MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp trong đó có Viện kiểm sát (VKS) là một đòi hỏi có tính cấp bách của Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: "Viện kiểm sát nhân dân tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp", yêu cầu trên đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức VKS năm 2002.
Kiểm sát hoạt động tư pháp tr
134 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1680 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - Điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự thể hiện chức năng của VKS, bảo đảm hoạt động khởi tố - điều tra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Đồng thời còn là biểu hiện của việc thực hiện quyền lực nhà nước góp phần ổn định xã hội, phát triển kinh tế và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Nghị quyết số 08/NQTW ngày 2/1/2002 của Bộ chính trị đã đặt ra yêu cầu: "Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng làm nhiệm vụ... Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ, bảo đảm đúng pháp luật; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong bắt, giữ. Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những oan, sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình". Để đáp ứng yêu cầu này ngành kiểm sát phải không ngừng nâng cao chất lượng thực hiện chức năng của mình trong quá trình giải quyết vụ án.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, VKS đã cố gắng thực hiện tốt chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự góp phần có hiệu quả trong đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, hoạt động của VKS vẫn còn có những hạn chế trong việc thực hiện chức năng của mình, như: Vẫn để xảy ra tình trạng hồ sơ vụ án phải trả để điều tra bổ sung nhiều, vẫn còn nhiều người bị bắt, khởi tố, điều tra oan, sai. Theo số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) trong năm 2000: Trong cả nước có 92/ 8850 người bị lạm dụng bắt khẩn cấp; Cơ quan điều tra (CQĐT) và VKS đã đình chỉ 362 vụ án vì không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm, trong số bị can bị đình chỉ thì có 1939 người bị áp dụng biện pháp tạm giam; trong thời gian từ 1/12/2001 đến 31/11/2002 trong cả nước có 1925 vụ/ tổng số 49684 vụ án VKS các cấp phải trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung v.v... Những hạn chế đó đã gây ra những hậu quả về danh dự, nhân phẩm cũng như vật chất đối với những người bị bắt, khởi tố - điều tra oan, sai hơn nữa còn làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của ngành kiểm sát nói riêng và các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung trước quần chúng nhân dân và dư luận xã hội.
Thời gian qua Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung và ban hành nhiều văn bản pháp luật như: Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi), Luật tổ chức VKS năm 2002 và BLTTHS năm 2003 nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và VKS nói riêng. Các văn bản pháp luật trên có nhiều quy định mới liên quan đến chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS. Vì vậy, cần nghiên cứu làm rõ nội dung các quy định của luật góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát của VKS.
Từ các yêu cầu đặt ra nói trên, thì việc nghiên cứu chức năng "Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát" là hết sức cần thiết cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Nên tôi đã chọn đề tài này làm đề tài cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự là một đề tài rộng. Đề tài này đã được một số tác giả nghiên cứu và các công trình khoa học đó đã công bố, như: Tác giả Nguyễn Thành Trì, Luận văn cao học luật, năm 1996 "Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn khởi tố điều tra án hình sự"; tác giả Vũ Thị Xuân Nhuệ, Luận văn cao học luật, năm 1998, "Một số hoạt động kiểm sát điều tra án kinh tế tại thành phố Hồ Chí Minh". Các công trình khoa học nói trên mặc dù có đề cập đến chức năng kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự của VKS, nhưng lại nghiên cứu đối với vụ án kinh tế hay mới dừng lại ở hoạt động nghiệp vụ kiểm sát khởi tố - điều tra, mà chưa đi sâu làm rõ về mặt lý luận chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự là một trong hai chức năng chính của VKS. Hơn nữa, các công trình khoa học đó nghiên cứu trên cơ sở các quy định của các văn bản pháp luật quy định chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự trước đây, hiện nay các văn bản pháp luật đó đã được sửa đổi, bổ sung với nhiều quy định mới. Do vậy, hiện nay tiếp tục cần có sự nghiên cứu cụ thể và toàn diện hơn.
Luận văn nghiên cứu tương đối toàn diện lý luận và thực tiễn chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu chức năng "Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự" nhằm làm rõ bản chất của hoạt động này trong giai đoạn khởi tố - điều tra và mối liên hệ chặt chẽ giữa các khâu kiểm sát trong hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Luận văn cũng nghiên cứu thực trạng hoạt động kiểm sát tư pháp của VKS trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự từ năm 1999 đến nay. Trên cơ sở đó chỉ ra những hạn chế của hoạt động này và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự.
Để thực hiện mục đích nói trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm sáng tỏ lý luận về giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự; hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra trong tố tụng hình sự.
- Khảo sát thực tiễn thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của VKS, từ đó thấy được những ưu điểm, tích cực và mặt hạn chế để từ đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu quả của việc thực hiện chức năng này.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận cơ bản về giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự và hoạt động kiểm sát của VKS trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Luận văn giới hạn việc khảo sát thực tiễn từ năm 1999 đến nay trên địa bàn toàn quốc.
4. Ý nghĩa và điểm mới của luận văn
Các kết quả của luận văn có ý nghĩa nhất định về mặt khoa học góp phần xây dựng một cách nhìn toàn diện về hoạt động kiểm sát của VKS trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Qua đó thấy được vai trò to lớn của VKS trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Luận văn có nêu ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả cho công tác Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của VKS. Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu tác giả có sự so sánh giữa các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) 1988 với các quy định của BLTTHS 2003 để thấy được những điểm mới liên quan đến hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Hơn nữa, các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, học tập cũng như làm tài liệu cho các cán bộ kiểm sát trong hoạt động nghiệp vụ của mình.
5. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở nhận thức luận của chủ nghĩa Mác - Lênin với phương pháp luận là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Đồng thời để phục vụ các nhiệm vụ khoa đặt ra từ đề tài luận văn, luận văn có sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phân tích, tổng hợp, so sánh và khảo sát thực tế.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giai đoạn khởi tố - điều tra và hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra trong tố tụng hình sự.
Chương 2: Pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự.
Chương 3: Thực trạng, giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ - ĐIỀU TRA VÀ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT KHỞI TỐ - ĐIỀU TRA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VÀ GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
Khi tội phạm xảy ra, việc giải quyết vụ án phải trải qua nhiều giai đoạn và do nhiều cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nhằm xác định chính xác, khách quan bản chất vụ án, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Toàn bộ quá trình giải quyết vụ án được gọi là tố tụng hình sự.
Theo định nghĩa của giáo trình Luật tố tụng hình sự Viện Nam, Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội thì: "Tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, nhằm giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật" [6].
Quá trình giải quyết vụ án hình sự được chia thành các giai đoạn, mỗi giai đoạn tố tụng hình sự có nhiệm vụ giải quyết những yêu cầu khác nhau và tương ứng với mỗi giai đoạn đó là chức năng cụ thể của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định. Như vậy, giai đoạn tố tụng hình sự được hiểu:
Là bước của quá trình tố tụng hình sự tương ứng với chức năng nhất định trong hoạt động tư pháp hình sự của từng loại chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc để giải quyết vụ án hình sự một cách công minh, khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ vững chắc các quyền và tự do của công dân [5].
BLTTHS nước ta chia quá trình giải quyết vụ án hình sự thành bốn giai đoạn bao gồm: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; giai đoạn điều tra vụ án hình sự và truy tố; giai đoạn xét xử vụ án hình sự và giai đoạn thi hành bản án hình sự. Đối với hoạt động xét xử phúc thẩm, tái thẩm và giám đốc thẩm không phải là các giai đoạn tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết vụ án hình sự mà các hoạt động đó là thủ tục tố tụng đặc biệt để xét lại những vụ án hình sự đã xét xử có kháng cáo và kháng nghị.
Luận văn này không có điều kiện xem xét tất cả các giai đoạn của Tố tụng hình sự, mà chỉ tập trung vào nghiên cứu chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai đoạn khởi tố - điều tra. Vì vậy, sau đây chúng tôi sẽ trình bày khái niệm, đặc điểm của giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự và hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra trong tố tụng hình sự.
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
a) Khái niệm
Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng. Trong giai đoạn này cơ quan có thẩm quyền bào gồm CQĐT, VKS, Tòa án và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như cơ quan Kiểm lâm, Hải quan,... được áp dụng một số biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để kiểm tra, xác minh làm rõ tính xác thực của các tin báo, tố giác về tội phạm đã tiếp nhận. Việc kiểm tra, xác minh các tin báo, tố giác về tội phạm có thể được thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau tùy thuộc vào tính chất của sự việc, các biện pháp đó có thể là: Yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc công dân cung cấp tài liệu cần thiết và thông tin liên quan đến tin báo, tố giác về tội phạm; yêu cầu cung cấp các kết luận thanh tra, kiểm tra liên quan đến thông tin về tội phạm để làm rõ sự việc; khám nghiệm hiện trường thu thập dấu vết phạm tội; áp dụng biện pháp tạm giữ; lấy lời khai của người bị tạm giữ; lấy lời khai của người tố giác tội phạm v.v...
Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự nên cũng có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc. Thời điểm bắt đầu của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự được xác định từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện hoặc tiếp nhận các thông tin tố giác, tin báo về tội phạm và thời điểm kết thúc khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Khoảng thời gian của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự tùy thuộc vào tính phức tạp hay không phức tạp của các tin báo, tố giác về tội phạm mà các cơ quan tiến hành tố tụng đã tiếp nhận, thụ lý. Theo quy định Luật tố tụng hình sự thì thời gian tối thiểu của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là 20 ngày và tối đa không quá 2 tháng kể từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng tiếp nhận được các tin báo, tố giác về tội phạm.
Nhiệm vụ chính của giai đoạn này là chỉ xác định có hay không có dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Do vậy, ở giai đoạn khởi tố vụ án hình sự các cơ quan tiến hành tố tụng chưa thể kết luận chính xác ngay được về tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội. Để kết luận chính xác các nội dung đó thì phải chuyển qua giai đoạn tiếp theo của quá trình tố tụng hình sự đó là giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Như vậy, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có thể hiểu: "Là giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng hình sự trong đó, các cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự nhằm làm cơ sở cho các hoạt động tố tụng tiếp theo của quá trình giải quyết vụ án hình sự" [6].
b) Đặc điểm: Từ khái niệm trên, có thể đưa ra những đặc điểm chung, cơ bản của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự như sau:
Thứ nhất, giai đoạn khởi tố vụ án là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên, có thời hạn được xác định từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện hoặc tiếp nhận các tố giác, tin báo về tội phạm và thời điểm kết thúc khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Thứ hai, nhiệm vụ quan trọng của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự chỉ xác định có hay không có dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Thứ ba, chủ thể có thẩm quyền tiến hành các hoạt động trong giai đoạn khởi tố, ngoài các cơ quan tiến hành tố tụng (CQĐT, VKS, Tòa án) còn có những cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như cơ quan Kiểm Lâm, Hải quan,...Những cơ quan này trên cơ sở kết quả kiểm tra, xác minh thông tin về tội phạm sẽ ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Thứ tư, các biện pháp mà các cơ quan có thẩm quyền được sử dụng trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự bao gồm: Biện pháp yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc công dân cung cấp tài liệu cần thiết liên quan đến thông tin về tội phạm; khám nghiệm hiện trường thu thập dấu vết phạm tội; áp dụng biện pháp tạm giữ; lấy lời khai của người bị tạm giữ; lấy lời khai của người tố giác tội phạm v.v...
1.1.2 Khái niệm và đặc điểm giai đoạn điều tra vụ án hình sự
a) Khái niệm: Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố tụng hình sự được BLTTHS quy định trong 6 chương, từ chương VIII đến chương XIII. Giai đoạn điều tra được xác định bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự cho đến khi CQĐT chuyển toàn bộ hồ sơ tài liệu và kết luận điều tra sang VKS đề nghị truy tố. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khi có đủ các căn cứ do pháp luật quy định thì vụ án bị đình chỉ điều tra và tất nhiên các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra đối với vụ án đó sẽ chấm dứt, nên trong trường hợp vụ án bị đình chỉ điều tra thì cũng được coi là thời điểm chấm dứt giai đoạn điều tra vụ án.
Khoảng thời gian bắt đầu cho đến khi kết thúc của giai đoạn điều tra được Luật tố tụng hình sự quy định khá cụ thể, theo đó thời hạn điều tra (kể cả các lần gia hạn điều tra) đối với tội ít nghiêm trọng tối đa không quá 4 tháng, đối với tội nghiêm trọng không quá 8 tháng, đối với tội rất nghiêm trọng không quá 12 tháng, đối với tội đặc biệt nghiêm trọng không quá 20 tháng kể từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Riêng đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia ngoài các thời hạn điều tra nêu trên thì Viện trưởng VKSNDTC có quyền gia hạn thêm khi thấy cần thiết, thời hạn gia hạn thêm không quy định cụ thể mà tùy vào tính chất phức tạp của vụ án mà Viện trưởng VKSNDTC ấn định thời gian gia hạn.
Nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, bởi kết quả của hoạt động điều tra là để phục vụ cho việc xét xử của Tòa án, mọi quyết định của Tòa án về sự việc phạm tội và người thực hiện tội phạm đều phải dựa trên cơ sở các chứng cứ đã thu thập được ở giai đoạn điều tra. Cho nên nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là cơ quan tiến hành tố tụng có quyền áp dụng mọi biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để chứng minh tội phạm và người thực hiện tội phạm, các tình tiết khác có liên quan đến vụ án, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị với các cấp các ngành thực hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm. Nhiệm vụ trên được thực hiện bởi các chủ thể là CQĐT và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Tất cả các hoạt động tố tụng được thực hiện bởi chủ thể của giai đoạn điều tra đều phải tuân theo đúng các quy định của Luật tố tụng hình sự góp phần giải quyết vụ án hình sự được nhanh chóng, khách quan và đúng pháp luật.
Như vậy, giai đoạn điều tra vụ án hình sự được hiểu là:
Một giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao một số hoạt động điều tra được sử dụng các biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm, người phạm tội và những vấn đề khác có liên quan đến vụ án làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án. Đồng thời thông qua hoạt động điều tra xác định nguyên nhân điều kiện phạm tội đối với từng vụ án cụ thể và kiến nghị các biện pháp phòng ngừa với các cơ quan và tổ chức hữu quan [6].
b) Đặc điểm: Từ khái niệm về giai đoạn điều tra vụ án hình sự nêu trên, có thể rút ra các đặc điểm cơ bản và đặc trưng của giai đoạn này như sau:
Thứ nhất, giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố tụng hình sự có thời hạn xác định bắt đầu từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình sự cho đến khi CQĐT chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án và kết luận điều tra sang VKS đề nghị truy tố hoặc CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án.
Thứ hai, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra vụ án hình sự là các cơ quan có thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để chứng minh tội phạm và người phạm tội, làm rõ các tình tiết liên quan đến vụ án bao gồm cả tình tiết buộc tội và tình tiết gỡ tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị với các cấp các ngành thực hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm.
Thứ ba, chủ thể thực hiện các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều chỉ là CQĐT hoặc các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Các tài liệu do chính hoạt động của các chủ thể nói trên tiến hành thu thập mới được coi là những chứng cứ làm cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự. Còn các tài liệu có liên quan đến vụ án do các hoạt động khác cung cấp như hoạt động trinh sát thì phải được CQĐT kiểm tra và thẩm định lại thì mới được coi là chứng cứ để chứng minh tội phạm.
Thứ tư, biện pháp mà các chủ thể áp dụng trong giai đoạn điều tra là mọi biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định, việc áp dụng các biện pháp đó tùy thuộc vào tính chất, mức độ của từng vụ án. Cụ thể các biện pháp đó là: Hỏi cung bị can; lấy lời khai người làm chứng; lấy lời khai người bị hại; tạm giam; cấm đi khỏi nơi cư trú; khám xét khẩn cấp; bắt tạm giam v.v... Các biện pháp được áp dụng phải theo đúng quy định của Luật tố tụng hình sự.
1.2. KIỂM SÁT CÁC HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG KHỞI TỐ - ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.2.1. Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đập tan bộ máy chính quyền thực dân phong kiến tồn tại trên đất nước ta gần 100 năm. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại thay mặt toàn thể nhân dân Việt Nam đọc bản tuyên ngôn độc lập đánh dấu sự ra đời của Nhà nước dân chủ nhân dân Việt Nam.
Từ khi ra đời, Nhà nước ta đứng trước những yêu cầu của quá trình xây dựng và củng cố đất nước, trong đó việc tuân thủ pháp luật của của các cơ quan nhà nước và mọi công dân là một trong những yêu cầu cấp bách cần thực hiện. Muốn đáp ứng được yêu cầu đó cần tổ chức thành lập một cơ quan nhà nước có chức năng kiểm tra và giám sát các hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước và mọi công dân nhằm bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Lênin là người đầu tiên có quan điểm về tổ chức cơ quan kiểm tra, giám sát, quan điểm đó được thể hiện trong tác phẩm bàn về "Song trùng, trực thuộc và pháp chế". Lênin xuất phát từ một vấn đề có tính quy luật là: Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải thiết lập một nền pháp chế thống nhất, điều mà Lênin gọi "pháp chế chỉ có một" với ba yêu cầu "phải có sự thống nhất về pháp chế trong toàn nước cộng hòa"; "phải có luật duy nhất trong toàn nước công hòa" và "phải có sự áp dụng thực hiện và tuân theo pháp luật một cách thống nhất". Lênin cho rằng, để bảo đảm sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa cần phải thiết lập một nền pháp chế thống nhất, trật tự kỷ cương phép nước phải nghiêm minh. Vậy, muốn có pháp chế thống nhất không thể không thành lập cơ quan VKS.
Vận dụng tư tưởng của Lênin vào thực tiễn xây dựng, tổ chức bộ máy Nhà nước ta. Đảng và Nhà nước đã nhận định rằng, để đảm bảo cho pháp luật do Nhà nước ban hành được thực hiện một cách nghiêm minh và thống nhất thì việc tổ chức một cơ quan có chức năng kiểm tra và giám sát hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước và công dân là một đòi hỏi mang tính khách quan nên đã quyết định thành lập cơ quan VKS. Quan điểm trên đã được thể chế hóa trong các hiến pháp từ Hiến pháp năm 1959 đến Hiến pháp 1992 (sửa đổi).
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) trong đó có sự điều chỉnh chức năng của cơ quan VKS với quy định "Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật" (Điều 137). Luật tổ chức VKSND năm 2002 đã cụ thể hóa quy định trên với nội dung quy định rõ Viện kiểm sát thực hiện chủ yếu hai chức năng đó là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Sự điều chỉnh đã đưa ra tiền đề cho việc nghiên cứu làm rõ chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát.
Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp là một vấn đề được quan tâm nghiên cứu, tranh luận trong suốt quá trình lập Hiến và lập pháp cũng như trong quá trình đổi mới cải cách tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp nước ta trong thời gian qua. Nên, với mục đích đi sâu nghiên cứu làm rõ chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự để giúp chúng ta nhận thức và phân biệt hình thức hoạt động của VKS với hoạt động của các cơ quan nhà nước khác. Đồng thời đưa đến sự nhận thức chung, thống nhất của toàn thể cán bộ ngành kiểm sát nhằm thực hiện tốt và có hiệu quả các quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2002 trong thực tiễn, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Chức năng theo định nghĩa chung nhất được hiểu là những phương diện, hướng hoạt động của tổ chức, cá nhân thể hiện bản chất của hoạt động đó. Với quy định tại Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Điều 1 Luật tổ chức VKSND năm 2002 thì chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp được coi là vấn đề căn bản xuyên suốt toàn bộ hoạt động của hệ thống cơ quan VKS, đồng thời thể hiện bản chất trong hoạt động của VKS nước ta.
Thuật ngữ "kiểm sát các hoạt động tư pháp" được xuất hiện trong các văn kiện của Đảng như Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết số 08 ngày 02 /1/2002 của Bộ chính trị và đặc biệt được quy định tại Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức VKSND năm 2002. Tuy nhiên nhà lập pháp nước ta chưa đưa ra một định nghĩa pháp lý chung nhất của khái niệm "kiểm sát các hoạt động tư pháp" nên dẫn đến nhiều quan điểm nhận thức khác nhau về khái niệm này. Một thực tế chúng ta phải thừa nhận rằng:
Trong suốt một thời gian dài chúng ta chưa quan tâm đúng mức đến lĩnh vực tư pháp thể hiện ở việc trước khi có Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX thuật ngữ quyền tư pháp ít được sử dụng trong ngôn ngữ chính trị, pháp luật và khoa học. Điều đó đã không tạo ra được tiền đề cho việc nghiên cứu các vấn đề về tư pháp [41].
Trong đó có vấn đề "kiểm sát các hoạt động tư pháp". Cho nên hiện nay xung quanh khái niệm kiểm sát các hoạt động tư pháp đang còn có nhiều quan điểm khác nhau, tựu chung lại có ba nhóm quan điểm sau:
Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng, "kiểm sát các hoạt động tư pháp chỉ bao gồm nội dung kiểm sát các hoạt động tố tụng như điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án" [40].
Nhóm quan điểm thứ hai cho rằng, "kiểm sát các hoạt động tư pháp bao gồm việc kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử (cả các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính) và phần "tư pháp" trong thi hành án" [40].
Nhóm quan điểm thứ ba cho rằng:
Hoạt động tư pháp là một dạng hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước và cũng phải chịu sự giám sát từ bên ngoài cũng như từ bên trong hệ thống tư pháp, chịu sự giám sát Nhà nước và giám sát xã hội. Theo nghĩa rộng, kiểm sát tư pháp cũng được hiểu là giám sát tư pháp, là một bộ phận, một lĩnh vực của hoạt động giám sát Nhà nước trong lĩnh vực tư pháp. Còn theo nghĩa hẹp thì kiểm sát tư pháp được hiểu là chức năng của Viện kiểm sát. Phạm vi kiểm sát tư pháp là việc chấp hành pháp luật trong hoạt động điều tra, xét xử các vụ án hình sự, giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật (Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002). Mục đích của của kiểm sát tư pháp là bảo đảm cho pháp luật được áp dụng thống nhất trong giải quyết các vụ án trên cơ sở tuân thủ nghiêm chỉnh thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định [11].
Mỗi quan điểm trên đây đều có những lập luận đúng của mình về khái niệm "kiểm sát các hoạt động tư pháp". Tuy nhiên, theo quan điểm chúng tôi trước hết cần phải khẳng định kiểm sát các hoạt động tư pháp là chức năng hiến định của VKS. Kiểm sát các hoạt động tư pháp là một dạng giám sát Nhà nước về tư pháp, đây là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, khác với hoạt động giám sát Nhà nước nói chung về tư pháp, kiểm sát các hoạt động tư pháp là sự giám sát trực tiếp các hoạt động cụ thể của các cơ quan tư pháp trong quá trình tố tụng với mục đích là nhằm đảm bảo cho pháp luật được áp dụng nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình giải quyết các vụ án và bản chất pháp lý của chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp trong hành vi của các chủ thể bị kiểm sát. Từ đó, theo chúng tôi có thể đưa ra định nghĩa về khái niệm kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự như sau:
Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là chức năng hiến định của VKS, có nội dung là giám sát trực tiếp các hoạt động của các cơ quan tư pháp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, nhằm bảo đảm cho pháp luật tố tụng hình sự được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, thống nhất.
Như vậy, khi đã hiểu được như thế nào là kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự, thì vấn đề đặt ra cho chúng ta cần tiếp tục làm rõ đó là: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự là gì? Đặc điểm của chúng?
Chức năng kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự của VKS thực chất là kiểm sát việc tuân theo pháp luật các hoạt động tư pháp của CQĐT và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra với tính chất là một chức năng của VKS thì hoạt động đó có bản chất pháp lý là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp các hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện bởi CQĐT và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra trong giai đoạn khởi tố và điều tra các vụ án hình sự nhằm bảo đảm việc khởi tố - điều tra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm đồng thời cũng không làm oan người vô tội.
Từ bản chất pháp lý đó chúng ta cũng cần xem xét đối tượng của hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra các vụ án hình sự là gì? và phạm vi của nó?. Theo chúng tôi, đối tượng của kiểm sát khởi tố - điều tra các vụ án hình sự chính là các hành vi xử sự của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá trình khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Khi tiến hành hoạt động kiểm sát, VKS phải dựa trên các căn cứ pháp lý là Hiến pháp, Luật tổ chức VKS, Bộ luật hình sự, BLTTHS và các văn bản pháp luật khác có liên quan để theo dõi, xem xét bảo đảm sự tuân theo pháp luật, cũng như bảo đảm tính có căn cứ và hợp pháp của các hành vi tố tụng hình sự mà chủ thể bị kiểm sát thực hiện.
Về phạm vi của kiểm sát khởi tố - điều tra các vụ án hình sự từ trước đến nay đang là vấn đề còn nhiều quan điểm khác nhau, tuy nhiên về mặt lý luận chúng tôi cho rằng phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra, theo đó các cơ quan tư pháp có thẩm quyền có trách nhiệm khởi động hoạt động công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội. CQĐT cũng có quyền phát động công tố nhưng đó là sự phát động nằm trong sự kiểm sát của VKS nên không mang tính độc lập. Do vậy, khi CQĐT phát động quyền công tố đồng thời theo đó làm phát sinh các hoạt động tố tụng trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ... để làm cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện tội phạm. Nhằm bảo đảm cho các hoạt động tố tụng thực hiện theo quy định của pháp luật, đòi hỏi phai có sự giám sát chặt chẽ của VKS thông qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Vì vậy, phạm vi của hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra các vụ án hình sự được xác định bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra hoặt phát hiện được dấu hiệu của tội phạm cho tới khi vụ án được kêt thúc điều tra bằng bản kết luận điều tra của cơ quan có thẩm quyền chuyển cho VKS đ._.ề nghị truy tố hoặc khi CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án. Việc xác định phạm vi như vậy là thể hiện tính đầy đủ, toàn diện của công tác kiểm sát khởi tố - điều tra các vụ án hình sự của VKS, cũng như thể hiện đầy đủ bản chất pháp lý của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong khởi tố - điều tra các vụ án hình sự đó là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp trong hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự.
Từ những nội dung nêu trên, có thể đưa ra định nghĩa về chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự như sau:
Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự là chức năng hiến định của VKS, có nội dung là giám sát trực tiếp mọi hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình khởi tố - điều tra vụ án hình sự, nhằm bảo đảm cho pháp luật tố tụng hình sự được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, thống nhất.
Xuất phát từ khái niệm đã nêu ở trên và trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động kiểm sát tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự, cho phép rút ra một số đặc điểm chung của nó như sau:
Thứ nhất, kiểm sát các hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự là chức năng hiến định của VKS, có phạm vi xác định thời điểm bắt đầu từ khi có dấu hiệu của tội phạm xảy ra và thời điểm kết thúc khi cơ quan tiến hành tố tụng kết thúc điều tra vụ án, chuyển hồ sơ vụ án cùng bản kết luận điều tra cho VKS đề nghị truy tố hoặc vụ án được đình chỉ điều tra.
Thứ hai, nội dung của chức năng này chính là việc giám sát trực tiếp mọi hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình khởi tố - điều tra các vụ án hình sự.
Thứ ba, kiểm sát các hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự là nhằm mục đích bảo đảm cho pháp luật tố tụng hình sự được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và thống nhất.
1.2.2. Mối quan hệ giữa kiểm sát các hoạt động tư pháp với thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự
Để quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng đã được nêu rõ trong Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết 08 ngày 02/1/2002 của Bộ chính trị về "một số nhiệm vụ trọng tâm của ngành tư pháp trong thời gian tới" và đặc biệt trên cơ sở nội dung Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và nội dung của Luật tổ chức VKSND năm 2002, thì vấn đề phân biệt giữa hoạt động thực hành quyền công tố với kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự cũng như mối quan hệ giữa chúng với nhau cần phải được làm rõ nhằm tạo cơ sở cho việc áp dụng vào hoạt động thực tiễn các quy định của BLTTHS và Luật tổ chức VKSND năm 2002.
Trước khi đi vào phân tích mối quan hệ giữa hoạt động thực hành quyền và hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS trong tố tụng hình sự, chúng ta cần thống nhất về mặt nhận thức các vấn đề: Quyền công tố? Thực hành quyền công tố?
Quyền công tố: là một khái niệm pháp lý, gắn liền với bản chất Nhà nước và pháp luật. Từ trước tới nay trong pháp luật thực định nhà làm luật nước ta chưa làm rõ và chưa có một định nghĩa chung về " quyền công tố". Theo quan điểm của chúng tôi trước hết quyền công tố là một loại quyền lực nhà nước (quyền lực công), nó ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của Nhà nước, do đó quyền công tố luôn luôn gắn liền với bản chất Nhà nước. Trong đời sống xã hội cũng như trong lịch sử hình thành và phát triển của mình thì quyền công tố chủ yếu được phát sinh trong quan hệ pháp luật giữa một bên là Nhà nước (với tư cách là chủ thể quyền lực) và bên kia là người thực hiện hành vi phạm tội (với tư cách là người bị truy cứu trách nhiệm hình sự và phải chịu hình phạt). Trong quan hệ đó Nhà nước muốn trừng trị được người phạm tội để bảo vệ quyền lợi của Nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thì trước hết Nhà nước phải buộc tội được người phạm tội. Nên theo chúng tôi quyền công tố là việc Nhà nước sử dụng quyền lực nhà nước (nhân danh quyền lực công) truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, quyền công tố có nội dung là sự buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm, với nội dung đó có thể khẳng định quyền công tố chỉ được thực hiện trong lĩnh vực hình sự, còn trong lĩnh lực tố tụng dân sự, hành chính, kinh tế thì VKS tham gia để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật. Với việc xác định quyền công tố chỉ có trong tố tụng hình sự đã tạo cơ sở cho việc xác định rõ đối tượng của quyền công tố chỉ là tội phạm và người phạm tội. Tuy vậy, phạm vi quyền công tố không phải có trong mọi giai đoạn của tố tụng hình sự, điều này đã được thể hiện rõ trong Luật tổ chức VKSND năm 2002, thi hành án là một giai đoạn tố tụng hình sự nhưng ở giai đoạn này VKS chỉ tham gia với vai trò là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án nhân dân và cơ quan thi hành án trong công tác thi hành án hình sự (Điều 23 Luật tổ chức VKSND năm 2002). Do đó giai đoạn thi hành án không có hoạt động thực hành quyền công tố. Như vậy, trong tố tụng hình sự, phạm vi quyền công tố được xác định từ khi có tội phạm xảy ra cho đến khi vụ án được xét xử và bản án đã có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị.
Từ nội dung trên có thể hiểu quyền công tố là: Một loại quyền lực của Nhà nước, được Nhà nước giao cho VKS thực hiện để truy cứu trách nhiệm hình sự và buộc tội người đã có hành vi bị coi là tội phạm, được thực hiện trong suốt quá trình khởi tố - điều tra, truy tố và xét xử tội phạm.
Thực hành quyền công tố: Thuật ngữ thực hành quyền công tố đã được nhà làm luật nước ta ghi nhận và đề cập trong nhiều các văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời hoạt động thực hành quyền công tố cũng đã gắn liền với hoạt động của VKS hơn 40 năm qua (từ năm 1960). Thế nhưng trong các văn bản pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ trước đến nay (BLTTHS 1988, cũng như BLTTHS năm 2003 vừa được Quốc hội thông qua) nhà làm luật chưa ghi nhận một định nghĩa pháp lý về khái niệm "thực hành quyền công tố".
Khi đã làm rõ được thế nào là quyền công tố, thì một vấn đề cần có sự nhận thức thống nhất đó là quyền công tố và thực hành quyền công tố là hai khái niệm, hai phạm trù khoa học pháp lý khác nhau, không thể đồng nhất hai khái niệm này với nhau. Để bảo đảm thực hiện quyền công tố trong thực tế đấu tranh chống tội phạm thì Nhà nước phải ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, trong đó quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố. Các quyền năng pháp lý đó Nhà nước giao cho cơ quan nhà nước nào thực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, thì cơ quan ấy được gọi là cơ quan có trách nhiệm thực hành quyền công tố.
Ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định của Hiến pháp năm 1959 cho đến Hiến pháp 1992 (sửa đổi) thì chức năng thực hành quyền công tố được giao cho cơ quan VKS. Để thực hiện có hiệu quả chức năng đó VKS được áp dụng "các biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội" (Điều 13 BLTTHS). Tuy nhiên, thực tiễn điều tra và xét xử ở nước ta cho thấy CQĐT và Tòa án các cấp cũng khởi tố vụ án hình sự, thậm chí số án do CQĐT khởi tố chiếm khoản 95% và theo như quy định mới của BLTTHS năm 2003 thì việc khởi tố vụ án hình sự được tập trung vào một đầu mối là CQĐT. Như vậy, số vụ án mà VKS khởi tố và yêu cầu khởi tố chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ so với tổng số án mà CQĐT khởi tố, hơn nữa CQĐT có quyền bắt người, tiến hành các hoạt động điều tra thu thập chứng cứ... Chính vấn đề thực tiễn nói trên là sự thể hiện nguyên tắc công tố trong pháp luật tố tụng hình sự nước ta, tức là trách nhiệm và nghĩa vụ phát hiện, chứng minh tội phạm và người phạm tội thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm: Cơ quan diều tra, VKS và Tòa án.
Từ những nội dung nêu trên, có thể hiểu: Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đã có hành vi bị coi là tội phạm trong các giai đoạn khởi tố - điều tra, truy tố và xét xử. Nội dung này được thể hiện khá cụ thể tại các Điều 13 và Điều 17 Luật tổ chức VKS năm 2002.
Từ nội dung khái niệm nói trên và trên cơ sở các quy định của BLTTHS có thể nêu lên nội dung của thực hành quyền công tố bao gồm:
Thứ nhất, những hoạt động phát động công tố, đó là khởi tố vụ án, khởi tố bị can.
Thứ hai, trong giai đoạn điều tra, VKS tiếp tục thực hành quyền công tố với những nội dung: Yêu cầu CQĐT khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; đề ra yêu cầu điều tra; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của CQĐT; hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT; quyết định việc truy tố; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Từ những nội dung nêu trên chúng ta đi vào phân tích mối quan hệ giữa kiểm sát các hoạt động tư pháp với thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự.
Theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức VKS năm 2002, trong lĩnh vực tư pháp hình sự VKS có hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Đây là hai chức năng độc lập, nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong thực tiễn hoạt động thực hiện chức năng của ngành kiểm sát trong lĩnh vực tư pháp hình sự, VKS các cấp luôn luôn quán triệt đường lối công tác kiểm sát là đấu tranh chống tội phạm gắn liền với đấu tranh chống vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật; không để lọt tội phạm đồng thời cũng không được làm oan người vô tội. Nên việc thực hiện đồng thời hai hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự là mang tính khách quan, do vậy giữa hai hoạt động này luôn có mối quan hệ với nhau. Mối quan hệ đó được thể hiện ở các phương diện sau:
Khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm, vụ án được khởi tố, tức là quyền công tố được phát động đã làm phát sinh hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong khởi tố vụ án hình sự, hoạt động này được VKS thực hiện để bảo đảm việc khởi tố đúng với các quy định pháp luật, thông qua hoạt động kiểm sát khởi tố xét thấy quyết định khởi tố của CQĐT không có căn cứ và hợp pháp, tức là quyết định đó trái pháp luật thì VKS yêu cầu cơ quan có thẩm quyền chấm dứt ngay hoạt động điều tra, đồng thời ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố trái pháp luật, như thế quyền công tố có thể bị triệt tiêu và việc ra quyết định hủy bỏ tức là VKS đã thực hành quyền công tố. Do vậy, làm tốt chức năng kiểm sát khởi tố vụ án hình sự sẽ là cơ sở cho việc ra quyết định của VKS được chính xác và đúng pháp luật nhằm bảo đảm về mặt pháp lý và hạn chế được các vi phạm trong việc thực hành quyền công tố của VKS. Ngược lại nếu thực hiện kiểm sát khởi tố không tốt sẽ mất đi tính hiệu quả trong việc thực hành quyền công tố, thậm chí quyết định pháp lý của VKS là vi phạm pháp luật. Ví dụ, trong trường hợp CQĐT khởi tố vụ án trái pháp luật, nếu kiểm sát khởi tố không kiểm sát chặt chẽ thì sẽ không phát hiện được vi phạm trong việc ra quyết định khởi tố của CQĐT thì VKS sẽ không đưa ra được các yêu cầu và biện pháp khắc phục ngay từ đầu, chính điều đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều vụ án phải đình chỉ điều tra.
Khi VKS quyết định phê chuẩn hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, các quyết định tố tụng khác của CQĐT, tức là VKS trực tiếp sử dụng quyền công tố. Nhưng hoạt động thực hành quyền công tố của VKS cũng phải tuân theo quy định của pháp luật, muốn vậy trước khi quyết định các vấn đề trên, VKS phải tiến hành kiểm sát các hoạt động tư pháp trong việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn hoặc trong việc khởi tố bị can của CQĐT, tức là VKS tiến hành thực hiện kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Để thực hiện tốt quyền công tố, có nghĩa là đảm bảo việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định tố tụng khác của CQĐT được chính xác, đúng pháp luật thì đòi hỏi phải kiểm tra chặt chẽ tính có căn cứ và tính hợp pháp của các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự mà CQĐT quyết định áp dụng, mà hoạt động kiểm tra này chính là thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Trên cơ sở kết quả của hoạt động kiểm sát thấy rằng quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự là có căn cứ và hợp pháp thì VKS sẽ quyết định phê chuẩn để thi hành, ngược lại nếu xét thấy quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế về tố tụng hình sự của CQĐT là không có căn cứ và hợp pháp VKS sẽ quyết định không phê chuẩn hoặc quyết định huỷ bỏ quyết định tố tụng trái pháp luật của CQĐT, đồng thời yêu cầu CQĐT chấm dứt ngay các hoạt động tố tụng. Ví dụ, theo quy định mới của BLTTHS năm 2003, quyết định khởi tố bị can của CQĐT và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra phải được VKS cùng cấp phê chuẩn. Do vậy, để phê chuẩn hay hủy bỏ quyết định khởi tố bị can của CQĐT thì VKS phải tiến hành hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong khởi tố bị can nhằm bảo đảm quyết định khởi tố bị can là có căn cứ và hợp pháp, nếu qua hoạt động kiểm sát xét thấy quyết định khởi tố bị can có căn cứ và hợp pháp thì VKS quyết định phê chuẩn để CQĐT tiến hành hoạt động điều tra, ngược lại quyết định khởi tố bị can không có căn cứ thì VKS quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố của CQĐT.
Với việc thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp sẽ làm tiền đề cho hoạt động thực hành quyền công tố được thực hiện một cách chính xác, nếu có sai sót, vi phạm trong việc thực hiện kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra sẽ kéo theo sự vi phạm pháp luật của hoạt động thực hành quyền công tố. Tuy nhiên, trong giai đoạn điều tra khi chức năng thực hành quyền công tố của VKS được thực hiện cũng sẽ làm tiền đề phát sinh hoạt động kiểm sát. Ví dụ khi VKS phê chuẩn lệnh bắt khấn cấp của CQĐT thì làm phát sinh hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm giữ người bị bắt của CQĐT nhằm bảo đảm việc tạm giữ người phải có lệnh hoặc có quyết định phê chuẩn của VKS, đồng thời bảo đảm thời hạn tạm giữ đúng theo quy định của pháp luật.
Khi truy tố bị can ra Tòa án để xét xử, tức là VKS thực hành quyền công tố, hoạt động đó thể hiện qua việc ban hành quyết định truy tố. Nhưng quyết định truy tố của VKS cũng phải bảo đảm tính có căn cứ và tính hợp pháp và điều đó có nghĩa là bản thân VKS trong giai đoạn truy tố cũng phải đặt trong sự tuân thủ pháp luật. Muốn bảo đảm quyết định truy tố có căn cứ thì phải dựa trên cơ sở của kết quả hoạt động kiểm sát điều tra vụ án của VKS, nếu thực hiện tốt hoạt động kiểm sát điều tra thì VKS sẽ nắm được nội dung của vụ án, những tình tiết buộc tội, tình tiết gỡ tội của bị can và các tình tiết liên quan khác của vụ án và đó chính là căn cứ vững chắc cho việc truy tố đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, ngược lại nếu VKS thực hiện không tốt hoạt động kiểm sát điều tra thì có thể dẫn đến việc truy tố oan, sai. Cho nên, hoạt động kiểm sát điều tra là cơ sở rất vững chắc cho hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố và xét xử. Bên cạnh đó, hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố lại là tiền đề làm phát sinh hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS tại phiên tòa xét xử.
Như vậy, giữa kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố trong lĩnh vực tư pháp hình sự luôn có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó hữu cơ và biện chứng với nhau, nhiệm vụ của hoạt động này làm tiền đề cho nhiệm vụ của hoạt động kia và ngược lại; kết quả của hoạt động này là cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động kia và ngược lại. Mối quan hệ biện chứng giữa hai hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp chỉ song song tồn tại trong phạm vi bắt đầu từ khi tội phạm được phát hiện, khởi tố điều tra cho đến khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị.
1.2.3. Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong khởi tố- điều tra vụ án hình sự ở nước ta từ năm 1945 đến nay
Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đưa nước ta dành được độc lập và khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngay từ ngày đầu xây dựng đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm xây dựng các cơ quan chuyên trách như cơ quan Công tố và Tòa án có nhiệm vụ trấn áp bọn phản cách mạng, trừng trị và phòng ngừa các tội phạm hình sự nhằm mục tiêu là bảo vệ chế độ Nhà nước của nhân dân, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.
Tiền thân của cơ quan VKS là cơ quan Công tố viện được thành lập theo sắc lệnh số 33/SL ngày 13/9/1945, vào giai đoạn đó Công tố viện là một bộ phận trong hệ thống cơ quan Tòa án, sau Nhà nước ta đã ban hành các Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946; Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946; Sắc lệnh số 51 ngày 20/7/1946 và sắc lệnh số 19 ngày 16/2/1947... quy định thành lập hệ thống Tòa án nhân dân (tòa án thường), trong đó Công tố viện là một tổ chức bên cạnh Tòa án và trực thuộc Bộ tư pháp quản lý. Hệ thống Công tố ở Tòa thượng thẩm và Tòa án đệ nhị cấp do một Viện trưởng lý đứng đầu, lúc này Công tố viện chỉ có chức năng truy tố người phạm tội ra Tòa án để xét xử. Cho nên trong giai đoạn lịch sử từ năm 1945 đến 1950 tổ chức Công tố nằm trong hệ thống Tòa án.
Đến năm 1958 thực hiện Nghị quyết của Quốc hội thông qua ngày 29/4/1958, thực hiện việc cải cách tổ chức bộ máy cơ quan nhà nước nên Quốc hội đã quyết định thành lập cơ quan Viện công tố trung ương và hệ thống viện công tố. Từ thời điểm này Viện công tố tách khỏi hệ thống Toà án thốngvà trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Sau đó Phủ Thủ tướng đã ban hành Nghị định 256/TTg ngày 1/7/1959 quy định về nhiệm vụ và tổ chức của Viện công tố, trong đó có quy định: "Nhiệm vụ của Viện công tố là điều tra và truy tố trước Tòa án những kẻ phạm pháp về hình sự; giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác điều tra của Cơ quan điều tra..." [7], như vậy ngoài chức năng truy tố theo luật hình sự những kẻ phạm pháp, Viện công tố còn có chức năng trong việc giám sát chấp hành pháp luật trong điều tra vụ án hình sự. Từ giai đoạn này trở đi, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện công tố bắt đầu được hình thành và thực hiện. Đến năm 1959, Quốc hội ban hành Hiến pháp 1959 trong đó đã quy định tổ chức cơ quan VKSND thành một hệ thống độc lập với Chính phủ và chỉ chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Quốc hội đã ban hành Luật tổ chức VKSND năm 1960 để cụ thể hóa chức năng của VKS trong đó có chức năng kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Với việc ban hành Luật tổ chức VKSND năm 1960 đã đánh dấu sự hình thành hệ thống cơ quan VKS từ trung ương đến địa phương, đồng thời khẳng định chức năng hiến định là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Cũng trong thời gian này VKSNDTC và Bộ công an đã ban hành nhiều thông tư liên bộ quy định trách nhiệm của hai ngành trong công tác phối hợp phòng chống và đấu tranh tội phạm, cụ thể là thông tư số 427-TTLB ngày 28/6/1963 đã quy định trách nhiệm của từng ngành đối với việc điều tra xử lý tội phạm, thông tư quy định: Cơ quan Công an điều tra đảm nhiệm việc điều tra tất cả các vụ án phản cách mạng và những tội phạm phức tạp. Còn VKS chủ yếu là làm nhiệm vụ kiểm sát điều tra, đồng thời trong phạm vi điều kiện và khả năng của mình sẽ trực tiếp và điều tra một số loại phạm pháp kinh tế và hành vi phạm pháp đã tương đối rõ.
Đến giai đoạn những năm 80, Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp năm 1980 trong đó quy định chức năng của VKS như sau: "Viện kiểm sát nhân dân tối cao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các bộ, các cơ quan khác thuộc Hội đồng bộ trưởng, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức xã hội và các đơn vị vũ trang nhân dân, các nhân viên nhà nước và công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất,
Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm của mình" (Điều 138). Trên cơ sở đó Luật tổ chức VKSND năm 1981 đã quy định cụ thể chức năng kiểm sát khởi tố - điều tra tại chương II. Tuy nhiên trong giai đoạn này chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào quy định một cách chặt chẽ, cụ thể về trình tự thủ tục hoạt động điều tra, cũng như hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự, từ đó dẫn đến việc gặp nhiều khó khăn trong công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm.
Ngày 28/6/1988, tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa VIII đã thông qua BLTTHS đầu tiên của nước ta đánh dấu bước phát triển mới trong hoạt động lập pháp của Quốc hội. Bộ luật tố tụng đã quy định chặt chẽ trình tự, thủ tục khởi tố - điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự; chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, bên cạnh đó có quy định về hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra của VKS với mục đích là nhằm xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Điều 23 BLTTHS quy định: "Viện kiểm sát có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng hình sự, thực hiện quyền công tố bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Trong các giai đoạn của tố tụng hình sự, VKS có trách nhiệm áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào". Với quy định đó VKS thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với toàn bộ hoạt động tố tụng của CQĐT trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Như vậy, từ giai đoạn này trở đi, hoạt động kiểm sát khởi tố - điều tra được thực hiện theo quy định của một văn bản quy phạm pháp luật và trong suốt thời gian hơn 15 năm thực hiện BLTTHS, chức năng kiểm sát khởi tố - điều tra của VKS đã góp phần quan trọng trong công cuộc phòng chống, đấu tranh các loại tội phạm, đảm bảo việc ổn định tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội để phát triển một nền kinh tế bền vững trong thời kỳ đổi mới của đất nước ta, đồng thời tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Năm 2001, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa X đã tiến hành sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (sau đây được gọi là Hiến pháp năm 1992 sửa đổi), lần sửa đổi này đã điều chỉnh chức năng của VKS với quy định:" VKSND thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật" (Điều 137), như vậy Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) đã quy định rõ kiểm sát hoạt động tư pháp là một trong hai chức năng chính của VKS, điều đó thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước tiếp tục khẳng định chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung và trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự nói riêng là chức năng quan trọng và chỉ giao cho cơ quan VKS thực hiện. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi), Luật tổ chức VKSND năm 2002 được ban hành và tại các Điều 12, 14 chương II quy định: "VKSND thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của các CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra". Bên cạnh đó để đáp ứng những yêu cầu trong công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong thời kỳ mới là nâng cao chất lượng hoạt động điều tra, hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, vừa bảo đảm chống để lọt tội phạm vừa bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của công dân không bị vi phạm..., đồng thời trải qua hơn 10 năm thực hiện BLTTHS năm 1988 đã nảy sinh những bất cập trong thực tiễn áp dụng, đòi hỏi cần phải được sửa đổi, bổ sung. Nên năm 2003, tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XI đã tiến hành thảo luận và thông qua BLTTHS năm 2003 thể hiện những tư tưởng mới về cải cách tư pháp hình sự, trong đó tại Điều 2 chương II - Những nguyên tắc cơ bản có quy định: "... Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này.
VKS thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội". Ngoài ra còn có những quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi kiểm sát khởi tố - điều tra như Điều 113, v.v...
Như vậy, trong suốt quá trình hình thành và phát triển hệ thống cơ quan VKS thì chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự ngày càng được khẳng định vị trí, vai trò quan trọng trong công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm, nhằm mục đích là sự tuân thủ nghiêm minh và thống nhất các quy định pháp luật tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự.
1.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA CƠ QUAN ĐIỂU TRA VÀ VIỆN KIỂM SÁT TRONG KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.3.1. Khái niệm
CQĐT và VKS theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự là các cơ quan tiến hành tố tụng, có trách nhiệm thay mặt Nhà nước chứng minh tội phạm và người phạm tội khi phát hiện có tội phạm xảy ra trong thực tế đời sống xã hội.
Quá trình chứng minh giải quyết vụ án hình sự là một quá trình tố tụng bao gồm nhiều giai đoạn kế tiếp nhau từ khởi tố - điều tra đến truy tố, xét xử và thi hành án. Mỗi giai đoạn tố tụng là các bước giải quyết tương ứng và gắn liền với chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn nhất định của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. CQĐT và VKS mặc dù là hai cơ quan độc lập trong phạm vi chức năng và nhiệm vụ của mình. Nhưng với yêu cầu đặt ra là một mặt phải cương quyết xử lý nghiêm minh tội phạm và người phạm tội, một mặt là phải đảm bảo tính khách quan, toàn diện và đúng pháp luật trong việc thực hiện các hoạt động tố tụng thì trong quá trình khởi tố - điều tra các vụ án hình sự đã làm phát sinh mối quan hệ tố tụng hình sự giữa CQĐT và VKS.
Từ đó có thể hiểu: Mối quan hệ giữa CQĐT và VKS trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự là mối quan hệ tố tụng hình sự được phát sinh trong quá trình phát hiện tội phạm, khởi tố - điều tra vụ án hình sự.
Cơ sở pháp lý của mối quan hệ giữa CQĐT và VKS trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự là các quy định của BLTTHS và các văn bản về pháp luật tố tụng hình sự có liên quan.
1.3.2. Nội dung mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự
Trên cơ sở các quy định của BLTTHS và các văn bản có liên quan thì mối quan hệ giữa CQĐT và VKS trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự được thể hiện dưới hai hình thức: Phối hợp và chế ước. Do giới hạn của đề tài này chúng tôi không phân tích nội dung mối quan hệ phối hợp, mà chỉ phân tích nội dung chế ước trong mối quan hệ giữa cơ quan VKS với CQĐT để làm rõ chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra của VKS.
BLTTHS đã quy định: "Viện kiểm sát có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Trong các giai đoạn tố tụng hình sự, Viện kiểm sát có trách nhiệm áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của bất kỳ cá nhân nào hoặc tổ chức nào" (Điều 23, BLTTHS). Như vậy, thực hiện chức năng kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự qua đó nếu phát hiện được những vi phạm của CQĐT thì VKS có quyền áp dụng mọi biện pháp mà BLTTHS quy định để loại trừ vi phạm, chính quy định đó của pháp luật đã thể hiện tính chế ước của VKS đối với CQĐT trong hoạt động tố tụng.
Theo từ điển tiếng Việt thì: "Chế" là phép định ra, làm ra, đặt ra; còn "ước" là bó buộc. Việc dùng khái niệm "chế ước" vì theo như pháp luật tố tụng hình sự nước ta, VKS có các quyền năng pháp lý như: Giám sát, yêu cầu, hủy bỏ. Mà bản chất pháp lý của các quyền năng này là sự chế ước đối với hoạt động tố tụng của CQĐT - với tính chất là đối tượng của hoạt động kiểm sát.
Suốt quá trình tố tụng từ khi tội phạm được phát hiện hay có dấu hiệu tội phạm đến khi khởi tố và tiến hành các hoạt động điều tra thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm và người phạm tội thì VKS đều tham gia với tư cách là cơ quan giám sát thông qua hai hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp (nghiên cứu hồ sơ). Việc thực hiện các quyền năng của VKS trong quá trình giải quyết vụ án hình sự như yêu cầu điều tra, phê chuẩn các quyết định tố tụng hay hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT... được gọi là thực hiện chức năng thực hành quyền công tố của VKS với mục đích nhằm bảo đảm cho hoạt động điều tra được khách quan, toàn diện và đúng pháp luật, đồng thời ngăn ngừa mọi hoạt động xâm phạm đến quyền nhân thân của công dân.
Ở bất kỳ một cơ chế hoạt động nào cũng phải có sự kiểm tra để hoạt động đó thực hiện một cách nghiêm chỉnh, bất kỳ quyền hạn nào cũng phải chịu sự giám sát, nếu không sẽ dẫn đến lạm quyền. Trong khi hoạt động tố tụng của CQĐT ở chừng mực nào đó nhất định đều ảnh hưởng, liên quan đến quyền công dân, mà quyền này đã được pháp luật bảo vệ, nên bất kỳ hoạt động tố tụng nào của CQĐT liên quan đến quyền công dân đều phải được cân nhắc và giám sát một cách chặt chẽ. Ví dụ, CQĐT muốn áp dụng biện pháp cưỡng chế về tố tụng như khám xét khẩn cấp, bắt khẩn cấp, bắt bị can để tạm giam hoặc áp dụng biện pháp tạm giam...thì tất cả các quyết định áp dụng các biện pháp nói trên phải được VKS cùng cấp phê chuẩn mới có hiệu lực thi hành. Trong trường hợp CQĐT ra quyết định áp dụng các biện pháp nói trên không có căn cứ, tức là các quyết định vi phạm pháp luật thì VKS có quyền quyết định hủy bỏ quyết định trái pháp luật đó và yêu cầu CQĐT phục hồi._. quy định những vấn đề cần thiết để hạn chế việc trả hồ sơ, cần phân định rõ trách nhiệm của mỗi ngành khi thực hiện chức năng để xảy ra sai phạm, tránh việc đùn đẩy, đổ lỗi cho nhau hoặc thiếu sự phối hợp trong quá trình giải quyết án.
3.3.2. Giải phá, kiến nghị để thực hiện tốt các biện pháp nghiệp vụ
Với vị trí là cơ quan thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với CQĐT và các cơ quan khác được giao thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra trong quá trình khởi tố - điều tra vụ án hình sự, VKS có trách nhiệm áp dụng những biện pháp do BLTTHS quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của các cơ quan nói trên, nhằm bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Do vậy, hơn ai hết VKS các cấp phải nhận thức đúng, đủ chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra các vụ án hình sự được quy định trong BLTTHS và Luật tổ chức VKSND năm 2002. Trước hết đòi hỏi ngành kiểm sát cần tập trung giải quyết triệt để những vấn đề về mặt lý luận như bản chất của các hoạt động tư pháp trong tư pháp hình sự được coi là đối tượng kiểm sát của VKS; phạm vi kiểm sát các hoạt động tư pháp; mối quan hệ giữa chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong lĩnh vực tư pháp hình sự... Bởi vì, hiện nay đang có những nhận thức không thống nhất về chức năng của VKS. Đề tài này của chúng tôi được thực hiện cũng là nhằm mong muốn góp phần giải quyết những vấn đề lý luận nói trên với mục đích để nhận thức đúng, đủ về chức năng của VKS.
Bên cạnh việc nhận thức đúng, đủ về chức năng của VKS trong giai đoạn khởi tố - điều tra các vụ án hình sự, VKS các cấp còn phải thực hiện tốt các biện pháp nghiệp vụ trong quá trình thực hiện chức năng kiểm sát của mình. Cụ thể phải thực hiện các yêu cầu sau:
Thứ nhất, phải tăng cường công tác kiểm sát việc giải quyết các tố giác và tin báo về tội phạm: Để nâng cao hiệu quả công tác đầu tranh chống tội phạm, chống bỏ lọt tội phạm, VKS các cấp cần tăng cường kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các tin báo về tội phạm của CQĐT và các cơ quan khác được giao thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra theo đúng quy định mới của BLTTHS năm 2003. Có biện pháp phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính như UBND các cấp, Thanh tra Nhà nước, Thuế, Quản lý thị trường…để kịp thời nắm được các vi phạm có dấu hiệu tội phạm, từ đó yêu cầu các cơ quan đó chuyển hồ sơ cho CQĐT xử lý. Bên cạnh đó, tăng cường tuyên truyền chức năng, nhiệm vụ của ngành kiểm sát để nhân dân hiểu, cung cấp cho VKS các thông tin về tội phạm.
Thứ hai, thực hiện tốt kiểm sát quyết định khởi tố và quyết định không khởi tố vụ án hình sự: Khi CQĐT có quyết định khởi tố vụ án hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự, VKS trực tiếp xem xét các quyết định đó có đúng pháp luật hay không. Nếu VKS các cấp làm tốt công tác kiểm sát khởi tố sẽ hạn chế được số lượng vụ án, bị can đã khởi tố sau đó phải đình chỉ điều tra vì không phạm tội. Muốn làm được như vậy, VKS các cấp phải nắm chắc về số liệu tội phạm đã khởi tố điều tra và tiến hành kiểm sát ngay từ đầu, chỉ chấp nhận khởi tố vụ án và thụ lý kiểm sát điều tra khi đã xác định đầy đủ dấu hiệu phạm tội theo quy định tại Điều 83 BLTTHS, chấp nhận khởi tố bị can để tiến hành điều tra khi có căn cứ quy định tại Điều 103 BLTTHS. Những trường hợp khởi tố vụ án, bị can không có căn cứ phải kiên quyết hủy bỏ quyết định khởi tố trong giai đoạn kiểm sát khởi tố. Đặc biệt, VKS các cấp cần thận trọng trong việc kiểm sát khởi tố các vụ án về các tội "lừa đảo chiếm đoạt tài sản"; "Tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản" và "tội sử dụng trái phép tài sản" được quy định trong BLHS năm 1999, nếu thấy có dấu hiệu tranh chấp về hợp đồng và chưa đủ dấu hiệu phạm tội thì cương quyết không khởi tố vụ án hình sự, nếu thấy phức tạp thì phải báo cáo ngay cho VKS cấp trên để chỉ đạo. Trong các tranh chấp về hợp đồng dân sự, kinh tế cần chú ý đến thời hạn hợp đồng, vấn đề thanh lý hợp đồng và yếu tố bảo đảm tài sản trong hợp đồng, các vấn đề này cần phải tiến hành kiểm tra xác minh cụ thể ngay từ đầu, nếu chưa đủ căn cứ để chứng minh dấu hiệu chiếm đoạt thì chưa vội khởi tố vụ án.
Thứ ba, thực hiện tốt công tác kiểm sát các hoạt động điều tra: Như Chỉ thị của Viện trưởng - VKSND tối cao tại Hội nghị triển khai công tác kiểm sát năm 2003 đã nêu: "Để thực hiện nghiêm túc các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước về chức năng của VKSND, toàn ngành nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử, giam giữ có căn cứ và đúng các quy định của pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội". Trước yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, theo chúng tôi VKS các cấp phải thực hiện tốt những nội dung cơ bản đó là: Phải hạn chế đến mức thấp nhất việc phải trả hồ sơ cho CQĐT yêu cầu điều tra bổ sung. Muốn làm được như vậy, VKS các cấp phải phân công kiểm sát viên kiểm sát điều tra, theo dõi chặt chẽ quá trình điều tra để đề ra yêu cầu điều tra. Nhất là cần tăng cường công tác kiểm sát điều tra ngay từ đầu, bám sát tiến độ điều tra và việc điều tra của Điều tra viên trong quá trình thu thập chứng cứ. Phải chú trọng kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, đối chất, kiểm tra chặt chẽ các chứng cứ buộc tội, gỡ tội, đảm bảo chất lượng hồ sơ. VKS các cấp cần xây dựng chế độ trách nhiệm rõ ràng đối với các đơn vị nghiệm vụ (ở cấp tỉnh), bộ phận nghiệp vụ (ở cấp huyện) và cán bộ, kiểm sát viên được phân công kiểm sát điều tra khi để xảy ra việc trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung. Khi sơ kết, tổng kết phải gắn việc kiểm điểm trách nhiệm với việc thực hiện chế độ khen thưởng nghiêm minh để có tác dụng động viên khuyến khích người làm tốt, phê phán xử lý đối với hành vi thiếu trách nhiệm hoặc vi phạm kỷ luật nghiệp vụ. VKSND tối cao cần đưa chỉ tiêu chất lượng công tác và hạn chế tỷ lệ trả hồ sơ để điều tra bổ sung thành chỉ tiêu xét duyệt thi đua công tác hàng năm của cá nhân và đơn vị trong toàn ngành. VKS các cấp phải xây dựng được chế độ báo cáo án giữa thời hạn điều tra và trước khi kết thúc điều tra để kịp thời phát hiện những thiếu sót, vi phạm của CQĐT cũng như những khó khăn vướng mắc trong quá trình giải quyết vụ án từ đó đề ra các biện pháp giải quyết kịp thời, tránh việc hồ sơ kết thúc điều tra chuyển sang VKS mới phát hiện thì khi đó không phát huy được hiệu quả công tác kiểm sát điều tra và sẽ dẫn đến tỷ lệ án phải trả lại yêu cầu điều tra cao. Đồng thời, VKS các cấp phải kiểm sát chặt chẽ việc đình chỉ điều tra của CQĐT, nếu có trường hợp đình chỉ điều tra do không phạm tội và đình chỉ điều tra dẫn đến để lọt tội phạm thì VKS phải báo cáo đầy đủ, kịp thời lên VKS cấp trên trực tiếp, VKS cấp trên trực tiếp phải kiểm tra để kết luận và chỉ đạo biện pháp giải quyết ngay. VKS cấp tỉnh phải nắm chắc số án đình chỉ do không phạm tội của cấp mình và cấp huyện để báo cáo VKSND tối cao, đồng thời tiến hành kiểm điểm làm rõ trách nhiệm người gây ra vi phạm. Có biện pháp quả lý đầy đủ, chặt chẽ số vụ án, bị can bị đình chỉ điều tra, nếu phát hiện việc đình chỉ điều tra trái pháp luật dẫn đến bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, VKS các cấp kiên quyết hủy bỏ quyết định trái pháp luật đó và yêu cầu CQĐT phục hồi điều tra.
Thứ tư, thực hiện tốt công tác kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn của CQĐT: VKS phải nâng cao trách nhiệm pháp lý của mình trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo đảm việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn có căn cứ và đúng pháp luật. Đối với các trường hợp phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các lệnh bắt khẩn cấp, bắt tạm giam, tạm giam, gia hạn tạm giữ, gia hạn tạm giam, VKS phải nghiên cứu kỷ hồ sơ và chỉ phê chuẩn khi có đủ căn cứ được quy định trong BLTTHS. VKS các cấp phải có biện pháp cụ thể nhằm khắc phục tình trạng lạm dụng bắt khẩn cấp, đối với trường hợp phức tạp, có khó khăn trong việc xác định căn cứ để phê chuẩn bắt, tạm giữ, tạm giam thì Lãnh đạo Viện phải trực tiếp xem xét, quyết định, trong trường hợp cần thiết phải trực tiếp gặp hỏi người bị bắt, tạm giữ để làm rõ căn cứ đê quyết định phê chuẩn. VKS các cấp phải tiến hành kiểm sát thường kỳ tại nhà tạm giữ và nhà tạm giam của cơ quan Công an cùng cấp, không cần thiết phải có vi phạm hay có người bị tạm giữ, tạm giam thì mới tiến hành kiểm sát, đây là yêu cầu có tính đặc thù của công tác kiểm sát tại chỗ nhà tạm giữ, nhà tạm giam. Kiểm sát viên khi thực hiện công tác kiểm sát thường kỳ tại nhà tạm giữ, tạm giam phải nắm được tổng số người bị giam, giữ, phân từng loại tạm giữ, tạm giam rồi xem xét các đối tượng bị giam, giữ thuộc đối tượng bị bắt trong trường hợp nào, việc tạm giữ, tạm giam có lệnh hoặc quyết phê chuẩn của VKS hay không… nếu phát hiện có vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam thì VKS cần có kiến nghị với CQĐT có biện pháp khắc phục ngay để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
3.3.3. Giải pháp, kiến nghị về tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo điều hành và tổng kết rút kinh nghiệm nghiệp vụ
Để nâng cao chất lượng công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp trong lĩnh vực tư pháp hình sự, việc tăng cường hơn nữa vai trò quản lý, chỉ đạo điều hành và tổng kết rút kinh nghiệm nghiệp vụ của Viện trưởng - VKS các cấp là yêu cầu khách quan, xuất phát từ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của ngành kiểm sát là tập trung dân chủ.
Một thực tế tồn tại lâu nay là có nhiều Viện trưởng - VKS các cấp quá tập trung vào các công việc hành chính, sự vụ mà phó mặc các hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự cho cấp Phó và cho các Kiểm sát viên dưới quyền, nhiều quyết định tố tụng được Viện trưởng ban hành chỉ trên cơ sở nghe báo cáo của cấp dưới, do vậy đã xảy ra những trường hợp oan, sai. Với vai trò là người lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm chung về toàn bộ hoạt động của VKS mỗi cấp cũng như chịu trách nhiệm về hoạt động của VKS cấp dưới, đồng thời trước yêu cầu nâng cao chất lượng công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra các vụ án hình sự, theo chúng tôi Viện trưởng - VKS các cấp phải thực hiện tốt các nội dung sau:
Thứ nhất, phải tham gia trực tiếp vào những hoạt động kiểm sát quan trọng nhằm bảo đảm các quyết định pháp lý được ban hành phải đúng đắn, hợp pháp và có căn cứ. Ví dụ: trong các vụ án giết người không quả tang, Lãnh đạo VKS phải trực tiếp cùng kiểm sát viên tham gia kiểm sát khám nghiệm hiện trường; vấn đề phê chuẩn việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong các trường hợp phức tạp, khó khăn trong việc xác định căn cứ để phê chuẩn thì Lãnh đạo Viện phải trực tiếp xem xét hồ sơ trước khi quyết định phê chuẩn.
Thứ hai, phải tăng cường hơn nữa công tác quản lý chặt chẽ đối với các hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp ở mỗi cấp kiểm sát. Hoạt động quản lý trước hết phải bảo đảm quản lý chặt chẽ những hoạt động quan trọng như quản lý về tiếp nhận, xử lý về tin báo tội phạm; quản lý vấn đề khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; quản lý vấn đề trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng hay quản lý các trường hợp án đình chỉ... Bên cạnh đó, còn phải quản lý con người để phát huy hết năng lực của cán bộ khi được giao thực hiện chức năng kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự.
Thứ ba, Viện trưởng - VKS cấp trên phải tăng cường công tác chỉ đạo cho Viện trưởng - VKS cấp dưới trong công tác kiểm sát hoạt động tư pháp, trước tiên Viện trưởng - VKS cấp trên cần có biện pháp để các VKS cấp dưới thực hiện tốt chế độ báo cáo, thống kê, chế độ thỉnh thị nghiệp vụ, đồng thời phải tạo cơ chế chặt chẽ trong việc xử lý các thông tin báo cáo, trả lời thỉnh thị của VKS cấp trên. Tiếp theo là phải tăng cường công tác kiểm tra hoạt động thực hiện chức năng kiểm sát khởi tố - điều tra của các VKS cấp dưới, như quy định chế độ giao ban công tác giữa VKS cấp trên với VKS cấp dưới, lập các đoàn kiểm tra...việc kiểm tra của VKS cấp trên đối với VKS cấp dưới phải thực hiện nghiêm túc, thường xuyên và có hiệu quả như nội dung của Chỉ thị công tác năm 2003 của đồng chí Viện trưởng - VKSND tối cao đa nêu: "VKS cấp trên cần tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn, chỉ đạo nghiệm vụ đối với VKS cấp dưới. VKS cấp dưới phải báo cáo đầy đủ, kịp thời về hoạt động của mình cho VKS cấp trên theo quy định của ngành".
Qua các giải pháp nói trên, chúng tôi đưa ra một số kiến nghị sau: Cần quy định rõ trong các quy chế công tác kiểm sát của ngành về trách nhiệm cụ thể của VKS cấp trên trong việc trả lời thỉnh thị của VKS cấp dưới, nhất là vấn đề thời gian trả lời thỉnh thị và quan hệ giữa các đơn vị nghiệp vụ cấp trên có liên quan đến vấn đề thỉnh thị của VKS cấp dưới. Với quy định đó sẽ khắc phục được tình trạng nhiều vụ việc khi VKS cấp dưới thỉnh thị nhưng chưa được VKS cấp trên trả lời kịp thời, mà để kéo dài thời gian ảnh hưởng đến thời hạn giải quyết vụ án.
3.3.4. Giải pháp, kiến nghị về công tác cán bộ của ngành kiểm sát
Có thể nói trong những năm qua Đảng và Nhà nước đã quan tâm, chú trọng công cuộc cải cách tư pháp, trong đó có đề cập đến công tác cán bộ tư pháp nói chung và cán bộ của ngành kiểm sát nói riêng, điều đó được thể hiện rõ trong các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước. Yêu cầu về công tác cán bộ mà Đảng và Nhà nước đặt ra là phải tăng cường rèn luyện ý thức chính trị và phẩm chất đạo đức, nâng cao trình độ pháp lý và chuyên môn nghiệp vụ, thực hiện đúng lương tâm và trách nhiệm. Nhận định về những ưu, khuyết điểm trong công tác cán bộ, Nghị quyết số 08 - NQ/TW ngày 2-1-2002 của Bộ chính trị đã đánh giá như sau: "Phần lớn các cán bộ làm công tác tư pháp giữ vững phẩm chất chính trị, có tinh thần trách nhiệm và hoàn thành nhiệm vụ, nhiều đông chí đã tận tụy với công việc, có những trường hợp đã hy sinh cả tính mạng trong cuộc đấu tranh chống tội phạm". Tuy nhiên Nghị quyết cũng đánh giá: "Công tác cán bộ của các cơ quan tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình hiện nay. Đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ và năng lực nghiệp vụ, một bộ phận tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, sa sút về phẩm chất đạo đức. Đây là vẫn đề nghiêm trọng làm ảnh hưởng tới kỷ cương, pháp luật, giảm hiệu lực của Bộ máy nhà nước".
Quán triệt và thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước về công tác cán bộ, ngành kiểm sát trong những năm vừa qua đã có nhiều cố gắng trong việc quy hoạch và đào tạo đội ngũ cán bộ và tăng cường công tác rèn luyện về phẩm chất chính trị và đạo đức của người cán bộ kiểm sát. Nghiêm túc đánh giá thấy rằng tuy trình độ của đa số cán bộ được nâng lên hơn trước nhưng năng lực vận dụng vào thực tế và chất lượng của đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên chưa theo kịp được yêu cầu, vẫn còn một số cán bộ chưa tự giác học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ về mọi mặt... Tuy trên 80% biên chế của toàn ngành có trình độ Đại học luật và Cao đẳng kiểm sát, nhưng trong đó chỉ có trên 30% tốt nghiệp Đại học luật, còn trên 50% là Cao đẳng kiểm sát, ngoài ra còn 20% là trung cấp và chưa qua đào tạo chuyên môn nghiệp vụ. Đa số cán bộ, kiểm sát viên cấp huyện được đào tạo ở hệ chuyên tu, tại chức Cao đẳng kiểm sát, số đào tạo Đại học luật chính quy chỉ có 30%. Số có trình độ trung cấp, cao cấp lý luận chính trị chỉ mới đạt 30%. Nhìn chung đội ngũ cán bộ kiểm sát hiện nay tuy được tăng cường về số lượng nhưng đa số có trình độ Cao đẳng kiểm sát, do vậy đội ngũ cán bộ chưa ngang tầm với yêu cầu của việc cải cách tư pháp hiện nay. Vừa có tình trạng thừa cán bộ năng lực không đáp ứng yêu cầu, lại thiếu những cán bộ có năng lực chuyên môn nghiệp vụ cao, tình trạng hẫng hụt cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi ở các cấp kiểm sát vẫn đang tồn tại.
Để đáp ứng với yêu cầu của tình hình mới hiện nay là nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra các vụ án hình sự, theo chúng tôi công tác cán bộ trong thời gian tới tiếp tục thực hiện tốt các nội dung sau:
Thứ nhất, người cán bộ kiểm sát phải không ngừng rèn luyện ý thức chính trị. Rèn luyện ý thức chính trị tức là đòi hỏi người cán bộ, kiểm sát viên phải luôn luôn nắm vững các chủ trương, chính sách của Đảng trong lĩnh vực đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm nói chung và trong công tác kiểm sát nói riêng, bên cạnh đó phải quán triệt đầy đủ những chủ trương của cấp ủy Đảng về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương để hướng việc thực hiện chức năng kiểm sát phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ chính trị của từng địa phương. Việc rèn luyện ý thức chính trị phải luôn đi đôi với việc rèn luyện phẩm chất đạo đức của người cán bộ kiểm sát theo như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng và khiêm tốn". Việc xa rời rèn luyện phẩm chất chính trị và đạo đức của người cán bộ kiểm sát sẽ dễ bị lợi ích vật chất, tinh thần cám dỗ và đi đến vi phạm pháp luật. Việc tăng cường rèn luyện phẩm chất chính trị và đạo đức của người cán bộ kiểm sát trong thời gian tới phải tiếp tục được thực hiện để tránh những vi phạm pháp luật của các cán bộ kiểm sát như nội dung của Chị thị công tác kiểm sát năm 2003 của Viện trưởng - VKSND tối cao đã nêu: "Qua vụ án Trương Văn Cam, tổ chức nghiên cứu rút ra những bài học về công tác quản lý, chỉ đạo nghiệp vụ, giáo dục, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, ý thức tổ chức kỷ luật để giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ trong ngành".
Thứ hai, người cán bộ kiểm sát phải không ngừng học tập nâng cao trình độ pháp lý và trau dồi các nghiệp vụ chuyên môn để hoàn thành nhiệm vụ được giao phó. Muốn vậy, mỗi cán bộ phải ra sức học tập, nghiên cứu, tự nâng cao trình độ về mọi mặt, nắm vững chức năng, nhiệm vụ của ngành và các thao tác nghiệp vụ được quy định trong các quy chế nghiệp vụ. Bên cạnh đó Lãnh đạo ngành kiểm sát cần có sự quan tâm hơn nữa công tác đào tạo, đào tạo lại cán bộ, đặc biệt là còn trên 50% số cán bộ có trình độ Cao đẳng kiểm sát cần được đào tạo chuyển cấp lên Đại học luật, để làm được điều đó Lãnh đạo VKSND tối cao cần có biện pháp thực hiện tốt các nội dung sau:
Thứ nhất, xây dựng quy hoạch dài hạn về công tác cán bộ, trong đó có nội dung qui hoạch về đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.
Thứ hai, xây dựng kế hoạch định kỳ đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho các cán bộ kiểm sát, nhất là cán bộ kiểm sát làm công tác kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự.
Thứ ba, trong xây dựng đội ngũ cán bộ phải đề ra yêu cầu về tiêu chuẩn hóa cán bộ, bảo đảm đủ về số lượng và chất lượng cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.
Thứ tư, chỉ đạo các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ của ngành sớm xây dựng nội dung chương trình giảng dạy theo hướng tập trung đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, ví dụ như kỹ năng xét hỏi, tranh tụng, kỹ năng khám nghiệm hiện trường, kỹ năng kiểm sát điều tra, kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án... Để trang bị cho mỗi cán bộ kiểm sát một kiến thức nghiệp vụ chuẩn để khi thực hiện chức năng kiểm sát trong thực tế có hiệu quả và chất lượng.
3.3.5. Giải pháp, kiến nghị về cơ sở vật chất
Cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang bị cho các VKS trong thời gian tới là một yêu cầu khách quan để phục vụ tốt hơn cho hoạt động nghiệp vụ của ngành kiểm sát và yêu cầu này cũng chính là thực hiện một trong tám nhiệm vụ trọng tâm mà Nghị quyết số 08 -NQ/TW của Bộ chính trị đã nêu đó là: "Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất bảo đảm cho các cơ quan tư pháp có đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ, có cơ chế chính sách hợp lý đối với cán bộ tư pháp. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện làm việc, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, từng bước hiện đại hóa các cơ quan tư pháp. Phấn đấu đến năm 2005 xây dựng đủ trụ sở và cơ sở làm việc của các cơ quan tư pháp từ trung ương đến cấp huyện". Do vậy, chúng tôi kiến nghị với các cấp, các ngành Trung ương cần quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất mà cụ thể trước mắt cần xây dựng trụ sở làm việc cho đơn vị nào chưa có trụ sở làm việc; sửa chữa, cải tạo lại những trụ sở đã xuống cấp nghiêm trọng và đầu tư một số trang thiết bị cần thiết phục vụ cho công tác như ở các huyện miền núi thì cần trang bị phương tiện xe máy, hơn nữa trong thời gian tới thực hiện chủ trương tăng thẩm quyền cho cấp huyện nên số lượng cán bộ ở các VKS cấp huyện sẽ tăng trong khi các trang thiết bị tối thiểu như bàn ghế hiện nay nhiều đơn vị không đủ các cán bộ phải dùng chung bàn và tủ đựng tài liệu, vì vậy cũng cần trang bị đầy đủ trang thiết bị tối thiểu cho các VKS cấp huyện.
KẾT LUẬN
Quá trình hoàn thiện bộ máy nhà nước Xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) tiếp tục khẳng định VKS là một trong bốn hệ thống cơ quan nhà nước do Quốc hội tổ chức ra, có chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự là mọt trong các hoạt động chính của VKS. Vì hoạt động khởi tố - điều tra tội phạm là hoạt động đặc biệt của cơ quan nhà nước trực tiếp tác động đến các quyền tự do thân thể, danh dự và tính mạng của công dân, để xảy ra việc khởi tố, điều tra, bắt giữ, giam và xử lý oan sai đối với một công dân không những chỉ gây ảnh hưởng đến đời sống của họ mà còn làm mất lòng tin của quần chúng nhân dân đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật. Mặt khác, nếu kẻ phạm tội không bị phát hiện, xử lý kịp thời và nghiêm minh là sự biểu hiện của pháp luật không nghiêm, tạo điều kiện cho tội phạm tiếp tục phát triển dẫn đến bất ổn tình hình xã hội. Do đó, đòi hỏi VKS phái thực hiện tốt, có hiệu quả chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự.
Ngoài ra, trong tình hình mới hiện nay với việc thay đổi chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước ta đã làm nảy sinh nhiều loại tội phạm mới, có tính chất và mức độ nguy hiểm nên việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm vì vậy cũng khó khăn, phức tạp hơn. Bên cạnh đó, trong thời gian qua để đáp ứng với chính sách phát triển trong thời kỳ mới, Nhà nước ta đã có nhiều sửa đổi, bổ sung về pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự. Đứng trước những thay đổi đó đòi hỏi VKS không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả trong việc thực hiện chức năng kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự của mình.
Qua nghiên cứu đề tài này, chúng tôi thấy rằng để thực hiện tốt chức năng kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự thì cần phải có đổi mới và hoàn thiện các vấn đề sau:
Thứ nhất, về mặt lý luận hiện nay trong ngành kiểm sát vẫn còn một số quan điểm, nhận thức chưa nhất quán về chức năng của VKS. Còn có quan điểm cho rằng VKS chỉ thực hiện chức năng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử, còn trong giai đoạn khởi tố - điều tra chỉ thực hiện chức năng kiểm sát là chính. Với nhận thức đó dẫn đến chưa phát huy hết quyền hạn của VKS trong quá trình kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự. Do vậy, trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ, Kiểm sát viên ngành kiểm sát cần xây dựng một môn hoặc một chuyên đề "Lý luận chung về chức năng của VKS".
Thứ hai, hiện nay tình hình đơn thư tố giác và tin báo tội phạm của nhân dân, các cơ quan và tổ chức xã hội vẫn thường gửi đến các bộ phận nghiệp vụ của ngành Công an như Cảnh sát kinh tế, Cảnh sát hình sự… Các bộ phận nghiệp vụ trên có thụ lý, chuyển cho CQĐT hay không VKS không thể nắm được. Trong khi BLTTHS chỉ quy định VKS kiểm sát việc giải quyết các tin báo, tố giác tội phạm ở CQĐT, VKS không có quyền can thiệp vào hoạt động điều tra trinh sát của Công an. Vì thế, dẫn đến tình hình nhiều đơn thư tố giác tội phạm, tin báo tội phạm không được thụ lý giải quyết kịp thời. Do vậy, thời gian tới các cơ quan chức năng tiến hành sửa đổi bổ sung Thông tư liên ngành số 03 cần bổ sung quy định nghĩa vụ thụ lý mọi thông tin tội phạm theo trình tự, mẫu thống nhất tại tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, CQĐT, Tòa án, VKS. Quy định như vậy sẽ là cơ sở pháp lý cho hoạt động kiểm sát giải quyết thông tin về tội phạm của VKS.
Thứ ba, BLTTHS năm 2003 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2004 với nhiều quy định mới và quy định sửa đổi bổ sung liên quan đế việc thực hiện chức năng kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự của VKS. Do vậy, cần thiết phải có văn bản hướng dẫn thi hành kịp thời để tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan VKS thực hiện tốt chức năng của mình.
Thứ tư, cần hoàn thiện hơn nữa về chương trình đào tạo nghiệp vụ kiểm sát đối với các kiểm sát viên làm công tác kiểm sát hoạt động tư pháp trong khởi tố - điều tra vụ án hình sự để nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ về khoa học điều tra hình sự, chiến thuật hỏi cung bị can, chiến thuật khám nghiệm hiện trường… nhằm bảo đảm cho các kiểm sát viên thực hiện tốt vai trò của mình khi thực hiện nhiệm vụ được giao.
Trên đây cũng chỉ là một số ý kiến của chúng tôi trong số rất nhiều quan điểm, ý kiến về chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của VKS. Mục đích của chúng tôi trong quá trình nghiên cứu đề tài này là nhằm làm rõ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố - điều tra của VKS. Bên cạnh đó, góp ý kiến vào việc sửa đổi các quy chế nghiệp vụ kiểm sát và các văn bản hướng dẫn thi hành các quy định của BLTTHS năm 2003 và đồng thời đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả trong việc thực hiện chức năng kiểm sát khởi tố - điều tra vụ án hình sự của VKS.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 (2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1999 (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1988 (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2003 (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Lê Cảm (2004), "Một số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn tố tụng hình sự", Kiểm sát, (2).
Nguyễn Ngọc Chí (Chủ biên) (2001) Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1945, 1959, 1960, 1963, 1984.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Chỉ thị của Bộ Chính trị về trách nhiệm của các cơ quan tư pháp trong việc bắt, tạm giữ và tạm giam, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của các cơ quan tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
Trần Văn Độ (2003), "Một số vấn đề về hoạt động tư pháp và kiểm soát hoạt động tư pháp ở nước ta hiện nay", Kỷ yếu đề tài cấp bộ: Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Hà Nội.
Phạm Hồng Hải (2003), Mô hình lý luận Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Hệ thống hóa các văn bản pháp luật về hình sự và tố tụng hình sự (1994), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
V.I. Lênin (1990), Bàn về chế độ song trùng trực thuộc và pháp chế xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự 1989 (1990), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Pháp lệnh về Kiểm sát viên 1993 (1994), Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.
Pháp lệnh về Kiểm sát viên 2002 (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1992 (1993), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002 (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (1990), Tập hệ thống hóa các văn bản về hình sự, dân sự, tố tụng, tập I, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (1992), Tập hệ thống hóa các văn bản về hình sự, dân sự, tố tụng, tập II, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (1995), Tập hệ thống hóa các văn bản về hình sự, dân sự, tố tụng, tập III, Hà Nội.
Từ điển tiếng Việt, (1999), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ an (2001), Báo cáo án đình chỉ và tạm đình chỉ, Nghệ An.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1991), "Hình sự", trong: Tập hệ thống hóa các văn bản cần thiết cho công tác kiểm sát, tập I , Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1998), Quy chế công tác kiểm sát điều tra, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1998), Quy chế công tác kiểm sát giam, giữ và cải tạo, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2000), Tài liệu tập huấn Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 (sửa đổi), Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2000), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 1999, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2000), Báo cáo về án đình chỉ, tạm đình chỉ, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2001), Tài liệu tập huấn công tác kiểm sát điều tra án trị an - xã hội, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2001), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2000, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2001), Báo cáo về án đình chỉ, tạm đình chỉ, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2002), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2001, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2003), Báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết 08 NQ/TW của Bộ Chính trị, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2003), Tài liệu tập huấn Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2003), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2002, Hà Nội.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2003), Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Kỷ yếu đề tài cấp bộ, Hà Nội.
Nguyễn Tất Viễn (2003), "Hoạt động tư pháp và kiểm sát các hoạt động tư pháp", Kỷ yếu đề tài cấp bộ: Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Hà Nội.
Võ Khánh Vinh (2003), "Về quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa", Nhà nước và pháp luật, (8), tr. 4-5.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2664.doc