cho quá trình thực hiện công tác kế toán đơn giản và nhanh chóng hơn. Công ty cũng tiết kiệm được chi phí và diện tích cho việc lưu trữ sổ sách, hồ sơ kế toán.
B. Kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền do Công ty TNHH Grant Thornton Việt Nam thực hiện.
1. Chương trình kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền của Công ty TNHH Grant Thornton Việt Nam
Tại Công ty TNHH Grant Thornton Việt Nam (Công ty), chương trình kiểm toán được lập dựa trên một mẫu chung thống nhất. Khi áp dụng vào thực tế cho các khách hàng khác nhau,chương trình được xây dựng cụ thể với những điểm chung và cả những điểm khác biệt cho phù hợp với đặc điểm._. vì vậy mà tổng doanh thu lớn. Với mỗi lần bán hàng- thu tiền, công ty đều có phiếu thu, được lập bởi kế toán, đối chiếu với sổ ghi của một nhân viên phụ trách bán hàng. Hầu hết các giao dịch có phát sinh nhỏ và trả trực tiếp bằng tiền mặt.
Khi tiến hành kiểm tra chi tiét các chứng từ liên quan, kiểm toán viên căn cứ vào bảng tổng hợp doanh thu, đối chiếu với phiếu thu tiền và xem xét các định khoản cụ thể của các mẫu. Kiểm toán viên cũng tiến hành đối chiếu với phiếu thu, sổ theo dõi tiền mặt,…
Kết luận: Không có nghiệp vụ bất thường nào đối với khoản mục doanh thu. Các chứng từ liên quan được lưu giữ đầy đủ. chứng từ được đánh số đầy đủ.
*Xem xét tính đúng kỳ của các ghi chép kế toán:
Thông thường, các sản phẩm hàng hoá bán trên Chợ điện tử ghc thu tiền trực tiếp, do vậy doanh thu được ghi nhận trực tiếp vào tài khoản 511. Còn đối với các khoản thu từ cung cấp dịch vụ khác như dịch vụ mạng,lắp đặt cổng điện tử, lắp đặt server,… thường thu tiền sau một thời gian chạy thử. Vì vậy công ty tiến hành ghi nhận các khoản thu này vào tài khoản 3387 rồi mới kết chuyển vào tài khoản 511 theo doanh số thực nhận khi khách hàng đã nghiệm thu chất lượng dịch vụ. Vì vậy, đối với một số nghiệp vụ phát sinh vào cuối năm 2006 mà chưa được ghi nhận doanh thu, kiểm toán viên cần kiểm tra tính trung thực của các số liệu ghi trên tài khoản 511 và 3387 cũng như tính đúng kỳ của các nghiệp vụ ghi sổ. Kiểm toán viên tiến hành thu thập các hợp đồng cung cấp dịch vụ, đối chiếu với các biên bản thanh lý hợp đồng để kiểm tra các khoản đã ghi nhận doanh thu cũng như đối chiếu với các biên bản nghiệm thu chất lượng dịch vụ để xem xét những hợp đồng không thực hiện, cũng như những hợp đồng chưa thanh toán, doanh thu kết chuyển vào tài khoản 3387. Thông qua kiểm tra chi tiết và kiểm tra tính đúng kỳ, kiểm toán viên kết luận: doanh thu được ghi nhận đúng kỳ, hợp lý.
*Các khoản giảm trừ doanh thu:
Các khoản giảm trừ doanh thu của công ty bao gồm các khoản giảm giá nhân dịp lế, tết cho các hoạt động cung cấp dịch vụ (dưới hình thức khuyến mại). Các khảon này được ghi nhận trực tiếp vào chi phí. Kiểm toán viên đã tiến hành đối chiếu số của chi phí và doanh thu trên các sổ sách và chứng từ liên quan và kết luận về tính chính xác của các ghi chép kế toán.
*Kết luận về khoản mục doanh thu và nghiệp vụ bán hàng:
Sau khi hoàn thành kiểm toán đối với ngiệp vụ bán hàng và khoản mục doanh thu, kiểm toán viên tiến hành đính kèm các giấy tờ làm việc vào file phần mềm Explorer. Kiểm toán viên chính và giám sát kiểm toán phê duyệt khoản mục này đã được kiểm toán hợp lý. Kiểm toán viên chính cũng lưu ý từ ý kiến của kiểm toán viên để đưa và thư quản lý rằng, công ty nên ghi nhận các khoản giảm giá như các khoản giảm trừ doanh thu chứ không nên ghi tăng chi phí.
b.Các thử nghiệm cơ bản với các khoản phải thu khách hàng
Các khoản phải thu khách hàng của công ty không nhiều, chủ yếu là các khoản phải thu từ cung cấp dịch vụ. Công ty đã tiến hành đối chiếu tất cả các khoản phải thu khách hàng. Kiểm toán viên cũng đã tiến hành kiểm tra, đối chiếu và cộng dồn. Kết quả cho thấy các khoản phải thu được ghi nhận hợp lý.
c. Thử nghiệm cơ bản đối với tiền mặt và tiền gửi.
Các bước thực hiện công việc kiểm toán khoản mục này được thực hiện tương tự như đối với công ty ABC với các công việc như đối chiếu số liệu, kiểm tra chi tiết một số nghiệp vụ thu- chi tiền mặt. Đối với tiền gửi ngân hàng, kiểm toán viên phát hiện thấy công ty chưa lập bảng theo dõi, đối chiếu số dư tiền gửi trên sổ với ngân hàng. Kiểm tra chi tiết các giấy báo của ngân hàng (bank statements), kiểm toán viên nhận thấy các số liệu này phù hợp với các ghi chép của ké toán.
*Kết luận: Không có phát sinh bất thường nào đối với khoản mục tiền mặt và tiền gửi ngân hàng.
2…. Kết thúc kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền
a. Hoàn thiện hồ sơ kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền
Đối với một cuộc kiểm toán nói chung và với kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền nói riêng, khi kết thúc công việc, các kiểm toán viên đều phải tiến hành hoàn thiện hồ sơ kiểm toán, soát xét các giấy tờ làm việc của mình.
Với các giấy tờ làm việc, kiểm toán viên hệ thồn lại, kiểm tra số liệu, kiểm tra công thức (vì giấy tờ làm việc của kiểm toán viên tại Công ty đều được lập bằng Microsoft excell), chỉnh sửa theo các quy định của Công ty,… Tất cả các giấy tờ này đều được khẳng định trách nhiệm của kiểm toán viên bằng các chữ ký điện tử đi kèm.
-Với các bàng chứng thu thập được: kiểm toán viên tiến hành kiểm tra, rà soát để đảm bảo rằng đã thu thập đầy đủ bằng chứng cần thiết cũng như loại bỏ bớt các giấy tờ không liên quan. Sau khi đã có đủ các bằng chứng, kiểm toán viên tiến hành đánh tham chiếu lên các bằng chứng đó để hoàn thành file cứng, phục vụ cho việc kiểm tra của các giám sát kiểm toán. Bàng chứng thu được phải đảm bảo sạch sẽ, không nhàu nát, các dấu hiệu của kiểm toán viên để lại (như dấu cộng dồn, dấu đã kiểm tra,…) phải được giải thích ngay trong giấy tờ đó. Các số liệu liên quan hay quan trọng phải được đánh dấu lại,…
-Đối với các bản xác nhận của ngân hàng hay xác nhận công nợ, nếu đã nhận được, kiểm toán viên sẽ đính kèm vào file hồ sơ, nếu chưa nhận được phải ghi chú lại để tiện cho việc theo dõi, bổ sung khi cần thiết.
Đối với công việc kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền tại hai công ty ABC và XYZ, kiểm toán viên chính đánh giá hồ sơ kiểm toán đã đạt yêu cầu, đối với cả các bằng chứng và các giấy tờ làm việc của kiểm toán viên.
Kết thúc chuyến thực tế tại khách hàng, nhóm kiểm toán sẽ họp với lãnh đạo của công ty, kế toán để thông báo kết thúc cuộc kiểm toán tại khách hàng, khẳng định lại thời điểm ra báo cáo, số lượng báo cáo phát hành,…
*Kiểm toán viên chính tổng hợp công việc
Sau khi đã hoàn thành thực tế (field trip) tại khách hàng, kiểm toán viên chính tập hợp các công việc đã phân công dựa trên file cứng và file chương trình Explorer của các kiểm toán viên. Các kiểm toán viên thực hiện kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền sẽ tập hợp các kết luận cũng như các phát hiện trong phần việc của mình, cùng với các bút toán điều chỉnh và đề xuất lại với kiểm toán viên chính. Trên cơ sở đó, kiểm toán viên chính thảo luận với kế toán trưởng hay người phụ trách kế toán của khách hàng về các vấn đề đã tập hợp được và phác thảo báo cáo kiểm toán (draft).
*Kiểm tra cấp cao và phát hành báo cáo kiểm toán:
Tại Grant Thornton, công việc của một kiểm toán viên phải qua 3 bước xem xét và phê duyệt. Sau khi kiểm toán viên chính xem xét, kết quả công việc của kiểm toán viên thực hiện phần hành Bán hàng- Thu tiền cùng với bản thảo báo cáo kiểm toán được chuyển lên lần lượt giám sát kiểm toán (supervisor) và phụ trách kiểm toán (manager), cuối cùng là giám đốc kiểm toán (audit partner). Sau khi xem xét công việc của kiểm toán viên, các cấp giám sát cao hơn sẽ xem xét bản thảo báo cáo kiểm toán. Sau khi bổ sung, sửa chữa, dự thảo báo cáo cuối cùng sẽ được gửi cho khách hàng xem xét lại lần cuối. Khi cả hai bên đã nhất trí, Công ty chính thức phát hành báo cáo kiểm toán, hoàn thiện cuộc kiểm toán.
CHƯƠNG 3:
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VIỆC KIỂM TOÁN CHU TRÌNH BÁN HÀNG- THU TIỀN TẠI CÔNG TY TNHH GRANT THORNTON VIỆT
1. Nhận xét chung về phương thức thực hiện kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền của Công ty TNHH Grant Thornton Việt Nam
1.1. Một vài nhận xét về hoạt động kiểm toán của Công ty TNHH Grant Thornton Việt Nam.
Công ty TNHH Grant Thornton Việt Nam là một trong những thành viên độc lập của Tập đoàn Grant Thornton International, là công ty 100% vốn nước ngoài, là một trong những công ty kiểm toán quốc tế đầu tiên được cấp giấy phép hoạt động tại Việt Nam trong lĩnh vực kiểm toán và tư vấn tại Việt Nam. Với mục tiêu trở thành nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp hàng đầu tại Việt Nam, đặc biệt là trong giới doanh nghiệp vừa và nhỏ, Công ty mong muốn tạo ra giá trị gia tăng cho hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp thông qua các giải pháp mang tính thực tiễn cao dựa trên kinh nghiệm thực tiễn và hiểu biết sâu sắc về địa phương.
Dịch vụ kiểm toán của Công ty tập trung vào việc hỗ trợ các công ty có vón đầu tư trong và ngoài nước, các nhà tài trợ và các tổ chức phi chính phủ ở Việt Nam. Công ty là một trong những công ty kiểm toán quốc tế đầu tiên được cấp giấy phép kiểm toán cho các công ty có vốn đầu tư trong nước. Với một ban quản lý chuyên nghiệp, một đội ngũ nhân viên trẻ nhưng nhiệt tình và có chuyên môn cao, Công ty đang ngày một gặt hái được nhiều thành công thể hiện qua số lượng khách hàng không ngừng tăng tưởng trong nnhững năm qua. Kiểm toán đang là một điểm mạnh của Công ty bên cạnh hoạt động tư vấn tài chính kế toán. Khách hàng của Công ty ngày một đa dạng về loại hình, bao gồm các công ty tư nhân trong và ngoài nước, các dự án của trung ương, dự án của địa phương hay các dự án doc các tổ chức phi lợi nhuận quốc tế đầu tư. Công ty cũng là một trong số ít các công ty kiểm toán được Ngân hàng thế giới (World Bank) phê duyệt đủ tiêu chuẩn kiểm toán các dự án do tổ chức này tài trợ như Dự án truyền máu trung ương, Dự án phát triển nông thôn Quảng Ngãi,...
Bên cạnh việc phát triển thị trường, mở rộng phạm vi khách hàng, Công ty cũng rất chú trọng đầu tư đào tạo nguồn nhân lưc, không ngừng phát nâng cao chuyên môn cũng như đạo đức nghề nghiệp cho các kiểm toán viên. Đào tạo chứng chỉ Kế toán viên công chứng của Vương quốc Anh (ACCA) và chứng chỉ kiểm toán viên trong nước (CPA Việt Nam) là một trong những chính sách cơ bản, lâu dài và quan trọng nhất của Công ty. Các kiểm toán viên được hỗ trợ rất nhiều để hoàn thiện quá trình học tập nói riêng cũng như để nâng cao trình độ chuyên môn nói chung thông qua những chương trình đào tạo cụ thể, các buổi hội thảo trong và ngoài nước, giao lưu học hỏi với các kiểm toán viên đến từ các công ty kiểm toán khác,...
Tuy vậy, quá trình hoạt động của Công ty cũng gặp phải một số khó khăn. Là công ty 100% vốn nước ngoài, công ty không nhận được nhiều sự hỗ trợ từ phía chính phủ như các công ty kiểm toán của Nhà nước. Môi trường cạnh tranh ngày một gay gắt buộc Công ty phải không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ của mình để tồn tại và phát triển.
Với sự cố gắng không ngừng của Ban lãnh đạo và đội ngũ nhân viên, Grant Thornton đang ngày một vươn lên, trở thành một trong những công ty cung cấp dịch vụ tin cậy, chất lượng cao trong lĩnh vực kiểm toán nói riêng và kế toán tài chính nói chung.
1.2. Nhận xét chung về quá trình kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền do Công ty TNHH Grant Thornton Việt Nam thực hiện.
Để có được những nhận xét chung về kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền do Grant Thornton thực hiện, cần xem xét việc kiểm toán chu trình này qua từng giai đoạn:
*Giai đoạn thu thập thông tin về khách hàng và lập kế hoạch kiểm toán.
Các khách hàng của Công ty có thể là khách hàng cũ cũng có thể là khách hàng mới và việc tiếp cận khách hàng cũng theo đó được xây dựng sao cho hiệu quả và tiết kiệm. Với các khách hàng thường niên, sau khi kết thúc kiểm toán một giai đoạn tài chính, Công ty gửi Thư mời kiểm toán cho và ngỏ ý muốn được tiếp tục hợp tác trong thời gian tiếp theo. Đối với một khách hàng mới, Công ty gửi thư mời thầu và tiến hành đấu thầu trực tiếp như các công ty kiểm toán khác. Với một đội ngũ nhân viên nhiệt tình, cởi mở, công việc tìm hiểu và tiếp cận khách hàng của Công ty được tiến hành hiệu quả và tiết kiệm, góp phần mở rộng thị trường cho Công ty.
Tuân thủ theo đúng Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 300- Chuẩn mực về Lập kế hoạch kiểm toán, Công ty tiến hành lập kế hoạch kiểm toán cụ thể sau khi đã ký kết được hợp đồng với khách hàng. Chương trình kiểm toán được lập phụ thuộc vào khách hàng cụ thể để công việc tiến hành được hiệu quả. Thông thường một chương trình kiểm toán được lập bao gồm các thông tin như thông tin chung về khách hàng, mục tiêu kiểm toán, phạm vi kiểm toán, thời gian, địa điểm, nội dung thực hiện kiểm toán và nhân sự cho cuộc kiểm toán. Kiểm toán viên thực hiện kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền cũng như kiểm toán viên thực hiện kiểm toán các chu trình khác sẽ có một chương trình phù hợp, bao gồm các công việc chung cũng như các công việc riêng để thực hiện một cách hiệu quả. Bên cạnh chương trình có sẵn, kiểm toán viên, đặc biệt là các kiểm toán viên chính phụ trách cuộc kiểm toán (auditors in- charge) cần có cái nhìn linh động để chương trình kiểm toán được thực hiện phù hợp với khách hàng ở mức cao nhất.
*Giai đoạn thực hiện kiểm toán.
Dựa trên chương trình kiểm toán đã được thiết kế, các kiểm toán viên được phân công kiểm toán độc lập các phần hành theo một loạt các thủ tục (procedures) phù hợp đã được xây dựng, tuân thủ theo các chuẩn mực kế toán, kiểm toán Việt Nam cũng như chuẩn mực quốc tế được chấp nhận tại Việt Nam.Bên cạnh đó, các thông tư, văn bản hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền như các thông tư của cơ quan thuế, thông tư về hướng dẫn đầu tư,... sẽ là những văn bản hỗ trợ cho các kiểm toán viên thực hiện công việc.
Để hoàn thành các thủ tục trên, kiểm toán viên có một khoảng thời gian nhất định làm việc tại chính cơ quan của khách hàng (field trip) và một khoảng thời gian nhất định trước khi phát hành báo cáo chính thức. Trong giai đoạn này, kiểm toán viên phải thu thập được các bằng chứng đầy đủ, phù hợp, minh chứng cho mức độ trung thực và hợp lý (true and fair view) của các báo cáo tài chính của khách hàng.
*Giai đoạn kết thúc kiểm toán.
Đây là giai đoạn cuối cùng của mọi cuộc kiểm toán, bao gồm việc tổng hợp, hoàn thiện công việc và phát hành báo cáo kiểm toán.
Tại Grant Thornton, ngoài kiểm toán viên chính của cuộc kiểm toán (senior auditor in- charge) có trách nhiệm kiểm tra quá trình thực hiện công việc của các kiểm toán viên, còn có các cấp kiểm soát cao hơn như giám sát kiểm toán (audit supervisor), phụ trách kiểm toán (audit manager), và cuối cùng là sự phê duyệt của giám đốc kiểm toán (audit partner). Các ý kiến kiểm toán cuối cùng cũng như báo cáo kiểm toán phải trải qua 3 cấp xét duyệt mới được ban hành một cách chính thức. Vì vậy, tính chính xác của công việc được đảm bảo ở mức cao.
Các giải pháp nhằm hoàn thiện phương pháp kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền của Công ty TNHH Grant Thornton Việt Nam.
Sự cần thiết của việc hoàn thiện kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền do Công ty TNHH Grant Thornton thực hiện.
Với sự phát triển mạnh mẽ của tài chính kế toán trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng, hoạt động của ngành kiểm toán dường như đã trở thành một tất yếu khách quan. Không chỉ là một ngành kinh tế độc lập, kiểm toán đã và đang là một công cụ quan trọng giúp Nhà nước kiểm soát và điều hành nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ hội nhập.
Thành lập năm 1993, đến nay đã trải qua 15 hoạt động trên lĩnh vực kế toán tài chính và tư vấn, kiểm toán, Grant Thornton đã và đang trở thành một cái tên có uy tín trong làng kiểm toán Việt Nam. Tuy nhiên với sự cạnh tranh gay gắt của các công ty kiểm toán khác, đồng thời đặt mục tiêu vươn cao, vươn xa hơn nữa trong chất lượng dịch vụ, Grant Thornton cần không ngừng hoàn thiện hoạt động của mình, đặc biệt là trong lĩnh vực kiểm toán.
Chu trình Bán hàng- Thu tiền là một chu trình quan trọng, liên quan đến nhiều khoản mục trên báo cáo tài chính của các đơn vị, đồng thời cũng là một chu trình chứa đựng nhiều rủi ro, gian lận hoặc sai sót. Chính vì vậy, trong tổng thể một chương trình kiểm toán, chu trình này luôn là một phần hành quan trọng, đòi hỏi sự đầu tư về cả thời gian và chi phí của công ty kiểm toán. Hoàn thiện việc kiểm toán chu trình này là một đòi hỏi quan trọng, không những là nhiệm vụ của kiểm toán viên, mà còn là cơ sở cho kiểm toán viên đưa ra những tư vấn, góp ý quan trọng đối với ban quản lý của khách hàng nhằm hoàn thiện vai trò quản lý cũng như bộ máy vận hành chung của doanh nghiệp.
Với những đòi hỏi chung và riêng đó, hoàn thiện công việc kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền là một nhiệm vụ quan trọng ở mọi thời điểm của các công ty kiểm toán và của Grant Thornton.
2.2. Một vài định hướng nhằm hoàn thiện việc kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền do Công ty TNHH Grant Thornton Việt Nam thực hiện.
Qua một thời gian được thực hành các kiến thức đã học tại Công ty TNHH Grant Thornton Việt Nam, qua nghiên cứu lý luận và tìm hiểu thực tiễn quy trình kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền của Công ty, em xin được đưa ra một vài ý kiến nhỏ với mong muốn được đóng góp vào việc hoàn thiện kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền của Công ty.
*Đối với giai đoạn tiếp cận khách hàng và kế hoạch tiếp cận khách hàng.
Với một đội ngũ kiểm toán viên nhiệt tình, thân thiện và có lối làm việc hết sức cởi mở với khách hàng, Grant Thornton là hình ảnh một công ty kiểm toán trẻ trung và được khách hàng tin cậy, với số lượng khách hàng cũ được duy trì và khách hành mới gia tăng trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, để tạo đực sự tin cậy nơi khách hàng, Công ty cần chú trọng hơn nữa công tác tiếp cận và thu thập thông tin về khách hàng.
Tuân theo đúng Chuẩn mực Kiểm tóan Việt Nam số 300, công ty thực hiện rất tốt công tác tiếp cận khách hàng khi thực hiện công việc này với các khách hàng mới. Nhưng do quỹ thời gian hạn hẹp phân bổ cho một khối lượng công việc đồ sộ của mỗi cuộc kiểm toán, nên việc tiếp cận và thu thập thông tin với các khách hàng cũ, khách hàn thường niên lại chưa được chú trọng. Phần lớn các thông tin, hiểu biết về khách hàng vẫn duy trì từ các hồ sơ kiểm toán các giai đoạn trước, tuy có bổ sung những thay đổ thực tế từ phía khách hàng, song như vậy vẫn chưa đủ. Công ty có thể tìm hiểu thêm về thông tin sản xuất kinh doanh cũng như tình hình tài chính của khách hàng dựa trên báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng khác. Các nguồn này sẽ cung cấp thêm những thông tin hứu ích và đảm bảo rằng kiểm toán viên và công ty kiểm toán đã không bỏ sót thông tin quan trọng nào có ảnh hưởng tới chất lượng và kết quả cuộc kiểm toán.
Để đạt được điều nay, kiểm toán viên nên linh hoạt và tích cực hơn nữa trong công việc tiếp cận khách hàng, kể cả đối với các khách hàng cũ và khách hàng mới. Đặc biệt đối với chu trình Bán hàng- Thu tiền, một chu trình đặc biệt quan trọng, kiểm toán viên cần theo dõi và tìm hiểu xem trong giai đoạn được kiểm toán, khách hàng có những thay đổi gì về các quy chế nội bộ, bộ máy quản lý cũng như bộ máy kế toán, chính sách bán hàng, các quy định về giá bán cũng như nguyên tắc hạch toán,... Các thông tin này có thể khai thác từ việc phỏng vấn trực tiếp nhân viên quản lý, nhân viên kế toán hay những người có liên quan khác tới chu trình này. Còn đối với các khách hàng mới, tìm hiểu và thu thập thông tin về khách hàng đòi hỏi được thực hiện kỹ càng hơn, đầy đủ hơn. Đó sẽ là bước khởi đầu quan trọng cho kiểm toán viên xây dựng một chương trình kiểm toán thật phù hợp, làm nền tảng cho một cuộc kiểm toán thành công, cũng như là nền móng vững vàng để triển khai kiểm toán trong những giai đoạn tiếp theo cho chính khách hàng đó.
*Về thực hiện thủ tục phân tích:
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 520 có quy định về quy trình phân tích trong kiểm toán Báo cáo tài chính như sau: “Quy trình phân tích là việc phân tích các số liệu, thông tin, các tỉ suất quan trọng qua đó tìm ra những xu hướng, biến động và tmf ra những mối quan hệ có mâu thuẫn với các thông tin có liên quan khác hoặc có sự chênh lệch lớn so với dự kiến”. Theo đó, quy trình phân tích bao gồm các công việc như so sánh thông tin tương ứng của kỳ này so với kỳ trước, so sánh các thông tin dự kiến cũng như thực tế thực hiện được tại đơn vị, so sánh số tựhc tế với các ước tính của chính kiểm toán viên, so sánh các chỉ tiêu của đơn vị với các chỉ tiêu chung của ngành hay các doanh nghiệp khác kinh doanh trong cùng ngành với đơn vị,... Đây là quy định về các thủ tục bắt buộc phải áp dụng trong mọi giai đoạn của một cuộc kiểm toán và trong mọi cuộc kiểm toán. Tuy nhiên, trên thực tế, tại Grant Thornton noic hugn và tại các công ty kiểm toán nói chung, các thủ tục này chỉ được thực hiện trong kiểm toán các phấn hành chỉ yếu, quan trọng như doanh thu, chi phí,... của giai đoạn thực hiện kiểm toán mà không áp dụng với các giai đoạn khác. Điều này có thể dẫn đến việc kiểm toán viên không xác định được hết các sai sót, gian lận, hoặc không phát hiện được các sai sót và gian lận đó ngay từ đầu, có thể gây ảnh hưởng đến chất lượng cuộc kiểm toán. Công ty nên tăng cường các thủ tục phân tích và tiến hành các thủ tục này trong mọi giai đoạn của cuộc kiểm toán theo đúng quy định trong Chuẩn mực Kiểm tóan Việt Nam cũng như các quy định, chuẩn mực quốc tế. Thông qua các bước so sánh, với các chỉ tiêu cụ thể như các con số thống kê, các định mức hay các ước tính ban đầu của chính doanh nghiệp, của kiểm toán viên hoặc của các đơn vị cùng ngành với khách hàng,... để phản ánh đúng tình hình kinh doanh, hoạt động cũng như tình hình tài chính của khách hàng.
*Về công việc đánh giá rủi ro, trọng yếu và rủi ro kiểm toán.
Xác định mức độ trọng yếu và rủi ro kiểm toán là một công việc quan trọng và cần thiết đối với mỗi cuộc kiểm toán, có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng công việc cũng như các kết luận của kiểm toán viên. Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam có quy đinh rằng, khi lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên cần xác định mức trọng yếu có thể chấp nhận được làm tiêu chuẩn phát hiện những sai sót trọng yếu về mặt định lượng (Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam, số 320) và sử dụng khả anưng xét đoán chuyên môn của mình để đánh giá rủi ro kiểm toán và xác định các thủ tục kiểm toán nhằm giảm rủi ro này xuống mức thấp nhất có thể (Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam, số 400). Lý thuyết là vậy, nhưng trên thực tế lại không có bất kỳ một sự hướng dẫn hay một con số cụ thể nào làm cơ sở cho các kiểm toán viên xác định hai chỉ tiêu quan trọng này. Điều đó dẫn đến một thực tế là mỗi công ty kiểm toán có một cách xác định trọng yếu và rủi ro khác nhau.
Với Grant Thornton, trọng yấu và rủi ro được xác định dựa trên cơ sở cụ thể do Công ty xây dựng. Vì không có một chuẩn mực nào đế đánh giá hay so sánh để thấy được điểm mạnh cũng như điểm yếu trong phương pháp của mình, do vậy Công ty nên tìm hiểu thêm phương thức đánh giá trọng yếu và rủi ro được xây dựng tại các công ty kiểm toán khác như thực hiện phân tích rủi ro kinh doanh chiến lược hay rủi ro các nhóm nghiệp vụ trọng yếu tại KPMG, hệ thống phương pháp kiểm toán AS/2 cho phép đánh giá mức độ trọng yếu được thực hiện theo chương trình tại VACO,...
*Về chương trình kiểm toán:
Một chương trình kiểm toán bao gồm việc dự kiến chi tiết về các công việc kiểm toán cần thực hiện, thời gian hoàn thành công việc hay dự kiến chi tiết về nhân sự cho cuộc kiểm toán.
Về sự các dự kiến chi tiết về các công việc kiểm toán cần thực hiện, thời gian hoàn thành công việc hay dự kiến nhân sự cho cuộc kiểm toán được Công ty thực hiện rất đầy đủ, chi tiết và hiệu quả. Về chương trình kiểm toán bao gồm các bước công việc hay các thủ tục kiểm toán cụ thể, Công ty áp dụng chương trình kiểm toán Horizon và phần mềm kiểm toán Explorer tiên tiến đã chững minh được hiệu quả về thời gian cũng như vật chất rất lớn. Phần mềm tiện dụng này với các tính năng độc đáo và phương thức kiểm toán điện tử (electric mode) khiến các kiểm toán viên tiết kiệm được rất nhiều thời gian chuẩn bị giấy tờ làm việc (working paper) cũng như bảo quản, lưu giữ,...so với phương thức làm việc trên giấy (paper mode). Chương trình kiểm toán được xây dựng mẫu nhưng thay đổi phù hợp với từng khách hàng, hoặc với từng giai đoạn kiểm toán khác nhau đối với cùng một khách hàng đảm bảo tinh linh hoạt cho chương trình cũng như chất lượng của cuộc kiểm toán. Tuy nhiên, Công ty cũng cần lưu ý bảo mật thông tin đối với các thông tin về khách hàng cũng như giấy tờ làm việc của các kiểm toán viên, tránh mất mát hay hư hỏng do virus máy tính xâm nhập khi sử dụng phương thức điện tử (electric mode) này.
*Về giai đoạn thực hiện kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền
Chu trình Bán hàng- Thu tiền được Công ty thực hiện kiểm toán dựa trên kiểm toán các khoản mục doanh thu, các khoản phải thu và khoản mục tiền của khách hàng.
-Về các công việc kiểm tra chi tiết:
Đối với doanh thu, các kiểm toán viên tiến hành các thủ tục phận tích để so sánh số liẹu của khoản mục này năm nay so với năm trước, trên thực tế và theo ước tính, so sánh với các chỉ tiêu ngành,... để xem xét các biến động bất thường và chỉ ra nguyên nhân. Kiểm toán viên cũng kết hợp kiểm tra chi tiết các loạic hứng từ liên quan.
Đối với các khoản phải thu và khoản mục tiền (bao gồm tiền mặt và tiền gửi ngân hàng), kiểm toán viên tiến hành xác minh số dư đầu năm, cuối năm cũng nhe phát sinh trong năm của các khoản mục này. Đối với các khoản mục này, chương trình kiểm toán bao giờ cũng yêu cầu các kiểm toán viên thu thập đầy đủ các xác nhận liên quan đến số dư đầu năm, cuối năm cũng như số phát sinh trong năm thông qua các bản Xác nhận công nợ (Debtor confirmation), Biên bản kiểm quỹ đột xuất (Suprised cash count minute), Bảng đối chiếu số liệu với ngân hàng (Bank reconciliation),... Các xác nhận chi tiết này cung cấp một bằng chứng đáng tin cậy cho kiểm toán viên làm căn cứ đối chiếu số liệu của khách hàng, phát hiện các chênh lệch và điều tra nguyên nhân.
Tuy nhiên, do khối lượng công việc quá lớn, các cuộc kiểm toán đối với các khách hàng khác nhau được thực hiện liên tục với một số lượng kiểm toán viên có hạn, do vậy khi một cuộc kiểm toán kết thúc, các kiểm toán viên khó có khả năng quản lý các thư xác nhận chưa có phản hồi hay chưa nhận được từ bên thứ ba do phải tiếp tục nhận ngay công việc ở một cuộc kiểm toán mới. Hạn chế về mặt số lượng kiểm toán viên này có khả năng dẫn đến việc thiếp nhận và bảo quản các thư xác nhận không được đảm bảo.
-Về thực hiện kiểm tra chọn mẫu:
Vì khối lượng các nghiệp vụ cũng như khối lượng chứng từ của các khách hàng quá lớn, cho nên việc áp dụng kiểm tra 100% là không thể thực hiện được trong quỹ thời gian có hạn của một cuộc kiểm toán. Chính vì vậy, theo đúng Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 530 về Lấy mẫu kiểm toán và các thủ tục lựa chọn khác, Công ty tiến hành kiểm tra theo mẫu. Thông thường các mẫu được kiểm toán viên lựa chọn kiểm tra thường là càc ghi chép hoặc chứng từ của những nghiệp vụ phát sinh lớn. Tuy nhiên không ngoại trừ trường hợp gian lận hoặc sai sót xảy ra đối với các nghiệp vụ phát sinh nhỏ. Để giảm thiểu những thiếu sót đáng tiếc do quá trình chọn mẫu, kiểm toán viên có thể áp dụng nhiều phương pháp điều tra chọn mẫu như chọn mẫu ngẫu nhiên, chọn mẫu hệ thống, chọn mẫu phi xác suất, chọn mẫu theo khối, chọn mẫu theo nhận định nhà nghề,...
-Về thực hiện thủ tục phân tích:
Như đã nhận xét ở trên, các thủ tục phân tích thường chỉ được áp dụng cho giai đoạn thực hiện kiểm toán. Các kiểm toán viên cần tuân theo đúng Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam, thực hiện thủ tục này trong mọi giai đoạn của cuộc kiểm toán.
*Về giai đoạn kết thúc kiểm toán và phát hành Báo cáo kiểm toán:
Giai đoạn này được các kiểm toán viên thực hiện tốt, tuân thủ theo các Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam. Các bằng chứng kiểm toán đã thu thập được các kiểm toán viên bảo quản, sắp xếp theo một thứ tự quy định, phù hợp để hình thành nên hệ thống file giấy, phục vụ cho việc đối chiếu của các cấp quản lý cao hơn trong Công ty bên cạnh file bản mềm bao gồm các giấy tờ làm việc của kiểm toán viên. Kiểm toán viên chính phụ trách cuộc kiểm toán (senior auditor in- charge) tập hợp cả file giấy và file mềm, tổng hợp các phát hiện, dựa trên các đề xuất điều chỉnh của kiểm toán viên để đưa ra các bút toán điều chỉnh cuối cùng và phát hành báo cáo kiểm toán.
*Một vài kiến nghị khác:
Trên thực tế, hầu hết các khách hàng của Công ty đều áp dụng hệ thông kế toán máy và các số liệu khách hàng cung cấp đều dưới dạng bản mềm. Đây sẽ là các số liệu cho các kiểm toán viên sử dụng, đối chiếu. Tuy nhiên, rủi ro khi sử dụng các số liệu này cũng không nhỏ. Các phần mềm kế toán của khách hàng có thể chứa đựng các sai sót hay che dấu các gian lận, đồng thời quá trình copy từ máy tính của khách hàng sang máy tính của kiểm toán viên có thể có sái sót, làm sai lệch thông tin được phản ánh, dẫn đến giảm chất lượng cuộc kiểm toán. Vì vậy, Công ty nên xem xét xây dựng một phần mềm hoặc một giải pháp máy tính tương tự để khắc phục các điểm hạn chế trên, nâng cao chất lượng của cuộc kiểm toán nói chung và chất lượng dịch vụ nói chung của Công ty.
KẾT LUẬN
Sau Nghị định số 105/2004/NĐ- CP của Bộ Tài chính ban hành ngày 30/03/2004 về việc bắt buộc kiểm toán đối với một số loại hình doanh nghiệp, cánh cửa phát triển dường như đã mở rộng đối với các công ty kiểm toán nói riêng và ngành kiểm toán, với tư cách là một ngành độc lập, nói chung. Thị trường ngày càng mở rộng, các chính sách hỗ trợ từ phía Chính phủ ngày một nhiều là những cơ hội thật sự cho các công ty kiểm toán. Nhưng sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty và đòi hỏi ngày một lớn từ phía khách hàng cũng là những thử thách rất lớn. Làm thế nào để hoàn thiện bộ máy quản lý, nâng cao chuyên môn và đạo đức kiểm toán viên, đảm bảo chất lượng dịch vụ tới khách hàng đang là một bài toán lớn đối với các công ty kiểm toán.
Trong thời gian được thực tập tại Công ty TNHH Grant Thornton Việt Nam, em đã có rất nhiều bài học bổ ích. Không chỉ có cơ hội được tham khảo sách báo, tài liệu, em còn được trực tiếp tham gia cuộc kiểm toán từ khi đi thực tế tại khách hàng cho đến lúc kết thúc cuộc kiểm toán. Khoảng thời gian không dài nhưng đủ nhiều để em có thể học hỏi được những kiến thức thực tế bên cạnh lý luận được nhà trường trang bị về kiểm toán nói chung và kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền nói riêng. Qua đây em đã hoàn thành được chuyên đề thực tập tốt nghiệp với đề tài: “Kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền do Công ty TNHH Grant Thornton thực hiện”, đồng thời có những hiểu biết thực tiễn quý báu cho công việc trong thời gian tới.
Thay lời kết, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của Thày giáo, PGS-TS Ngô Trí Tuệ và sự chỉ bảo, tạo điều kiện về mọi mặt của các anh, các chị Phòng Kiểm toán, Công ty TNHH Grant Thornton Việt Nam trong quá trình thực tập tại Công ty để em có thể hoàn thành chuyên đề này.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28555.doc