BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Vũ Thúy Bình
KHUYNH HƯỚNG PHÊ BÌNH MỚI TRONG
LÝ LUẬN PHÊ BÌNH VĂN HỌC ANH
Chuyên ngành: Lí luận Văn Học
Mã số: 602232
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. PHÙNG QUÍ NHÂM
Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến với các thầy cô đặc
biệt là thầy hướng dẫn của tôi, thầy PHÙNG QÚY NHÂM đã hướng dẫn và
giúp đỡ tôi thực hiện luận văn này.
Mặc dù
96 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1738 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Khuynh hướng phê bình mới trong lý luận phê bình văn học Anh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã cố gắng hết sức, song vì nhiều lí do, luận văn này không
tránh khỏi có nhiều thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của các thầy
cô và các quí bạn đọc cho sự hoàn thiện thêm của luận văn.
Vũ Thuý Bình
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Sự ảnh hưởng của lí luận phê bình văn học phương Tây đối với nền lí
luận phê bình văn học nước ta là rất rõ rệt. Theo thời gian, đã, đang và sẽ có
ngày càng nhiều nhà nghiên cứu và nhiều công trình nghiên cứu về nền lí luận
phê bình văn học phương Tây để làm phong phú thêm cho nền lí luận phê
bình văn học của nước nhà.
Phê bình mới là một khuynh hướng văn học đặc biệt nổi bật về chiều
dài thời gian tồn tại cũng như mức độ sâu rộng của tầm ảnh hưởng của nó đối
với công cuộc nghiên cứu phê bình văn học, đặc biệt là đối với tác phẩm văn
học. Chú trọng vào công việc thực hành, phân tích, giải thích văn bản tác
phẩm văn học, nó là khuynh hướng phê bình văn học duy nhất được giảng
dạy như một môn học bắt buộc trong các trường cao đẳng và đại học của Mỹ
suốt những năm tháng thịnh hành của nó.
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về Phê bình mới chưa nhiều,
các công trình nghiên cứu về Phê bình mới ở Anh lại càng hiếm hoi.
Chính vai trò của Phê bình mới như vừa nêu ở trên, việc chú trọng vào
thực hành phân tích tác phẩm văn học của nó, cùng nhu cầu tìm hiểu, giao
lưu, học tập của nền lí luận phê bình văn học nước nhà, đã thôi thúc tôi chọn
đề tài này:“khuynh hướng phê bình mới trong lí luận phê bình văn học
Anh”.
2. Lịch sử vấn đề
Phê bình mới là một khuynh hướng nổi trội nhất, có ảnh hưởng lớn
nhất trong lí luận phê bình văn học Anh và Mỹ vào những năm đầu thế kỉ XX,
từ những năm 1920 đến những năm 1960. Khuynh hướng phê bình này đã có
2
những ý kiến khen - chê, những công trình nghiên cứu ca ngợi hay phê phán,
chỉ trích khác nhau trên thế giới. Mặc dù vậy, khuynh hướng này có ảnh
hưởng lớn trong giới học thuật Mỹ đến nỗi cách tiếp cận này đã trở thành tiêu
chuẩn trong trường cao đẳng và đại học ở Mỹ và trở thành chương trình giảng
dạy ở phổ thông trung học của Mỹ suốt những năm 1960, 1970.
Ở Việt Nam, những công trình nghiên cứu về khuynh hướng phê bình
này chưa nhiều, có thể kể đến những công trình tiêu biểu sau: các cuốn sách
“150 từ điển thuật ngữ văn học” (1999) của Lại Nguyên Ân, “Lí luận phê
bình văn học phương Tây thế kỉ XX” (2001) của Phương Lựu, “Sự đỏng đảnh
của phương pháp” của Đỗ Lai Thúy (Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin, Hà
Nội, 2004), “Lí luận phê bình văn học thế giới thế kỉ XX” (2007) Lộc Phương
Thủy (chủ biên) , công trình dịch thuật và giới thiệu cuốn sách được xem là
quan trọng của Phê bình mới: cuốn “Lí luận văn học” (Theory of Literature)
(2009) của tác giả Wellek của Nguyễn Mạnh Cường, Tạ Hương Nhi, Trịnh Bá
Đĩnh (dịch), Trần Thiện Khanh (giới thiệu); Về báo và tạp chí có tạp chí Văn
học nước ngoài số 2, tháng 3 - 4, năm 2003, số 1 tháng 1 - 2, năm 2005.
Cuốn sách: “150 từ điển thuật ngữ văn học” (1999) của Lại Nguyên Ân
không bàn luận trực tiếp về khuynh hướng Phê bình mới. Trong phần trình
bày khái niệm về phương pháp hình thức của cuốn sách (trang 265- 267), Lại
Nguyên Ân trong khi trình bày về phương pháp hình thức nói chung ở các
nước Tây Âu (như sự chú ý về vần thơ, luật thơ, kết cấu, mối quan hệ giữa
ngữ nghĩa và cấu trúc, cú pháp, giọng điệu, hình thức có chứa nội dung, cốt
truyện…) có nhắc đến kĩ thuật ‘đọc kĩ” tác phẩm trong khi coi nhẹ mọi thành
tố “ngoài văn học” vốn là đặc điểm của Phê bình mới. Như vậy, dù không
trực tiếp, Lại Nguyên Ân đã cho rằng Phê bình mới là một “ trường phái hình
thức” và sử dụng phương pháp mà ông gọi là “phương pháp hình thức”.
3
“Lí luận phê bình văn học phương Tây thế kỉ XX” (2001) do Phương
Lựu chủ biên trình bày về khuynh hướng Phê bình mới (chương chín, trang
242- 259) cả trên dòng chảy lịch đại cũng như lát cắt đồng đại. Sử dụng
phương pháp lịch đại, Phương Lựu trình bày khái quát về quá trình lịch sử
hình thành, phát triển, và tàn lụi của Phê bình mới qua ba thế hệ phê bình
cùng với những đại biểu và một số nét về tiểu sử cũng như văn nghiệp của họ.
Cụ thể là, Phương Lựu nêu lên thế hệ thứ nhất của Phê bình mới gắn với tên
tuổi, tiểu sử và văn nghiệp của hai nhà lí luận phê bình Anh là: Ivor Amstrong
Richards (1893- 1980) và Thomas Stearn Eliot (1888- 1965), thế hệ thứ hai
của Phê bình mới bao gồm Rohn Crowne Ransom (1888- 1974) và Cleanth
Brooks (1906- ?), và thế hệ thứ ba của Phê bình mới gắn với tên tuổi của nhà
phê bình Rene Wellek (1903- ?). Sử dụng cách tiếp cận đồng đại, Phương
Lựu nêu lên đặc điểm của khuynh hướng phê bình này thể hiện ở chiều dài
thời gian, số lượng các nhà phê bình mới cũng như tính chất phức tạp, thậm
chí khác nhau trong quan niệm về trọng điểm của phê bình của các nhà phê
bình mới như Ivor Amstrong Richards, Thomas Stearn Eliot, Rohn Crowne
Ransom, và Cleanth Brooks. Cũng bằng lát cắt đồng đại, Phương Lựu tiếp tục
rút ra kết luận của ông về đặc điểm của Phê bình mới mà ông cho là có bốn
đặc điểm chính. Đặc điểm đầu tiên về đối tượng của Phê bình mới theo
Phương Lựu đó chính là văn bản. Đặc điểm thứ hai là Phê bình mới đặt trọng
điểm của mình ở hình thức tác phẩm. Đặc điểm thứ ba về phương pháp tiếp
cận tác phẩm là giải thích văn bản. Từ những đặc điểm này, Phương Lựu cho
rằng Phê bình mới còn được gọi bằng các tên gọi như Phê bình bản thể, Phê
bình hình thức và Phê bình chữ nghĩa. Cuối cùng, đặc điểm thứ tư của Phê
bình mới theo Phương Lựu là sự không coi trọng việc phân tích tác phẩm theo
đặc trưng thể loại. Tiếp tục với cách tiếp cận đồng đại, Phương Lựu giải thích
ba khái niệm cơ bản trung tâm của Phê bình mới mà ông cho là cần thiết để có
4
thể hiểu được khuynh hướng này đó là văn bản, ngộ nhận cảm thụ và ngộ
nhận ý đồ. Không những giải thích các khái niệm cơ bản này, Phương Lựu
còn đưa ra những nhận xét và kiến nghị hết sức kịp thời, xác đáng và hợp lí
của ông về những khái niệm này. Những trang cuối cùng của “Lí luận phê
bình văn học phương tây thế kỉ XX” bàn về khuynh hướng Phê bình mới này,
Phương Lựu dùng để trình bày sơ lược về sự tàn lụi của Phê bình mới ở Pháp
gắn liền với tên tuổi, tiểu sử, văn nghiệp và quan niệm về phê bình mới của
Roland Barthes (1915-1980). Roland Barthes cùng với công trình “ Giải phẫu
phê bình” ( Antatomy of Criticism) và khuynh hướng Phê bình mới “mới” ở
Pháp đã đánh dấu sự tàn lụi của Phê bình mới vào những năm 1970.
Cuốn sách :“Sự đỏng đảnh của phương pháp” của Đỗ Lai Thúy (Nhà
xuất bản văn hóa thông tin, Hà Nội, 2004) in bài giới thiệu về tiểu sử, văn
nghiệp và lí thuyết nghệ thuật vô ngã của nhà phê bình mới Thomas Stearn
Eliot của tác giả Đỗ Lai Thúy và bài dịch “Truyền thống và tài năng cá
nhân” trích từ cuốn “Rừng thiêng” của Thomas Stearn Eliot của dịch giả
Thiệu Bích Hường.
Cuốn sách: “Lí luận phê bình văn học thế giới thế kỉ XX” (2007) Lộc
Phương Thủy (chủ biên) (từ trang 27- 127) chọn dịch và giới thiệu một bài
nghiên cứu về Phê bình mới của nhà nghiên cứu người Nga là E.A. Suganova
(do Đào Tuấn Ảnh dịch), giới thiệu tiểu sử và văn nghiệp của hai tác giả phê
bình mới người Anh là Thomas Stearn Eliot (Đỗ Lai Thúy giới thiệu) và Ivor
Amstrong Richards (Trần Hải Yến giới thiệu), chọn dịch và giới thiệu những
bài viết tiêu biểu trong hai cuốn sách của hai nhà phê bình mới này, cụ thể là
những bài viết : “Truyền thống và tài năng cá nhân” (Trần Hải Yến dịch), “
Những nhà phê bình không hoàn hảo”, “Một nhà quí tộc lãng mạn”, “Phong
vị địa phương”, “Ghi chú về nhà phê bình Mỹ” (Bùi Phương Hải dịch) trích
từ cuốn sách “Rừng thiêng” (The Sacred Wood) của Thomas Stearn Eliot,
5
những bài viết “Giá trị như một ý niệm tối thượng”, “Lí thuyết tâm lí về giá
trị”, “Lí thuyết giao tiếp” và “Giá trị trải nghiệm của nhà thơ” (Trần Hải
Yến, Phạm Phương Chi dịch) trích từ cuốn sách “Những nguyên tắc phê bình
văn học” (The Principles of Literature) của Ivor Amstrong Richards.
Nguyễn Mạnh Cường, Tạ Hương Nhi, Trịnh Bá Đĩnh dịch thuật và giới
thiệu cuốn sách được xem là quan trọng của Phê bình mới: cuốn “Lí luận văn
học” (2009) của Wellek và Warren.
Tạp chí Văn học nước ngoài số 2, tháng 3- 4, năm 2003 (trang 173-
195) cũng cho đăng bài giới thiệu về tiểu sử, văn nghiệp và lí thuyết nghệ
thuật vô ngã của nhà phê bình mới Thomas Stearn Eliot của tác giả Đỗ Lai
Thúy và bài dịch “Truyền thống và tài năng cá nhân” trích từ cuốn “Rừng
thiêng” của Thomas Stearn Eliot (của dịch giả Thiệu Bích Hường).
Tạp chí văn học nước ngoài số 1 tháng 1- 2, năm 2005 đăng bài nghiên
cứu : “Trường phái Phê bình mới: xưa và nay” (trang 135- 156) của nhà phê
bình: R. John Willingham (Giáo sư danh sự khoa Anh ngữ, đại học Kansas,
Mỹ)
Trên thế giới, sự phát triển nổi trội của khuynh hướng Phê bình mới ở
Anh và Mỹ trong suốt những năm 1920 đến những năm 1960, 1970 đã tỉ lệ
thuận với việc thu hút sự chú ý nghiên cứu bàn luận về khuynh hướng này.
Những công trình, bài viết nghiên cứu về khuynh hướng phê bình này có rất
nhiều (như các cuốn sách “A Glossary of the New Criticism” của tác giả
Elton, William (Chicago. Modern Poetry Association, 1949) (sách lí giải về
các thuật ngữ do Phê bình mới đưa ra vào cuối thập niên 1940), “The Fugitive
Group: A Literary History” của tác giả Louise Cowan (Nhà xuất bản
Louisiana State University, 1959), (Cuốn sách hàng đầu về biên niên sử và
tiểu sử của nhóm nhà thơ- nhà phê bình Nashville từ giai đoạn còn là sinh
viên cổ xúy về sáng tạo và tư duy cho đến khi trở thành các nhà lí luận Phê
6
bình mới) “Kant và các nhà Phê bình mới miền Nam” của tác giả William J.
Handy (Nhà xuất bản Texas, 1963) (Cuốn sách lần tìm lại các lý thuyết của
Ransom, Tate và Brooks)), … Song, ở đây, vì nhiều lí do, người viết luận văn
chỉ chọn trình bày chi tiết một vài bài viết đã được dịch ra tiếng Việt của một
số học giả, nhà lí luận phê bình nước ngoài, cụ thể là ba bài viết : “Trường
phái Phê bình mới: xưa và nay” (trích từ “ New Literary History”, (1976))
(trang 271-331) của nhà phê bình Willingham, John.R đăng trên Tạp chí văn
học nước ngoài số 1 tháng 1- 2, năm 2005 và website:
bài viết : “ Phê bình
mới của Anh và Mỹ” (năm 2002) của học giả Nguyễn Hưng Quốc (học giả
người Úc, gốc Việt, hiện đang sống và giảng dạy các môn ngôn ngữ, văn học,
văn hóa và chiến tranh Việt Nam tại đại học Victoria University, Úc) đăng
trên website: và bài viết
“ Phê bình mới” ( New Criticism) của học giả E.A.Suganova (trích từ cuốn “
Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu
và Hoa Kỳ thế kỉ XX” của I.P Ilin và E.A Tzurganova (Nxb Đại học quốc gia,
Hà Nội 2003), in trong cuốn “Lí luận phê bình văn học phương Tây thế kỉ
XX” do Lộc Phương Thủy chủ biên (trang 29- 42).
Bài viết:“Trường phái Phê bình mới: xưa và nay”(The New Criticism:
Then and Now) của nhà phê bình J.R.Willingham với quan điểm công khai
bênh vực, bảo vệ cho Phê bình mới của ông, trình bày về lịch sử hình thành
của Phê bình mới từ giai đoạn khởi phát, phát triển thịnh hành đến tàn lụi, kể
tên các nhà phê bình mới nổi bật cùng những tác phẩm và đóng góp của họ
cho Phê bình mới qua những tác phẩm ấy, và cuối cùng ông nêu ra những hạn
chế cùng những đóng góp của Phê bình mới. Về lịch sử hình thành của Phê
bình mới, khác với cách hiểu của Phương Lựu và E.A. Suganova như đã trình
bày ở trên, theo J.R.Willingham, Phê bình mới hình thành những mần mống
7
đầu tiên của mình vào năm 1907 với sự xuất hiện Câu lạc bộ Thi ca ở
London, đặc biệt là các lời tuyên bố của T.E. Hulme, F.S. Flint, và Ezra
Pound. Những người này phê phán Chủ nghĩa lãng mạn mà họ cho là đã xơ
mòn và Chủ nghĩa Victoria mà họ cho là suy đồi và kêu gọi những sự thay đổi
đối với thơ ca Anh. J.R.Willingham cho rằng Phê bình mới phát triển nổi trội
vào những năm 1930- 1960 cùng với các nhà phê bình mới nhóm “Fugitives”
và suy tàn kể từ thập kỉ 1970. J.R.Willingham dành phần lớn trang viết của
mình để trình bày về các nhà phê bình mới mà ông cho là chính yếu cùng nội
dung khái quát của các tác phẩm của họ qua đó nhằm nêu bật những đóng góp
của họ cho Phê bình mới, cụ thể là T.S. Eliot ( với việc định nghĩa các khái
niệm như “ truyền thống”, “ mối tương liên khách quan”…), I.A. Richards (
với tác phẩm “ Practical Criticism” (1920)), nhóm “Fugitives” mà trưởng
nhóm là R.C. Ransom (với tác phẩm: “ The New Criticism” (1941)), Allen
Tate, Brooks và Warren (với tác phẩm: “ Understanding Poetry” (1938),
“Understanding Fiction” (1941), ““Understanding Drama” (1948)), Brooks
(với tác phẩm: “Modern Poetry and the Tradition” (1939) và“ The Well-
Wrought Urn” (1947)), William K. Wimsatt và Rene Wellek (tác phẩm: “
Theory of Literature” (1949)), William K. Wimsatt và Monroe C. Beardsley (
tác phẩm “ The verbal Icon” (1954)), Wimsatt và Brooks (tác phẩm “
Literary Criticism: A Short History” (1957)), Yvor Winters và cuối cùng là
William Empson (tác phẩm “ Seven Types of Ambiguity”). Những trang cuối
của “Trường phái Phê bình mới: xưa và nay”, J.R.Willingham nêu lên những
hạn chế của Phê bình mới như việc sử dụng những từ ngữ bí hiểm và khó
hiểu, không tạo điều kiện để độc giả đọc một cách sáng tạo… cũng như
những đóng góp của nó nhất là đối với việc làm nảy nở và phát triển về học
thuật văn học…
8
Bài viết : “Phê bình mới của Anh và Mỹ” của học giả Nguyễn Hưng
Quốc giới thiệu khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của Phê bình mới
: xuất hiện tại Anh với hai đại biểu: T.S. Eliot và I.A. Richards từ giữa thập
niên 1920, sau đó phát triển mạnh tại Mỹ với các đại biểu chính như John
Crowe Ransom, W. K. Wimsatt, Monroe Beardsley, Cleanth Brooks, R. P.
Blackmur và Allen Tate từ đầu thập niên 1940 đến giữa thập niên 1960. Đặt
trong mối quan hệ so sánh những điểm tương đồng và khác biệt với Hình thức
luận của Nga và Chủ nghĩa cấu trúc trong văn học, Nguyễn Hưng Quốc trình
bày khái quát về đặc điểm của Phê bình mới ở Anh và Mỹ. Những đặc điểm
của Phê bình mới theo Nguyễn Hưng Quốc là: bác bỏ Chủ nghĩa thực chứng
trong nghiên cứu văn học, “tôn sùng” (chữ dùng của Nguyễn Hưng Quốc) văn
bản tác phẩm văn học, nhấn mạnh vào việc phân tích và diễn dịch cụ thể văn
bản, từ đó hình thành kĩ thuật mà ông gọi là “ đọc gần” (Close Reading), chú
ý vào ý nghĩa và cấu trúc của văn bản…. Nguyễn Hưng Quốc cũng nêu ra sự
khác nhau trong việc quan niệm về ý nghĩa của văn bản của các nhà phê bình
mới.
Bài viết “Phê bình mới” của học giả người Nga E.A.Suganova cũng
bàn về Phê bình mới cả theo dòng chảy lịch đại và lát cắt đồng đại như cuốn
sách “Lí luận phê bình văn học phương Tây thế kỉ XX” của Phương Lựu,
nhưng trong cách hiểu về lịch sử hình thành của Phê bình mới của học giả
người Nga E.A.Suganova này có nhiều điểm khác so với cách hiểu của
Phương Lựu. Sử dụng cách tiếp cận lịch đại, E.A.Suganova lí giải về tiền đề
hình thành của khuynh hướng Phê bình mới. Theo E.A.Suganova, sự hình
thành của Phê bình mới là sự phản ứng đặc thù đối với cuộc khủng hoảng của
nghiên cứu văn học tự do thời Victoria cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Theo
tác giả, Phê bình mới hình thành trong cuộc đấu tranh với những khuynh
hướng cơ bản trong nghiên cứu phê bình văn học nửa sau thế kỉ XIX: Chủ
9
nghĩa thực chứng, Phê bình ấn tượng, Trường phái văn hóa- lịch sử. Tiếp
theo, khác với Phương Lựu chia Phê bình mới thành ba thế hệ, E.A.Suganova
lại chia Phê bình mới thành tám giai đoạn hình thành và phát triển theo các
mốc thời gian cùng với tên tuổi của các đại biểu của mỗi giai đoạn. Tám giai
đoạn đó theo E.A.Suganova là: những năm của thập kỉ đầu thế kỉ XX được
đánh dấu bằng hoạt động của các vị tiên khu như J.E. Spingarm, T.E. Home;
Những năm 1920 cùng với các đại biểu là: T.S. Eliot, I.A. Richards, W.
Empson ở Anh và cả những người thuộc phái Fugitives, phái Agrarians, trước
tiên là J.C. Ransom và A. Tate ở Mỹ; Những năm 1930- 1940 cùng với các
tác phẩm của các tác giả phê bình mới như J.C. Ransom, A. Tate, C. Brooks
và R.P. Warren; Những năm 1940- 1950 cùng với những tờ tạp chí do các nhà
phê bình mới đứng đầu: ở Anh như The Criterion (1922- 1939, tổng biên tập
là T. S. Eliot), Scrutiny (1932- 1935, đứng đầu là F.R. Levins) và ở Mỹ như
Southern Review (1935- 1942, tổng biên tập là C. Brooks, R.P. Warren),
Kenyon Review (1938- 1959, tổng biên tập là J.C. Ransom), Sewanee Review
(1944- 1945, tổng biên tập là A. Tate), xuất hiện thêm những tên tuổi mới như
R.P. Blakmur, R. Wellek, W.K. Wimsatt, Y. Winters, K. Burk; Những năm
1950 cùng với những cuốn sách của những tên tuổi như R. Wellek, O.
Warren, W.K. Wimsatt, R. Krieger, C. Brooks và Wimsatt; Những năm 1950-
1960, E.A.Suganova cho rằng Phê bình mới về cơ bản kết hợp một cách triết
chung với những khuynh hướng phê bình văn học như: Trường phái Thần
thoại học và Phê bình Hiện sinh; Những năm 1970, E.A.Suganova cho rằng
Phê bình mới đã đánh mất vị trí thủ lĩnh của nó; Những năm 1980, Phê bình
mới gắn liền với tên tuổi của giáo sư trường đại học tổng hợp California là
Marry Krieger. Sử dụng cách tiếp cận đồng đại đối với Phê bình mới,
E.A.Suganova trình bày khái quát quan điểm về phê bình, đối tượng của phê
bình, phương pháp phê bình…của các nhà phê bình mới theo thứ tự các giai
10
đoạn hình thành và phát triển của khuynh hướng phê bình này mà bà đã phân
chia: quan điểm của J.E. Spingarm, T.E. Home, T.S. Eliot, I.A. Richards,
quan điểm của nhóm fugitives, của C. Brooks. E.A.Suganova cũng rút ra kết
luận về các đặc điểm cơ bản của Phê bình mới như: sự đọc kĩ (close reading) ,
sự nghiên cứu khép kín văn bản của tác phẩm nghệ thuật, nền tảng phân tích
cơ bản của Phê bình mới là phương pháp nghiên cứu phân tích văn bản được
cô lập khỏi các hiện tượng của thực tại và đời sống của nhà văn, nhiệm vụ
phương pháp luận đối với nhà phê bình là tìm được cách thức tồn tại (mode of
existence) của cấu trúc tác phẩm. Song song với việc nêu ra các đặc điểm cơ
bản của Phê bình mới, E.A.Suganova còn đưa ra kết luận của bà về các
nguyên tắc cơ bản của lí luận Phê bình mới đó là ba nguyên tắc: 1. Tác phẩm
nghệ thuật là đối tượng chứ không phải thông báo. 2. Với tư cách là đối
tượng, tác phẩm nghệ thuật tồn tại biệt lập với nhà nghệ sĩ, giống như “ đồ nữ
trang đối với thợ kim hoàn”. 3. Tác phẩm nghệ thuật tồn tại như một đối
tượng biệt lập với nghệ sĩ, có một chỉnh thể cấu trúc toàn vẹn và hữu cơ.
Những trang cuối của bài nghiên cứu về Phê bình mới này, E.A.Suganova có
đề cập đến khuynh hướng Phê bình mới ở Italia và Pháp (với tên tuổi của hai
nhà phê bình mới Tz. Todorov và R. Barthes ở Pháp).
Như vậy, điểm qua lịch sử nghiên cứu về Phê bình mới cả ở Việt Nam
và thế giới, chúng ta dễ dàng nhận thấy những công trình nghiên cứu về Phê
bình mới thường tập trung vào những vấn đề sau: lịch sử hình thành, phát
triển thịnh hành và tàn lụi của Phê bình mới, các đại biểu tiêu biểu của Phê
bình mới cùng một số nét khái quát về tiểu sử và quan điểm phê bình của họ
qua các tác phẩm chính yếu của họ, đặc điểm cơ bản của Phê bình mới…Qua
việc trình bày các công trình nghiên cứu về Phê bình mới của các nhà nghiên
cứu ở trên, chúng ta thấy rằng, ý kiến của các nhà nghiên cứu về các đại biểu
chính của Phê bình mới, các tác phẩm quan trọng của họ, quan điểm phê bình
11
của họ và các đặc điểm cơ bản của Phê bình mới, nhìn chung, là khá thống
nhất. Sự khác nhau trong cách nhìn nhận về Phê bình mới của họ phần lớn tập
trung ở phần nghiên cứu về lịch sử hình thành của Phê bình mới. Phê bình
mới là một khuynh hướng phê bình văn học kéo dài trong nhiều thập kỉ, tồn
tại ở nhiều nước, tập hợp rất nhiều nhà phê bình mới và cả những ai chưa tự
biết mình là nhà phê bình mới với những quan niệm về phê bình nhiều khi rất
khác nhau, thậm chí quan niệm của chính bản thân mỗi nhà phê bình mới ở
những giai đoạn khác nhau cũng khác nhau, trọng điểm phê bình của họ cũng
không giống nhau…Cho nên, việc nghiên cứu về khuynh hướng phê bình này
rất khó khăn, phức tạp và việc các nhà nghiên cứu có một vài ý kiến đây đó
rải rác khác nhau về lịch sử hình thành của Phê bình mới cũng là điều dễ hiểu.
Các công trình nghiên cứu nêu trên về Phê bình mới phần nhiều đều tập
trung nghiên cứu về toàn bộ khuynh hướng phê bình này, đặc biệt là ở Anh và
ở Mỹ. Ta rất ít thấy những công trình nghiên cứu tập trung đi sâu vào nghiên
cứu về Phê bình mới ở từng nước mà nó hiện diện và ảnh hưởng để làm nổi rõ
những nét đặc trưng về lịch sử hình thành, các nhà phê bình mới tiêu biểu,
tiểu sử và quan điểm của họ, các tác phẩm của họ cũng như các đặc điểm của
Phê bình mới ở từng nước cũng như trong từng giai đoạn phát triển của nó.
3. Đối tượng nghiên cứu
Khuynh hướng phê bình mới trong lí luận phê bình văn học Anh
4. Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, tôi không đi vào nghiên cứu làm rõ toàn bộ
khuynh hướng Phê bình mới trên thế giới mà chỉ tập trung vào khuynh hướng
Phê bình mới trong lí luận phê bình văn học Anh, làm rõ các tiền đề hình
thành, các tác giả tiêu biểu, và các đặc điểm cơ bản của khuynh hướng Phê
bình mới trong lí luận phê bình văn học Anh.
5. Mục đích nghiên cứu
12
Luận văn này tập trung đi sâu làm rõ các tiền đề hình thành, các tác giả
tiêu biểu, và các đặc điểm cơ bản của khuynh hướng Phê bình mới trong lí
luận phê bình văn học Anh.
6. Các phương pháp nghiên cứu
Phương pháp khoa học chung: phân tích, tổng hợp, so sánh…
Phương pháp lịch sử phát sinh được dùng để khảo sát các tiền đề
hình thành của khuynh hướng Phê bình mới trong lí luận phê
bình văn học Anh
Phương pháp tiểu sử được dùng để khảo sát các tác giả tiêu biểu
của khuynh hướng Phê bình mới trong lí luận phê bình văn học
Anh
Nghiên cứu lịch đại kết hợp với nghiên cứu đồng đại về khuynh
hướng Phê bình mới trong lí luận phê bình văn học Anh
7. Những đóng góp mới của luận văn
Thực hiện luận văn này, người viết mong muốn làm rõ các tiền đề hình
thành, các tác giả tiêu biểu, và các đặc điểm cơ bản của khuynh hướng Phê
bình mới trong lí luận phê bình văn học Anh một cách rõ ràng hơn, sâu sắc
hơn, cụ thể hơn, toàn diện và có hệ thống hơn.
Thêm nữa, vì chỉ khảo sát về Phê bình mới trong lí luận phê bình văn học
Anh, thay vì nghiên cứu toàn bộ khuynh hướng phê bình này, luận văn sẽ có
điều kiện tập trung đi sâu nêu bật diện mạo của Phê bình mới trong lí luận phê
bình văn học Anh.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn này ngoài mở đầu và kết luận gồm 3 chương:
Chương 1. Các tiền đề hình thành khuynh hướng Phê bình mới trong lí
luận phê bình văn học Anh
1.1) Tiền đề xã hội và văn hóa
13
1.2) Tiền đề triết học
1.3) Tiền đề học thuật
Chương 2. Các tác giả tiêu biểu của khuynh hướng Phê bình mới trong
lí luận phê bình văn học Anh
2.1) Thomas Stearn Eliot
2.1.1) Tiểu sử và các tác phẩm chính
2.1.2) Quan điểm phê bình
2.2) Ivor Amstrong Richards
2.2.1) Tiểu sử và các tác phẩm chính
2.2.2) Quan điểm phê bình
2.3) William Empson
2.3.1) Tiểu sử và các tác phẩm chính
2.3.2) Quan điểm phê bình
Chương 3. Các đặc điểm cơ bản của khuynh hướng Phê bình mới trong
lí luận phê bình văn học Anh
3.1) Phê bình mới xem bản thân văn bản tác phẩm độc lập và khép kín
là đối tượng của phê bình văn học
3.2) Phê bình mới lấy việc phân tích chỉnh thể cấu trúc toàn vẹn và hữu
cơ của văn bản tác phẩm văn học làm nội dung của phê bình văn học
3.3) Phê bình mới xem kĩ thuật đọc kĩ lưỡng đối với văn bản tác phẩm
văn học là phương pháp của phê bình văn học
14
CHƯƠNG I. CÁC TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH KHUYNH
HƯỚNG PHÊ BÌNH MỚI TRONG LÍ LUẬN PHÊ BÌNH VĂN
HỌC ANH
Phê bình mới là một kiểu phê bình của những người theo Chủ nghĩa
hình thức hình thành trong suốt hai cuộc chiến tranh thế giới. Phê bình mới
trong nền lí luận phê bình văn học Anh được chính thức hình thành bắt đầu từ
những năm 1920, 1930 của thế kỉ XX rồi sau đó được các giáo sư đại học ở
Mỹ như John Crowe Ransom, Allen Tate, Brooks, Warren, William K.
Wimsatt, Rene Wellek, M. Beardsley, Yvor Winter…kế thừa và phát triển
mạnh mẽ trong nền lí luận phê bình văn học Mỹ vào những năm 1930- 1960.
Trong nền lí luận phê bình văn học Mỹ, Phê bình mới đạt đến đỉnh cao của nó
suốt từ những năm 1940 và những năm 1950. Sự tàn lụi của của Phê bình mới
là vào đầu những năm 1970. Tuy thế, Phê bình mới vẫn tiếp tục phát huy
những ảnh hưởng yếu ớt của mình ở Pháp, Canada và Italia. Trường phái phê
bình này chính thức có cái tên của mình từ tác phẩm “The New Criticism”
(Phê bình mới) (1941) của John Crowe Ransom - một nhà phê bình mới
người Mỹ.
Phê bình mới trong nền lí luận phê bình văn học Anh giữ vai trò là
người tiên phong, đặt nền móng cho cả khuynh hướng phê bình này. Sự hình
thành của Phê bình mới trong nền lí luận phê bình văn học Anh được đặt trên
cơ sở những quyển sách và những bài luận được viết trong suốt những năm
1920, 1930 bởi Thomas Stearn Eliot “The Sacred Wood” (Rừng thiêng)
(1920) ,“The Funtion of Criticism” (Chức năng của phê bình) (1933), Ivor
Amstrong Richards “The Principles of Literature” (Những nguyên tắc phê
bình) (1929), “Practical Criticism” (Phê bình thực chứng) (1930), và
William Empson “Seven Types of Ambiguity” (Bảy loại mơ hồ, nhập nhằng,
15
đa nghĩa) (1930), “Some Versions of Pastoral” (Những kịch bản đồng quê)
(1935).
Về đại thể, Phê bình mới trong nền lí luận phê bình văn học Anh được
hình thành dựa trên những tiền đề sau:
1.1) Tiền đề xã hội và văn hóa
Sự phát triển ổn định về kinh tế- chính trị- văn hóa thời kì Victoria thế
kỉ XIX đã chấm dứt. Bước sang thế kỉ XX, đặc biệt là những năm đầu của thế
kỉ này, nước Anh cùng với thế giới đã chứng kiến những đảo lộn sâu đậm về
chính trị, xã hội, kinh tế ở mức độ toàn cầu. Chiến tranh thế giới nhứ nhất
(1914- 1918) giữa phe liên minh: Đức- Ao- Hung và phe hiệp ước: Anh-
Pháp- Nga nổ ra. Kết thúc chiến tranh, Anh tuy là nước thắng trận nhưng tình
hình kinh tế những năm sau chiến tranh bị suy thoái rõ rệt. Nền kinh tế của
Anh bị giảm sút rõ rệt do hậu quả của chiến tranh mang lại. Ngân sách bị ảnh
hưởng nặng nề bởi những món nợ thời chiến. Anh bị mất 70% tàu buôn, do
vậy nền ngoại thương giảm sút, chỉ bằng một nửa trước chiến tranh. Nợ nhà
nước tăng lên gấp 12 lần so với năm 1914. Từ địa vị chủ nợ, Anh trở thành
con nợ của Mỹ với 5,6 tỉ đôla. Năm 1920, sản lượng công nghiệp của Anh bị
giảm sút 32,5% so với năm 1913. Chiến thắng không những không củng cố
được địa vị của chủ nghĩa đế quốc Anh mà còn làm cho nó suy yếu đi. Nạn
thất nghiệp hoành hành. Sự giải ngũ hàng vạn binh lính không tìm được chỗ
làm. Nền ngoại thương giảm sút do các bước ưu tiên mà Anh quốc đã có trên
các cường cuốc công nghiệp hồi thế kỉ XIX không còn nữa. Vàng không
ngừng chảy ra khỏi nước Anh. Tình trạng bãi công nổ ra và không ngừng tăng
lên. Trong năm 1918, ở Anh đã xảy ra 1.156 vụ gọi là “ xung đột công
nghiệp”. Trong những năm 1919 đến 1921, đã có 6,5 triệu người bãi công.
Trong năm 1926, nạn đình công của công nhân xảy ra do họ bị cắt giảm
lương.
16
Cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra ở nước Anh vào năm 1930 như một hệ quả
tất yếu. Thêm vào đó, sự tan rã của đế quốc Anh bắt đầu bằng sự độc lập của
các nước Úc, Nam Phi, Ireland, Ấn Độ, Pakistan…Một sự thất vọng, sầu não
nặng nề trước sự tiến bộ, những ảo tưởng chính trị chấm dứt, tư tưởng vô
chính phủ diễn ra trong con người của thế kỉ XX. Ra đời trong hoàn cảnh đó,
Phê bình mới trong lí luận phê bình văn học Anh với đặc điểm cơ bản là “rút
vào văn bản”, không quan tâm đến những yếu tố “ bên ngoài” văn học, xét
đến cùng, như một sự phản ứng đặc thù của con người thất vọng, sầu não,
quay lưng lại với thế giới để tự thu rút vào con người cá nhân bên trong
mình.
Nước Anh, bước sang thế kỉ XX, cũng là bước khởi đầu của thời kì
hiện đại được đánh dấu bằng những thay đổi to lớn về xã hội, văn hóa, khoa
học kĩ thuật, triết học…Việc tự dân chủ hóa được hoàn tất: phụ nữ được
quyền bầu cử vào năm 1918, nhiều cuộc cải cách xã hội xảy ra trong giảng
dạy, pháp luật, y tế…, ảnh hưởng sâu sắc của Freud và Max, cuộc cách mạng
khoa học cùng với Einstein và thuyết tương đối, Heisenberg và những khám
phá làm xáo trộn thuyết vũ trụ của Newton… là những dấu hiệu của một cuộc
cách mạng trong nhiều lĩnh vực: tư tưởng, khoa học kĩ thuật, triết học, văn
học nghệ thuật. Trong lĩnh vực triết học, trường phái duy tâm qui tụ xung
quanh F.H. Bradley bị thay thế bởi một khuynh hướng được gọi là: “Sự
chuyển hướng Ngôn Ngữ” ( The Linguistic Movement), trong đó các triết gia
tiêu biểu nhất là : Frege, G.E. Moore, Bertrand Russell và Wittgenstein,
Carnap... Ảnh hưởng của họ chiếm lĩnh thế kỉ XX và lấn sang những lĩnh vực
của thần học và phê bình. Trong lĩnh vực phê bình, truyền thống Victoria của
“giới văn chương” mà tiêu biểu là Edmund Goose và George Saintsbury được
thay thế bằng khuynh hướng của những người chuộng những tiêu chuẩn trí
thức, khoa học và ngữ học. Đây cũng là thời kì của thái độ thách thức đối với
17
những giá trị cũ trong nghệ thuật và cuộc sống. Hoàn cảnh xã hội, văn hóa,
khoa học kĩ thuật, triết học, văn học nghệ thuật đã ươm mầm cho sự hình
thành của khuynh hướng Phê bình mới trong nền lí luận phê bình văn học
Anh.
1.2 ) Tiền đề triết học
Bước sang thế kỉ XX, triết học phương Tây cũng chuyển từ cận đại
sang hiện đại được đánh dấu bằng tiêu chí : chuyển hướng ngôn ngữ, nghĩa là
chú trọng tác dụng của nhân tố ngôn ngữ trong việc nghiên cứu triết học. Triết
học phân tích là trào lưu tư tưởng đánh dấu bước chuyển của triết học từ thời
kì cận đại sang thời kì hiện đại bằng công lao to lớn trong việc chuyển hướng
ngôn ngữ này. Có thế nói, việc chuyển hướng ngôn ngữ là kết quả của trào
lưu tư tưởng này.
Sự hình thành của Phê bình mới trong lí luận phê bình văn học Anh là
do chịu ảnh hưởng n._.hững tư tưởng của triết học phân tích đặc biệt là triết học
phân tích giai đoạn đầu.
Triết học phân tích (Analitic philosophy) là một trong mấy trào lưu tư
tưởng chủ yếu trong triết học phương Tây thế kỉ XX, xuất hiện hồi đầu thế kỉ
ở Cambridge (Anh). Sự hình thành triết học phân tích là kết quả quan trọng
của phong trào chống chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của các nhà triết học
phương Tây hồi đầu thế kỉ. Chính vì lẽ đó, triết học phân tích cực lực phản
đối siêu hình học tư biện của chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối. Chống siêu hình
học, họ đồng thời cũng chống chủ nghĩa tâm lí. Họ cho rằng sở dĩ có siêu hình
học là do dùng sai ngôn ngữ. Do đó, các nhà triết học phân tích lấy phương
pháp logic và phân tích ngôn ngữ làm tiêu chí chủ yếu. Họ quan tâm đến việc
phân chia sự vật phức tạp thành các bộ phận hợp thành. Sử dụng phương pháp
phân tích, họ tiến hành phân tích ngôn ngữ. Miêu tả và giải thích ý nghĩa của
lối biểu đạt ngôn ngữ là nhiệm vụ đầu tiên của triết học phân tích, cũng là tiêu
18
chí quan trọng của triết học phân tích, cho nên triết học phân tích còn được
gọi là “triết học phân tích ngôn ngữ”. Bởi lẽ, các nhà triết học phân tích khẳng
định rằng, làm sáng tỏ ý nghĩa của lối biểu đạt ngôn ngữ, bất kể đó là lối biểu
đạt của ngôn ngữ khoa học hay ngôn ngữ thông thường là nhiệm vụ của triết
học.
Các nhà triết học phân tích thời kì đầu của trào lưu tư tưởng này tiểu biểu là:
G. Frege, Moore, B. Russell, Wittgenstein, và chủ nghĩa kinh nghiệm logic
mà người tiêu biểu là Carnap.
G. Frege được xem là cha đẻ của triết học phân tích. Tư tưởng của
Frege là nguồn gốc của triết học phân tích đương đại. Trong tác phẩm “Cơ sở
tính toán” của mình, Frege qui định ba nguyên tắc cho việc nghiên cứu logic.
Đó là: phân biệt rõ cái tâm lí học và cái logic, cái chủ quan và cái khách quan;
Nghiên cứu quan hệ trong câu, chứ không nghiên cứu ý nghĩa từ ngữ riêng lẻ;
Chú ý phân biệt khái niệm và đối tượng. Liên quan đến nguyên tắc thứ nhất,
Frege cho rằng: chân lý khách quan không tùy thuộc vào phán đoán của con
người; tư tưởng không phải là hoạt động chủ quan của tư duy, mà là nội dung
khách quan của tư duy. Frege nhấn mạnh phải phân biệt ý nghĩa của từ ngữ
với quan niệm tương quan, phải phân biệt nội dung được phán đoán với phán
đoán trên tư cách một hoạt động tư duy. Cái trước là khách quan, không tùy
thuộc vào hoạt động tư duy của cá nhân, cũng là cái chung, có thể được các cá
nhân khác nhau nắm bắt. Cái sau là chủ quan, là hoạt động tâm lí của cá nhân,
khác nhau ở các cá nhân khác nhau. Logic không nghiên cứu chủ thể vì sao
đưa ra phán đoán này nọ, mà chỉ nghiên cứu tính chất của bản thân tư tưởng
khách quan và một số quan hệ giữa các tính chất. Liên quan đến nguyên tắc
thứ hai, Frege đề xuất nguyên tắc ngữ cảnh: “chỉ có trong ngữ cảnh của câu
nói, chứ không phải trong từ ngữ cô lập, mới có thể tìm được ý nghĩa của từ
ngữ”. Frege đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của nguyên tắc ngữ cảnh:
19
“Thực tế, chỉ có trong một câu hoàn chỉnh, từ ngữ mới có ý nghĩa”. Liên
quan đến nguyên tắc thứ ba, Frege nêu ra sự phân biệt về ý nghĩa (hàm nghĩa)
và ý vị (chỉ xưng). Frege phân biệt tách bạch ý nghĩa của danh xưng với đối
tượng mà nó chỉ xưng. Frege quan niệm rằng: nghiên cứu logic trước tiên là
nghiên cứu ý nghĩa ngôn ngữ, mà phân tích ý nghĩa ngôn ngữ là nhiệm vụ chủ
yếu của triết học. Frege coi nghiên cứu ý nghĩa là nhiệm vụ trước tiên của
triết học, coi lý luận ý nghĩa là một phần cơ sở của triết học.
Nhà triết học Moore, cụ thể hơn, lại chú trọng phân tích ý nghĩa của lối
biểu đạt ngôn ngữ hàng ngày. Moore cho rằng khái niệm độc lập với tâm hồn
người sử dụng, ý nghĩa của khái niệm chỉ liên quan đến sự biểu đạt của khái
niệm, chứ không liên quan đến hoạt động tâm lí của người sử dụng khái niệm.
Nhiệm vụ của nhà triết học là phân tích khái niệm phức tạp thành khái niệm
đơn giản, làm rõ quan hệ giữa các khái niệm sau.
Trong phong trào triết học phân tích, Russell là người đầu tiên chỉ rõ
vấn đề triết học trải qua phân tích đều là vấn đề ngôn ngữ, suy cho cùng cũng
đều là vấn đề logic. Bằng lối phân tích logic đối với ngôn ngữ, có thể giải
quyết mọi vấn đề triết học thông thường. Phương pháp của Russell được gọi
là phương pháp phân tích logic. Russell cho rằng, ngôn ngữ hàng ngày về mặt
từ vựng và cú pháp đều không rõ ràng, thường làm cho người ta lầm lẫn. Để
loại trừ ảnh hưởng tiêu cực của từ vựng và cú pháp ngôn ngữ thường ngày,
Russell cho rằng cần sử dụng phương pháp phân tích logic để tiến hành phân
tích và cải tạo, từ đó xây dựng một thứ ngôn ngữ nhân tạo lý tưởng. Russell
gọi phương pháp phân tích logic là phương pháp phân tích hình thức. Phương
pháp này chủ yếu là phương pháp đưa ra định nghĩa, bao gồm “định nghĩa
thực tại” và “ định nghĩa ngữ cảnh”. Cái chung của hai phương pháp định
nghĩa trên là ở chỗ, chúng đều phân tích thành phần khác nhau của một vật
phức hợp nhất định, cuối cùng làm sáng tỏ chỗ mơ hồ của vật phức hợp đó.
20
Wittgenstein tiếp thu và phát triển nguyên tắc ngữ cảnh của Frege, cho
rằng tên gọi chỉ có ý nghĩa trong mệnh đề. Nhưng ông tiến thêm một bước,
phân biệt tên gọi với phù hiệu nói chung, cho rằng ý nghĩa của tên gọi là đối
tượng, phù hiệu đơn giản nhất đại diện cho tên gọi có tác dụng trong mệnh đề;
còn phù hiệu nói chung thì không đại diện cho bất kì đối tượng hoặc sự thực
nào cả, ý nghĩa hoặc tác dụng của nó trong mệnh đề là do phương thức liên
tiếp qui định, bản thân nó chỉ là yếu tố logic tạo nên mệnh đề, là biến số trong
mệnh đề. Ý nghĩa của các biến số mệnh đề tuỳ thuộc vào tác dụng và địa vị
logic của chúng trong mệnh đề, chứ không vào quan hệ giữa chúng với sự
thực hoặc đối tượng. Thông qua đề xuất và áp dụng thuyết hàm số chân giá trị
vào nghiên cứu ngôn ngữ thường ngày, Wittgenstein cho rằng: có thể dùng
tiêu chuẩn logic so sánh và phán đoán các mệnh đề trong ngôn ngữ thường
ngày, phát hiện hình thức logic của tư tưởng tiềm ẩn được biểu đạt trong ngôn
ngữ thường ngày, từ đó xác định giới hạn biểu đạt của ngôn ngữ. Thuyết trò
chơi ngôn ngữ của Wittgenstein cho rằng ngôn ngữ mà chúng ta sử dụng thực
ra chẳng qua là một trò chơi. Do đó, ông cho rằng điều mà ta cần làm là khảo
sát các trò chơi ngôn ngữ cụ thể khác nhau, qua đó nắm vững cách sử dụng
ngôn ngữ khác nhau. Trò chơi ngôn ngữ có tính tự chủ, không tuỳ thuộc vào
bất cứ đối tượng bên ngoài nào mà tuỳ thuộc vào việc sử dụng đúng hay sai.
Trò chơi ngôn ngữ rất đa dạng và phức tạp, không thể qui các trò chơi ngôn
ngữ về một bản chất đơn nhất. Trò chơi ngôn ngữ cần tuân thủ luật chơi, luật
chơi khác nhau dẫn đến trò chơi khác nhau, cũng quyết định cách sử dụng
ngôn ngữ khác nhau.
Chủ nghĩa kinh nghiệm logic mà người tiêu biểu là Carnap đã đề xướng
phân tích cú pháp logic đối với ngôn ngữ. Theo Carnap, cú pháp logic là chỉ
lý luận về hình thức ngôn ngữ. Xuất phát điểm của cú pháp logic Carnap là
phân biệt “ vấn đề bên trong” và “ vấn đề bên ngoài” ngôn ngữ. “Vấn đề bên
21
trong” là chỉ vấn đề đối tượng tồn tại ở trong kết cấu ngôn ngữ, có thể căn cứ
tính chất của đối tượng mà dùng phương pháp logic hay phương pháp kinh
nghiệm để giải quyết. “Vấn đề bên ngoài” thì chỉ vấn đề đối tượng tồn tại như
một chỉnh thể, không thể giải quyết bằng logic hay bằng kinh nghiệm; bản
thân việc nêu vấn đề loại này đã là sai lầm, cần phải coi đó là vấn đề siêu hình
học mà từ bỏ nó đi. Như thế, mọi mệnh đề đều liên quan đến kết cấu ngôn
ngữ của cách nêu vấn đề, là kết quả của việc người ta sử dụng kết cấu ngôn
ngữ hoặc phương thức nói năng khác nhau, chứ không liên quan đến vấn đề
đối tượng tồn tại ở bên ngoài. Cú pháp logic là một thứ lí luận xác định tính
thích đáng của kết cấu ngôn ngữ. Carnap viết: “ đối với người muốn phát
triển hoặc sử dụng phương pháp ngữ văn mà nói, vấn đề quyết định không
phải là vấn đề bản thể luận liên quan đến sự tồn tại của đối tượng trừu tượng,
mà là vấn đề liên quan đến việc sử dụng hình thức ngôn ngữ trừu tượng; đến
việc phân tích, lí giải ngôn ngữ như thế nào cho kết quả tốt nhất”.
Những quan điểm của triết học phân tích cũng như những đại biểu của
nó như đã nêu trên về việc phân biệt cái khách quan và cái chủ quan (cho rằng
phải phân biệt ý nghĩa của từ ngữ với quan niệm tương quan, phải phân biệt
nội dung được phán đoán với phán đoán trên tư cách một hoạt động tư duy.
Cái trước là khách quan, không tùy thuộc vào hoạt động tư duy của cá nhân,
cũng là cái chung, có thể được các cá nhân khác nhau nắm bắt. Cái sau là chủ
quan, là hoạt động tâm lí của cá nhân, khác nhau ở các cá nhân khác nhau.
Logic không nghiên cứu chủ thể vì sao đưa ra phán đoán này nọ, mà chỉ
nghiên cứu tính chất của bản thân tư tưởng khách quan và một số quan hệ
giữa các tính chất, cho rằng khái niệm độc lập với tâm hồn người sử dụng, ý
nghĩa của khái niệm chỉ liên quan đến sự biểu đạt của khái niệm, chứ không
liên quan đến hoạt động tâm lí của người sử dụng khái niệm, chỉ quan tâm
nghiên cứu đối tượng tồn tại ở trong kết cấu ngôn ngữ chứ không quan tâm
22
đến đối tượng tồn tại như một chỉnh thể ở bên ngoài ngôn ngữ), chú trọng
nghiên cứu hình thức logic và ý nghĩa của ngôn ngữ, từ ngữ và cú pháp logic,
cho rằng ý nghĩa của ngôn ngữ tuỳ thuộc vào tác dụng và địa vị logic của
chúng trong câu, chứ không vào quan hệ giữa chúng với sự thực hoặc đối
tượng, triệt để loại bỏ tâm lí học, sử dụng phương pháp phân tích logic hay
phương pháp phân tích hình thức đối với ngôn ngữ, phân tích ý nghĩa của
ngôn ngữ trong ngữ cảnh chứ không phải chú ý đến đối tượng hoặc sự thực ở
bên ngoài ngôn ngữ, cho ngôn ngữ là trò chơi, nghiên cứu các cách thức biểu
đạt ngôn ngữ, các loại trò chơi ngôn ngữ, khảo sát các trò chơi ngôn ngữ cụ
thể khác nhau, qua đó nắm vững cách sử dụng ngôn ngữ khác nhau, chú trọng
miêu tả và giải thích ý nghĩa của lối biểu đạt ngôn ngữ, chú ý phân tích chỉnh
thể nghiên cứu thành các bộ phận hợp thành và nghiên cứu mối quan hệ giữa
chúng, phân tích thành phần khác nhau của một vật phức hợp nhất định, cuối
cùng làm sáng tỏ chỗ mơ hồ của vật phức hợp đó ….đã có ảnh hưởng đến
việc hình thành Phê bình mới trong lí luận phê bình văn học Anh.
1.3 ) Tiền đề học thuật
1.3.1) Phê bình mới trong lí luận phê bình văn học Anh được hình thành
trên cơ sở tiếp thu quan niệm của Ngữ nghĩa học hiện đại của Ivor
Armstrong Richards về ý nghĩa của ngôn ngữ
Ngữ nghĩa học ( Semantics) hình thành ở Anh từ những năm 20 của thế
kỉ XX mà đại biểu tiêu biểu nhất là Ivor Armstrong Richards. Do ảnh hưởng
những quan niệm của triết học phân tích về việc phân biệt tách bạch giữa ý
nghĩa và ý vị, về lý thuyết ngữ cảnh…,trong lí thuyết về ý nghĩa của mình,
Ivor Armstrong Richards cũng chủ trương phân biệt rạch ròi giữa tư tưởng,
ngôn ngữ và sự vật (đối tượng chỉ danh của ngôn ngữ với tư cách là phù
hiệu). Từ sự phân biệt này, Richards chủ trương phân chia ngôn ngữ thành hai
loại là ngôn ngữ phù hiệu và ngôn ngữ tình cảm tương ứng với chức năng chỉ
23
danh và chức năng khơi gợi thái độ và tình cảm của ngôn ngữ. Trong hai loại
chức năng này, I.A. Richards đặc biệt nhấn mạnh chức năng biểu đạt tình cảm
của ngôn ngữ. Loại ý nghĩa tình cảm này của từ ngữ sẽ thay đổi tùy nơi, tùy
lúc và tùy người. I.A. Richards có lấy ví dụ từ “đêm” thật ra có không biết
bao nhiêu là sắc thái tình cảm thậm chí đối với ngay một con người với những
tâm cảnh khác nhau. Từ đã vậy, đến câu cũng vậy. Về ngữ pháp và ý nghĩa
logic tuy có thể chỉ là một ý nghĩa tương đối ổn định, nhưng ý nghĩa tình cảm
thì muôn màu, muôn vẻ. Từ đây, I.A. Richards đi đến lí thuyết về ngữ cảnh.
I.A. Richards đã tiếp thu và mở rộng lí thuyết ngữ cảnh của các nhà triết học
phân tích. Ngữ cảnh trong quan niệm của I.A. Richards trong “ Triết học tu
từ”, chương hai:( Mục đích của trần thuật và chủng loại của ngữ cảnh),
không chỉ là “ những từ trước và sau một từ nào đó xác định ý nghĩa của nó”.
I.A. Richards cho rằng ngữ cảnh hiểu theo nghĩa hẹp như thế mới chỉ là ngữ
cảnh bên trong văn bản. I.A. Richards đề nghị cần phải hiểu ngữ cảnh ra bên
ngoài văn bản, nghĩa là phải kể cả hoàn cảnh phát ngôn, bao gồm cả những
“sự việc vụt hiện” liên quan đến việc giải thích ngôn từ trong văn bản. Những
sự việc đó có thể xuất hiện đồng thời với sự ra đời của văn bản, cũng có thể là
trong quá khứ, miễn là có liên quan đến một khía cạnh nào đó với ngôn từ
trong văn bản mà người ta có thể liên tưởng đến. Những sự việc này tuy
không hiện diện trong văn bản, nhưng nó lại ẩn hiện đằng sau bộ phận ngôn
từ nào đó của văn bản, không thể không tác động đến việc giải nghĩa những
ngôn từ đó. I.A. Richards cho rằng: “chính là từ những bộ phận không xuất
hiện này, từ ngữ lại có được công hiệu biểu thị đặc tính của mình”. (“Triết
học tu từ”). Về vai trò của ngữ cảnh, I.A. Richards cho rằng, vai trò của ngữ
cảnh trước hết là xác định phạm vi ý nghĩa câu từ, ý nghĩa nào được xác nhận,
ý nghĩa nào cần phải loại bỏ. Mặt khác, ngữ cảnh cũng có tác dụng phối hợp
từ ngữ với nhau và I.A. Richards ví nó như “vận động thân thể”. I.A. Richards
24
viết: “tôi chỉ động tay một cái, mà trên thực tế đã dùng đến xương cốt gân
thịt của toàn thân. Nó làm hậu thuẫn và phối hợp với động tác của tay. Cũng
vậy, một từ ngữ có được sức mạnh trong hệ thống chi viện to lớn những từ
ngữ khác trong những ngữ cảnh khác.” (“Triết học tu từ”).
Từ sự phân chia ngôn ngữ ra thành ngôn ngữ phù hiệu và ngôn ngữ tình
cảm, cùng sự lí giải về ngữ cảnh và chức năng của ngữ cảnh, I.A. Richards đã
đi đến kết luận về tính đa nghĩa của ngôn ngữ. I.A. Richards viết: “nếu tu từ
học cũ xem đa nghĩa như một sai lầm của ngôn ngữ, cứ mong muốn hạn chế
hoặc tiêu trừ hiện tượng này, thì tu từ học mới lại xem nó là kết quả tất yếu
của năng lực ngôn ngữ. Đại đa số hình thức quan trọng mà chúng ta biểu đạt
tư tưởng đều không tách khỏi thủ pháp này, nhất là trong ngôn ngữ thi ca và
tôn giáo lại càng không thể xa rời thủ pháp này” (“Triết học tu từ”). I.A.
Richards đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của tính đa nghĩa này trong ngôn
ngữ thơ ca, cũng như trong nghiên cứu thơ ca : “sự thực vô cùng quan trọng
của nghiên cứu văn học – hoặc việc nghiên cứu bất kì phương thức giao lưu
nào khác, chính là vì luôn luôn tồn tại nhiều loại ý nghĩa…Bất kể chúng ta
với tư cách là người chủ động trong nói năng hoặc viết lách, hoặc là người bị
động trong khi nghe và đọc, thì cái ý nghĩa tổng quát (total meaning) hầu như
mãi mãi là sự hỗn hợp của mấy loại ý nghĩa không giống nhau và có tác dụng
khác nhau. Ngôn ngữ- nhất là ngôn ngữ đặc sắc được sử dụng trong thơ ca-
không phải thực thi một nhiệm vụ, mà đồng thời thực thi mấy loại nhiệm vụ.
Nếu không hiểu điều này, không chú ý sự khác nhau giữa các loại công dụng
đó, thì chúng ta sẽ tạo ra những sự ngộ nhận đối với phần lớn những sự khó
khăn gặp phải” (“Phê bình thực chứng”).
Chính I.A. Richards đã vận dụng lý thuyết về ý nghĩa, về ngữ cảnh và
chức năng của nó, về tính đa nghĩa của ngôn ngữ, đặc biệt là của thơ của
mình…vào phê bình và hình thành nên kĩ thuật đọc kĩ lưỡng ( close reading) -
25
phương pháp đọc văn bản của Phê bình mới. Cũng chính vì vậy mà I.A.
Richards được tôn xưng là thuỷ tổ của Phê bình mới.
1.3.2) Phê bình mới trong lí luận phê bình văn học Anh được hình thành
trên cơ sở phê phán, phủ nhận những khuynh hướng, trường phái nghiên
cứu, lí luận phê bình văn học trước nó
Cũng như sự xuất hiện của những trường phái, khuynh hướng nghiên
cứu, lí luận phê bình văn học ở Tây Âu khác, Phê bình mới trong lí luận phê
bình văn học Anh hình thành trên cơ sở phê phán, phủ nhận những trường
phái, khuynh hướng nghiên cứu, lí luận phê bình văn học xuất hiện trước nó,
cụ thể là:
Chủ nghĩa lãng mạn
Chủ nghĩa thực chứng
Trường phái văn hoá- lịch sử
Phê bình ấn tượng
Phê bình Mác- xít
Chủ nghĩa lãng mạn là một trào lưu văn học, được hình thành ở Tây
Âu sau cách mạng Pháp 1789. Văn học lãng mạn chủ yếu biểu hiện những
cung bậc tình cảm, cảm xúc của cái tôi nhà nghệ sĩ. Chủ nghĩa lãng mạn trong
văn học Anh xuất hiện vào đầu thế kỉ XIX. Cùng với nó là sự xuất hiện của
phê bình lạng mạn. Phê bình văn học Anh thời kì lãng mạn gắn liền với tên
tuổi và tác phẩm của hai nhà thơ, nhà phê bình là William Wordsworth với
Lời nói đầu của “Lyrical Ballads” (1800) và Samuel Taylor Coleridge với
“Biographia Literaria” (1817). Vào năm 1800, William Wordsworth trong
Lời nói đầu của “Lyrical Ballads” đã đưa ra định nghĩa về bản chất của thơ ca
là “ cảm xúc được hồi tưởng ở trạng thái tĩnh”, hoặc “ dòng chảy thanh thoát
của những cảm xúc mạnh mẽ” (“the spontaneous overflow of powerful
feelings”). Với định nghĩa này, Wordsworth đã đưa ra một quan điểm khác về
26
bản chất của thơ ca so với quan niệm chuẩn mực về thơ ca thời đó, chuyển
dịch trung tâm của sự chú ý của thơ ca và phê bình thơ ca từ tác phẩm như
một sự phản ánh và bắt chước hiện thực sang nhà nghệ sĩ và mối quan hệ của
nhà nghệ sĩ đối với tác phẩm. Trong quan niệm của nhà thơ và nhà phê bình
lãng mạn, thơ ca vẫn là tấm gương nhưng thay vì là tấm gương hướng ra
ngoài để phản ánh hiện thực bên ngoài, họ đã sớm đề nghị rằng tấm gương
phải được chuyển vào bên trong để phản ánh những trạng thái cảm xúc của
nhà nghệ sĩ.
Các nhà phê bình mới cực lực phản đối quan niệm của các nhà thơ và
nhà phê bình lãng mạn đã quá đề cao cảm xúc cá nhân của nhà nghệ sĩ. Các
nhà phê bình mới cho rằng cái tôi của nhà nghệ sĩ chỉ có vai trò trung gian để
dịch chuyển hiện thực được miêu tả vào trong tác phẩm, rằng thơ ca là nghệ
thuật vô ngã. Do đó, nghiên cứu phê bình văn học phải hướng trọng tâm chú ý
vào bản thân tác phẩm chứ không phải vào nhà nghệ sĩ và những ấn tượng
cảm xúc của họ như các nhà phê bình lãng mạn đã làm.
Chủ nghĩa thực chứng là một trường phái triết học xuất hiện sớm nhất
vào thập niên 30 thế kỉ XIX ở nước Pháp ,vào thập niên 40 ở nước Anh với
các đại biểu là: August Comte (nhà triết học Pháp), James Mill và Herbert
Spencer (hai nhà triết học Anh). Chủ nghĩa thực chứng ra đời trên tinh thần
chống siêu hình học nên nó được xây dựng trên cơ sở khoa học tự nhiên thực
chứng, lấy khoa học tự nhiên thực chứng làm nội dung và phương pháp của
mình. Một trong những mục đích của triết học thực chứng là chiếu theo
nguyên tắc chủ nghĩa thực chứng mà thống nhất các môn khoa học với nhau.
Chính vì thế, James Mill không chỉ đòi làm cho phương pháp logic của ông
trở thành phương pháp của vật lí học (khoa học tự nhiên), mà còn đòi nó phải
trở thành phương pháp của các khoa học tinh thần và đạo đức (tâm lí học, sử
học, văn học, chính trị học…).
27
Các nhà phê bình mới phản bác chủ trương đó của chủ nghĩa thực
chứng rằng nghệ thuật phải được giải thích bằng những phương pháp của
khoa học tự nhiên. Việc các khoa học nhân văn có những mục đích, những hệ
thống tri thức có tổ chức, những phương pháp riêng mang tính đặc trưng của
mình là nét chung liên kết các loại lí luận phản thực chứng của phê bình văn
học trong đó có khuynh hướng Phê bình mới.
Trường phái văn hoá- lịch sử ra đời trên cơ sở ảnh hưởng những quan
niệm của chủ nghĩa thực chứng thịnh hành vào những năm 30, 40 của thế kỉ
XIX. Những đại biểu của trường phái văn hoá- lịch sử phải kể đến những tên
tuổi là: Hyppolyte Taine (1828- 1893) và Gustave Lanson (1857- 1934). Các
đại biểu của trường phái văn hoá- lịch sư đã cố gắng giải thích sự phát triển
của nghệ thuật bằng những hoàn cảnh xã hội, tìm tòi những nguyên nhân lịch
sử xã hội trong sự phát triển của chúng. Hyppolyte Taine gọi những động lực
chung cho sự phát triển văn hoá và nghệ thuật của mọi thời đại là những sức
mạnh nguyên khai bao gồm chủng tộc, môi trường và khoảnh khắc. Họ coi
sáng tạo nghệ thuật, mặc dù với những phương pháp đặc thù, nhưng nó cũng
chỉ là một hiện tượng văn hoá phản ánh trung thành lịch sử. “Nghệ thuật chỉ
tổng kết cái mà lịch sử đã tạo nên” (“Triết lí nghệ thuật” của Hyppolyte
Taine).
Các nhà phê bình mới phê phán quan điểm của trường phái văn hóa
lịch sử đã xem xét các yếu tố như chủng tộc, thời đại, môi trường của một tác
phẩm của nhà thơ như là một yếu tố trong phê bình. Các nhà phê bình mới
cho rằng xem xét bất cứ thứ gì này hơn là cái gì được bao chứa trong văn bản
cũng giống như một lời phát biểu mang tính xã hội, một luận thuyết chính trị,
một tài liệu sử học- bất cứ cái gì khác hơn là một tác phẩm nghệ thuật. Kết
quả của một sự nghiên cứu như thế là một sự đóng góp đối với sự nghiên cứu
của chính trị hoặc của sử học chứ không phải đối với phê bình văn học. Các
28
nhà phê bình mới khẳng định rằng công việc của nhà phê bình không phải để
ghi vào mục lục cái mà những đối tượng bên ngoài được mang vào hoặc ảnh
hưởng, tác động lên một tác phẩm cụ thể, mà là để nghiên cứu những yếu tố
ở trong tác phẩm và khám phá bằng cách như thế nào nhà nghệ sĩ biến đổi
thực tế thành nghệ thuật.
Trường phái ấn tượng là một trào lưu nghệ thuật bắt đầu tại Pháp vào
cuối thế kỉ XIX trong lĩnh vực hội hoạ sau đó lan rộng sang cả lĩnh vực văn
học nghệ thuật trong đó có phê bình. Phương pháp nhận thức đối tượng của
phê bình ấn tượng chủ nghĩa là đồng nhất mình với đối tượng để tự xem xét,
tức là xóa nhoà đường biên giữa chủ thể và khách thể, biến việc đứng ngoài
quan sát thành sự tự quan sát, chiêm nghiệm từ bên trong. Chính vì thế, phê
bình ấn tượng nhấn mạnh hàng đầu vào trong những sự trải nghiệm chủ quan
của người đọc, của nhà phê bình trong khi đọc một tác phẩm cụ thể. Để có
những cảm giác về sự hiện diện của tác phẩm và diễn tả chúng, đó là chức
năng của phê bình đối với các nhà phê bình ấn tượng. Thông thường, một nhà
phê bình ấn tượng sẽ diễn tả thái độ của mình phần nào theo kiểu: “Đây là
một bài thơ đẹp, hãy để chúng tôi nói : “Prometheus được cởi trói”. Để đọc
một tác phẩm đối với nhà phê bình ấn tượng là một sự trải nghiệm, một sự
rung lên niềm vui thích. Tất cả những thứ mà một nhà phê bình ấn tượng làm
là như thế nào tác phẩm tác động lên họ, những cảm giác mà tác phẩm đưa
cho họ là gì.
Các nhà phê bình mới phê phán cách làm trên của phê bình ấn tượng.
Họ cho rằng phê bình ấn tượng đã đi ra xa khỏi phê bình văn học khi chuyển
dịch sai lệch trọng tâm phê bình từ bản thân tác phẩm sang ấn tượng, cảm
giác của nhà phê bình. Các nhà phê bình mới cho rằng phương pháp phân tích
của phê bình ấn tượng là hời hợt, nông cạn, tùy tiện bởi theo họ, có bao nhiêu
ấn tượng và sự diễn tả ấn tượng sẽ có bấy nhiêu tác phẩm văn học mới được
29
tạo ra để thay thế chính bản thân tác phẩm văn học đã đưa cho họ những ấn
tượng và cảm giác đó. Phê bình mới khẳng định cái mà phê bình văn học
quan tâm phải là chính bản thân văn bản tác phẩm chứ không phải những ấn
tượng hay cảm giác chủ quan của nhà phê bình như là các nhà phê bình ấn
tượng đã làm.
Phê bình Mác- xít là một khuynh hướng phê bình văn học hình thành
trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng do Marx đề xuất, được Engels và
Lenin tiếp tục hoàn thiện. Phê bình Mác- xít vốn có nền tảng từ phê bình hiện
thực xã hội chủ nghĩa của thế kỉ XIX nhưng thực sự trở thành một khuyng
hướng có hệ thống cơ sở lí luận thì phải đến thập niên cuối cùng của thế kỉ
này. Các nhà phê bình Mác – xít tiêu biểu là Christopher Caudwell (người
Anh) với tác phẩm: “ Illusion and Reality” (1937), Bernard Smith (người Mỹ)
với tác phẩm: “Forces in American Criticism” (1939) và Georgy Lukacs (nhà
mỹ học Hungary) với tác phẩm: “Geothe and His Age” (1947). Phê bình Mác-
xít xem văn học là một hình thái ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng
phản ánh cơ sở hạ tầng là đời sống kinh tế xã hội của thời đại và ít nhiều phụ
thuộc vào cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội đó. Phê bình Mác- xít đặc biệt nhấn
mạnh vai trò của thế giới quan nhà văn, ý thức hệ tư tưởng của giai cấp mà
nhà văn xuất thân đối với tác phẩm của họ, cho rằng thế giới quan quyết định
sáng tác. Thế giới quan của nhà văn là sản phẩm của nguồn gốc xuất thân, nền
giáo dục, hoàn cảnh xã hội và thời đại…
Các nhà phê bình mới cực lực phê phán quan niệm của các nhà phê
bình Mác- xít đã quá nhấn mạnh vào những điều kiện vật chất kinh tế xã hội
của sự sáng tạo của một tác phẩm, thế giới quan của nhà văn đối với sự sáng
tạo tác phẩm và những hệ tư tưởng đang thịnh hành bao quanh sự sáng tạo
của tác phẩm. Các nhà phê bình mới khẳng định đối tượng của phê bình là
bản thân văn bản tác phẩm chứ không phải là tư tưởng của nhà văn, của giai
30
cấp, của thời đại. Cho rằng những yếu tố về hoàn cảnh lịch sử, kinh tế, xã hội,
nhà văn và thế giới quan nhà văn là những yếu tố ngoài văn học, các nhà phê
bình mới đi đến khẳng định: tác phẩm nghệ thuật là một cấu trúc hữu cơ tồn
tại độc lập, có giá trị tự thân và giá trị nằm ngay trong chính sự tồn tại của nó.
Nói tóm lại, Phê bình mới phê phán tất cả các khuynh hướng, trường
phái phê bình trong nền lí luận phê bình truyền thống hình thành từ thế kỉ XX
còn lưu truyền đến lúc bấy giờ. Phê bình mới phủ nhận tất cả những lí thuyết
phê bình văn học mà đặt trọng điểm phê bình của mình vào nhà nghệ sĩ (tiểu
sử, hoàn cảnh sống, đời sống cá nhân, trạng thái tâm lí, cảm xúc, ý thức hệ..),
hoàn cảnh xã hội- lịch sử, môi trường, chủng tộc, văn hoá, ý thức hệ tư tưởng,
thời đại, ấn tượng, trải nghiệm của cá nhân nhà phê bình hay người đọc thông
thường… Các nhà phê bình mới cho tất cả những yếu tố đó là những yếu tố
ngoài văn học. Họ cho rằng các nhà phê bình tập trung sự chú ý của anh ta
vào những yếu tố trên chỉ làm cho anh ta đi xa ra khỏi văn học. Một nhà phê
bình phân tích một tác phẩm trong mối quan hệ với những yếu tố bên ngoài
bản thân văn bản tác phẩm chỉ dựng nên một bức tường giữa anh ta với ý
nghĩa của tác phẩm mà thôi.
Trái lại, các nhà phê bình mới kêu gọi phê bình văn học phải đặt trọng
tâm chú ý của mình vào chính văn bản tác phẩm văn học bằng việc nêu cao
khẩu hiệu: “quay trở lại với văn bản tác phẩm” (“the return to the text”).
Bằng khẩu hiệu này, các nhà phê bình mới khẳng định rằng: tác phẩm thơ văn
là một thực thể hữu cơ, độc lập tự chủ, tồn tại một cách khách quan. Nhà phê
bình không nên bàn những chuyện bên ngoài mà chỉ bình giá, phân tích trong
phạm vi nội tại của văn bản tác phẩm mà thôi. Họ cho rằng nhiệm vụ của nhà
phê bình là xem xét những yếu tố và ý nghĩa của một tác phẩm từ bên trong,
từ những thứ mà bản thân tác giả đã đặt vào bên trong văn bản, nơi mà anh ta
đặt nó và như thế nào nó liên hệ với những yếu tố xung quanh nó.
31
Như vậy, hoàn cảnh lịch sử - xã hội của nước Anh đầu thế kỉ XX với
nhiều biến động theo hướng tiêu cực sau chiến tranh thế giới thứ nhất, sự
chuyển biến theo hướng hiện đại hoá của các lĩnh vực văn hóa, sự xuất hiện
cùng những tư tưởng và phương pháp xem xét sự vật, hiện tượng của trào lưu
triết học phân tích, nhất là yêu cầu “chuyển hướng ngôn ngữ” của trào lưu
triết học này, sự kế thừa, ảnh hưởng những quan niệm của Ngữ nghĩa học về
ý nghĩa của ngôn ngữ, và sự phê phán hay phủ nhận những trào lưu, trường
phái phê bình có trước đó như chủ nghĩa lãng mạn, phê bình Mác- xít, trường
phái văn hoá- lịch sử, chủ nghĩa thực chứng, phê bình ấn tượng, là những tiền
đề chủ yếu đặt nền móng cho sự hình thành của Phê bình mới trong nền lí
luận phê bình văn học Anh.
Như trên đã nói, Phê bình mới trong nền lí luận phê bình văn học Anh
giữ vai trò là người đặt nền móng cho cả khuynh hướng phê bình này. Sự hình
thành của nó được đặt trên cơ sở những bài luận và những quyển sách được
viết trong suốt những năm 1920, 1930 của các tác giả mà tiêu biểu nổi trội
nhất là ba tác giả, Thomas Stearn Eliot, Ivor Armstrong Richards, và William
Empson. Ba nhà phê bình mới này cùng những quan niệm và tác phẩm của
họ, chính là những người đã có công đầu trong việc hình thành nên khuynh
hướng Phê bình mới trong nền lí luận phê bình văn học Anh. Chính vì lẽ đó,
việc nghiên cứu về tiểu sử cuộc đời, những quan niệm chính cùng những đóng
góp cho khuynh hướng Phê bình mới trong nền lí luận phê bình văn học Anh
của ba nhà phê bình mới Anh này là nội dung của chương hai trong luận văn
nghiên cứu về khuynh hướng Phê bình mới trong lí luận phê bình văn học
Anh.
32
CHƯƠNG II. CÁC TÁC GIẢ TIÊU BIỂU CỦA KHUYNH
HƯỚNG PHÊ BÌNH MỚI TRONG LÍ LUẬN PHÊ BÌNH VĂN
HỌC ANH
2.1) Thomas Stearn Eliot
2.1.1) Tiểu sử và các tác phẩm chính
Thomas Stearn Eliot (sinh ngày 26, tháng 9,
năm 1888– mất ngày 4, tháng giêng, năm 1965) là
một nhà thơ, nhà viết kịch, nhà phê bình văn học
Anh. Có thể nói không quá rằng, ông là nhà thơ
ngôn ngữ Anh quan trọng nhất của thế kỉ XX.
Eliot được sinh ra trong gia đình Eliot, có nguồn
gốc từ nước Anh cổ, đã chuyển dời đến St. Louis,
Missouri, Mỹ. Bố của ông, Henry Ware Eliot là
một thương gia thành đạt. Mẹ của ông, Charlotte Champe Stearns viết thơ và
là một người hoạt động xã hội. Từ năm 1898 đến 1905, Eliot tham gia vào
học viện Smith để học tiếng Latin, Hy- Lạp cổ, tiếng Pháp và tiếng Đức. Sau
khi tốt nghiệp, ông tham gia vào học viện Milton tại Massachusetts. Từ 1906
đến 1909, ông học triết học tại Harvard, lấy được bằng cử nhân sau ba năm
học. Từ 1909–1910, ông làm trợ giảng triết học tại Harvard. Từ 1910–1911,
ông sống ở Paris, học triết học tại Sorbonne. Từ 1911-1914, ông trở lại
Harvard, học triết học Ấn độ và tiếng Sanskrit. Vào năm 1914, ông nhận được
một học bổng vào trường cao đẳng Merton, Oxford, Anh. Năm 1915, ông kết
hôn lần thứ nhất với Vivienne Haigh-Wood, một nữ gia sư tại Cambridge.
Vào năm 1917, ông làm việc tại ngân hàng Lloyds, London. Vào năm 1925,
ông rời Lloyds để làm việc tại nhà xuất bản Faber and Gwyer, sau đó là nhà
33
xuất bản Faber and Faber. Năm 1927, Eliot đã cải đạo theo giáo phái Anh, và
vào tháng 10 năm đó, tham gia quyền công dân Anh. Khoảng năm 1932, khi
Harvard đề ._.n: luật xa gần của giọng điệu trần thuật có kiểm soát
Ngôi thứ nhất: giọng trần thuật mà nói với những đại từ nhân xưng “tôi,
chúng tôi, chúng ta”
Việc thông suốt mọi chuyện có giới hạn: người trần thuật không biết
mọi thứ
Khách quan: người trần thuật cố gắng kể câu chuyện từ một điểm nhìn
vô ngã, phi cá nhân
Sự thông suốt mọi sự: người trần thuật coi như là biết được sự thật cơ
bản của câu chuyện
Đáng tin cậy: người trần thuật được tin là kể sự thật và khách quan
75
Tính chủ quan: người trần thuật công nhận rằng những yếu tố cá nhân
đã ảnh hưởng đến sự diễn giải
Ngôi thứ ba: giọng trần thuật sử dụng những đại từ nhân xưng như “anh
ấy, cô ấy, họ”
Không đáng tin: người trần thuật không thể được tin kể sự thật hoặc
khách quan
Bối cảnh: bầu không khí, thời kì lịch sử, bối cảnh vật lí, hoặc trạng thái của
văn bản
Nơi chốn: những vị trí vật lí hoặc tinh thần của những sự kiện, những
đồ vật, những nhân vật và những thời điểm lịch sử
Thời gian: tiến trình vật lí hoặc tinh thần của những sự kiện
Tính phi lịch sử: không được đặt vào bất cứ thời kì lịch sử “có thật”
nào, mà mang tính tưởng tượng
Theo thứ tự thời gian hay trật tự tuyến tính: kể các sự kiện theo tuyến
tính
Giật lùi, về phía sau: bắt đầu ở chỗ kết thúc và hoạt động hướng về chỗ
bắt đầu
Tiến về phía trước: bắt đầu tại lúc khởi đầu và hoạt động hướng đến
chỗ kết thúc
Vòng tròn: một sự phản ánh mà bắt đầu ở nơi nào đó, đi đến chỗ kết
thúc, hoạt động con đường của nó đến chỗ bắt đầu, và rốt cuộc là quay
trở về nơi mà nó khởi đầu
Những cảnh hồi tưởng: quay nhìn lại ở trong thời gian
Tính lịch sử: được đặt vào một thời kì lịch sử “có thật”
Tính trung điểm: bắt đầu ít nhiều ở giữa những sự kiện
Những dự đoán: nhìn đến phía trước ở trong thời gian
76
Tính đứt đoạn: đi tới đi lui trong thời gian với những sự kết hợp của
những sự sắp xếp theo niên đại
Bầu không khí: những sự miêu tả vật chất bên ngoài mà giúp chúng ta
hiểu tốt hơn bối cảnh
Trạng thái: những miêu tả tình cảm, cảm xúc bên trong giúp chúng ta
hiểu tốt hơn bối cảnh
Những yếu tố hình thức này là phương tiện mà bởi chính nhờ chúng, nội dung
ý nghĩa của tác phẩm văn học có thể đạt được. Về điểm này, Phê bình mới
khác với chủ nghĩa cấu trúc. Như trên đã nói, Phê bình mới giống với chủ
nghĩa cấu trúc ở việc nghiên cứu tác phẩm văn học một cách khép kín. Thế
nhưng, trong khi các nhà cấu trúc luận chỉ tập trung chú ý vào cấu trúc của tác
phẩm văn học, thì các nhà phê bình mới vẫn chú ý đến nội dung ý nghĩa của
nó.
Những đặc điểm hình thức và nội dung ý nghĩa này là tài sản chung cho
cả Phê bình mới Anh và Phê bình mới Mỹ khi họ xem xét văn bản tác phẩm
văn học cụ thể. Chỉ tập trung phân tích cấu trúc của văn bản tác phẩm văn
học, sự thành công của Phê bình mới trong việc phân tích tác phẩm văn học là
sự xây dựng được tính phức tạp của cấu trúc của tác phẩm văn học. Thêm
nữa, sự thu nhỏ kinh nghiệm thẩm mĩ vào cấu trúc cho phép nhà phê bình đi
sâu phân tích các tầng bậc của cấu trúc văn bản tác phẩm. Tuy thế, cấu trúc
văn bản này cũng chỉ được Phê bình mới xem xét trong sự cô lập, khép kín
khỏi những mối liên hệ bên ngoài như tác giả, người đọc, bối cảnh lịch sử.
Cho nên, Phê bình mới đã không làm rõ mối quan hệ giữa cấu trúc đối với giá
trị lịch sử của văn bản. Thêm nữa, cấu trúc của tác phẩm văn học này được
các nhà phê bình mới áp dụng cho các văn bản tác phẩm thuộc các thể loại
văn học khác nhau. Do đó, sự thất bại của Phê bình mới chính là đã không
phát triển được một lí thuyết thể loại văn học thích hợp- chính là một lí thuyết
77
mà nhận dạng sự phân biệt cơ bản về mục đích mĩ học và cấu trúc của diễn
ngôn mĩ học giữa thơ ca, kịch và tiểu thuyết.
3.3) Phê bình mới xem kĩ thuật đọc kĩ lưỡng đối với văn bản tác
phẩm văn học là phương pháp của phê bình văn học
Một phần cơ sở cho sự ra đời của Phê bình mới là yêu cầu của các nhà
phê bình mới muốn phân biệt giữa khoa học và nghệ thuật. Do đó, các nhà
phê bình mới muốn định nghĩa văn học khác với khoa học bằng cách xem xét
đối với tài sản chính thức của văn học: tài sản ngôn ngữ. Các nhà phê bình
mới xem văn học chính là nghệ thuật của ngôn từ, là “trò chơi ngôn ngữ”. Sự
phân biệt giữa ngôn ngữ khoa học và ngôn ngữ của văn học bắt đầu từ
Richards. Ông đã chỉ ra sự khác biệt giữa ngôn ngữ sở chỉ của khoa học và
ngôn ngữ biểu cảm của văn học mà ông đã gọi rất rõ ràng là ngôn ngữ tình
cảm. Chính Richards đã cung cấp những nền tảng lí thuyết mà trong đó kĩ
thuật của sự phân tích từ vựng được xây dựng. Chú ý đến tầm quan trọng của
ngôn ngữ không chỉ dừng lại ở các nhà phê bình mới Anh mà nó còn được kế
thừa với các nhà phê bình mới Mỹ như Allan Tate. Đối với Tate, một bài thơ
hay không đòi hỏi nhờ vào kinh nghiệm xã hội phi thơ ca bởi vì giá trị của nó
thì được bao chứa bởi sự vận động một cách mạnh mẽ của cao độ
(“intensive”) và sự kéo dài rộng ra (“extensive”) của ngôn ngữ. Kĩ thuật đọc
kĩ lưỡng là một trong những đóng góp quan trọng nhất của Phê bình mới cho
phê bình văn học. Thông qua kĩ thuật này, Phê bình mới chỉ ra rằng văn học,
phê bình và thực hành nó là đi cùng với nhau. Kĩ thuật đọc kĩ lưỡng đối xử
với bài thơ hoặc văn bản văn chương như một đồ tạo tác của ngôn ngữ độc
lập, tự chủ. Chú ý cẩn thận đến ngôn ngữ, văn bản được cho là một nguồn cội
của ý nghĩa và giá trị, phân biệt một cách rõ ràng với những văn bản khác
hoặc những sự sử dụng những ngôn ngữ khác, đặc biệt là ngôn ngữ khoa học.
Theo Richards, ngôn ngữ tình cảm của văn học nhất là ngôn ngữ của thơ ca
78
thì có tính đa nghĩa. Ông đã chỉ ra, trong “Phê bình thực chứng”, bốn tầng ý
nghĩa là tư tưởng, tình cảm, giọng điệu, ý hướng. Bốn tầng ý nghĩa này của
văn bản, khi văn bản được đọc, thường gia nhập vào nhau gây khó khăn cho
việc đọc văn bản tác phẩm. Chính vì thế, thông qua “Phê bình thực chứng”,
Richards, bên cạnh việc chỉ ra những khó khăn khác của công việc phê bình,
đã đề nghị đọc kĩ văn bản tác phẩm mà còn được gọi tên là kĩ thuật đọc kĩ
lưỡng (close reading). Là học trò của Richards, Empsom tiếp thu những quan
niệm của thầy mình, trong “Bảy loại mơ hồ, nhập nhằng, đa nghĩa”, đã vận
dụng kĩ thuật đọc kĩ lưỡng này vào phân tích các văn bản thơ và chỉ ra bảy
loại mơ hồ, nhập nhằng, đa nghĩa như đã được liệt kê ở trên. Do đặc trưng của
ngôn ngữ văn học là có tính đa nghĩa, nên kĩ thuật đọc kĩ lưỡng được áp dụng
đối với văn bản là để chỉ ra các tầng bậc ý nghĩa của văn bản văn học mà
không có sự bỏ sót ý nghĩa nào. Kĩ thuật đọc kĩ lưỡng, do đó, có tác dụng bảo
vệ văn học chống lại tất cả các lí thuyết nào mà làm nghèo nàn, hoặc giảm bớt
đi ý nghĩa của nó. Cũng đồng quan điểm với các nhà phê bình mới Anh, nhà
phê bình mới Mỹ là Cleanth Brooks kết thúc “The Well Wrought Urn” bằng
việc miêu tả cái mà ông ta gọi là “Heresy of Paraphrase” (“Dị giáo của sự
diễn giải”), tranh cãi rằng bất cứ nỗ lực nào để làm nghèo đi ý nghĩa của thơ
ca thành một lời phát biểu văn xuôi về một chủ đề hoặc một miêu tả về cốt
truyện là một sự phản bội thơ ca với tư cách là bài thơ. Điều này có nghĩa là ý
nghĩa của một văn bản không bao giờ có thể được giải quyết ở trong một nội
dung đơn nghĩa mà nó là một qui trình năng sản vô tận. Tất cả những sự sử
dụng ngôn ngữ phản ánh một mức độ tự do thực chất trong việc tạo ra ý
nghĩa.
Phê bình mới cải tạo lại việc đọc mà đầu tiên được gọi là sự chú ý đối với
đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ văn học, và một cách đột ngột, mở rộng lăng
kính cho sự diễn giải tác phẩm văn học. Các nhà phê bình chỉ ra rằng họ tin
79
vào tính đa kiêm nhiệm nhiều chức năng của phê bình, ví dụ, nhiều sự diễn
giải của cùng một tác phẩm có thể đạt được một cách đồng thời. Tri thức diễn
giải thì mang tính chủ quan, nó không phải là công thức của một số chân lí
khách quan không đổi, mà là sự xây dựng có động cơ của trí óc con người.
Trong khi tri thức về diễn giải vẫn là tri thức, nó, không, một cách logic, giới
hạn phạm vi phản hồi đối với nó. Sự diễn giải là vô tận, không hạn định.
Những nhà thực hành kĩ thuật đọc kĩ lưỡng tán thành việc đọc có phương
pháp và có hệ thống đối với văn bản tác phẩm văn học. Kĩ thuật đọc kĩ lưỡng
là nhằm phát hiện ra các tầng bậc ý nghĩa của văn bản. Tính đa nghĩa của văn
bản là khả năng của ngôn ngữ để giữ vững nhiều ý nghĩa và như thế nó tăng
cường tính phức tạp của ngôn ngữ. Tính phức tạp này được tạo ra bởi tính
thống nhất hữu cơ của văn bản, là một đặc điểm xác thực của văn bản. Tính
đa ý nghĩa của văn bản là kết quả của bốn yếu tố ngôn ngữ: irony (sự trớ trêu,
mỉa mai), paradox (sự nghịch lí), ambiguity (Sự mơ hồ, nhập nhằng, đa
nghĩa), và tension (sự căng thẳng). Sự nghịch lí nghĩa là một lời phát biểu mà
dường như là tự mâu thuẫn, trái ngược. Thoạt tiên, nó tự mâu thuẫn hoặc đối
lập, nhưng khi được phân tích sâu, nó tăng cường ý nghĩa bằng cách đề nghị
những phạm vi rộng lớn hơn đối với lời phát biểu. Sự trớ trêu, mỉa mai thì
cũng là một lời phát biểu hoặc một sự kiện mà dường như là trái ngược, tương
phản với ý nghĩa đen của nó; một lời phát biểu trớ trêu, mỉa mai thì mâu
thuẫn, trái ngược với ý nghĩa được dự định và mong đợi. Và sự căng thẳng,
trong phê bình mới, nghĩa là sự đối lập, mâu thuẫn ở trong văn bản. Bressler
định nghĩa nó như là “sự đối lập, mâu thuẫn giữa nghĩa từ vựng và nghĩa mở
rộng của một từ, giữa nghĩa đen và nghĩa hàm ẩn, và một chi tiết trừu tượng
và một chi tiết cụ thể”. Bốn thiết bị ngôn ngữ này, cũng như những thiết bị
hình thức khác như là những hình ảnh, những biểu tượng, các biện pháp nghệ
thuật: so sánh, ẩn dụ, nhân cách hóa, hoán dụ, cách xây dựng nhân vật,
80
không- thời gian, điểm nhìn nghệ thuật, bối cảnh… điều khiển cấu trúc của
tác phẩm. Nếu một văn bản có một tính thống nhất hữu cơ, vậy thì tất cả
những yếu tố hình thức của nó hoạt động cùng nhau để thiết lập toàn bộ ý
nghĩa của tác phẩm. Chính vì thế, để phát hiện ra toàn bộ các tầng bậc ý nghĩa
của tác phẩm văn học mà không bỏ sót đi bất cứ ý nghĩa nào, kĩ thuật đọc kĩ
lưỡng đòi hỏi trước hết phải tập trung vào các yếu tố ngôn ngữ và hình thức
trên. Chúng chính là những yếu tố mà nhà phê bình mới sẽ tham khảo chính
để tìm ra toàn bộ ý nghĩa của tác phẩm.
Để minh hoạ cho việc áp dụng kĩ thuật đọc kĩ lưỡng vào việc phân tích
tác phẩm văn học, dưới đây, người viết luận văn trích dẫn một sự áp dụng kĩ
thuật này vào phân tích một văn bản thơ ngắn của Empson trong “Bảy loại
mơ hồ, nhập nhằng, đa nghĩa”:
“Cấu trúc hợp lí chính của bài ca đẹp đẽ, tinh vi dưới đây (nó được hát cho
Mariana trong trang trại được xây hào bao quanh (Measure for Measure,
Act. iv. i.) là một sự tương phản, trái ngược; lấy ra nhưng mang lại; bao
gồm một sự mâu thuẫn, trái ngược; và có một sự mâu thuẫn, trái ngược
khác trong ý niệm về một nụ hôn “trở lại”:
Take, oh take thy lips away,
That so sweetly were forsworne,
And those eyes : the break of day
Lights that doe mislead the Morne ;
But my kisses bring againe,
bring againe,
Seals of love, but seal'd in vaine,
seal'd in vaine.
Lấy, ồ lấy đôi môi của anh ra,
81
Rằng rất ngọt ngào là lời thề thốt,
Và đôi mắt đó: buổi bình minh
Những luồng ánh sáng mà thật sự đánh lừa, làm mê muội, làm lầm
đường lạc lối buổi sáng;
Nhưng những nụ hôn của anh mang lại lần nữa,
Mang lại lần nữa,
Những dấu hiệu của tình yêu, nhưng dấu hiệu không kết quả, vô ích,
dấu hiệu không kết quả, vô ích.
Trong đó, anh ta phải lấy đôi môi của anh ta ra, anh ta đã ở trong sự hiện
diện của cô ta; cô ta thật sự đang bảo anh ta ra đi, và đang giữ mệnh lệnh
về tình thế này; hoặc nếu anh ta chỉ hiện diện trong trí tưởng tượng của cô
ta, bởi vì cô ta không thể quên anh, vẫn cội nguồn của sự thỏa mãn trí
tưởng tượng của cô ta là để giả vờ rằng anh ta đã ở trong sự hiện diện của
cô ta, rằng cô ta đang ở trong một vị trí để khước từ, cự tuyệt anh ta, hoặc
giả vờ khước từ, cự tuyệt anh ta; và mệnh lệnh của cô ta sẽ được thỏa mãn
bởi cả một sự biểu hiện, diễn tả sự oán giận của cô ta và bởi một sự quên
đi ước muốn của cô. Nhưng anh ta không thể đã ở trong sự hiện diện của
cô ta, bởi vì anh ta phải đi đến và mang lại lần nữa cho cô ta những nụ
hôn; và vì thế, khi anh ta thì không có mặt, cô ta thú nhận rằng cô ta muốn
chúng nhiều hơn. Nhưng, một lần nữa (nếu, có lẽ anh ta thì có mặt, và cô
ta đang gửi anh ta trở lại để đem về những thứ đó), anh ta chắc hẳn không
mang lại cho cô ta những nụ hôn mới, mà chỉ mang lại cho cô ta những nụ
hôn cũ trở về, để phục hồi lại cho cô ta điều kiện không được hôn đầu tiên
của cô ta. Lưu ý rằng phép ẩn dụ từ những dấu hiệu (seals) không giữ
vững, duy trì sự giả vờ cuối cùng này, mà dường như là ý nghĩa chủ yếu
của cô ta; nó thì vô ích hơn việc hoàn lại một dấu hiệu khi nó đã bị tan vỡ
hơn là một nụ hôn khi bạn muốn thu hồi những nụ hôn của bạn. Chính là
82
hai sự mâu thuẫn, trái ngược này, tóm lại, vận chuyển, truyền tải sự vừa
yêu vừa ghét, sự mâu thuẫn trong tư tưởng, cảm xúc của cô ta dành cho
anh ta. Có những sự mâu thuẫn, trái ngược nhỏ từ hình ảnh, hình tượng.
Hoặc lúc buổi bình minh: lúc rạng đông cô ta có thể lần nữa thấy được vẻ
đẹp của anh ta; vào buổi sáng, anh ta rời bỏ cô ta một cách tàn nhẫn, và
quên đi những lời thề nguyền của anh ta. Hoặc giống như buổi bình minh:
anh ta phải lấy đi, mang đi đôi mắt của anh ta dù là, khi chúng đến, chúng
đưa cho cô ta thế giới tất cả ánh sáng mà nó có thể bây giờ hi vọng có
được; và trong đó chúng thì giống như mặt trời của một ngày một người
phải luôn luôn có được hi vọng rằng chúng sẽ sớm được lấy. Cũng có một
trò chơi chữ trên sự đứt gãy, rạn nứt (break) mà đưa cho nó hai hoạt động
trái ngược nhau trên ngày; sự đi đến của chúng giống như lúc rạng sáng
bởi vì chúng khôi phục lại niềm hạnh phúc của cô ta, nhưng anh ta phải
lấy chúng ra bởi vì chúng chặn ngắt, hoặc đập nát, sự rõ của sự thiếu thận
trọng của cô ta; bởi vì chúng đập vỡ trái tim của cô ta hoặc với vẻ đẹp đầu
tiên của chúng hoặc với sự tàn nhẫn, khắc nghiệt cuối cùng của chúng; và
từ này vẫn nói bóng gió, dưới tất cả những sự liên kết bóp nghẹt này, tại sự
mất mát của sự trong trắng của cô ta. Chúng đánh lừa, làm mê muội, làm
lầm đường lạc lối buổi sáng trong ý niệm chủ yếu là một phép ngoa dụ
đơn giản; “khi đôi mắt của anh đến một nơi những suy nghĩ tự nhiên nó
chính là mặt trời đang mọc”. Nhưng đánh lừa, làm mê muội, làm lầm
đường lạc lối đã là một từ khá thích hợp cho tình huống này; bản thân cô
ta thì đang ở trong một tình trạng bình minh, tuổi thanh xuân trước khi anh
ta đến với cô ta, bởi vì sự trẻ trung, tươi mới và thiếu kinh nghiệm của cô
ta; chỉ khi cô ta là ngày trong dòng trước, hoặc là khi cô ta thì hạnh phúc
trong tình yêu của anh ta dành cho cô, vì thế lời hứa về buổi sáng của cô ta
đã được đạt được, hoặc trước khi cô ta gặp anh ta, bởi vì sự sáng suốt, an
83
toàn của cô ta, việc hiểu những cảm xúc của bản thân cô ta, và sự không
có tính tối tăm của những ước muốn phức tap hay không được thỏa mãn”.
Phương pháp đọc kĩ lưỡng của Phê bình mới mà đầu tiên xuất hiện ở Anh
và sau đó được kế thừa ở Mỹ, nhấn mạnh sự chú ý tiệm cận và kĩ lưỡng vào
ngôn ngữ và cấu trúc văn học, thì có giá trị và tạo ra nhiều những sự hiểu thấu
bên trong căn nguyên và xác thực về thơ ca, đặc biệt là thơ trữ tình một cách
thích đáng. Tuy thế, kĩ thuật đọc kĩ lưỡng của Phê bình mới áp dụng cho tất
cả các loại văn chương do đó Phê bình mới thất bại trong việc nhận ra rằng
hoạt động đọc thì cũng phụ thuộc vào hệ thống văn chương. Qui trình phân
tích văn bản này thì khá thích hợp đối với những văn bản ngắn giống như các
bài thơ, nhưng nếu tác phẩm văn học mà quá dài, một người có thể lí giải chỉ
một số khía cạnh hình thức của nó, như bối cảnh hoặc hình ảnh của văn bản.
Một sự đọc kĩ lưỡng và khép kín chăm chú thật sự của một văn bản văn xuôi
hai trăm từ có thể kéo dài ra hàng ngàn từ mà không có sự cạn kiệt khả năng
quan sát và việc nhìn thấu được bên trong văn bản. Để lấy một ví dụ gương
mẫu, bài tiểu luận của Jacques Derrida: “Ulysses Gramophone” mà J. Hillis
Miller đã miêu tả như một “ một sự khoa trương…một tiếng nổ” của kĩ thuật
đọc kĩ lưỡng đã chiếm hết hơn tám mươi trang cho một sự diễn giải của từ
“yes” trong tiểu thuyết của nhà văn hiện đại James Joyce: “ Ulysses”.
Nói tóm lại, lấy việc xem xét bản thân văn bản tác phẩm văn học một
cách độc lập và hoàn toàn khép kín khỏi tác giả, người đọc và bối cảnh lịch sử
xã hội và văn hoá làm đối tượng của phê bình văn học, lấy việc phân tích
chỉnh thể cấu trúc hữu cơ là sự hài hoà thống nhất của hình thức và nội dung
của văn bản tác phẩm văn học làm nội dung của phê bình văn học, xem kĩ
thuật đọc kĩ lưỡng và khép kín bản thân văn bản tác phẩm văn học, phân tích,
diễn giải từng yếu tố ngôn từ của tác phẩm và phát hiện ra các tầng bậc ý
nghĩa của tác phẩm văn học là phương pháp của phê bình văn học, là ba đặc
84
điểm cơ bản của khuynh hướng Phê bình mới trong lí luận phê bình văn học
Anh. Các đặc điểm này về sau được kế thừa, khẳng định và nhấn mạnh thêm
bởi các nhà phê bình mới ở Mỹ. Mỗi đặc điểm trên đều bộc lộ những mặt
mạnh và những hạn chế nhất định như đã được chỉ ra ở trên. Những hạn chế
trong quan niệm về đối tượng, nội dung và phương pháp của khuynh hướng
Phê bình mới cả ở Anh và Mỹ dẫn đến sự suy yếu và tàn lụi của khuynh
hướng phê bình này, nhưng những mặt mạnh của nó thì vẫn còn nguyên giá
trị và cần được kế thừa và phát huy.
85
KẾT LUẬN
Khuynh hướng Phê bình mới trong nền lí luận phê bình văn học Anh
được luận văn này xem xét ở ba nội dung mà được trình bày qua ba chương
đó là các tiền đề hình thành, các tác giả tiêu biểu và các đặc điểm cơ bản. Phê
bình mới trong nền lí luận phê bình văn học Anh, như đã được trình bày ở
chương một, được hình thành chủ yếu trên ba tiền đề là tiền đề xã hội và văn
hoá của nước Anh có nhiều chuyển biến vào đầu thế kỉ XX, tiền đề triết học
với sự tiếp thu, ảnh hưởng những lí thuyết và phương pháp của triết học phân
tích nhất là phong trào “chuyển hướng ngôn ngữ” và tiền đề học thuật trên cơ
sở ảnh hưởng, tiếp thu quan niệm của Ngữ nghĩa học và phê phán hay phủ
nhận những trào lưu, trường phái phê bình văn học có trước đó như là chủ
nghĩa thực chứng, phê bình Mác- xít, phê bình ấn tượng, trường phái văn hoá
lịch sử, chủ nghĩa lãng mạn. Phê bình mới trong nền lí luận phê bình văn học
Anh là người đặt nền tảng cơ bản cho cả khuynh hướng phê bình này với ba
đại biểu: Thomas Stearn Eliot, Ivor Amstrong Richards và William Empson,
trong đó vai trò quan trọng hơn cả thuộc về Eliot và Richards. Các nhà phê
bình mới Anh này, do đó, đã xây dựng nên những nền móng cơ bản cho toàn
bộ khuynh hướng Phê bình mới cả về phương diện lí luận lẫn phương pháp
thực hành phê bình. Những quan niệm và tư tưởng của họ như là lí thuyết
nghệ thuật vô ngã, ý niệm về sự tương quan đối tượng, yêu cầu phân biệt giữa
bản thân văn bản tác phẩm và những cảm xúc, ấn tượng được tạo ra trong
người đọc bởi tác phẩm của Thomas Stearn Eliot, quan niệm về tính đa nghĩa
của ngôn ngữ, yêu cầu việc đọc kĩ lưỡng và khép kín đối với bản thân văn bản
tác phẩm của Ivor Armstrong Richards, việc áp dụng kĩ thuật đọc kĩ lưỡng và
khép kín khi tiến hành phân tích các tác phẩm thơ Anh để từ đó chỉ ra bảy loại
mơ hồ, nhập nhằng, đa nghĩa của ngôn ngữ thơ của William Empson đã đặt
86
nền móng trong việc hình thành khuynh hướng Phê bình mới trong nền lí luận
phê bình văn học Anh. Những quan niệm và tư tưởng của ba nhà phê bình
mới này được trình bày trong những bài luận và tác phẩm của họ có những
điểm chung xuyên suốt thể hiện các đặc điểm cơ bản của khuynh hướng Phê
bình mới trong lí luận phê bình văn học Anh, đó là Phê bình mới xem bản
thân văn bản tác phẩm độc lập và khép kín là đối tượng của phê bình văn học,
xem việc phân tích chỉnh thể cấu trúc toàn vẹn và hữu cơ của văn bản tác
phẩm văn học làm nội dung của phê bình văn học và Phê bình mới xem kĩ
thuật đọc kĩ lưỡng đối với văn bản tác phẩm văn học là phương pháp của phê
bình văn học.
Phê bình mới cả ở Anh lẫn ở Mỹ với các đặc điểm trên đã có những
giá trị đóng góp cũng như những hạn chế nhất định. Lấy văn bản tác phẩm
văn học làm đối tượng của phê bình văn học, các nhà phê bình mới đã thành
công trong việc kêu gọi các nhà phê bình văn học chú ý vào đối tượng trung
tâm của qui trình nghiên cứu, lí luận, phê bình văn học, và do đó tránh cho
phê bình văn học khỏi việc đi xa ra khỏi đối tượng trung tâm của mình. Tập
trung vào tác phẩm văn học, lấy việc phân tích chỉnh thể cấu trúc toàn vẹn và
hữu cơ của tác phẩm làm nội dung của phê bình văn học, Phê bình mới chứng
tỏ việc hiểu thấu đáo bản chất bên trong của tác phẩm văn học một cách thích
đáng. Đặc biệt quan tâm đến thơ ca trữ tình, các nhà phê bình mới đã cung
cấp những tri thức có giá trị về thơ ca và bản chất của thơ ca. Những bản mô
tả về các yếu tố hình thức của thơ ca như các biện pháp tu từ, ngôn ngữ bóng
bẩy, hình ảnh, biểu tượng, nhịp điệu, vần luật của Richards và Empson rất
hữu ích trong việc hiểu sâu những khía cạnh hình thức của thơ ca. Việc nêu ra
tính đa nghĩa của tác phẩm và chỉ ra các tầng bậc ý nghĩa của nó giúp cho việc
hiểu thơ ca chi tiết hơn và thấu đáo hơn. Sử dụng kĩ thuật đọc kĩ lưỡng do
Richards đề xuất và Empson vận dụng thực hành phần tích thơ ca, làm
87
phương pháp để phê bình văn học, Phê bình mới đã gắn kết văn học, phê bình
và việc thực hành nó cùng với nhau. Có thể nói, kĩ thuật đọc kĩ lưỡng mà yêu
cầu đọc kĩ lưỡng và cẩn thận từng yếu tố ngôn từ trong tác phẩm, chú ý xem
xét các yếu tố của ngôn ngữ và những nhân tố hình thức trên cơ sở chỉ ra
những nội dung ý nghĩa được tạo dựng bởi chúng là một phương pháp phê
bình tác phẩm văn học rất có giá trị cho phê bình văn học. Có lẽ chính vì thế
mà kĩ thuật đọc kĩ lưỡng đối với văn bản tác phẩm này vẫn tiếp tục được tồn
tại và kế thừa bởi các nhà phê bình cho dù Phê bình mới đã bị lụi tàn và lãng
quên. Chính kĩ thuật đọc kĩ lưỡng này và việc áp dụng nó một cách rộng rãi
vào trong phân tích tác phẩm đã làm cho Phê bình mới phát triển phổ biến và
sau này ở Mỹ trở thành một khuynh hướng phê bình duy nhất được giảng dạy
trong các trường đại học và cao đẳng như một môn học bắt buộc. Tuy thế, Phê
bình mới cũng bộc lộ nhiều sai lầm và thiếu sót mà bởi những sai lầm và cực
đoan đó, nó bị chỉ trích bởi các nhà phê bình khác. Như trên đã nói, Phê bình
mới kêu gọi tập trung chú ý vào phân tích văn bản tác phẩm văn học là đúng
nhưng từ đó mà kêu gọi nhổ bỏ nó ra khỏi nguồn gốc sáng tạo tức tác giả và
sự tiếp nhận của người đọc là cực đoan, phiến diện và sai lầm. Nhổ bỏ văn
học khỏi nguồn gốc lịch sử xã hội đã sản sinh ra và nuôi dưỡng nó, Phê bình
mới đã biến văn học thành một hàng hoá trừu tượng và khô héo. Nghiên cứu
một cách khép kín chỉ mỗi bản thân văn bản, Phê bình đã gây ra thiệt thòi cho
qui trình nghiên cứu văn học khi mà mối quan hệ tác phẩm- tác giả và tác
phẩm- người đọc bị loại bỏ triệt để. Chính ở điểm này, Phê bình mới đã bị các
nhà phê bình khác chỉ trích triệt để khi nó cô lập văn học và qui trình nghiên
cứu văn học khỏi tác giả, bạn đọc và những ngữ cảnh lịch sử, xã hội, văn hoá.
Sự sụp đổ của Phê bình mới do bởi sự tấn công của các nhà phê bình khác
chính là vào một số học thuyết mang tính nhị nguyên, thiếu nhất quán, tự mâu
thuẫn của các nhà Phê bình mới. Quan niệm về mối quan hệ “tương đồng đối
88
tượng” của Eliot vừa là nguồn gốc ra đời vừa là nguyên nhân cho sự sụp đổ
của Phê bình mới. Thêm nữa, kĩ thuật đọc kĩ lưỡng của Phê bình mới, như
trên đã nói, không thể áp dụng cho toàn bộ hệ thống văn học. Phê bình mới đã
không chú ý đúng mức vào việc phân tích tác phẩm theo thể loại. Sử dụng kĩ
thuật đọc kĩ lưỡng vào thực hành phân tích tác phẩm, Phê bình mới đóng góp
những giá trị nhất định cho nền lí luận phê bình văn học Âu- Mỹ cũng như ở
Việt Nam.
Những đặc điểm cơ bản và sự phát triển nở rộ của Phê bình mới trong
nền lí luận văn học Mỹ, có thể nói, chủ yếu kế thừa và nâng lên mức độ nhấn
mạnh hơn, và do đó, cũng cực đoan hơn, những lí thuyết cũng như phương
pháp thực hành đối với văn bản tác phẩm của các nhà phê bình mới Anh. Bên
cạnh đó, phạm vi ảnh hưởng và áp dụng của phương pháp phê bình cũng như
số lượng các nhà phê bình mới trong nền lí luận phê bình văn học Mỹ cũng
nhiều hơn, rộng rãi hơn, đa dạng hơn. Nếu như Phê bình mới trong nền lí luận
phê bình văn học Anh giữ vai trò là người đặt nền móng cho khuynh hướng
phê bình văn học này, thì khuynh hướng Phê bình mới này ở Mỹ lại phát triển
nổi trội đến mức nó đã trở thành một môn học được giảng dạy bắt buộc trong
các trường cao đẳng và phổ thông ở Mỹ trong suốt thời gian thịnh hành của
nó. Phê bình mới hình thành ở Anh nhưng phát triển nổi trội và thịnh hành ở
Mỹ. Chính những điều này đã mở ra một hướng nghiên cứu tiếp về khuynh
hướng phê bình văn học này. Nghiên cứu khuynh hướng Phê bình mới trong
lí luận phê bình văn học Mỹ vẫn còn là một lối đi cần được tìm hiểu, khai phá
dành cho những ai quan tâm tìm hiểu và nghiên cứu về khuynh hướng phê
bình này.
89
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1) Lại Nguyên Ân (,1999),150 từ điển thuật ngữ văn học, nhà xuất bản Đại
học Quốc Gia Hà Nội
2) Nguyễn Văn Dân (,2000), Lí luận văn học so sánh, nhà xuất bản Đại học
quốc gia Hà Nội
3) Trịnh Bá Đĩnh (,2002) Chủ Nghĩa cấu trúc và văn học, nhà xuất bản Văn
hoc, Hà Nội
4) Lưu Phóng Đồng (,1994) Triết học phương Tây hiện đại, nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, Hà Nội
5) Nguyễn Hào Hải (,2001) Một số học thuyết triết học phương Tây hiện đại,
nhà xuất bản Văn hoá Thông tin, Hà Nội
6) Phương Lựu (,2001) Lí luận phê bình văn học phương tây thế kỉ XX, nhà
xuất bản Văn Học, Hà Nội
7) Phương Lựu (,1999) Mười trường phái lí luận phê bình văn học phương
tây đương đại, nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội
8) Bùi Đức Mãn (,2002 ) Lịch sử các nước trên thế giới_ lược sử nước Anh,
nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh
9) Huỳnh Như Phương (,2004) Chủ Nghĩa hình thức Nga, nhà xuất bản Đại
Học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh
10) Lê Văn Sự (,2000), Văn học Anh lịch sử và trích giảng, nhà xuất bản
Đồng Nai
11) Lộc Phương Thủy (chủ biên) (,2007) Lí luận phê bình văn học thế giới thế
kỉ XX, nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội
12) Đỗ Lai Thúy (,2001) Nghệ thuật như là một thủ pháp, nhà xuất bản Hội
Nhà Văn, Hà Nội
90
13) Đỗ Lai Thúy (,2004) Sự đỏng đảnh của phương pháp, nhà xuất bản văn
hóa thông tin, Hà Nội
14) Nguyễn Thành Thống (,1997) Lịch sử văn học Anh trích yếu, nhà xuất
bản Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh
Tiếng Anh
15) David E. Cooper; Lưu Văn Hy (dịch) (,2005) Các trường phái triết học
trên thế giới, nhà xuất bản Văn hoá Thông tin, Hà Nội
16) David M. Wallace (,1970) Literary Ctiticism As Idealogy: A Ctitique of
The New Criticism, University of Bristish Columbia, Literary Theory and
Criticism: An Oxford Guide,
17) Irot Armstrong Richards (,1924) Principles of Literature, nhà xuất bản
Kegan Paul, Trench, Trubner: London.
18) Irot Armstrong Richards (,1929) Practical Criticism, nhà xuất bản Kegan
Paul, Trench, Trubner: London.
19) T.S. Eliot (,1920) The Sacred Wood, nhà xuất bản Methuen & Co. LTD
36 Essex Street W.C London
20) Mark Jancovich (,1993) The cultural politics of the New Criticism,
Cambridge University Press
21) William Empson (,1930) Seven Types of Ambiguity, nhà xuất bản Chatto
and Windus London
22) Wellek và Warren, (Nguyễn Mạnh Cường, Tạ Hương Nhi, Trịnh Bá Đĩnh
dịch (,2009), Lí luận văn học, Nhà xuất bản Trung Tâm Quốc Học, thành phố
Hồ Chí Minh
Tạp chí
1) Tạp chí Văn học nước ngoài số 2, tháng 3- 4, năm 2003 (trang 173- 195)
91
2) Tạp chí văn học nước ngoài số 1 tháng 1- 2, năm 2005 đăng bài nghiên cứu
: “Trường phái Phê bình mới: xưa và nay” (trang 135- 156) của nhà phê
bình: R. John Willingham
Các địa chỉ Website:
A75A653FD9D46AD7885AE8AE5?action=viewArtwork&artworkId=3786
TF-
8&source=univ&ei=kGYGTIKeOM2TkAWPvsT9Cg&sa=X&oi=image_resu
lt_group&ct=title&resnum=4&ved=0CD8QsAQwAw
Empson/dp/081120037X
&dq=william+empson&source=bl&ots=9Kaz9tjFmG&sig=0g5Fkq8eQGWM
4iqP68mUTSXGtDg&hl=vi&ei=kGYGTIKeOM2TkAWPvsT9Cg&sa=X&oi
=book_result&ct=result&resnum=12&ved=0CEYQ6AEwCw#v=onepage&q
&f=false
r&dq=william+empson&source=bl&ots=KrXnrBokH9&sig=uxYz_aFsobgS
UKTuMsWdFeDyvoU&hl=vi&ei=kGYGTIKeOM2TkAWPvsT9Cg&sa=X&
oi=book_result&ct=result&resnum=15&ved=0CFQQ6AEwDg
mptype=rss
92
e=UTF-
8&source=univ&ei=42gGTKznBs6HkQWtxMSBCw&sa=X&oi=image_resu
lt_group&ct=title&resnum=14&ved=0CHQQsAQwDQ
erican.htm
literature.suite101.com/article.cfm/female_authors_excluded_in_literary_criti
cism
wQFjABOBQ&url=http%3A%2F%2Fwww.edwardjayne.com%2Fcritical%2
Fnew_criticism.pdf&rct=j&q=the+history+of+the+new+criticism&ei=b2sGT
KDtJs2GcbXxkL4F&usg=AFQjCNF1MHHHAA7M7jpe4hfS5VVIW-Xi2A
93
0QFjAHOBQ&url=http%3A%2F%2Fassets.cambridge.org%2F97805213%2
F00124%2Findex%2F9780521300124_index.pdf&rct=j&q=the+history+of+t
he+new+criticism&ei=b2sGTKDtJs2GcbXxkL4F&usg=AFQjCNFILK-
lpIWl2xC6UZn3wXvoqAOGyA
riticism.ppt
Ransom/dp/0837190797
ood&source=bl&ots=cq64eYq1PJ&sig=TYa2Abp54cQWHtdLSwavoIviSlo
&hl=vi&ei=om0GTLiDM8OPcbXb3L0F&sa=X&oi=book_result&ct=result
&resnum=5&ved=0CDAQ6AEwBA
QFjAH&url=http%3A%2F%2Fwww.vahidnab.com%2Feles.pdf&rct=j&q=th
e+sacred+wood&ei=om0GTLiDM8OPcbXb3L0F&usg=AFQjCNFrD5g-
_7wD_khwGDZ2h3d4pY0X8g
=PA38&dq=seven+types+of+ambiguity&ots=YCcnVX1GT5&sig=h7Bo70m
grjX6Wdj0vfO3OI83hyY#v=onepage&q&f=false
94
tp://www.amazon.com/Seven-Types-Ambiguity-Elliot-
Perlman/dp/157322281X
of+ambiguity&source=bl&ots=v8Y1ZZZCSD&sig=KaOns6TSG6Arhob8gD
qoCqqVBak&hl=vi&ei=dG4GTNivJYzQcZuuiOkB&sa=X&oi=book_result
&ct=result&resnum=10&ved=0CFYQ6AEwCQ
ml
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA5415.PDF