LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam cũng như các nước đang phát triển khác đều vướng vào vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo đó là đầu tư thấp dẫn đến năng suất lao động thấp kéo theo thu nhập và tiết kiệm thấp nên đầu tư lại thấp. Vì thế các nước này luôn đi sau các nước phát triển hàng trăm năm. Để thoát khỏi vòng đói nghèo đó cần phải có một cú huých từ bên ngoài để thu hút vốn. Tự do hoá tài chính sẽ giúp các nước huy động được nguồn vốn nhàn rỗi trong nước và nước ngoài, kích thích đầu tư giúp tăng trưởng kin
23 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1515 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Kiềm chế tài chính - Tự do hoá tài chính, tự do hoá tài chính ở các nước & bài học đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h tế. Vì vậy việc xoá bỏ kiềm chế tài chính tiến tới tự do hoá tài chính là một vấn đề cần thiết không chỉ riêng đối với Việt Nam. Theo xu thế hội nhập toàn cầu thì tự do hoá tài chính là con đường phải qua. Nhưng để tiến tới tự do hoá tài chính hoàn toàn không phải chỉ một sớm một chiều là xong. Mà đó là cả một quá trình gian khó. Việc thực hiện ở mức độ nào và tiến trình ra sao thì phải tuỳ thuộc vào điều kiện của từng nước.
Với đề tài này em muốn đề cập là "Kiềm chế tài chính - Tự do hoá tài chính, tự do hoá tài chính ở các nước và bài học đối với Việt Nam" để xem tiến trình đổi mới và hội nhập của đất nước được thực hiện như thế nào. Quá trình tự do hoá đã được thực hiện ở đâu, với cơ chế lãi suất, chế độ tỷ giá ra sao, và Việt Nam đã thực hiện được chưa.
Với kiến thức hạn chế bài viết sẽ có nhiều sai sót mong thầy giúp đỡ và góp ý cho em.
Em chân thành cảm ơn !
PHẦN I
TỔNG QUAN VỀ KIỀM CHẾ TÀI CHÍNH VÀ TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH
I. KIỀM CHẾ TÀI CHÍNH
I.1. Kiềm chế tài chính
Theo nghiên cứu E.Shaw và MCKINNON thì kiềm chế tài chính là một cơ chế tài chính được đặc trưng bởi sự can thiệp quá mức của Nhà nước vào các hoạt động và các quá trình tài chính. Cụ thể là Nhà nước ấn định mức lãi suất trần trực tiếp điều tiết quá trình phân phối tín dụng, ưu tiên cho khu vực kinh tế quốc doanh và đặt ra tỷ lệ dự trữ bắt buộc quá cao. Trong một chế độ bị kìm hãm như vậy lãi suất tiền gửi thực của động sản, tiền tệ thường bị âm và khó mà dự đoán được khi nào xảy ra lạm phát cao và không ổn định. Tỷ giá hối đoái cũng trở nên rất không chắc chắn, nó phá vỡ thị trường trong nước dẫn đến những hậu quả trái ngược nhau đối với chất lượng và số lượng tích luỹ vốn. Đặc biệt đối với các nước mà nền kinh tế được quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung tài chính kiềm chế thể hiện rõ nét ở chính sách bao cấp qua tín dụng mức lãi suất đặc biệt thấp, thậm chí là lãi suất âm và khu vực kinh tế tư nhân hầu như không có cơ hội vay vốn từ hệ thống tài chính chính thức việc theo đuổi tài chính kiềm chế có nguyên nhân chủ yếu từ những đòi hỏi và mong muốn của Nhà nước về nguồn tài chính để đảm bảo 1 tỷ lệ tăng trưởng cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp cũng như các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội khác. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao trong những nước này là để bảo đảm khả năng tài trợ của các ngân hàng đối với nhu cầu tài chính của Nhà nước hơn là 1 cơ cấu quản lý lưu thông tiền tệ và các hoạt động cung cấp tín dụng.
I.2. Những đặc trưng của kiềm chế tài chính.
Thứ nhất, Nhà nước ấn định mức lãi suất trong nền kinh tế đưa ra mức lãi suất trần, lãi suất sàn.
Việc áp dụng lãi suất cứng nhắc như vậy đã làm cho hiệu quả sử dụng vốn thấp, việc huy động vốn gặp nhiều khó khăn, nhiều dự án khả thi không được thực hiện do thiếu vốn bởi lãi suất không được tự do biến động theo lượng cung/cầu vốn trên thị trường.
Như ở Côlombia lãi suất cho vay thương mại chuẩn đối với bộ phận danh mục cho vay "tự do" của ngân hàng thường có trần lãi suất công khai là 14-16% và có thể lên tới 22% nếu các ngân hàng kiếm được vốn bằng cách bán chứng khoán ghi nợ cho các doanh nghiệp và các hộ gia đình. Mặt khác các tổ chức tín dụng chuyên môn hoá được yêu cầu cho vay đối với các mục đích sử dụng ổn định trước với lãi suất thấp 2-4%.
Thứ hai, Các nước này thường theo đuổi chính sách tỷ giá cố định đó là chế độ tỷ giá mà trong đó Nhà nước cụ thể là Ngân hàng Trung ương tuyên bố sẽ duy trì tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền của quốc gia mình với một đồng tiền nào đó hoặc theo một rổ các đồng tiền nào đó ở một mức cố định. Bằng cách thường xuyên can thiệp vào thị trường ngoại tệ để thực hiện các hoạt động mua bán lượng dư cung hay dư cầu ngoại tệ. Việc áp dụng chế độ tỷ giá cố định sẽ làm cho NHTW không điều chỉnh được lượng cung tiền cho nên trong thời kỳ lạm phát cao sẽ làm cho đồng tiền nội địa lên giá thực tế. Tuy nhiên các nước này vẫn tiếp tục duy trì chế độ tỷ giá cố định với tư cách là mỏ neo danh nghĩa trong chương trình chống lạm phát của mình như Chilê và Urugoay năm 1978 Achentina năm 1991,...
Thứ ba, Chính phủ can thiệp, phân bổ tín dụng:
Chính phủ thường trợ cấp tín dụng cho các khu vực kinh tế Nhà nước và các ngành Chính phủ muốn khuyến khích phát triển. Như năm 1986, Pakistan, 70% những khoản cho vay mới là của ngân hàng quốc gia, và các ngân hàng chiếm ưu thế trong thế giới ngân hàng tại Braxin, năm 1987 chương trình tín dụng Chính phủ chiếm hơn 70% dư nợ tín dụng cho khu vực kinh tế công cộng và tư nhân. Như ở Nicaragua việc trợ cấp tín dụng trực tiếp ngoài việc choán mất chỗ của các dự án đem lại mức hoàn vốn có tiềm năng cao và kích thích sự bành trướng quan liêu của các tổ chức thu nhập tín dụng khác nhau, còn mang lại nhiều hậu quả khác cho nền kinh tế như vấn đề đầu tư không thu lại hiệu quả, nhu cầu tín dụng sẽ luôn luôn vượt trội nếu người ta không phải trả lại hoặc nếu lãi suất cho vay thực là âm. Các khoản trợ cấp tín dụng vượt quá cho các ngành nông nghiệp và một phần cho ngành công nghiệp đã duy trì rất nhiều hãng và trang trại không có hiệu quả vẫn tiếp tục tồn tại. Thậm chí sự phát triển của các xí nghiệp có hiệu quả tiềm tàng lại bị cản trở nghiêm trọng bởi vì tất cả các trang trại đã bóp méo bản chất hoạt động của mình nhằm mục tiêu kiếm được các khoản trợ cấp tín dụng. Điều này đã làm cho thâm hụt ngân sách tăng vì phải bù lỗ, tổng thu nhập quốc dân giảm, xuất khẩu giảm, lạm phát tăng,...
Chính những đặc trưng trên đã làm cho môi trường cạnh tranh không bình đẳng. Nó không kích thích được tự do cạnh tranh lành mạnh, bỏ qua sự điều chỉnh của các quy luật cung cầu, quy luật kinh tế.
I.3. Ưu nhược điểm của kiềm chế tài chính
Để đạt được mong muốn của Nhà nước về nguồn tài chính, để đảm bảo một tỉ lệ tăng trưởng cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp cũng như các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội khác nên Nhà nước thực hiện kiềm chế tài chính đã đưa nền kinh tế phát triển theo đúng hướng, đúng mục đích của mình nhưng hậu quả cơ bản của việc theo đuổi chính sách tài chính kiềm chế lại chính là những hạn chế về tăng trưởng kinh tế, những mất ổn định trong kinh tễ vĩ mô. Từ những đặc trưng của kiềm chế tài chính dẫn đến hạn chế của nó là:
Thứ nhất, Dòng ngân quỹ cho vay của cả hệ thống ngân hàng có tổ chức bị giảm sút, buộc những người vay tiềm năng phải dựa nhiều hơn vào từ tài trợ.
Thứ hai, Lãi suất cho vay của ngân hàng khác nhau giữa các loại người vay, giữa nhóm người vay không được ưa chuộng và nhóm người vay được ưa chuộng.
Thứ ba, Quá trình tự tài trợ của các doanh nghiệp và hộ gia đình bị tàn lụi dần. Nếu lãi suất thực của khoản tiền gửi cũng như của tiền mặt âm các doanh nghiệp sẽ không dễ tích luỹ các tài sản động (tức là các tài sản dễ chuyển sang thành phương tiện thanh toán) trong khi chuẩn bị thực hiện các dự án đầu tư khác nhau. Các hàng rào chống lạm phát tốn kém về mặt xã hội có vẻ như hấp dẫn hơn với tư cách là các công cụ tài chính trong nước.
Thứ tư, Không thể mở rộng đáng kể tài chính bên ngoài hệ thống ngân hàng đang bị kìm hãm trong điều kiện các doanh nghiệp rất khó đổi tài sản thành tiền mặt hoặc khi lạm phát cao và không ổn định. Việc khuyến khích các tập đoàn và các công ty bảo hiểm mở thị trường cổ phiếu và chứng khoán và trung gian cần có sự ổn định tiền tệ.
Thứ năm, Dòng vốn tài chính nước ngoài đổ vào có thể sẽ không sinh lợi khi thị trường vốn nội địa lộn xộn và không thể lường trước tỷ giá hối đoái.
Về thực tế theo logic thông thường lãi suất thấp sẽ khuyến khích đầu tư do đó mà thúc đẩy sự tăng trưởng. Diễn biến kinh tế ở Nhật Bản, các nước Đông Âu và một số nước khác đã chứng tỏ điều đó vào những năm 1960 đến đầu 1980 kinh tế các nước này rất phát triển. Song việc duy trì tài chính kiềm chế ở các nước này trong giai đoạn sau đã cho thấy với mức lãi suất quá thấp, công chúng không muốn để khoản tiết kiệm của mình dưới dạng tài sản tài chính trái lại họ hiện vật hoá dưới dạng vàng, đá quý, ngoại tệ mạnh, thậm chí tất cả các loại hàng hoá tiêu dùng mà họ có thể mua và dự trữ được. Tiềm năng tài chính trong dân cư không được huy động và sử dụng đầu tư vào sản xuất. Điều này không những chỉ gây ra tình trạng thiếu vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế mà còn gây ra tình trạng khan hiếm giả tạo về hàng hoá và những mất cân đối nghiêm trọng trên thị trường hàng hoá. Các doanh nghiệp Nhà nước luôn được ưu tiên vay vốn với lãi suất bao cấp do vậy mà ỷ lại không sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả dẫn tới Ngân sách Nhà nước luôn là giới hạn mềm. Lạm phát và sự biến động của tỷ giá là không thể kiểm soát nổi. Hệ thống tài chính không được phát triển và không thể thực hiện được vai trò và chức năng trong việc điều tiết và tạo vốn thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Thị trường tài chính hoặc là không có hoặc là hết sức manh mún, phân tán và đầy rủi ro.
Qua những hạn chế trên đây thì việc xoá bỏ kiềm chế tài chính tiến tới tự do hoá tài chính là con đường phải qua, là việc nên làm để thúc đẩy việc huy động những nguồn vốn nhàn rỗi kích thích đầu tư, tăng trưởng kinh tế tham gia vào quá trình hội nhập, toàn cầu hoá.
II. TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH
II.1. Tự do hoá tài chính
Trong 3 xu hướng tự do hoá cơ bản (tự do hoá giá cả, tự do hoá thương mại và tự do hoá tài chính) thì tự do hoá tài chính thường là bước cuối cùng khó khăn nhất, lâu dài nhất và cũng nguy hiểm nhất. Hiện nay IMF cũng như WB lấy học thuyết tự do hoá tài chính làm kim chỉ nam đổi mới tài chính trên toàn cầu. Họ nhận định "Tự do hoá tài chính thành công là bộ phận cấu thành quan trọng trong chiến lược tăng trưởng kinh tế của mỗi nước".
Vậy tự do hoá tài chính là gì? Đó là giảm thiểu sự can thiệp của Nhà nước vào các giao dịch tài chính. Các hoạt động tài chính được tự do thực hiện theo tín hiệu thị trường. Bản chất của tự do hoá tài chính là hoạt động tài chính theo cơ chế thị trường. Các dòng vốn được tự do lưu chuyển đến bất cứ đâu tuỳ thuộc ý muốn của nhà đầu tư mà không gặp bất cứ sự ngăn cản phi kinh tế nào. Điều này hoàn toàn phù hợp với trọng tâm đổi mới là nâng cao hiệu quả đầu tư mà chúng ta đã lựa chọn. Các dòng vốn ở đây bao gồm cả vốn đầu tư của khu vực quốc doanh và tư nhân, vốn trong nước và vốn nước ngoài, đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp. Kết quả của tự do hoá tài chính được thể hiện bằng tỷ số giữa tiền mở rộng (tiền mặt và tiền gửi trong hệ thống Ngân hàng thương mại) trên thu nhập quốc dân, tỷ lệ này của các nước Châu Á trung bình là 60% của Châu Phi chỉ có 20%.
Tự do hoá tài chính được phân làm hai cấp độ:
1. Tự do hoá tài chính nội địa: xoá bỏ kiểm soát lãi suất và phân bổ tín dụng.
2. Tự do hoá tài chính quốc tế: loại bỏ sự kiểm soát vốn và hạn chế trong quản lý ngoại hối.
Vì vậy khi tiến hành tự do hoá tài chính thì hạt nhân của nó là tự do hoá lãi suất và thường gắn liền với việc tự do hoá lãi suất tự do hoá tỷ giá hối đoái.
II.2. Ưu nhược điểm của tự do hoá tài chính
Trái với kiềm chế tài chính khi nghiên cứu về tự do hoá tài chính các nhà kinh tế đã rút ra được những ưu điểm của nó là:
Thứ nhất: Tự do hoá tài chính sẽ tăng thêm áp lực cạnh tranh làm cho khu vực dịch vụ tài chính hoạt động có hiệu quả và ổn định hơn đồng thời giúp các tổ chức tài chính nội địa có điều kiện cải thiện năng lực quản lý.
Thứ hai: Tự do hoá tài chính sẽ làm tăng thêm chất lượng các dịch vụ tài chính được cung cấp (do sự độc quyền bị loại bỏ). Người tiêu dùng có thể được hưởng những sản phẩm dịch vụ mới đa dạng tiện ích với chi phí và thời gian ít nhất.
Thứ ba: Tự do hoá các dịch vụ tài chính đem đến nhiều cơ hội cho việc chuyển giao công nghệ và làm giảm thiểu những rủi ro có tính hệ thống.
Thứ tư: Tự do hoá các dịch vụ tài chính tạo điều kiện cho việc thiết lập một chính sách kinh tế vĩ mô có hiệu quả hơn phù hợp với những điều kiện trong một nền kinh tế mở, trên cơ sở đó thực hiện phân phối nguồn lực một cách có hiệu quả trên cơ sở khai thác tối đa lợi thế kinh tế trong nước và thế giới. Kết quả của nhiều nghiên cứu đó cho thấy những lợi ích đề cập trên đây là thực tế. Một nghiên cứu của các nhà kinh tế học thuộc ban thư ký của WTO năm 1997 đã kết luận rằng: việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính ở các nước theo đuổi chính sách mở cửa đã có tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy cạnh tranh và nâng cao hiệu quả. Do đó chi phí dịch vụ giảm đi đáng kể, chất lượng dịch vụ được nâng cao, các loại dịch vụ được đa dạng hoá và khách hàng được tiếp cận với các loại hình dịch vụ một cách nhanh nhất. Việc mở cửa thị trường tài chính tại các nước này cũng đồng thời góp phần củng cố lại các tổ chức trung gian tài chính và tạo nhiều cơ hội hơn cho các nhà đầu tư thông qua việc nâng cao hiệu quả quản lý và giảm thiểu rủi ro. Việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính ở hầu hết các nước cũng góp phần thúc đẩy Chính phủ các nước chủ nhà cải tiến phương pháp quản lý vĩ mô nền kinh tế và thay đổi cách thức can thiệp vào thị trường đồng thời thúc đẩy việc hoàn thiện hành lang pháp lý và hệ thống kiểm tra, giám sát của Chính phủ đối với những lĩnh vực dịch vụ này.
Các nhà nghiên cứu lập luận rằng sở dĩ tự do hoá tài chính có tác động tích cực đến nền kinh tế chính là nhờ tác động lợi thế của kinh tế quy mô do vậy các tổ chức tài chính có thể hạ giá thành phục vụ. Bên cạnh đó việc loại bỏ yếu tố độc quyền tăng cường sự cạnh tranh là nhân tố có tính quyết định trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ, đa dạng hoá các loại hình sản phẩm và mở rộng cơ hội lựa chọn cho người tiêu dùng phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn.
Một nghiên cứu ở Mỹ nhằm xem xét tác động của cải cách trong lĩnh vực ngân hàng theo hướng mở của thị trường vào những năm 1970 và 1980 cho thấy việc cải cách đó đã góp phần làm tăng trưởng khoảng 0,5 đến 1,2% tổng sản phẩm quốc nội trong khoảng thời gian 10 năm sau khi cải cách được thực hiện.
Năm 1997 Bộ trưởng ngân khố Mỹ - Rober E. Rubin đưa ra kế hoạch nhằm hiện đại hoá hệ thống dịch vụ tài chính ở Mỹ và phác thảo những lợi ích của kế hoạch dựa trên những tính toán thực tế như sau:
· Thời gian trước đây khi chúng ta cho phép cạnh tranh mạnh hơn trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, người tiêu dùng đã được hưởng những lợi ích đáng kể. Năm 1995 giới tiêu dùng Mỹ chi phí vào khoảng 300 tỷ đô la vào các hoạt động bảo hiểm, dịch vụ ngân hàng và môi giới chứng khoán. Giả sử rằng do kết quả cạnh tranh của kế hoạch hiện đại hoá hoạt động dịch vụ tài chính mà chi phí dịch vụ đối với người tiêu dùng có thể giảm đi 1% thì cũng đã tiết kiệm được khoảng 3 tỷ đô la một năm. Tuy nhiên dựa trên những cơ sở thực tế tỷ lệ tiết kiệm chi phí hoàn toàn có thể đạt đến mức 5%, tức là vào khoảng 15 tỷ đô la một năm - một con số hoàn toàn không nhỏ đối với nền kinh tế.
Người ta tiến hành nghiên cứu tương tự như vậy đối với Châu Âu và Châu Mỹ cũng chỉ ra rằng ngành ngân hàng có thể giảm bớt chi phí nâng cao lợi nhuận khoảng từ 20 đến 50% thông qua việc nâng cao hiệu quả của các loại dịch vụ được cung cấp. Các cơ quan quản lý và kiểm soát ngân hàng quốc gia cũng có thể nâng cao hiệu quả với mức độ tương tự do phát huy lợi thế của kinh tế quy mô trong hoạt động chi trả và thanh toán.
Tóm lại ưu điểm lớn nhất của tự do hoá tài chính là tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh trong mọi thị trường. Đó là động lực thúc đẩy việc giảm thiểu chi phí, nâng cao chất lượng phục vụ, phân tán rủi ro và tạo cơ hội phát huy lợi thế kinh tế quy mô, tăng cường chuyển giao công nghệ và tạo môi trường thay đổi chính sách quản lý vĩ mô nền kinh tế. Trên cơ sở đó tăng cường năng lực cạnh tranh và sẵn sàng đối phó với những bất thường có thể xảy ra trên bình diện quốc tế tạo đà thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Bên cạnh những ưu điểm của tự do hoá tài chính thì nó còn tồn tại một số nhược điểm nhỏ:
Một là, tự do hoá tài chính có thể làm tăng thêm khả năng gây ra khủng hoảng tài chính nếu tiến trình tự do hoá tài chính được thực hiện một cách nôn nóng, sai trình tự hoặc thiếu đồng bộ trong các biện pháp quản lý vĩ mô ở cả cấp độ quốc gia và quốc tế hoặc có thể không đủ điều kiện tiên quyết. Khủng hoảng nợ Mexico cùng với một số nước kém phát triển đầu thập kỷ 80 và cơn bão khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực Đông Nam Á hiện nay đã đặt ra những thách thức to lớn cho hệ thống tài chính thế giới. Sự vỡ nợ của một loạt các ngân hàng trong quá khứ và mới đây đã dẫn đến một sự sụp đổ lòng tin đối với hệ thống ngân hàng quốc tế. Nó trở thành nỗi ám ảnh đối với các nước. Một nghiên cứu phân tích về các cuộc khủng hoảng ngân hàng trên thế giới đã cho thấy 18 trong 25 trường hợp được nghiên cứu, khủng hoảng tài chính đã diễn ra theo sau việc tự do hoá tài chính khoảng 5 năm. Do vậy nhiều người cho rằng khủng hoảng ngân hàng là sự kiện kéo theo của cải cách hệ thống tài chính theo hướng mở cửa. Thậm chí nhiều Chính phủ cho rằng đó là cái giá phải trả của tự do hoá tài chính. Trớ trêu thay nhận định này dường như được minh chứng bởi các cuộc khủng hoảng ngân hàng diễn ra ở Argentina, Barazil, Chile trong những năm 70, khủng hoảng tiền tệ ở Mexico năm 1994-1995, và Thái Lan năm 1997. Những cuộc khủng hoảng như vậy đà làm cho Chính phủ các nước Đông Nam Á tỏ ra thận trọng khi cân nhắc vấn đề cải cách, mở cửa và tự do hoá tài khoản vốn. Tuy nhiên theo nhiều nhà nghiên cứu thì việc mở cửa thị trường tài chính bản thân nó thực chất không phải là nguyên nhân sâu xa dẫn đến khủng hoảng tài chính ngân hàng. Việc cải cách hệ thống tài chính và tự do hoá tài chính có chăng chỉ lật tẩy và làm trầm trọng thêm những yếu kém trong thể chế và các chính sách tài chính vĩ mô vón dĩ đã tiềm ẩn và do đó làm tăng thêm rủi ro của việc dẫn dắt đến khủng hoảng tài chính. Những cải cách tài chính theo hướng mở cửa đã diễn ra ở những nước này thực chất không gây cản trở hoặc làm phương hại đến lợi ích thực thụ mà chỉ góp phần phơi bày những điểm yếu của hệ thống tài chính nội địa trước những điều kiện của hệ thống tài chính quốc tế mà thôi.
Các nhà nghiên cứu đã xác định nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính ngân hàng trên thế giới là: sự không ổn định có tính vĩ mô như sự thất thường của hoạt động thương mại, tính áp đặt trong chính sách tỷ giá và lãi suất, sự bùng nổ của hoạt động cho vay, sự sụt giá tài sản, sự du nhập vốn một cách ồ ạt sự chuẩn bị chưa kỹ để tiến hành mở cửa và sự không tuân thủ tính logic và trình tự của những cải cách tài chính.
Vậy tự do hoá tài chính chỉ làm tăng thêm khả năng gây khủng hoảng tài chính còn nguyên nhân sâu sa của cuộc khủng hoảng tài chính lại chính là những yếu kém tiềm ẩn của hệ thống ngân hàng, sự thiếu lành mạnh của hệ thống chính sách quản lý vĩ mô, sự thiếu vắng của một chế độ giám sát kiểm tra có hiệu quả và sự sai lệch trong đường lối cải cách.
Hai là, Làm phương hại mục tiêu chiến lược của quốc gia vì tài chính thường coi là công cụ quản lý chiến lược và lĩnh vực đặc biệt vẫn được nắm giữ bởi Nhà nước để tập trung thực hiện những mục đích quan trọng của một quốc gia. Việc mở cửa thị trường tài chính có thể có nguy cơ làm xao nhãng hoặc thiếu tập trung trong việc điều hành để thực hiện những mục tiêu đó vì các tổ chức doanh nghiệp nước ngoài sẽ không quan tâm đến một mục đích nào khác hơn là mục đích lợi nhuận. Đặc biệt trong điều kiện hệ thống tài chính nội địa có khả năng cạnh tranh kém, nền tài chính có nguy cơ bị thống trị bởi các tổ chức doanh nghiệp tài chính nước ngoài thì quyền lực kiểm soát khống chế và điều chỉnh thị trường tài chính của Nhà nước sẽ dần bị thu hẹp lại. Hơn nữa việc mở cửa thị trường tài chính nếu không được chuẩn bị kỹ lưỡng có thể sẽ dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực, thiếu lành mạnh như: lừa đảo, phá sản, đổ vỡ,... gây thiệt hại đến lợi ích tiêu dùng ngăn cản sự phát triển lành mạnh của một quốc gia.
Tuy nhiên theo lập luận của nhiều nhà nghiên cứu sự thâm nhập của các tổ chức tài chính nước ngoài có thể đưa đến những lợi ích đáng kể (như đã đề cập ở trên). Hơn nữa những nhược điểm của tự do hoá tài chính có thể khống chế hoặc hạn chế ở mức thấp nhất nếu năng lực cạnh tranh của hệ thống tài chính nội địa được cải thiện đáng kể trước khi tiến hành mở cửa. Khả năng đó là hiện thực nếu nó được trợ giúp bởi một chế độ giám sát kiểm tra thận trọng có hiệu quả và một trình tự mở cửa hợp lý. Như vậy việc có tận dụng được những lợi ích tiềm năng đó với một chi phí thấp hay không hoàn toàn phụ thuộc vào đường lối cải tổ của chính các nước theo đuổi tự do hoá tài chính.
Trên thực tế có rất ít những bằng chứng chứng minh rằng sự có mặt của tổ chức tài chính nước ngoài làm phương hại và phá huỷ sự an toàn của hệ thống tài chính của một nước. Sự có mặt của tổ chức tài chính nước ngoài thực chất lại làm tăng thêm sự đa dạng của hệ thống tài chính và do đó làm tăng thêm tính ổn định cần có. Hơn nữa sự hiệu quả của chính sách tài chính tiền tệ phụ thuộc phần lớn vào chính sách tỷ giá và chính sách di chuyển vốn của nước chủ nhà chứ không phụ thuộc vào sự có mặt hay không của các tổ chức tài chính nước ngoài.
Tuy tự do hoá tài chính cũng có những nhược điểm nhưng tiến tới tự do hoá tài chính vẫn là con đường phải đi và là một cách lựa chọn có khoa học bởi cái gì cũng có mặt trái và mặt phải. Ở đây tự do hoá tài chính có rất nhiều ưu điểm và những nhược điểm thì có thể khắc phục được (như đã phân tích ở trên). Như vậy tiến tới tự do hoá tài chính là xu thế chung của hầu hết các nước trên thế giới.
PHẦN II
THỰC TIỄN VÀ KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC VỀ VẤN ĐỀ TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH
II.1. THỰC TẾ Ở CÁC NƯỚC
Nhiều nước cả phát triển và đang phát triển đã thực hiện các bước để tự do hoá tài chính trong thập kỷ vừa qua. Lãi suất đã được tự do hoá ở Achentina, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Neu Zealand, Nigeria, Philippines, Srilanka, Mỹ,... Ở những nước khác như Thái Lan hay Nam Tư trần lãi suất được quản lý mềm dẻo hơn trước đây. Một vài nước như Chile và Hàn Quốc đã tư nhân hoá các ngân hàng thương mại của mình, Achentina, Chile, Pakistan và Thổ Nhĩ Kỳ đã giảm các chương trình tín dụng có chỉ đạo của họ và việc trợ cấp lãi suất đã được giảm hoặc xoá bỏ hẳn ở Hàn Quốc và Philippines. Và từ đầu những năm 80 chế độ tỷ giá của các nước đang phát triển đã có những thay đổi cơ bản theo hướng mềm dẻo hơn. Thực vậy theo thống kê của IMF số nước đang phát triển áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định (theo hình thức khác nhau) đã liên tục giảm từ 86 nước (tương đương 86%) năm 1976 giảm xuống còn 80 nước (tương đương với 67%) năm 1986 và 55 nước (tương đương 45%) năm 1996.
Trong khi đó số nước áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi (theo những hình thức khác nhau) đó liên tục gia tăng từ 14 nước (tương đương với 14%) năm 1976 lên đến 39 nước (tương đương 32%) năm 1986 và 68 nước trong số 123 nước (tương đương với 55%) năm 1996.
II.2. KINH NGHIỆM Ở CÁC NƯỚC
Ở Châu Á: Quá trình cải cách tài chính đã được tiến hành kể từ thập kỷ 70 tiếp tục ở thập kỷ 80 và 90. Việc loại trừ kiểm soát lãi suất tiền gửi và cho vay được tiến hành ở Singapore (1975), ở Malaysia (1978) ở Hàn Quốc (1988), Đài Loan (1989) ở Indonesia (1983). Một số ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước được tư nhân hoá ở Hàn Quốc 1988, Đài Loan (1989). Các ngân hàng nước ngoài và những chi nhánh của chúng đã được phép hoạt động ở Indonesia (1988), ở Thái Lan (1988), Đài Loan (1986). Ngoài ra sự kiểm soát ngoại hối được nới lỏng các ngân hàng được phát hành các chứng chỉ tiền gửi và các công cụ khác để huy động vốn. Cải cách tài chính ở Châu Á đã đem lại kết quả là sự tích luỹ tài chính diễn ra một cách có trật tự và khá ổn định. Sự tăng trưởng liên tục được duy trì kể từ đầu thập kỷ 80 ở Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore và kể cả một số nước thành viên ASEAN - Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Philippines trước khi xảy ra khủng hoảng.
Ở Hàn Quốc, quá trình tự do hoá tiến hành một chương trình cải cách kinh tế thành công khá ngoạn mục. Tuy nó cũng gặp phải những khó khăn như luồng tài chính ngắn hạn chảy vào nhiều trong năm 1966 dẫn đến một sự bất ổn định và gây lạm phát. Chương trình cải cách của Hàn Quốc bao gồm cải cách thương mại và cơ chế tỉ giá (tự do hoá nhập khẩu và thống nhất tiền tệ) với "một sự phá giá rộng lớn một lần và cho tất cả" gắn liền với một thay đổi lớn trong hệ thống ngân sách. Cơ chế lãi suất có kiểm soát được điều chỉnh tăng tới mức tạo ra lãi suất thực dương. Kết quả là: giá cả trong nước ổn định, nền kinh tế có được sự khởi đầu của con đường phát triển bền vững.
Ở Trung Quốc, Trung Quốc bắt đầu chính sách mở cửa kinh tế vào năm 1979 nhưng thực sự vào năm 1984 khi hệ thống ngân hàng tách thành hai cấp. Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc và Ngân hàng thương mại khi đó xuất hiện dấu hiệu cạnh tranh giữa các ngân hàng và các ngân hàng nước ngoài bắt đầu được phép thành lập và hoạt động ở Trung Quốc. Nhìn chung cho đến nay hệ thống dịch vụ tài chính ở Trung Quốc vẫn bị Chính phủ khống chế và kiểm soát chặt chẽ. Mức độ mở cửa cho các ngân hàng nước ngoài hoạt động còn rất hạn chế thể hiện:
Thứ nhất, Hệ thống ngân hàng.
Bốn ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước kiểm soát trên 80% thị phần và thực hiện việc phân phối tín dụng dựa trên kế hoạch tín dụng của trung ương. Các ngân hàng thương mại thực hiện hoạt động cho vay ngầm nhiều hơn hoạt động cho vay chính thức. Còn các ngân hàng nước ngoài chỉ được phép hoạt động ở một số vùng kinh tế đặc biệt. Hiện tại ở Trung Quốc có vào khoảng 540 văn phòng đại diện, 130 chi nhánh 6 liên doanh và 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Tuy nhiên chỉ có 9 ngân hàng được phép kinh doanh bằng nhân dân tệ và chỉ được thực hiện tại Thượng Hải và Quảng Châu. Trong trương lai những hạn chế của các ngân hàng nước ngoài có thể được nới lỏng về mọi mặt.
Thứ hai, Thị trường bảo hiểm.
Nó còn nhỏ bé và thống trị bởi các công ty bảo hiểm Nhà nước. Công ty nước ngoài muốn được cấp phép hoạt động đầy đủ phải chờ ba năm thẩm định.
Thứ ba, Thị trường chứng khoán.
Nó chưa phát triển mạnh. Các công ty nước ngoài kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán không được phép thành lập công ty con hoặc chi nhánh mà tồn tại dưới dạng liên doanh.
Tóm lại yếu tố cạnh tranh trong các hoạt động dịch vụ tài chính chưa phát triển thực sự và có lẽ đây là một trong những nguyên nhân chính khiến hệ thống tài chính của Trung Quốc vẫn còn mang nặng dấu ấn "kế hoạch hoá" và hiệu quả hoạt động thấp khả năng cạnh tranh kém. Trung Quốc cần có thời gian và những cải cách mạnh mẽ hơn trước khi thực hiện việc tự do hoá theo những cam kết khi gia nhập WTO.
Ở Châu Âu, như Thổ Nhĩ Kỳ, New Zealand, Hy Lạp, Bồ Đào Nhà,... việc tự do hoá tài chính phát triển sớm hơn và khá thành công.
Ở Thổ Nhĩ Kỳ, trong quá trình cải cách thâm hụt ngân sách Chính phủ giảm trong những năm 1980 - 1982. Chính phủ không tự do hoá các luồng vốn trong giai đoạn 1980 đến 1982 và vì vậy đã tránh được một số rắc rối phổ biến, tỷ lệ lạm phát hàng năm được tính bằng thay đổi về chỉ số giá bán buôn đã giảm từ hơn 100% năm 1980 xuống 25% năm 1982. Tuy nhiên những thay đổi kinh tế vĩ mô đã làm ảnh hưởng đến một số công ty gây suy thoái trong hệ thống ngân hàng. Việc quản lý ngân hàng yếu kém cho nên các cú sốc từ bên ngoài, điều chỉnh cơ cấu và lãi suất cao bất thường đã biến những khó khăn này thành khủng hoảng tài chính.
Ở New Zealand, trước 1984 sự can thiệp của Chính phủ vào khu vực tài chính là rất lớn nhưng sau đó Chính phủ đã đưa ra một chiến lược mới theo hướng thị trường. Một chương trình toàn diện gồm các cải cách cơ cấu tìm cách thúc đẩy tăng trưởng và chấn chỉnh lại sự mất cân bằng cán cân thanh toán bằng cách tăng cường vai trò của các lực lượng thị trường trong nền kinh tế, trong khu vực tài chính Chính phủ đã xóa bỏ mọi kiểm soát lãi suất và phân phối tín dụng, thả nổi tỷ giá hối đoái đưa vào những hình thức đấu thầu trên cơ sở thị trường khi bán chứng khoán chính phủ và thiết lập một hệ thống kiểm soát tiền tệ mới.
Để thúc đẩy cạnh tranh giữa các tô rchức tài chính, Chính phủ khuyến khích việc tham gia của các ngân hàng mới bất kể nước nào và mở rộng quyền giao dịch bằng ngoại tệ cho những tổ chức ngoài khu vực ngân hàng. Các biện pháp kiểm soát vốn nước ngoài được xoá bỏ nhằm tăng cường hơn nữa hoạt động của thị trường ngoại hối. Chương trình tự do hoá được thực hiện cùng với việc tăng cường năng lực giám sát kết quả cho thấy cạnh tranh tăng lên.
Ở Bồ Đào Nha, cải cách tài chính bao gồm cắt giảm đáng kể các chương trình tín dụng có chỉ đạo, chương trình tự do hoá rộng lớn mặc dầu còn lâu mới hoàn thành.
- Về lãi suất và những nỗ lực phát triển các thị trường vốn và tiền tệ.
Các nước ở Mỹ latinh tiến hành tự do hoá tài chính bao gồm hai yếu tố: Loại trừ mức trần của lãi suất, mở cửa tài chính với thế giới bằng cách làm cho các giao dịch về tài chính quốc tế không bị lệ thuộc vào các giới hạn của Chính phủ. Quá trình thay đổi này diễn ra một cách nhanh chóng và quyết liệt nhưng điều quan trọng là nó được tiến hành trong sự hiện diện của các chính sách kinh tế thiếu đồng bộ và thiếu vững chắc ở những phạm vi khác nhau. Với một môi trường lạm phát cao không ổn định tỉ giá không phản ánh đúng giá trị thực của đồng nội tệ, thiếu sự kiểm soát đối với hệ thống ngân hàng hoặc là đã tạo ra động cơ cho vốn chạy trốn ồ ạt ra khỏi đất nước để tránh khỏi thuế lạm phát và những rủi ro do lạm phát gây ra (như Chile) hoặc ngược lại làm cho đất nước bị tràn ngập bởi những luồng vốn khổng lồ từ nước ngoài vào như Achentina và Uruguay bởi lãi suất thực cao một cách không bình thường. Và kết quả đổi mới dưới những điều kiện này đã trở thành thảm hoạ về tài chính.
Các cải cách tài chính ở khu vực Carsahara Châu Phi đã và đang được tiến hành ở một số nước như Coted'Ivoine, Ghana, Guine, Maclagasca, Nigeria và Tanzania,... Mục tiêu là nhằm cải tổ lại tổ chức hoàn thiện các quy định điều tiết và chuẩn bị theo hướng dựa nhiều hơn vào thị trường. Các nền kinh tế kế hoạch tập trung cũng đã thực hiện một số cải cách tài chính có liên quan đến tăng lãi suất và phần nào tăng sự cạnh tranh trong việc cung cấp các dịch vụ.
II.3. BÀI HỌC RÚT RA
Từ những kinh nghiệm thực tế của các nước trong quá trình tự do hoá tài chính chúng ta rút ra bài học chính là:
Thứ nhất, Tự do hoá tài chính ở các nước đang phát triển mà cụ thể là tự do hoá lãi suất là mạo hiểm trong điều kiện lạm phát cao hay mất cân đối kinh tế vĩ mô lớn liên quan đến việc đầu tư kém hiệu quả và các món nợ khổng lồ của các tập đoàn tư nhân và khu vực công. Tiết kiệm hạn chế và vấn đề nợ quá hạn có thể đặt các t._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0706.doc