BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Võ Hương Giang
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2008
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VÕ HƯƠNG GIANG
Chuyên ngành : Văn học nước ngoài
Mã số : 60 22 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TRẦN XUÂN ĐỀ
Thành phố Hồ Chí Minh – 2008
LỜI CẢM ƠN
Nhờ sự giúp đõ của thầy cô, gia đình và bạn bè, luận văn của tôi đã
được hoàn thành.
154 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 4151 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Khuất Nguyên - Con người và thơ ca trong văn học trung đại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Để tỏ lòng tri ân tôi xin gởi những lời cảm ơn chân thành đến tất cả
mọi người.
Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc PGS. TRẦN XUÂN
ĐỀ, nguời đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực
hiện luận văn.
Xin gửi lời cảm ơn đến các giáo sư đã giảng dạy tôi trong thời gian
học tập tại trường Đại học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh.
Xin gửi lời cảm ơn đến Ban Giám hiệu, Phòng Khoa học công nghệ
Sau đại học đã tạo điều kiện để tôi được hoàn thành luận văn.
Xin cảm ơn quý thầy cô của tổ bộ môn Văn học nước ngoài, khoa
Ngữ văn trường Đại học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh đã động viên
cũng như tạo mọi điều kiện cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu
và hoàn thành luận văn.
Xin cảm ơn chân thành và sự tri ân sâu sắc đến ba mẹ và những
người thân trong gia đình đã giúp đỡ và động viên trong suốt thời gian
tôi học tập và nghiên cứu.
Cuối cùng là lời cảm ơn đến bạn bè đã chia sẻ, động viên giúp tôi
hoàn thành luận văn này.
Võ Hương Giang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nếu như ở Phương Tây - Hi Lạp cổ đại là đỉnh cao của văn minh nhân
loại, thì ở Phương Đông - Trung Quốc cổ đại cũng được đánh giá như vậy.
Một trong những đỉnh cao của văn minh Trung Hoa chính là văn học nghệ
thuật, đặc biệt là thơ ca. Khái niệm thi (thơ ca) ra đời từ rất sớm ở Trung
Quốc, ít ra là đã ba nghìn năm [33, tr. 212]. Có thể hiểu thơ dưới nhiều cách
khác nhau, nhưng “thời này phổ biến công nhận lối cắt nghĩa thơ (thi) xuyên
qua chí, nhìn thấy trong thơ một rung động tinh thần nảy sinh trong tim nhà
thơ và sau đó thể hiện ra lời” [33, tr. 213]. Đã nghìn năm trôi qua, khái niệm
thơ có nhiều thay đổi nhưng nó vẫn là tiếng lòng, tiếng nói của tình cảm, tiếng
nói tri âm. Thi (thơ ca) dù được hiểu như thế nào đi chăng nữa thì “nó vẫn là
một trong những khái niệm quan trọng nhất của tư tưởng văn học truyền
thống của Trung Hoa”. [33, tr. 211]
Từ khi ra đời cho đến nay, không biết bao nhiêu lời nhận xét được các
nhà nghiên cứu gán cho thơ Trung Hoa đó là “Trung Quốc là đỉnh cao của
thơ ca nhân loại” hay “Thơ quả là tôn giáo của người Trung Hoa” [18, tr.
94]. Theo Lâm Ngữ Đường, ở Trung Quốc thơ có nhiệm vụ thay thế tôn giáo,
nghĩa là có nhiệm vụ làm cho tâm hồn thanh khiết, cảm được cái bí mật cùng
cái đẹp của vũ trụ, gây cho con người tấm lòng thương đồng loại và mọi sinh
vật [18, tr. 92]. Quả nhiên, đối với người Trung Quốc, thơ ca có một sức
mạnh vô biên, nó dạy cho con người biết bao điều trong cuộc sống: biết yêu
con người, yêu thiên nhiên, biết tận hưởng cuộc đời bình dị, biết giữ được một
lý tưởng hiền lương, thanh khiết, biết vượt lên mọi kiếp trần lao khổ… Những
điều mà thơ ca dạy cho người Trung Hoa thật vô cùng quý báu cho mỗi người
chúng ta. Cái muốn biết thật vô cùng, vô tận trong kho tàng kiến thức của
nhân loại nhưng những cái cần biết kia mới là nền tảng để con người tiếp tục
một cuộc hành trình dài trong cuộc đời của mỗi con người.
Có lẽ trong thời buổi hiện đại này không còn mấy ai mặn mà với thơ ca
để rồi còn được học những bài học quý báu ấy. Nhưng giữa bộn bề của sự
mưu sinh, giữa lo toan nhọc nhằn của cuộc sống đôi lúc con người cũng cần
lắng lại lòng mình, nhìn lại mình, trở về với chính mình, và chính lúc này đây
thơ ca như dòng suối ngọt ngào thấm vào mảnh đất khô cằn của tâm hồn con
người khiến họ biết mở rộng lòng mình để đón nhận vạn vật, biết lắng nghe,
chia sẻ và đồng cảm với mọi người xung quanh. Cuộc đời này cần lắm những
con người như vậy.
Có hiểu được tầm quan trọng của thơ ca trong thế giới tinh thần của
người Trung Quốc chúng ta mới hiểu được vì sao người Trung Quốc lại biết
làm thơ sớm như vậy? Kinh thi là một bộ tổng tập thơ ca sớm nhất của người
Trung Quốc xuất hiện ở Phương Bắc. Ở Phương Nam lại hưng khởi một thể
thơ mới - Sở từ - mang âm hưởng dân ca Sở, đậm đà màu sắc địa phương Sở
và nhà thơ vĩ đại Khuất Nguyên là người đại diện bất hủ. Nghiên cứu con
người và thơ ca của Khuất Nguyên trong thời điểm hiện nay là một vấn đề
nan giải, bởi lẽ tài liệu về cuộc đời ông không nhiều, thơ ca của ông để lại cho
người đời sau cũng ít (khoảng 25 bài) “nhưng qua những bài thơ còn lại của
ông, chúng ta có thể biết tường tận về cuộc đời chìm nổi của một con người
từng ôm ấp những hoài bão lớn lao và đã đấu tranh đến cùng để bảo vệ nó”.
[15, tr. 34]
Là một nhà chính trị trẻ đầy triển vọng, là một người có nhân cách cao
quý, luôn hết lòng vì nước, vì dân, hơn lúc nào hết Khuất Nguyên muốn đem
tài đức của mình ra phục vụ cho nước, cho dân nhưng không được vua tin
dùng, còn bị ghen ghét gièm pha. Hụt hẫng, thất vọng, đau buồn, chán nản
không khiến ông lùi bước dù phía trước còn lắm chông gai. Có nhà nghiên
cứu đã nhận xét: “Phẩm chất trong sáng được rèn luyện, ý chí kiên cường đến
chết cũng không thay đổi, đã giúp ông trong nghịch cảnh viết được những bài
thơ rạng rỡ như thời trăng” [49, tr. 43]. Do đó nghiên cứu con người và thơ
ca của Khuất Nguyên càng giúp chúng ta có điều kiện hiểu rõ hơn nhân cách
của ông và những vần thơ bay bổng diệu kì của con người hết mực tài hoa
này.
Việt Nam trải qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc, chịu sự đô hộ của
phong kiến phương Bắc nên những phong tục, tập quán dường như đã thấm
sâu trong tâm trí của mỗi người. Không chỉ có phong tục, tập quán mà văn
chương cũng có những ảnh hưởng khá sâu đậm đối với chúng ta, đặc biệt là
các nhà tư tưởng lớn, nhà thơ và thơ ca của họ đã trở thành nguồn đề tài để
các nhà thơ Việt Nam khai thác và khám phá. Do vậy, tìm hiểu con người và
thơ ca Khuất Nguyên trong sự so sánh đối chiếu với các nhà thơ Việt Nam
cũng giúp cho ta có dịp hiểu rõ hơn, sâu hơn tấm lòng của các nhà thơ Việt
Nam dành cho bậc vĩ nhân.
Theo sự quan sát của chúng tôi, hiện nay ở Việt Nam, việc nghiên cứu
thơ ca Khuất Nguyên nói riêng, cũng như việc nghiên cứu sự ảnh hưởng của
Khuất Nguyên đối với các nhà thơ Việt Nam nói chung cũng còn hạn chế.
Với tấm lòng kính trọng và yêu mến một người có nhân cách lớn và với
những lý do đã nêu ở trên, chúng tôi quyết định nghiên cứu đề tài “Khuất
Nguyên - con người và thơ ca trong văn học Trung Đại Việt Nam” một
phần để bài tỏ tình cảm và quan trọng hơn là góp một phần công sức nhỏ bé
của mình vào việc bổ sung cho nền nghiên cứu văn học nước nhà thêm những
công trình mới.
2. Lịch sử vấn đề
Thơ Khuất Nguyên ra đời cách chúng ta hơn hai nghìn năm, đó là một
quãng thời gian khá dài để có thể thay đổi mọi thứ trong cuộc đời. Thế nhưng,
những gì còn đọng lại cho thế hệ hôm nay từ thơ ca cũng như nhân cách của
Khuất Nguyên thì vẫn còn nguyên vẹn.
Trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử thơ ca nói riêng cũng như lịch
sử văn học Trung Quốc nói chung không thể không nhắc đến “hai đỉnh cao
xuất hiện sớm nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc” là Kinh thi và Sở từ.
Và ngôi sao sáng của thời đại này không ai xa lạ chính là Khuất Nguyên. Sau
này khi thơ ca của Trung Quốc thực sự phát triển lên đến đỉnh cao của nhân
loại thì trên thi đàn văn học của xứ sở thơ ca này không chỉ có một hay vài
ngôi sao sáng nữa mà xuất hiện rất nhiều ngôi sao sáng khác. Tài năng và tên
tuổi của họ mãi được lưu danh hậu thế. Mặc dù Khuất Nguyên không được
chúng ta nhắc nhiều như Đào Tiềm, Đỗ Phủ, Lý Bạch…có thể do thời đại của
ông đã cách quá xa chúng ta, hoặc tư tưỏng thời ấy còn quá sơ khai, thế
nhưng những gì chúng ta biết được về con người tài giỏi cả về chính trị lẫn
thơ ca vẫn đáng để chúng ta khám phá và học hỏi. Có thể nói, nghiên cứu thơ
ca cũng như những nét cao đẹp về phẩm chất và nhân cách của Khuất Nguyên
được khá nhiều nhà nghiên cứu bàn đến, tuy chưa đầy đủ và hệ thống nhưng
dù sao cũng giúp người đọc hình dung được về con người tài giỏi này. Dù
chưa có nhiều bài viết theo dạng khảo luận, chuyên đề…nhưng cuộc đời và
thơ ca của Khuất Nguyên cũng được đề cập ở các bài viết dưói dạng tìm hiểu
hoặc điểm qua một vài nhận xét chung về địa vị và ảnh hưởng trên văn đàn
văn học sử của Trung Quốc nói chung và nền văn học cổ điển của Việt Nam
nói riêng. Qua đó, người viết có những cơ sở ban đầu trong việc đánh giá,
nhận xét về vị trí của Khuất Nguyên trong lòng độc giả Việt Nam.
Ở Trung Quốc, Khuất Nguyên được các nhà nghiên cứu viết khá kỹ về
những ảnh hưởng của ông trên thi đàn văn học. Trong cuốn “Lịch sử văn học
Trung Quốc”, Dư Quan Anh, Tiềm Chung Thư, Phạm Ninh dành hơn hai
trang giấy để nói về địa vị và ảnh hưởng của ông trong lịch sử văn học.
Những tác giả này đánh giá rất cao Khuất Nguyên, họ cho rằng: “tư tưởng yêu
nước của Khuất Nguyên, lòng kiên trì lý tưởng trong sự nghiệp đấu tranh
chính trị và tinh thần hi sinh thà chết chứ không chịu khuất phục của ông đã
gây được một ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với các nhà văn đời sau” [55; tr.
119]. Bởi lẽ, họ tìm thấy ở Khuất Nguyên tư tưởng lớn, nhân cách lớn và xem
Khuất Nguyên như người bạn tri kỷ với những mối đồng cảm sâu xa. Đó là
Giả Nghị, là Tư Mã Thiên. Dường như tinh thần vĩ đại của Khuất Nguyên đã
truyền cho họ một sức mạnh lớn lao dám đứng lên đấu tranh chính trị, vạch
trần và phê phán nền chính trị đen tối hoặc có khi quên thân mình hi sinh vì lý
tưởng tốt đẹp. Không chỉ ảnh hưởng về nội dung mà phương pháp biểu hiện
nghệ thuật của ông cũng có ảnh hưởng rất lớn. Để chứng minh cho ý kiến trên
các tác giả đã dẫn một đoạn trích ở thiên Biện tao trong “Văn tâm điêu long”
của Lưu Hiệp.
“Khi ông diễn tả nỗi oan ức của mình thì làm cho độc giả vô cùng xúc
động, khi ông phô bày nỗi đau khổ biệt li thì làm cho người đọc cùng xót
thưong sâu sắc, khi nói đến núi sông thì chỉ nghe âm thanh mà tưởng tượng
thấy cảnh núi cao, sông sâu, khi nói đến bốn mùa thì xem văn như thấy thời
tiết đổi thay. Về sau, Mai Thặng, Giả Nghị (những nhà từ phú có tiếng đời
Hán) phỏng theo phong cách đó, cho nên tác phẩm mới hay. Tư Mã Tương
Như, Dương Hùng (cũng là những nhà từ phú nổi tiếng đời Hán) theo cái tinh
thần của ông nên văn chương mới kì diệu. Chiếc áo lông của ông bao trùm
lên các nhà làm từ không phải chỉ có một thời đại. Những nhà văn hậu thế có
tài đều hấp thu tư tưởng trong tác phẩm của ông, còn những nhà văn tầm
thường cũng nhặt nhạnh được lời văn đẹp đẽ.” [55, tr. 120]
Tương tự, trong cuốn “Văn học sử Trung Quốc”, một nhóm tác giả khác
như Chương Bồi Hoàn, Lạc Ngọc Minh cũng đưa những ý kiến của mình khi
xét về địa vị ảnh hưỏng của Khuất Nguyên. Qua đó, các tác giả cũng đã khái
quát được phần nào tầm quan trọng của Khuất Nguyên trên thi đàn văn học.
Nói như các nhà nghiên cứu : nếu xét về địa vị của Khuất Nguyên trong xã
hội thời bấy giờ ông là một nhà chính trị chứ không phải là một “thi nhân”
theo ý nghĩa thông thường. Nhưng những tác phẩm ông để lại cho đời đã
được mọi người đánh giá rất cao và ông thực sự là “một thi nhân vĩ đại trong
lịch sử văn học Trung Quốc”. Khuất Nguyên là một người có nhân cách cao
thượng, luôn hết lòng vì nước, vì dân. Với tư tưởng ấy mà mãi cho đến ngày
nay ông vẫn được đánh giá rất cao với tư cách là một người yêu nước kiên
định, trung thành với lý tưởng nhân sinh. Vì theo đuổi lý tưởng mà ông sẵn
sàng đối kháng với tập đoàn thống trị cho nên ông thà chết chứ không chịu
khuất phục. “Ông là một người tuẫn nạn cho lý tưởng, cho nên người hậu thế
nhận được từ ông một sự xúc động và kêu gọi cực kỳ to lớn. Phương thức lập
thân xử thế của ông cũng được những văn nhân đời sau xem là một tấm
gương để bắt chước” [24; tr. 223]
Ở đây, các tác giả cũng xét về sự ảnh hưởng ở mặt nghệ thuật. Với lời
văn phóng túng, tác phẩm của Khuất Nguyên đã phơi bày được một tình cảm
mạnh mẽ, mở ra một phong cách thi ca giàu sinh khí, có tính truyền cảm lớn.
Cũng bởi thế mà “những thi nhân đời sau có cá tính và xúc cảm mạnh mẽ như
Lý Bạch, Lý Hạ v.v…đều nhận được sự gợi mở ở Khuất Nguyên” [24; tr. 224].
Để đúc kết cho điều này, các tác giả cũng viết “đại để có thể, những hệ phái
chú trọng sự hoa mỹ và văn vẻ trong văn học cổ của nước Trung Quốc, truy
cho cùng đều bắt nguồn từ Khuất Nguyên” [24; tr224]
Còn ở Việt Nam, giới nghiên cứu cũng dành cho ông những tình cảm
chân thành, sâu sắc. Dù chưa nhiều nhưng chúng ta có thể tìm hiểu qua những
bài viết ấy để thấy rõ hơn sự ảnh hưởng của Khuất Nguyên đối với nền văn
học cổ Việt Nam. Nhưng trước khi tìm hiểu những bài viết của các tác giả
Việt Nam, chúng ta có thể khảo sát qua một bài viết “Văn học Việt Nam từ
thời trung cổ đến hiện đại, thế kỉ X->XIX” của nhà Việt Nam học người Nga
N.I Niculin, do nhà xuất bản khoa học ban biên tập văn học Phương Đông
xuất bản năm 1977 của nhóm tác giả trường ĐHSP-TPHCM, phòng khoa học
công nghệ và sau đại học biên soạn, dịch. Ở đây, Niculin có nhắc đến khía
cạnh của việc “làm sáng tỏ ít nhiều sự phức tạp của quá trình cảm thụ nền
văn hoá Trung Quốc ở Việt Nam thời đó” [74; tr. 28]. Trong bài viết này, tác
giả có đề cập đến di cảo văn học Việt Nam sớm nhất mà khoa học biết được,
có thể xem đó là một bài thơ do Ngô Chân Lưu viết cách đây gần một ngàn
năm, vào thời của vua Lê Hoàn (Lê Đại Hành). Trong tình thế nước nhà bị
bọn xâm lăng ở phương Bắc uy hiếp, theo lệnh của Lê Hoàn, Ngô Chân Lưu
đã viết một bài thơ để trình sứ thần nhà Tống. Và hình thức thơ được nhà thơ
chọn là “từ khúc” ra đời ở nước Sở phía Nam của Trung Quốc để viết lên
những vần thơ khảng khái mà dường như “có một cái gì đó thân thuộc với
những hình ảnh to lớn, bao la của Khuất Nguyên văng vẳng trong những
dòng thơ của Ngô Chân Lưu”. [74, tr. 28]
Tuy không trực tiếp nói đến sự ảnh hưởng và ảnh hưởng như thế nào
nhưng thấp thoáng đâu đó trong từng lời văn là sự tiếp thu và sự tác động của
những tinh hoa văn hoá Trung Quốc đến chúng ta từ thời xa xưa.
Có lẽ, Dương Quảng Hàm - tác giả cuốn “Văn học Việt Nam sử yếu”
[23] đã dành trọn thiên thứ nhất để viết về “ảnh hưởng của văn chương Tàu”
từ “tính cách phổ thông của văn chương Tàu và văn chương Việt Nam” đến
“các văn sĩ và thi sĩ Tàu có ảnh hưởng lớn nhất đến văn chương Việt Nam”.
Một số văn sĩ, thi sĩ được Dương Quảng Hàm nhắc đến trong đó có Khuất
Nguyên. Bởi lẽ, những gì mà Khuất Nguyên để lại thật đáng để chúng ta phải
suy ngẫm. Từ cuộc đời đến tư tưởng, tính tình được tác giả viết rất ngắn
nhưng nổi bật lên trên hết là một số phận chìm nổi, có tài nhưng không được
trọng, có đức mà không được dùng; phẫn uất, bất đắc chí, chán chường khi
nhìn Tổ Quốc bị xâm chiếm, cuối cùng ông đành chọn cái chết để giữ tròn khí
tiết. Chính vì “ông là người tư tưởng cao thượng, tính tình thanh khiết, trí
tưởng tượng phong phú, yêu cảnh vật đẹp đẽ của tạo hoá, nhưng cũng thiết
tha đến nỗi đau khổ của người đời” [23; tr. 199] mà ông luôn được các thi
nhân, không chỉ của Trung Quốc mà cả Việt Nam, xem là người bạn tri âm,
tri kỷ của mình.
Sau này, một số bài viết cũng tiếp tục đề cập đến những ảnh hưởng to
lớn của Khuất Nguyên đến các thi nhân Việt Nam. Thực sự, những bài viết
này cũng chỉ là những nét chấm phá chứ chưa đầy đủ, chi tiết. Một số bài
cũng chỉ điểm qua chẳng hạn trong “Thơ văn cổ Trung Hoa, mảnh đất quen
mà lạ” [51], Nguyễn Khắc Phi đã kết lại phần Khuất Nguyên - Li tao bằng
một đoạn văn ngắn, trong đó ông có nói “ảnh hưởng của Khuất Nguyên đối
với đời sau không phải chỉ bằng thơ, mà còn bằng cả nhân cách đạo lý làm
người” [51; tr. 64]. Và điều này được tác giả nói rõ hơn trong cuốn “Văn học
Trung Quốc, tập 1” [50], được viết chung với Trương Chính. Ở đây, người
viết đã kể tên những thi nhân Việt Nam ảnh hưởng từ thơ ca và con người
Khuất Nguyên đó là “Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá
Quát, mỗi người một hoàn cảnh nhưng người nào cũng có nỗi oan ức cần
phải bộc bạch đều có thơ vịnh Khuất Nguyên. Nhiều nhất là Nguyễn Du. Khi
đi sứ Trung Quốc, qua vùng Giang Nam, ông đã làm cả thảy bảy bài thơ về
Khuất Nguyên. Cảm hứng dồi dào như thế là vì ông cũng gặp cảnh ngộ tương
tự như Khuất Nguyên, bị bọn nịnh thần chèn ép” [50; tr. 65]
Trong cuốn “Đại cương văn hoá Phương Đông” [63], GS Lương Duy
Thứ cùng một số nhà nghiên cứu khác cũng dành những tình cảm ưu ái của
mình khi viết về nhân cách lỗi lạc của văn hoá Trung Hoa, trong đó có nhà
thơ Khuất Nguyên. Ở đây, các tác giả có nhắc đến Nguyễn Trãi - nhà thơ, nhà
chính trị lỗi lạc của Việt Nam, với cách nhìn nhận có sự giống nhau “Cửu
chương gồm chín bài trữ tình nội tâm, trong đó đáng chú ý hơn cả là bài
“Quất tụng” (ca ngợi cây quýt Phương Nam). Nhà thơ đã ngợi ca phẩm chất
ngay thẳng kiên trinh bốn mùa tươi tốt của cây quýt. Ông nói đến chùm rễ
cắm sâu vào đất Phương Nam khiến ta nghĩ đến cây tùng lá xanh suốt mùa
đông giá rét vì “cội rễ bền, dời chẳng động” trong thơ Nguyễn Trãi” [63; tr.
97,98]
Bên cạnh những nhà nghiên cứu tìm hiểu về Khuất Nguyên như chúng
tôi đã nêu ở trên thì GS Trần Xuân Đề là người đã đặt vấn đề nghiên cứu
Khuất Nguyên trong mối tương quan so sánh với các nhà thơ Việt Nam dưới
góc độ ảnh hưởng về mặt nhân cách cao đẹp, đó là: tư tưởng yêu nước, lòng
kiên trì lý tưởng trong đấu tranh chính trị, tinh thần hi sinh thà chết chứ không
chịu khuất phục của Khuất Nguyên cũng như việc sử dụng hình thức nghệ
thuật dân ca, sáng tạo một thể tài mới - thể tao - cũng gây được tiếng vang lớn
và ảnh hưởng sâu sắc đến đời sau.
“Khuất Nguyên - nhà thơ yêu nước” [14] được GS Trần Xuân Đề viết
cách đây 35 năm nhưng cũng gợi cho chúng tôi những suy nghĩ và những
định hướng để tiếp tục những gì mà người viết gợi ra. Nhắc đến Khuất
Nguyên hay làm thơ vịnh Khuất Nguyên, thực ra các nhà thơ Việt Nam muốn
bày tỏ “…tấm lòng của mình về cuộc đời đầy bất hạnh của Khuất Nguyên, hết
lời ca ngợi tiết tháo và tài năng văn chương lỗi lạc của ông, và cũng là những
lời “lòng tự bảo lòng” gửi gắm bao niềm tâm sự riêng tây như Nguyễn Du,
Cao Bá Quát, Nguyễn Đình Chiểu,…” [14; tr. 165], bởi lẽ họ tìm thấy ở
Khuất Nguyên mối đồng cảm sâu xa. Tiết tháo, tài năng của Khuất Nguyên
mãi toả những ánh hào quang, soi sáng mọi nẻo đường để chúng ta tiếp bước.
3. Phạm vi nghiên cứu
Văn học Trung Đại Việt Nam được tính từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX.
Đây là giai đoạn văn học kéo dài nhất trong nền văn học nước nhà. Cho nên
để nghiên cứu đề tài “Khuất Nguyên - con người và thơ ca trong văn học
Trung Đại Việt Nam” người viết cũng chỉ chọn lọc trong giai đoạn này những
tác giả có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến Khuất Nguyên, có thể là bi
kịch số phận, nội dung sáng tác hay phương thức nghệ thuật. Tài liệu được
người viết tham khảo là toàn bộ phần văn học Trung Đại Việt Nam
Có thể nói đây là một đề tài tương đối rộng, không thể bao quát hết cả
giai đoạn văn học thời kì Trung đại với một khối lượng tác giả, tác phẩm đồ
sộ như vậy. Cho nên, người viết chỉ khảo sát khoảng mười lăm tác giả có
nhắc đến nhà thơ yêu nước vĩ đại - Khuất Nguyên. Đó là những tác giả: Mạc
Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Nguyễn Ức, Trần Nguyên Đán, Vũ Thế
Trung, Phạm Nhữ Dực, Nguyễn Phi Khanh, Lê Thánh Tông, Phạm Quý
Thích, Ngô Nhân Tĩnh, Phan Huy Chú, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát,
Miên Thẩm…Tuy nhiên, theo chiều dài lịch sử văn học chắc chắn không thể
bỏ qua những nhà thơ lớn của Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc và bày tỏ
tình cảm tri âm của mình. Để bài viết có hướng nghiên cứu sâu hơn người viết
tiếp tục chia nhỏ và chọn hai tác gia tiêu biểu là Nguyễn Trãi, Nguyễn Du để
tìm hiểu thái độ ứng xử hay quan điểm chính trị, phần nào hiểu sâu hơn về
tấm lòng và nhân cách của họ dành cho bậc vĩ nhân này. Với đề tài này,
chúng tôi muốn tìm cho mình một con đường mới để đi dù chưa thực bằng
phẳng và còn nhiều chông gai, hi vọng bên trong con đường ấy sẽ có nhiều
điều mới lạ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Mỗi nhà nghiên cứu khi muốn nghiên cứu một vấn đề gì không thể bỏ
qua phương pháp. Nó dẫn đường chỉ lối để chúng ta đi đúng hướng và khai
thác mọi vấn đề mà đề tài muốn nói đến. Do đó, trong quá trình thực hiện đề
tài người viết đã lựa chọn và sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp phân loại, thống kê: Chọn phương pháp này là cách để
chúng tôi dễ dàng phân loại, chọn ra những nhà thơ chịu ảnh hưởng trực tiếp
hay gián tiếp đến Khuất Nguyên.
Phương pháp lịch sử, xã hội: Đây cũng là một phương pháp rất cần thiết.
Bởi lẽ, mỗi thời đại đi qua đều để lại những dấu ấn khó phai, mà mỗi tác giả,
tác phẩm đều có mối quan hệ gắn bó với hoàn cảnh xã hội thời đó. Hơn nữa
việc tiếp nhận của người đọc ở mỗi thời đại cũng không hoàn toàn giống
nhau. Do đó, hiểu rõ từng thời kì lịch sử sẽ giúp cho chúng ta có cái nhìn toàn
diện, hệ thống về con người và thời đại của tác giả được nghiên cứu từ đó đưa
ra những nhận xét đánh giá công bằng.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Để các luận điểm được triển khai đầy
đủ và giúp người đọc hiểu rõ hơn, kĩ hơn thì phương pháp này sẽ hổ trợ đắc
lực cho người viết.
Phương pháp so sánh văn học: Mọi sự so sánh đều khập khiễng. Thế
nhưng đây là phương pháp chính được người viết sử dụng trong quá trình
thực hiện luận văn. Bởi nó giúp người viết đặt các vấn đề hay các mối quan
hệ trong sự tương quan lẫn nhau.
5. Đóng góp của luận văn
Mở một con đường mới để đi và tìm xem trên con đường ấy có gì mới
mẻ quả là gian nan. Có đi chúng ta mới thấy và thấu hiểu nỗi nhọc nhằn, vất
vả của những người mở đường. Dù vậy, chúng tôi muốn làm một người mở
đường để được khám phá những cái hay cái đẹp trong mỗi tác phẩm và học
hỏi thêm nhiều điều bổ ích. Cho nên trong quá trình thực hiện luận văn con
đường đi ấy dù đầy chông gai nhưng không kém phần thú vị. Nhưng dù sao
người viết cũng học hỏi được nhiều điều và mong muốn chia sẻ những điều
mình biết đến mọi người.
Nghiên cứu một nhà thơ xuất hiện đầu tiên trong nền văn học Trung
Quốc cổ đại - Khuất Nguyên, người viết cũng thật lo lắng vì tài liệu ít. Không
những thế đề tài nghiên cứu lại quá rộng, đem nhà thơ của một nước rút ra
những ảnh hưởng và tác động của nhà thơ đó đến các nhà thơ Việt Nam giai
đoạn Trung Đại. Thế nhưng, qua đề tài này phần nào cũng giúp cho bạn đọc
có cái nhìn đầy đủ con người và thơ ca của Khuất Nguyên cũng như những
ảnh hưởng của Khuất Nguyên đối với các nhà thơ Việt Nam.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài hai phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn được sắp xếp
thành ba chương:
Chương 1. Tấn bi kịch của một đời người
1.1 Từ hưng thịnh đến suy vong - bước ngoặc của nước Sở thời
Khuất Nguyên.
1.2 Thời đại “Trăm nhà đua tiếng”
1.3 Khuất Nguyên - nhà thơ đầu tiên của nền văn học Trung Quốc.
1.3.1. Con người
1.3.2. Sở từ và các tác phẩm của Khuất Nguyên.
Chương 2. Hình ảnh và thơ ca của Khuất Nguyên trong văn học Trung
đại Việt Nam
2.1 Khuất Nguyên trong cái nhìn của các nhà thơ Trung đại Việt
Nam.
2.1.1 Lòng yêu nước sâu sắc.
2.1.2 Đấu tranh cho lý tưởng tốt đẹp.
2.1.3 Ý thức giữ gìn phẩm chất đạo đức.
2.2 Thơ ca của Khuất Nguyên trong văn học Trung Đại Việt Nam.
2.1.1 Hình ảnh.
2.2.2 Điển cố.
2.2.3 Ý thơ.
Chương 3. Khuất Nguyên trong thơ ca của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du.
3.1 Hình ảnh và thơ ca của Khuất Nguyên trong thơ Nguyễn Trãi.
3.1.1 Bước thăng trầm của cuộc đời Nguyễn Trãi.
3.1.2 Quan điểm xử thế của Khuất Nguyên và Nguyễn Trãi.
3.2 Hình ảnh và thơ ca của Khuất Nguyên trong thơ ca Nguyễn Du.
3.2.1 Cuộc đời của con người “tài hoa bạc mệnh”.
3.2.2 Thái độ ứng xử của Khuất Nguyên và Nguyễn Du.
Chương 1: TẤN BI KỊCH CỦA MỘT ĐỜI NGƯỜI
1.1. Từ hưng thịnh đến suy vong - bước ngoặc của nước Sở thời
Khuất Nguyên
Trước khi Tần thống nhất Trung Quốc, Sở cũng là nước hùng mạnh
trong thất hùng thời Chiến Quốc. Vốn là một bộ tộc lâu đời ở vùng Đan
Dương (nay là miền Tây tỉnh Hồ Bắc) khi Chu Thành Vương phong cho
Hùng Dịch ở đất Sở thì vương triều nhà Chu phần nào thừa nhận trên thực tế
người Sở đã khống chế cả vùng Trường Giang và Hán Thuỷ. Nói như vậy,
nhưng không phải tự nhiên Sở lại được nhà Chu nể trọng một cách vô cớ,
chúng ta có thể lật lại những trang sử hào hùng của Sở.
Vào thế kỷ XIV trước công nguyên, đời Ân, Sở đã giữ vai trò quan trọng
trên vũ đài lịch sử. Nhà Ân đã bao lần phái binh chinh phục Sở nhưng đều
thất bại trước tinh thần quật cường của Sở. Từ đó, lưu vực Trường Giang và
Hán Thuỷ là nơi định cư của Sở.
Đến thế kỷ XI trước công nguyên, Sở liên minh với các bộ tộc ở lưu vực
Hoàng Hà chống lại thiên triều nhà Chu hòng chiếm địa vị độc tôn. Có lẽ,
chính thái độ đó mà sau này Sở Trang Vương từng có ý “dòm ngó chín cái
đỉnh của nhà Chu”. Nhà Chu bao lần đem quân chống trả, nhưng đều bị Sở
nổi lên đánh bại, chỉ đến khi Chu Công đông chinh mới dẹp yên.
Từ đó, nước Sở dần mở rộng, vua nước Sở là Hùng Cừ chia đất đai cho
con cháu trước sau vẫn giữ thái độ xem thường nhà Chu.Vào khoảng giữa thế
kỉ VIII trước công nguyên, Hùng Thông dựa vào thế lực ngày càng lớn mạnh
của mình yêu cầu nhà Chu phong vương nhưng không được chấp nhận. Hùng
Thông tự xưng Sở Vũ Vương, con trai là Văn Vương dời đô đến Sính (thuộc
huyện Giang Lăng tỉnh Hồ Bắc ngày nay) xây dựng nước. Những nước nhỏ ở
lưu vực sông Hoài dần dần bị Sở thôn tính. Từ đó, Sở trở thành một nước lớn
ở phía Nam với đất đai rộng nhất, nhân khẩu đông nhất.
Thế nhưng, bờ cõi nước Sở đâu chỉ dừng lại ở đó, cuối thế kỷ thứ VII
đến đầu thế kỷ VI trước công nguyên, Sở Trang Vương tiếp tục thôn tính
thêm nhiều nước nữa, mở rộng lãnh thổ trên ba ngàn dặm. Có thể nói, lúc này
ở phương Nam ngôi bá chủ của vùng Trung Nguyên thực sự thuộc về Sở.
Không những dân số phát triển, bờ cõi mở rộng, Sở còn có một nền kinh
tế hết sức phồn vinh. Sở dĩ, có được như vậy là do điều kiện kinh tế ở phía
Nam có nhiều tính ưu việt hơn phía Bắc. Bên cạnh nguồn thực phẩm dồi dào
thì ngành công nghiệp của Sở cũng đặc biệt được chú trọng. Theo sử sách ghi
lại thì Sở là một trong những nước sử dụng đồ sắt sớm nhất. Không chỉ có sắt
mà cuối thời Xuân Thu, Sở còn mở mang công nghiệp luyện thép với quy mô
lớn. Có thể nói, nguyên liệu công nghiệp, nông nghiệp của Sở khá dồi dào.
Nước Sở nằm ở phương Nam, do có sự cách biệt về địa lý nên nền văn
hoá Sở cũng có những nét khá riêng. Trong quá trình phát triển, văn hoá Sở
không ngừng có sự giao lưu và tiếp thu những tinh hoa của nền văn hoá Trung
Nguyên. Nét nổi bật nhất của nền văn hoá Sở là tục lên đồng (vu thuật).
Người lên đồng hay còn gọi là vu nhân có nhiệm vụ nối kết giữa người và
thần hay giữa thần và người. Khi tế lễ những vu nhân này thường đứng trên
đài cao ca hát, nhảy múa để tiếp đón, tiễn đưa thần, cầu thần phù hộ, trừ họa
giáng phúc cho con người. Những bài ca tế lễ này chính là những bài “cửu
ca” đầu tiên của nước Sở để rồi sau này được Khuất Nguyên dựa vào đấy mà
chỉnh lý, tu sửa thành những bài thơ ưu tú chiếm địa vị quan trọng trong Sở
từ. Dân ca Sở phát triển trên cơ sở đó.
Nơi đây còn được thiên nhiên ban tặng cho nhiều phong cảnh đẹp như
núi Côn Lôn, hồ Động Đình, đầm Vân Mộng. Một nhà thơ Trung Quốc đã
từng nhận xét về miền đất này như sau: “khí hậu ấm áp, cây cỏ xanh tươi,
phong cảnh tốt đẹp, sản vật phong phú. Núi lởm chởm, hết ngọn này đến ngọn
khác, mây trắng phủ quanh năm, sông rạch quanh năm uốn khúc, như luyến
tiếc cành xanh hoa thắm mà không nỡ rời” [30; tr. 23,24]. Lịch sử cũng để lại
nơi đây nhiều di tích thần kỳ. Đó chính là nguồn đề tài vô tận của bao nhà thơ,
nhà văn mỗi khi đi ngang qua vùng đất này.
Nước Sở dù đất rộng, người đông, được thiên nhiên ưu đãi nhưng nếu
không có những cải cách chính trị , không tiến cử người tài thì có lẽ cũng bị
tiêu diệt từ lâu. Chính vì vậy, khi Sở Điếu Vương lên ngôi đã dùng Ngô Khởi
- học trò của Tăng Tử, một nhà quân sự có tài, theo học phái nho gia. Nhờ
thực hiện những cải cách của Ngô Khởi mà Sở ngày càng hùng mạnh.
Có thể nói, mục tiêu đấu tranh cuối cùng của các nước thời bấy giờ là
thống nhất Trung Quốc. Tần, Tề, Sở là những nước có khả năng đảm nhận
nhiệm vụ đó vì họ khá mạnh, đất đai rộng mà tài nguyên lại nhiều.
Diện tích của Sở gần bằng lãnh thổ của sáu nước Tần, Hàn, Triệu, Nguỵ,
Yên, Tề cộng lại. Sở lại có đội kị binh hùng mạnh không nước nào sánh kịp.
lại nhờ biết thực hiện những cải cách chính trị đúng đắn của Ngô Khởi nên Sở
có đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ thống nhất Trung Quốc. Nhưng đáng
tiếc thay, Sở đã để cơ hội hiếm có vuột khỏi tay mình. Đáng lẽ, Sở phải liên
Tề chống Tần, ủng hộ chính sách hợp tung phản đối chính sách liên hoành,
nhưng vua Sở lại cả tin vào những lời dụ dỗ của bọn thuyết khách (Trương
Nghi), phá vỡ kế hợp tung. Bao lần Sở phải lao đao chống cự với các nước
Tần, Hàn, Ngụy….
Khuất nguyên - một vị quan thanh liêm hết lòng vì nước vì dân cũng bao
phen lận đận. Mọi chủ trương của ông đều bị bọn quan lại ghen ghét, gièm
pha. Đứng trước tình hình Sở ngày một yếu, Tần ngày một mạnh, mấy lần bị
Tần lừa, Sở bị hại người, mất của nhưng vua Sở vẫn không tỉnh ngộ để rồi Sở
Hoài Vương phải ném thây bên xứ người. Sở Tương Vương lên ngôi nhưng
tình hình đất nước vẫn không biến chuyển, trước sau vẫn giữ thái độ khuất
thân hàng Tần, nghe lời súc xiểm của kẻ xấu mà hại các trọng thần. Nền chính
trị ngày một rối ren. Cảnh đất nước bị diệt vong hiện ra trước mắt. Và điều
không ai mong muốn ấy đã đến, mùa xuân năm 278 trước công nguyên tướng
Tần là Bạch Khởi đem quân đánh chiếm Sính đô, đốt phá lăng tẩm của Sở.
Năm mươi lăm năm sau (223 tr..CN), nước Sở bị Tần tiêu diệt, kết thúc
thời kì xưng hùng xưng bá ở phương Nam.
1.2. Thời đại “Trăm nhà đua tiếng”
Cuộc đời hoạt động của Khuất Nguyên nằm trọn trong thời Chiến Quốc
( 403 - 221 trước CN). Có thể nói, thời kì này Trung Quốc như ánh hào quang
với biết bao ngôi sao lạ chiếu sáng cả bầu trời. Theo GS Trần Xuân Đề thì đó
là “thời kì của những biến động lớn của xã hội Trung Hoa, của phong trào
“trăm nhà đua tiếng”, thời kì nở rộ những bông hoa đẹp của nền văn học cổ
điển Trung Quốc ” [14; tr. 12]. Nguyễn Hiến Lê thì cho rằng “thời Chiến
Quốc là hoàng kim thời đại của triết học, ngôn luận được hoà._.n toàn tự do, tất
cả các thời sau, cho tới thời nay không thời nào bằng, và được gọi là thời
“bách gia tranh minh” (trăm nhà đua tiếng) [30; tr. 104]. Còn Hà Thúc Minh
thì bảo thời kì Xuân Thu - Chiến Quốc là “bình minh của xã hội Trung Quốc”
[40; tr. 9]. Quả vậy, lịch sử văn minh của thời kì vàng son ấy mãi lưu danh
hậu thế và sự ảnh hưởng của nó đối với chúng ta đến ngày hôm nay vẫn còn
sâu đậm.
Hãy trở lại những ngày đầu trước khi xuất hiện “những bông hoa đẹp
của nền văn học cổ điển Trung Quốc” để chúng ta có thể cảm nhận đầy đủ
hơn những bước thăng trầm của thời đại. Trước khi nhà Chu hình thành, lịch
sử Trung Quốc đã trải qua các đời vua gần nhất là Hạ, Thương (Ân). Hình
như thời nào cũng vậy, những năm đầu dựng nước thì vua sáng tôi hiền luôn
chăm lo đời sống nhân dân, xây dựng một đất nước giàu mạnh, nhưng càng về
sau vua quan ăn chơi sa đoạ, chỉ biết hưởng lạc chứ ít ngó ngàn đến nhân dân,
đất nước. Chính vì thế mà triều đại của họ chỉ tồn tại đến mấy trăm năm rồi
suy tàn, đổ nát. Vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà Ân Thương là những ông vua
như vậy. Khi nhà Chu lên nắm chính quyền tình hình cũng chẳng mấy sáng
sủa, trong những năm đầu giai cấp thống trị hô hào tiết kiệm, cấm chỉ giới quí
tộc ăn chơi xa xỉ. Thời gian này các sử gia gọi là thời hưng thịnh của Thành
Vương và Khang Vương. Nhưng vào thời Xuân Thu - Chiến Quốc tình hình
xã hội khác trước rất nhiều. Chế độ chiếm hữu ruộng đất đã thay đổi. Ruộng
đất được phép tự do mua bán đưa đến sự thay đổi về quyền sở hữu ruộng đất
và quan hệ sản xuất. Giai cấp địa chủ xuất hiện và chi phối các mặt chính trị,
kinh tế văn hoá của mỗi nước. Những người nông nô từng bị ràng buộc trên
mảnh đất quê hương, bây giờ trở thành nông dân hoặc dân thành thị tự do. Sự
phản kháng của nô lệ và bình dân chống bọn quí tộc chủ nô lan rộng và gay
gắt. Quyền thống trị thiêng liêng bất khả xâm phạm của thiên triều nhà Chu bị
lung lay, không đủ sức khống chế chư hầu. [14;tr. 15]
Khi nhà Chu còn thịnh thì trật tự được phân minh nhưng khi nhà Chu đã
suy phải dời đô về phía Đông thì mệnh lệnh của thiên tử không ai nghe. Một
khi vai trò của nhà Chu không còn tác dụng thì sự tranh giành quyền bính thế
lực của các chư hầu vì thế mà cũng tăng theo. Nước mạnh thôn tính nước yếu,
nước lớn chiếm nước nhỏ. Cuộc binh đao vì thế mà chẳng lúc nào dứt được.
Tình trạng chia cắt vụn vặt bớt đi. Thời Tây Chu có tám trăm đến một ngàn
chư hầu nhưng bây giờ rút xuống còn một trăm nước. Thời đại này sử Trung
Quốc gọi là thời Xuân Thu.
Trước sự loạn lạc rối ren, đạo đế vương mờ tối, người đời đắm say vào
con đường danh lợi chẳng mấy ai thiết nghĩ đến nhân nghĩa. Nhưng cũng vì
thế cục biến loạn, dân tình khổ sở, người trong nước mới lo tìm cách sửa đổi
để cứu vớt thiên hạ, vậy nên các học thuyết mới ra đời và hưng thịnh. Hai nhà
tư tưởng lớn của thời Xuân Thu là Khổng Tử và Mặc Tử.
Khổng Tử ra đời và lúc chế độ nô lệ tan rã. Nội dung học thuyết chính trị
của Khổng Tử là “Nhân” và “Lễ”. Học thuyết “Nhân”, cốt lõi của tư tưởng
Khổng Tử, chủ yếu đề cập đến quan hệ giữa người và người. Khổng Tử quan
niệm mối quan hệ đó phải dựa trên cở sở của tình thương. Vậy “Nhân” có
nghĩa là thương người, yêu người. Nhân là “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”,
hay “phù nhân giả, kỉ dục lập nhi lập nhân, kỉ dục đạt nhi đạt nhân”.
Thực chất quan điểm chính trị này của Khổng Tử là muốn cải thiện và
duy trì mối quan hệ “quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử” (vua phải giữ đạo
vua, tôi phải giữ đạo tôi, cha phải giữ đạo cha, con phải giữ đạo con). Có như
vậy mới đáp ứng được yêu cầu của xã hội.
Cuộc đời của Khổng Tử cũng lắm gian nan, bôn ba nay đây mai đó gần
mười bốn năm. Lúc ngài trở về quê thì đã 68 tuổi. Thời gian ở quê Ngài dạy
học, san định lại sách vở đời trước, làm sách Xuân Thu để bày tỏ cái đạo của
mình về đường chính trị. Sau khi Khổng Tử mất những người học trò tiếp tục
sự nghiệp của ông. Họ chia thành nhiều phái đi chu du khắp thiên hạ, truyền
bá học thuyết của ông.
Nho, Mặc hai học phái được sản sinh vào cuối thời Xuân Thu, nhưng vì
lập trường giai cấp khác nhau nên quan điểm chính trị cũng khác nhau. Khổng
Tử đại biểu cho lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến đang lớn lên thì Mặc
Tử đại biểu cho lợi ích của dân tự do, lên tiếng bênh vực cho những người sản
xuất nhỏ, thợ thủ công, phản đối sự chuyên chính của giai cấp quí tộc. Ông
quan tâm nhiều đến hạnh phúc của con người nhất là những con người ở dưới
đáy xã hội. Theo ông điều dẫn đến những cảnh áp bức, lừa đảo, cướp bóc
chẳng qua do con người không biết yêu thương nhau mà ra. Do đó mà học
thuyết “Kiêm ái” (mọi người thương yêu nhau, yêu mình như yêu người) của
ông ra đời.
Mặc Tử đề cao tính chủ động trong tình thương. Theo ông tình thương ở
đây phải là thứ tình thương không phân biệt thứ bậc, thân sơ khác với tình
thương mà Khổng Tử chủ trương đề xướng có phân biệt của chế độ đẳng cấp.
Luôn chú ý đến lợi ích cụ thể nên Mặc Tử kêu gọi tiết kiệm, bài xích sự
lãng phí phô trương lòe loẹt về Lễ nhạc, phê phán thuyết thiên mệnh của đạo
Nho. Theo ông mỗi người phải tự mình nổ lực lao động chứ không khoanh
tay ngồi chờ, “người nào dựa vào sức mình thì sống, người nào không dựa
vào sức mình thì không sống – Phi nhạc” [40; tr. 33 ].
Xuất phát từ Kiêm ái nên Mặc Tử kịch liệt phản đối chiến tranh (phi
công ) nhưng ông không phản đối các cuộc chiến tranh chính nghĩa để bảo vệ
nền độc lập của nước nhà.
Mặc Tử cũng còn có một học thuyết nữa cũng đáng quan tâm mà chúng
ta ngày nay cần học hỏi. Đó là thuyết “thượng hiền” có nghĩa là cử người tài
giỏi ra giúp nước. Ông phê phán chế độ cha truyền con nối vì theo ông làm gì
trong xã hội có loại người suốt đời làm quan, còn lại là loại người suốt đời chỉ
biết cúi đầu làm dân đen. Quả vậy, những người thực sự tài giỏi hãy để họ
đứng ra giúp nước, giúp đời, đừng gièm pha vùi dập họ và chỉ có lao động
chân chính mới con người đứng vững trong cuộc đời.
Hai học thuyết Khổng Mặc dù có phần trái ngược nhau nhưng nó đã trở
thành Hiển học của thời Chiến Quốc, người ta quen gọi là Hiển học Khổng
Mặc hay như Hàn Phi Tử cũng đã nói: “ Hiển học đời này là Nho và Mặc”
Thời Xuân Thu xã hội có nhiều thay đổi nhưng những biến đổi lớn lao và
gay gắt thực sự lại bùng phát vào thời Chiến Quốc. Nếu như thời Xuân Thu
những vị bá vẫn còn mượn danh thiên tử nhà Chu để tập hợp chư hầu hoặc sai
khiến các nước khác thì đến thời Chiến Quốc các ông vua đều xưng vương,
nhất là ở những nước mạnh. Họ chẳng thèm mượn danh nghĩa nhà Chu mà
hình như họ cũng quên hẳn nhà Chu. Chiến tranh trong thời ấy càng kịch liệt
hơn trước và sự loạn ly cũng đã lên đến đỉnh điểm.
Thời thế mỗi lúc một cấp bách, các vua chư hầu muốn tồn tại thì phải
dùng người tài giỏi về chính trị, ngoại giao, kinh tế…. Vì vậy họ ra sức chiêu
hiền đãi sĩ, như nhận xét của một nhà nghiên cứu “tiếng kêu bất tuyệt trong
thời Chiến Quốc là phải biết dùng nguời” [5; tr. 33]. Không phải ngẫu nhiên
mà trong thời này kẻ sĩ xuất hiện khá nhiều. Họ xuất thân trong nhiều hoàn
cảnh khác nhau có thể trong gia đình đại quý tộc sa sút, có thể là tầng lớp bình
dân nhưng nhìn chung họ là những người thông minh, có tri thức văn hoá, có
kinh nghiệm đấu tranh chính trị và đặc biệt là có tài thuyết khách. Họ đi du
thuyết hết nước này đến nước khác. Để được vua trọng dụng họ phải xoay
quanh những vấn đề thiết thực trước mắt như phát biểu những kiến giải chính
trị của mình, làm thế nào để xây dựng chế độ chính trị và luật pháp phù hợp
với yêu mới của xã hội, tìm cách thống nhất Trung Quốc, chấm dứt tình trạng
cát cứ, tổng kết kinh nghiệm sản xuất. Họ còn hăng hái viết sách, phát biểu
chính kiến, tuyên truyền quan điểm và chủ trương những đường lối chính trị
của mình. Chiến Quốc là thời chia năm xẻ bảy, nhà văn ít bị ràng buộc bởi
những tư tưởng và hình thức nghệ thuật truyền thống, nên họ mạnh dạn biện
bác, bài xích, công kích lẫn nhau. Họ tiếp thu những giá trị tinh tuý của dân
ca, truyền thuyết, thần thoại, ngụ ngôn…, khéo vận dụng những điều hay, mới
lạ nên tác phẩm của họ thật muôn màu muôn vẻ, lời văn trau chuốt, lý lẽ sắc
bén. Thật không hổ thẹn là những bậc sĩ nổi tiếng thời bấy giờ.
Chính vì được nói lên suy nghĩ của mình mà các tác phẩm chứa đựng
nhiều mặt tích cực, tiến bộ, có mặt lạc hậu tiêu cực; có mặt duy tâm, có mặt
bao hàm nhân tố duy vật. Về triết học có phái Nho gia với thuyết “nhân
chính”, Mặc gia với thuyết “kiêm ái”, Đạo gia với thuyết “vô vi”, Pháp gia
với thuyết “pháp trị”. Về quân sự có binh pháp của Tôn Tử, Hàn Phi
Tử…Người ta gọi chung các trứ tác của họ là tản văn triết học. Những bộ tản
văn triết học nổi tiếng là Mạnh Tử, Tuân Tử, Lảo Tử, Trang Tử, Hàn Phi
Tử…
Mạnh Tử là người học trò gần gũi nhất của Khổng Tử. Ông kế thừa và
tiếp tục phát huy học thuyết “nhân nghĩa” của Khổng Tử. Cho nên tên tuổi
của ông thường đứng chung với thầy, gọi là học thuyết Khổng Mạnh. Ông
chủ trương thi hành nhân chính để bảo vệ quyền lợi của người dân. Mọi chính
sách sưu cao thuế nặng, hà khắc tàn bạo với dân đều bị ông kịch liệt phản đối.
Theo Mạnh Tử, nhà cầm quyền phải là người biết chăm lo đến đời sống nhân
dân, không được đẩy người dân rơi vào cảnh đói khổ cùng cực. Chính vì thế
mà ông cho rằng “ai thực hiện nhân chính thì người đó sẽ được dân, ai được
dân thì người đó được thiên hạ” [40; tr. 40]. Mạnh Tử cũng đã từng tuyên bố
một câu mà nghìn đời sau chúng ta vẫn còn ghi nhớ “Dân vi quí, Xã tắc thứ
chi, Quân vi kinh”. Dĩ nhiên, khái niệm “dân” của Mạnh Tử không hẳn hoàn
toàn là dân đen, con đỏ như ngày nay chúng ta nghĩ mà “thực chất là những
người tri thức, địa chủ và thương nhân” [14; tr. 21]. Xét về mặt nào đó thì
quan niệm về “dân” của ông cũng bao hàm những nhân tố tích cực của tư
tưởng dân chủ. Thế nhưng, chính Mạnh Tử lại tuyệt đối hoá ranh giới giữa
người lao tâm (lao động trí óc) và người lao lực (lao động chân tay). Ông nói:
“người lao tâm cai trị người khác, còn người lao lực thì bị người khác cai trị.
Người bị trị phải cung phụng cho người khác còn người cai trị thì được người
khác cung phụng. Đó là đạo lý thông thường trong thiên hạ. Đằng Văn Công
Thượng” [40; tr. 44]. Mạnh Tử chỉ ra tính chất của lao động chính là để minh
chứng cho tính hợp lý của chế độ phong kiến.
Cùng xuất hiện với Nho gia và có ảnh hưởng lớn đến tâm thức của mỗi
người dân Trung Quốc đó chính là Đạo gia. Người sáng lập ra Đạo gia là Lão
Tử với hạt nhân tư tưởng là phạm trù “đạo”, với tác phẩm nổi tiếng là Đạo
đức kinh. Ông xem “đạo” là nguồn gốc của giới tự nhiên. Đạo là cái gì đó
“hình thành trong tình trạng hỗn tạp của sự vật” (Đạo đức kinh, chương 25)
[40; tr. 50]. Nhưng chính nó là cơ sở vật chất đầu tiên của thế giới. Đạo luôn
vận hành theo qui luật. Qui luật đó không phải cái gì khác mà chính là lẽ tự
nhiên. Bản thân lẽ tự nhiên là chuẩn mực rồi, con người chỉ cần noi theo lẽ tự
nhiên (Đạo) là đủ, không cần phải làm cái gì khác ngoài tự nhiên nữa [40; tr.
52]. Như vậy, vô hình chung ông dẫn chúng ta đến chỗ không cần đấu tranh
với tự nhiên.
Về mặt chính trị ông đề ra thuyết “vô vi trị” (cai trị bằng thuyết vô vi,
không can thiệp). Có lẽ, vì lý do đó mà ông chủ trương mọi người hãy trở về
với xã hội nguyên thuỷ, sống một đời sống chất phác, không bon chen, không
chiến tranh, thuận theo tự nhiên. Thực ra, tư tưởng đó của Lão Tử cũng có
nhiều hạn chế bởi nó đưa ta trở về với thế giới mông muội mà chối bỏ thế giới
hiện đại.
Người chịu nhiều ảnh hưởng của phái Lão Tử là Trang Tử. Tiếp tục phát
huy tư tưởng của thầy, đi cùng hướng với thầy nhưng xem ra Trang Tử còn đi
về những nẻo đường xa xôi hơn thầy. Có lẽ chính vì thế mà cuộc đời được
ông nhìn qua lăng kính mờ ảo hơn Lão Tử. Trang Tử cho rằng cuộc đời như
bóng câu qua cửa sổ, nhân sinh như giấc mộng mà thôi. Cũng như Lão Tử,
Trang Tử không thừa nhận có đấng thượng đế chi phối tự nhiên, không tin có
thế giới quỷ thần, không cần dùng sức người thay đổi tự nhiên hãy thuận theo
tự nhiên và ông cũng có mong muốn như Lão Tử là con người hãy trở về với
cuộc sống thanh bình, tĩnh tại như thời viễn cổ xa xăm. Ông còn đưa ra học
thuyết bất khả thi cho rằng trên đời này mọi thứ chỉ là tương đối, không có gì
là tiêu chuẩn cả.
Xã hội Trung Quốc vào cuối thời Chiến Quốc đã thực sự biến chuyển,
biết bao học phái ra đời với mong muốn học thuyết của mình được sử dụng.
Thế nhưng, lịch sử đã trao trọng trách ấy cho Tuân Tử - người có nhiệm vụ
tổng kết quá khứ và xây dựng tư tưởng chính trị để khôi phục lại chế độ
phong kiến đương thời. Tuân Tử kì vọng rằng mình sẽ đem lại tài năng để
phục vụ ở Tần vì đó là nước hùng mạnh nhất thời bấy giờ. Vậy mà bao ước
vọng lớn lao ấy ông không thể thực hiện được đành phải ký thác lại cho người
học trò gần gũi nhất của ông là Hàn Phi Tử.
Tuân Tử thấy rằng trị nước mà chỉ dùng đức trị và lễ nghĩa thôi thì chưa
đủ mà phải kết hợp lễ giáo và hình phạt. Ngoài chủ trương kết hợp lễ trị với
pháp trị thì Tuân Tử cũng không khác Khổng Mạnh bao nhiêu khi lấy dân làm
gốc. Trái ngược với Mạnh tử, Tuân tử đưa ra học thuyết “Tính ác”. Ông cho
rằng bản chất của con người là xấu, là ác. Do vậy, ông chủ trương dùng lễ
nghĩa và hình phạt để răn dạy con người. Thế nhưng, điều này chỉ có thể áp
dụng cho bọn vương công quý tộc, vì bọn này được học lễ nên xấu có thể biến
thành tốt. Còn thứ dân thì không thể dùng lễ trị mà dùng pháp trị tức hình
phạt, bởi họ không được học lễ, tính của họ là ác.
Thực ra, những điều Tuân Tử nêu ra cũng chính là để chứng minh cho sự
vĩnh hằng bất biến của chế độ đẳng cấp. Nó chính nền tảng cơ bản để duy trì
trật tự xã hội.
Hàn phi - người học trò xuất sắc nhất của Tuân Tử, tiếp tục phát triển lý
luận mà Tuân Tử từng vạch ra. Cũng như thầy, ông cho rằng bản tính của con
người là ác nên ông chủ trương không dùng lễ nghĩa, đạo đức để cải hóa con
người mà dùng hình phạt để trị nước, an dân. Mặc dù vậy, tư tưởng của Hàn
Phi có phần khác với thầy của mình. Hàn Phi đã tổng hợp tư tưởng của Thân
Bất Hại, Thương Ưởng... phát triển hoàn chỉnh thành một lý luận chính trị của
chủ nghĩa chuyên chế cựa đoan để khống chế con người. Theo ông “Pháp luật
của nhà nước phải trở thành công cụ quan trọng của sự phát triển đời sống
xã hội và cũng cố chủ nghĩa chuyên chế, bất cứ người nào dù là quí tộc cũng
phải tuân theo pháp luật” [14; tr. 23]. Rõ ràng, cách cai trị dân của Hàn Phi
có phần cứng rắn và triệt để hơn thầy. Ông không phân biệt đẳng cấp, ai cũng
phải tuân theo luật pháp và chiếu theo luật pháp mà trị. Chính nhờ thực thi
pháp trị mà vua Tần tôn sùng ông, nhà Tần trở thàmh một nước hùng mạnh,
giang sơn thu về một mối.
Có thể nói, chưa bao giờ như bây giờ, Trung Quốc xuất hiện nhiều nhà
tư tưởng với các trường phái triết học, đại diện cho các tầng lớp, giai cấp xã
hội khác nhau, đấu tranh với nhau không kém phần sôi động và quyết liệt.
Sự phong phú đa dạng của trường phái triết học, các nhà tư tưởng thời
Xuân Thu - Chiến Quốc đã được người ta gọi là “bách gia chư tử” và phong
trào đấu tranh của họ gọi là “bách gia tranh minh” (trăm nhà đua tiếng). “Nó
thực sự trở thành đỉnh điểm toàn bộ của cuộc sống văn hóa tinh thần của xã
hội Trung Quốc cổ đại, như một cái mốc son chói lọi trong lịch sử văn hóa
phương đông”.[7; tr. 145,146]. Khuất Nguyên sinh ra và lớn lên trong thời kỳ
vàng son đó, nên mọi tư tưởng và những học thuyết của "Bách gia chủ tử"
không thể không ảnh hưởng đến ông.
1.3. Khuất Nguyên - nhà thơ đầu tiên của nền văn học Trung Quốc
1.3.1. Con người
Trước khi trở thành nhà thơ đầu tiên trong lịch sử văn học Trung Quốc,
Khuất Nguyên là nhà chính trị lỗi lạc, tài ba. Cuộc đời hoạt động chính trị của
ông không thật suôn sẻ, luôn gặp trở ngại, khó khăn. Dù gian khổ nhưng ông
vẫn luôn đấu tranh đến cùng để bảo vệ quan điểm chính trị tiến bộ và quyết
giữ vững phẩm chất đạo đức tốt đẹp.
Tư liệu về cuộc đời của Khuất Nguyên để lại cho đời sau không nhiều.
Để hiểu được rõ hơn cuộc đời của con người hết lòng vì nước vì dân, chúng ta
hãy vẽ lên bức tranh phác thảo về đời sống của Khuất Nguyên dựa vào lời tự
thuật của ông, phần “Khuất Nguyên liệt truyện” trong sách Sử ký, cũng như
một số lời nhận xét, đánh giá của các nhà nghiên cứu.
Khuất Nguyên sinh và mất năm nào vẫn còn nhiều ý kiến chưa thống
nhất. Theo Quách Mạt Nhược thì Khuất Nguyên sinh năm 340 và mất năm
278 trước công nguyên. Ông tên Bình, tự Nguyên, người tỉnh Hồ Bắc ngày
nay. Ông xuất thân trong một gia đình quí tộc cùng họ với vua Sở, tổ tiên
được phong ở đất Khuất, nên lấy Khuất làm họ. Thuở thiếu thời, cuộc đời của
ông cũng hào hoa phong nhã như bao chàng trai quí tộc khác. Ngay từ nhỏ,
Khuất Nguyên là một người thông minh, uyên bác, ham học hỏi và luôn chú
trọng việc bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho mình. Tư Mã Thiên cũng đã
từng nói đến tài năng của ông như sau: “Ông học rộng, nhớ lâu, thấu rõ lẽ trị
loạn, thạo việc giấy tờ” [60; tr. 542]. Vì là người có học vấn cao, lại am hiểu
tình hình chính trị, có tài ngoại giao nên Khuất Nguyên được Sở Hoài Vương
hết sức tín nhiệm, tin dùng và đưa lên làm đến chức “Tả đồ”. Đây là một chức
quan rất quan trọng trong triều đình chỉ sau “Lệnh doãn” (tức sau tể tướng
một bậc), “vào cung thì cùng vua bàn tính việc nước, ban bố các mệnh lệnh,
ra thì tiếp đãi khách khứa, ứng đối với các chư hầu” [60; tr. 542]. Trong thời
gian giữ chức Tả đồ, Khuất Nguyên đã có những đóng góp rất lớn cho đất
nước. Trước hết, về đối nội, ông thi hành biến pháp, với mong muốn xây
dựng một đất nước giàu mạnh. Về mặt đối ngoại, ông thực hiện chính sách
liên minh với nước Tề để chống Tần. Có thể nói, đây là chính sách sáng suốt
mà nước Sở cần phải thực hiện để hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước.
Khuất Nguyên được Sở Hoài Vương cử đi sứ nước Tề, liên minh Tề Sở được
ký kết từ đó. Có thể nói “Khuất Nguyên là nhân vật chủ chốt trong việc hội
chính và ngoại giao của nước Sở” [24; tr. 201]. Cũng chính vì tài năng ấy mà
ông bị bọn gian thần ghen ghét, hãm hại, vua Sở ruồng bỏ.
Không còn được trọng dụng nên mọi biến pháp mà Khuất Nguyên thực
hiện đều bị thất bại. Nền chính trị nằm trong tay bọn quí tộc. Lúc này, Tần
càng lúc càng lớn mạnh còn Sở thì càng ngày càng suy yếu. Tần muốn nhân
cơ hội này tiêu diệt các nước để thống nhất Trung Quốc nhưng vấp phải trở
ngại lớn là liên minh Tề Sở. Và đây là cơ hội lớn để Tần hoạt động li gián Tề
Sở. Vua Sở vì tham đất lại quá tin vào những lời nói ngon ngọt của kẻ địch
mà chịu thất bại nặng nề.
Về sau, chư hầu cùng nhau đánh Sở, phá tan quân Sở, giết tướng Sở là
Đường Muội. Bấy giờ Tần Chiêu Vương kết thông gia với Sở. Mọi oán thù
trước đây tạm thời hòa hoãn. Vua Tần muốn họp mặt với Hoài Vương, Hoài
Vương toan đi, Khuất Nguyên can:
Tần là nước hùm sói, không thể tin ! Đừng đi là hơn.
Lời can gián của Khuất Nguyên không giữ nổi chân vua Sở. Cuối cùng,
Vua Sở bị bắt trở lại và chết trên đất Tần.
Khoảnh Tương Vương, con cả của Hoài Vương lên ngôi. Em là Tử Lan
làm “Lệnh Doãn”, trước sau vẫn áp dụng chính sách thân Tần. Tử Lan vốn đã
không ưa Khuất Nguyên, bây giờ lên nắm chính quyền lại càng bỏ rơi ông,
tìm mọi cách bức hại ông. Giờ đây, nỗi cô đơn buồn tủi của Khuất Nguyên
chỉ biết gửi gắm vào những vần thơ mà thôi. Vậy mà cũng không yên, Tử Lan
đọc những bài thơ ấy thấy có nhiều chỗ chỉ trích mình và triều đình nên y rất
ghét, bèn bảo Thượng Quan đại phu gièm pha Khuất Nguyên với Sở Tương
Vương. Tương Vương giận đày ông đi Giang Nam, đến bên bờ sông Mịch La.
Lúc này là năm 286 trước công nguyên, Khuất Nguyên ở đó được 9 năm, vì
buồn rầu, thân người sa sút, khí sắc tiều tụy, thường xoã tóc đi nghêu ngao
trên bờ sông. Bài ca "Thương Lang" sao cứ văng vẳng đâu đây:
“Thương Lang chi thuỷ thanh hề, khả dĩ trạc ngã anh.
Thương Lang chi thuỷ trọc hề, khả dĩ trạc ngã túc”.
(Nước sông Thương Lang mà trong thì ta có thể giặt dải mũ của ta
Nước sông Thương Lang mà đục thì ta có thể rửa chân ta)
Tâm sự không biết giãi bày cùng ai, nỗi buồn chẳng biết nói cùng ai,
cũng không thể hùa theo thế tục, ông đành chọn cho mình một lối đi riêng “ta
thà gieo mình xuống sông Tương, chôn mình trong bụng cá, lẽ nào để cái bản
chất trắng ngần của ta chịu bụi bặm của đời” [60; tr. 547]. Chính thái độ đó
mà sau này khi nghe tin nước Sở bị Tướng Tần là Bạch Khởi đem quân sang
đánh, chiếm cả phía tây nước Sở, huỷ hoại tôn miếu, Khuất Nguyên đau khổ
vô hạn, nhìn tiền đồ của Tổ Quốc mà tuyệt vọng. Không thể nén được nỗi đau
quá lớn này, ngày 5/5 ông ôm đá gieo mình xuống sông Mịch La để giữ tròn
khí tiết.
1.3.2. Sở từ và các tác phẩm của Khuất Nguyên
Mỗi khi nói đến tác phẩm của Khuất Nguyên người ta thường gọi chung
là Sở từ. Vậy Sở từ là gì? Thực ra tên gọi này khoảng vào thời Tây Hán mới
xuất hiện nhưng nó mang một ý nghĩa rất đơn giản. Đó là loại thơ ca ra đời
vào thời Chiến Quốc ở nước Sở, một nước ở phía nam Trung Quốc, mang
đậm màu sắc của địa phương Sở, có người vẫn từng nói: “Thư Sở ngữ, tác Sở
thanh, kí Sở địa, danh Sở vật” (viết bằng tiếng nước Sở, làm bằng thanh âm
nước Sở, ghi tên đất Sở, dùng tên vật nước Sở) [15; tr. 68]. Do vậy mà
“những tác phẩm của Khuất Nguyên khi mới ra đời chưa có tên gọi cố định
mà chỉ gọi là “từ”, “phú”, “li tao”, cho mãi đến cuối đời Tây Hán, Lưu
Hướng biên tập một bộ sách lấy tên là Sở từ”. [16; tr. 45]. Theo tư liệu thì bộ
sách này gồm các tác phẩm của Khuất Nguyên như Li tao, Cửu chương,
Thiên vấn, Chiêu hồn, Cửu ca; của Tống Ngọc như Cửu biện và một số tác
phẩm mà người đời sau cho là của Khuất Nguyên như Viễn du, Bốc cư, Đại
chiêu, Ngư phủ và tác phẩm của người đời Hán như Tích thệ của Giả Nghị,
Chiêu ẩn sĩ của Hoài Nam Tiểu Sơn, Thất gián của Đông Phương Sóc, Ai thời
mệnh của Trương Kị, Cửu hoài của Vương Bao, Cửu thán của Lưu Hướng,
Cửu tự của Vương Dật v..v..
Nhìn chung, trong tập sách này về số lượng cũng như về chất lượng thơ
của Khuất Nguyên chiếm địa vị chủ yếu. Cho nên, nói Sở từ cũng là nói tác
phẩm của Khuất Nguyên và ngược lại.
Tuy có nhiều ý kiến khác nhau về tác phẩm của Khuất Nguyên nhưng
vẫn có chỗ thống nhất và có thể khẳng định tác phẩm của Khuất Nguyên bao
gồm: Li tao, Cửu chương, Cửu ca, Thiên vấn.
Ly Tao
Ly tao là tác phẩm tiêu biểu quan trọng nhất của Khuất Nguyên, và cũng
là tác phẩm trữ tình trường thiên đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc thời cổ
đại. Tác phẩm gồm 373 câu thơ, 2490 chữ nhưng đã làm rung động tâm hồn
của biết bao thế hệ thi nhân. Đối với thiên trường thi Li tao này, có người vẫn
gọi đó là một bài thơ “Tiền thế vị văn, hậu thế mặc kế” (Đời trước chưa nghe
nói đến, đời sau không ai bì kịp). [15; tr. 74]
Về nghĩa của hai chữ Li tao, từ trước đến nay, có nhiều ý kiến không
thống nhất. Trong Sử ký, phần Khuất Nguyên liệt truyện, Tư Mã Thiên viết:
Ly tao giả do li ưu dã, ở đây “tao” nghĩa là “ưu” (lo), lo buồn trong chia ly.
Ban cố đời Đông Hán viết: “ly, do tao dã; tao ưu dã. Minh kỷ tao ưu tác từ
dã” (“ly” có nghĩa là gặp phải, “tao” là ưu buồn, gặp phải điều đau buồn nên
làm ra bài thơ này). Vương Dật nói: “Ly, biệt dã; tao, trừu dã” có nghĩa là ly
biệt và ưu buồn… Những học giả đời nay, có người cho là “tao ưu nhi tác”
(sáng tác khi gặp đau buồn); hoặc “ly biệt chi ưu” (nỗi buồn khi ly biệt)… Dù
mang ý nghĩa nào đi chăng nữa, ta vẫn cảm nhận được một điều: Ly tao ra đời
khi nước Sở rơi vào tình trạng bế tắc, hỗn loạn, Khuất Nguyên mang nặng nỗi
đau buồn khi phải bị đày đi Giang Nam, không thể cùng vua luận bàn việc
nước.
Chính vì vậy mà thiên Li tao của Khuất Nguyên đã diễn đạt được một
cách trọn vẹn nỗi buồn sâu sắc của mình khi đứng trước vận nước lâm nguy
và thổ lộ được tâm sự sâu kín tự đáy lòng mình với biết bao ước mơ, hoài bão
tốt đẹp. Nhưng ông bị kẻ gian ghen ghét, hãm hại nên đành bỏ dở. Đáng buồn
hơn nữa ông còn bị bài xích, đả kích, bị đọa đày với bao nỗi uất ức sâu xa. Để
rồi bản trường thi Li tao ra đời như một bản nhạc bất hủ, nó được ngân lên và
vang mãi đến ngàn đời sau. Có người đã từng nói: “Đó là tiếng hát đứt ruột,
đứt gan, tiếng nói của một con người nói lên để mà chết” [14; tr. 66]
Li tao là tác phẩm trữ tình lãng mạn nhưng vẫn giàu chất hiện thực, bởi
có rất nhiều đoạn tự sự được lồng vào trong bài thơ phản ánh một cách rõ
ràng, rành mạch tư tưởng và hành động trong hơn nữa đời người của nhà thơ.
Một trong những nội dung cơ bản của bản trường thiên Li Tao chính là
yêu nước, thương dân. Đây vốn là những đức tính tốt đẹp đã hun đúc trong
tâm hồn Khuất Nguyên từ nhở. Nó như mạch nước ngầm cứ len lỏi chảy mãi
trong lòng thi nhân, thấm cả vào từng trang thơ. Do đó, mỗi vần thơ ẩn chứa
trong đó cả nỗi niềm của con người hết lòng vì nước, vì dân.
Chính vì tình yêu nước sâu sắc ấy đã khiến ông phải hành động. Ông
muốn đem hết tài năng của mình để phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân, chứ
không thể ngoảnh mặt quay lưng để đất nước rơi vào cảnh suy vong.
Không chỉ dừng lại ở chỗ muốn đưa đất nước ra khỏi họa suy vong mà
còn muốn biến nước Sở thành một quốc gia hùng mạnh, thống nhất Trung
Quốc. Có như vậy mới thỏa được ước nguyện của Khuất Nguyên và cũng là
nguyện vọng của nhân dân Trung Quốc thời bấy giờ. Thế nhưng, bao ước
vọng được ông ấp ủ cho lí tưởng tốt đẹp của mình lại bị trở ngại bởi tập đoàn
thống trị hủ bại của nước Sở, khiến ông không thể thực hiện được. Thật căm
phẫn biết bao! Không thể buông xuôi để bọn chúng hủy hoại. Ông vẫn lặng lẽ
đấu tranh đến cùng để bảo vệ lí tưởng tốt đẹp ấy. Tinh thần bất khuất, lòng
cương trực, quyết không thỏa hiệp, đầu hàng luôn được ông đề cao.
Để thực hiện lí tưởng tốt đẹp, ông luôn ra sức trau dồi nhân cách, tu
dưỡng rèn luyện đạo đức. Ngoài ra, ông còn ra công đào tạo nhân tài cho đất
nước, mong sao những con người tài đức ấy sẽ tiếp bước con đường mà ông
đã chọn.
Thiên trường thi Li tao của Khuất Nguyên là tổng hợp sáng tác của ông.
Mỗi câu, mỗi chữ trong Li tao là cả nỗi lòng của con người suốt đời bôn ba,
lận đận trên con đường chính trị và ông luôn phấn đấu đến cùng để thực hiện
lí tưởng lớn lao ấy.
Khuất Nguyên viết Li tao bằng cả trái tim đang thổn thức với trăm mối
tơ vò. Ấy thế mà lời thơ không bi lụy, nó như bay bổng diệu kì với biết bao
hình ảnh tráng lệ, huyền ảo. Ý thơ vì thế cũng hết sức bao la, bát ngát. Biết
bao cảnh đẹp của thiên nhiên cứ thế mà lướt qua trang thơ của tác giả nào là:
núi Côn Lôn, hồ Động Đình, sông Tương... Không chỉ có vẻ đẹp dưới trần
gian mà còn cả vẻ đẹp trên thượng giới cũng được thi nhân phóng bút nào là
Phù Tang, Huyền Phố, Vĩ Bàn... càng làm cho hình ảnh thơ thêm phần thơ
mộng, huyền ảo. Quả thực, như nhận xét của các nhà nghiên cứu thì tác phẩm
này nồng đượm màu sắc lãng mạn. Không những thế yếu tố hiện thực cũng
được kết hợp khá nhuần nhuyễn. Chính vì vậy mà Lưu Hiệp, tác giả của Văn
tâm điêu long, trong thiên Biện tao đã không tiếc lời ca ngợi.
“Khuất Nguyên bộc lộ tình cảm và niềm oán thán thì đều dồi dào, lưu
loát mà dễ làm người xúc cảm; Khi nói điều li biệt thì đau xót khôn cầm; Khi
tả núi, sông thì nghe theo thanh âm có thể hình dung được điều miêu tả; Khi
nói đến mùa màng, thời tiết thì xem văn có thể có thể thấy thời tiết biến đổi”
[2; tr. 147]
Có lẽ, những lời nhận xét ấy như nói hộ ta bao điều về con người hết
mực tài hoa này. Chắc chắn chỉ có những người thực sự đau nỗi đau đời, phải
có tình yêu tha thiết đối với quê hương đất nước, phải có tấm lòng cương trực
quyết giữ vững tâm hồn trong sạch, đi theo lí tưởng tốt đẹp mới có thể viết lên
những dòng thơ chân thành sâu lắng đến như vậy.
Cửu chương
Cửu chương gồm chín bài: Tích tụng (Tiếc làm thơ ca), Thiệp giang
(Qua sông), Ai sính (Thương sinh đô), Trừu tư (Rút bày tâm tư), Hoài sa
(Nhớ trường sa), Tư mỹ nhân (Nhớ người đẹp), Tích vãng nhật (Nhớ ngày
trước), Quất tụng (Ca ngợi cây Quất), Bi hồi phong (Buồn cơn gió lốc). Đây
là những bài thơ trữ tình ngắn và rất hay của nhà thơ. Theo các nhà nghiên
cứu Sở từ, thì tên gọi Cửu Chương do người đời sau biên soạn, tập hợp lại mà
thành.
Để khẳng định thời điểm sáng tác của các bài thơ trên quả không dễ chút
nào. Theo Quách Mạt Nhược: “Quất tụng ra đời sớm nhất, tám bài thơ còn
lại đều làm sau khi Khuất Nguyên bị thất ý trên con đường chính trị, trước hết
là Tích tụng, sau đến Trừu tư, Tư mỹ nhân, Bi hồi phong, Thiệp giang; Khuất
Nguyên sáng tác Ai sính vào thời Sở Tương Vương, khi tướng Tần là Bạch
Khởi đánh phá sính đô, Hoài sa, Tích vãng nhật là những bài thơ cuối cùng
của đời ông” [14; tr. 95]
Mặc dù đây là những bài thơ ngắn nhưng đó là những mảnh ghép về
cuộc đời, tư tưởng, tình cảm của Khuất Nguyên. Và đó chính là những tài liệu
quan trọng để chúng ta có thể nghiên cứu kĩ hơn về hoạt động của ông trong
những ngày “bị thất ý trên con đường chính trị”
Về mặt nội dung tư tưởng, cũng như Li tao, những bài thơ này đều thể
hiện tình yêu nước tha thiết, đồng thời cũng bộc lộ tinh thần đấu tranh kiên
cường và lòng quyết tâm bảo vệ đường lối chính trị tiến bộ của nhà thơ. Bên
cạnh đó, ông còn kịch liệt phê phán nền chính trị đen tối của nước Sở.
Yêu nước, trung với vua và thương dân luôn là những đều quan tâm
hàng đầu của Khuất Nguyên. Thế nhưng, trong tình hình nước Sở lâm nguy,
vua Sở ngày càng hủ bại thì ba điều trên vốn đã khó thống nhất nay lại khó
thể thống nhất được. Tấm lòng trung quân của Khuất Nguyên vì thế cũng dần
dần thay đổi theo thời gian.
Buổi ban đầu ông còn tỏ ra tin tưởng vua Sở. Tin vua nên bao lời tâm sự
ông đều bộc bạch ra hết. Và cũng bởi trung với vua nên ông bị kết thù gây
oán. Ấy vậy mà ông:
Mặc cho bọn chúng thù hằn!
Thờ vua một dạ chuyên cần dám sai!
(Tích tụng)
Ông mong càng nhiều thì thất vọng càng lớn. Nếu như trong một số bài
thơ như Tích tụng, Trừu tư, Tư mỹ nhân, Khuất Nguyên đã đặt niềm tin
của mình vào vua Sở thì giờ đây ni._.g hải yên thì yêu lẫn tức,
Tâm cơ vong xử chữ âu miên.
Hy kỳ Tam toạ (toà) thanh u cảnh(3),
Đoan tục Song Ngư tử thuý điên(4).
Sở phách hoài sa chung cổ hận(5),
Bằng thuỳ tác phú điếu Tương xuyên?
Trích: Tổng tập văn học Việt Nam, tập 4, Trung tâm KHXH&NV Quốc gia, 2000.
Chú thích :
1) Đan Nhai: còn có tên là cửa Hội Thống, giữa hai huyện Nghi Lộc và Nghi Xuân.
2) Theo câu thơ này, thì bài này làm lúc chiến thắng trở về.
3) Tam toà: là miếu thờ con thứ tám vua Lý Thái Tông, là Lý Hoằng cai trị Nghệ An được
nhân dân tin cậy, ở gần cửa hội.
4) Song Ngư: phía ngoài cửa Lò (Nghệ An) hình hai con cá sóng nhau.
5) Hoài sa: là tập thơ mà Khuất Nguyên để lại trước khi chết ở sông Mịch La, vùng Tương
Giang (Hồ Nam)
Dịch nghĩa : Cửa biển Đan Nhai
Thuỷ triều lên mạnh như rồng cuốn, mặt biển tiếp với chân trời,
Cầm hịch chiến đấu ở Nam ra, tạm nghỉ thuyền nơi đây.
Bể lặng cuộc sống vui thì “thẫn khí” biến mất,
Lòng sáng, không còn mưu ác thì chim hải âu được ngủ yên.
Trang nghiêm miếu Tam Toà, cảnh trí hiện,
Thấp thoáng hòn Song Ngư, hoa lá xanh đỏ chen nhau.
Nhớ đến chuyện Khuất Nguyên nước Sở “ôm cát” mang mối hận
nghìn thu,
Biết nhờ ai làm cho bài phú khóc bên sông Tương?
Dịch thơ :
Biển trời tiếp dính lúc triều lên,
Nam tiến đi về, tạm nghỉ thuyền.
Mặt nước lặng im thẫn khí biến,
Tấm lòng không ác hải âu yên.
Trang nghiêm Toà miếu dáng hình ẩn,
Thấp thoáng Hòn Ngư hoa lá chen.
“Ôm cát” Khuất Nguyên muôn thuở hận,
Nhờ ai làm phú khóc Tương xuyên?
Hùng Nam Yến dịch
Bài: Ngư phủ đình
Trục thần tư hoạn thiết,(1)
Tâm thượng biệt sầu đa.
Ngư phủ trường ca bãi,(2)
Quy quy phó Mịch La.
Trích: Tổng tập văn học Việt Nam, tập 4, Trung tâm KHXH&NV Quốc gia, 2000.
Chú thích:
1) Chỉ Khuất Nguyên, bề tôi trung thành của nước Sở
2) Ở câu thơ này, tác giả có nhắc đến bài hát ông chài, vì thật ra, khi ông chài gõ chèo bỏ
đi, thì vừa chèo vừa ca hát bài dân ca như sau: “Thương Lang chi thuỷ thanh hề. Khả dĩ
trạc ngã anh! Thương Lang chi thuỷ trọc hề. Khả dĩ trạc ngã túc” (Nước sông Thương
Lang trong thì ta giặt cái giải mũ, nước Thương Lang đục thì ta rửa chân). Bài hát này
sách Mạnh Tử cũng có trích.
Dịch nghĩa : Đình ông chài
Người bề tôi (chỉ Khuất Nguyên) bị đuổi vẫn lo cho
hoạn nạn của đất nước,
Nỗi sống, lúc ly biệt, rất sầu thảm.
Sau khi nghe hết bài ca dân gian ông chài hát,
Thì xăm xăm gieo mình xuống sông Mịch La.
Dịch thơ :
Thân này tuy bị bỏ rơi,
Lòng này vẫn cứ lo đời thiết tha!
Gặp chài, nghe dứt lời ca,
Bóng chài vừa khuất Mịch La gieo mình.
Hồ Ngọc Băng Tâm dịch.
NGUYỄN DU (1766 - 1820)
Bài: Ngũ nguyệt quan cạnh độ
Hoài vương quy táng(1), Trương Nghi tử(2),
Sở quốc từ nhân ký bội lan(3).
Thiên cổ chiêu hô chung bất phản(4),
Mãn giang tranh cạnh thái vô đoan(5).
Yên ba diểu diểu không bi oán,
La cổ niên niên tự tiếu hoan.
Hồn nhược quy lai dã vô thác,
Long xà quỷ vực biến nhân gian(6).
Trích: Khuất Nguyên - nhà thơ yêu nước, Trần Xuân Đề, Nxb Giáo dục Hà Nội, 1972.
Chú thích :
1) Sở Hoài Vương không nghe lời Khuất Nguyên can, sang hội nước Tần, bị giữ lại rồi
chết ở đấy, sau đưa hài cốt về an táng ở nước Sở.
2) Trương Nghi: mưu sĩ nước Tần, đi thuyết sáu nước nhằm thực hiện kế liên hoành, chống
lại kế hợp tung.
3) Ly Tao có câu: “Xâu chùm hoa thiên lý xinh xinh”. Đây chỉ Khuất Nguyên làm bài Ly
Tao.
4) Chỉ bài Chiêu hồn
5) Khuất Nguyên mất ngày mồng 5 tháng 5. Hằng năm, cứ ngày này, người Trung Quốc tổ
chức kỉ niệm nhà thơ, thường đua thuyền tượng trưng cho việc đi tìm thi thể nhà thơ.
6) Hai câu cuối kí thác tâm sự nhà thơ
.
Dịch nghĩa : Tháng năm xem đua thuyền
Hài cốt Hoài vương đưa về an táng, Trương Nghi cũng đã chết rồi.
Nhớ khách bội lan, nhà văn nước Sở
Nghìn năm gọi hồn, hồn vẫn không về.
Thuyền đua đầy sông, thật chẳng có ý nghĩa gì,
Khói sóng mờ mịt luống đau thương oán giận
Hàng năm chiêng trống vẫn tự bày trò vui.
Nếu hồn trở về cũng không biết nương tựa vào đâu,
Khắp cõi người đầy những rắn rồng quỷ quái.
Dịch thơ :
Hoài vương qui táng, Trương Nghi chết,
Nước Sở còn ghi khách bội lan.
Nghìn thưở gọi hồn nào có thấy,
Đầy sông đua trải thật thêm nhàm.
Nước mây nhiều lúc sầu thêm hão,
Chiêng trống năm năm hát múa tràn.
Nếu thật hồn về không chỗ ở,
Rắn rồng quỷ quái khắp nhân gian.
(Theo bản dịch cũ)
Bài: Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu(1)
Nhị thủ
I
Hiếu tu nhân khứ nhị thiên tải(2),
Thử địa do văn lan chỉ hương(3).
Tông quốc tam niên bi phóng trục,
Sở từ vạn cổ thiện văn chương.
Ngư long giang thượng vô tàn cốt,
Đỗ nhược châu biên hữu chúng phương(4).
Cực mục thương tâm hà xứ thị?)
Thu phong lạc mộc quá Nguyên Tương(5).
Trích: Khuất Nguyên - nhà thơ yêu nước, Trần Xuân Đề, Nxb Giáo dục Hà Nội, 1972.
Chú thích :
1) Tương Đàm: tên một huyện tỉnh Hồ Nam. Tam Lư đại phu: là chức của Khuất Nguyên
dưới lệnh doãn (tương đương với Tể tướng)
2) Hiếu tu nhân: người thích sửa sang đức tốt. Chữ lấy trong Sở từ.
3) Lan, chỉ: hoa lan, hoa chỉ. Ý muốn nói phẩm chất tốt đẹp.
4) Đỗ nhược là một loại giống cây sen, hoa màu trắng có sáu cánh.
5) Nguyên, Tương: là hai con sông thuộc tỉnh Hồ Nam. Nhà thơ từ phía Nam đi lên Bắc
Kinh theo dòng sông Tương. Sông Nguyên cũng chảy vào hồ Động Đình, nhưng ở xa
hơn. Sở dĩ, Nguyễn nhắc đến là vì Khuất Nguyên có đi qua sông này. Nguyễn Du đến
Trường Sa ngày 18 tháng 7 năm Quý Dậu (1813).
Dịch nghĩa: Qua Tương Đàm viếng Tam Lư đại phu
Hai bài
I
Người hiếu tu sống cách đây hai nghìn năm,
Mà nay đất này còn thơm mùi hoa lan, hoa chỉ.
Buồn rầu suốt ba năm vì bị đày xa tổ quốc,
Nghìn đời sau Sở từ vẫn là án văn chương hay nhất.
Dòng sông đầy rồng cá, không tìm thấy nắm xương tàn,
Nhưng bên bãi đỗ nhược, có nhiều giống cỏ thơm.
Nhìn hết tầm mắt, đau lòng, không biết là đâu?
Đi qua vùng Nguyên, Tương giữa lúc gió thu thổi lá cây rụng.
Dịch thơ: I
Người hiếu tu hai nghìn năm trước,
Còn hương lan phản phất đâu đây.
Ba năm cố quốc đoạ đày,
Sở từ muôn thuở bậc thầy văn chương.
Dòng rồng cá nắm xương đâu tá?
Cỏ hoa thơm đầy cá bãi sông.
Xa xa trông những đau lòng,
Giữa mùa lá rụng qua vùng Nguyên, Tương.
(Theo bản dịch cũ)
II
Sở quốc oan hồn táng thử trung(1),
Yên ba nhất vọng diểu hà cùng.
Trực giao hiến lệnh hành thiên hạ(2),
Hà hữu Ly tao kế Quốc phong?(3)
Thiên cổ tuỳ nhân liên độc tỉnh,(4)
Tứ phương hà xứ thác cô trung?
Cận thời mỗi hiếu vi kỳ phục,(5)
Sở bội tiêu lan cánh bất đồng.(6)
Chú thích :
1) Sở quốc oan hồn: oan hồn người nước Sở, chỉ Khuất Nguyên.
2) Hiến lệnh: tức pháp lệnh. Khuất Nguyên làm hiến lệnh giúp Sở Hoài Vương.
3) Quốc phong: đây chỉ Kinh Thi
4) Bài Ngư phủ của Khuất Nguyên có câu: “Mọi người đều say chỉ một mình ta tỉnh.
5) Khuất Nguyên có nói: “Lúc trẻ ta ham đồ phục sức lạ, gươm dài mũ cao, ý nói mình
trung trực khác người.
6) Tiêu lan: các thứ hoa Khuất Nguyên thường đeo để tỏ lòng cao khiết của mình. Hai câu
sau cũng có ám chỉ thời sự, tức chuyện quan trường nhà Nguyễn.
Dịch nghĩa : II
Hồn oan người nước Sở chôn ở đây,
Khói sóng mênh mông nhìn không sao cùng.
Nếu hiến lệnh của ông mà được ban hành khắp thiên hạ,
Thì làm gì có Ly tao nối Quốc phong?
Nghìn thuở, ai thương người tỉnh một mình,
Bốn phương biết gửi tấm lòng cô trung vào đâu?
Gần đây người ta thường thích ăn mặc lạ,
Nhưng hoa tiêu hoa lan họ đeo khác với ông lắm!
(Theo bản dịch cũ)
Dịch thơ : II
Nghe nói hồn oan táng dưới sông,
Một vùng mây nước mịt mù trông.
Ví bằng hiến lệnh ban thiên hạ
Sao có Ly tao nối Quốc phong?
Nghìn thưở ai thương người độc tỉnh?
Bốn phương đâu gửi dạ cô trung?
Gần đây ăn mặc thường ham lạ,
So với người xưa có giống không?
(Theo bản dịch cũ)
Bài: Biện giả(1)
Bất thiệp Hồ nam đạo,
An tri trương thuỷ thâm?
Bất độc hoài sa phú,(2)
An thức Khuất Nguyên tâm?
Khuất Nguyên tâm, Tương giang thuỷ,
Thiên thu vạn thu thanh kiến để.
Cổ kim an đắc đồng tâm nhân?
Giả sinh nhất phú đồ vi nhĩ.
Liệt nữ tòng lai bất nhị phu,
Hà đắc thê thê “tướng cửu châu”?(3)
Vị tất cố nhân trì hữu ngã,
Nhãn trung Tương thuỷ không du du!
Trích: Khuất Nguyên - nhà thơ yêu nước, Trần Xuân Đề, Nxb Giáo dục Hà Nội, 1972.
Chú thích :
1) Giả Nghị (201- 169 trước công nguyên) người đời Hán. Giả Nghị làm bác sĩ lúc hơn hai
mươi tuổi, bị các quan đại thần bài xích, phải trích đi làm thái phó ở Trường Sa. Khi đi
qua bến sông Tương, làm bài phú viếng Khuất Nguyên, ngụ ý than thở cảnh ngộ mình.
2) Hoài sa phú, tác phẩm của Khuất Nguyên một trong chín bài của Cửu chương.
3) Trong bài phú viếng Khuất Nguyên của Giả Nghị có câu: Đi khắp chín châu mà tìm vua
khác, hà tất cứ ôm lấy cố đô làm gì?” Ý chê bai Khuất Nguyên, vì thế mà Nguyễn Du bác
đi.
Dịch nghĩa : Bác Giả Nghị
Không đi qua Hồ Nam
Biết sao được sông Tương sâu?
Không đọc bài Hoài Sa
Sao biết được nỗi lòng Khuất Nguyên?
Nỗi lòng Khuất Nguyên và nước sông Tương
Nghìn năm vạn năm vẫn trong suốt thấy đáy,
Cổ kim mấy ai được bạn đồng tâm,
Bài phú của Giả Nghị chẳng có nghĩa lý gì,
Liệt nữ xưa nay không thờ hai chồng.
Lẽ nào lại tất tả đi khắp “chín châu tìm vua khác?”
Vị tất người xưa đã biết có ta,
Trước mắt thấy dòng sông Tương lặng lờ trôi đi.
Dịch thơ :
Không qua Hồ Nam,
Không biết nước sông Tương.
Không đọc bài Hoài Sa,
Không biết lòng Khuất Nguyên đáng thương.
Nước ấy lòng này,
Trong suốt từ ngàn xưa đến nay.
Xưa nay đồng tâm được mấy ngưòi,
Phú Giả sinh không đáng cho là hay.
Thờ một chồng là lòng liệt nữ,
Sao lại phải chín cõi đi tìm hoài?
Người xưa biết sau này có ta chăng?
Nước sông Tương chảy mãi bao giờ thôi!
(Theo bản dịch cũ)
Bài: Phản Chiêu hồn(1)
Hồn hề? Hồn hề? hồ bất qui?
Đông tây nam bắc vô sở y.
Thướng thiên há địa giai bất khả,
Yên Dĩnh thành trung lai hà vi?(2)
Thành quách do thị, nhân dân phi,
Trần ai cổn cổn ô nhân y.
Xuất giả khu xa, nhập cứ tọa,
Tọa đàm lập nghị giai Cao, Quỳ.(3)
Bất lộ trảo nha dữ giác độc,
Giảo tước nhân nhục cam như di.
Quân bất kiến Hồ Nam sổ bách châu,
Chỉ hữu sấu tích vô sung phì.
Hồn hề! Hồn hề! suất thử đạo,
Tam hoàng chi hậu phi kỳ thì(4).
Tảo liễm tinh thần phản thái cực,(5)
Thận vật tái phản linh nhân xi.
Hậu thế nhân dân giai Thượng Quan,(6)
Đại địa xứ xứ giai Mịch La,(7)
Ngư long bất thực, sài hổ thực,
Hồn hề! Hồn hề! nại hồn hà?
Trích Nguyễn Du - tác phẩm và lịch sử văn bản, Nguyễn Thạch Giang, Trương Chính
(Biên khảo và chú giải), Nxb TPHCM, 2000.
Chú thích :
1) Chiêu hồn : một bài từ của Tống Ngọc, người cùng thời với Khuất Nguyên. Trong bài
tựa có câu: “Tống Ngọc thương Khuất Nguyên hồn phách sắp tiêu tan, làm bài từ gọi hồn
ông về”. Nguyễn Du phản lại ý ấy, làm bài Phản chiêu hồn khuyên hồn nhà thơ đừng trở
lại cõi đời này đầy rẫy những bọn gian ác.
2) Yên : đất nước Sở nay thuộc Nghi Thành, tỉnh Hồ Bắc, Dĩnh cũng đọc là Sính, kinh đô
nước Sở cũng thuộc tỉnh Hồ Bắc nay gần Giang Lăng.
3) Cao, Quỳ : Cao Dao và Quỳ là hai vị quan giỏi đời Ngu Thuấn.
4) Tam Hoàng : có nhiều thuyết khác nhau. Có thuyết nói Tam Hoàng là Phục Hi, Thần
Nông, Hoàng Đế, ba ông vua cổ nhất của Trung Quốc
5) Thái cực : cõi hư vô
6) Thượng Quan : tức Thượng Quan Ngân Thượng là kẻ gièm pha làm cho vua nước Sở
ruồng bỏ Khuất Nguyên.
7) Mịch La : con sông thuộc huyện Tương Âm (tỉnh Hồ Nam).
Dịch nghĩa : Chống chiêu hồn
Hồn ơi! Hồn ơi! Sao hồn chẳng về?
Đông tây nam bắc không có nơi nương tựa.
Lên trời hay xuống đất đều không được,
Về đất Yên, đất Dĩnh mà làm gì?
Thành quách vẫn như cũ, nhưng người thì khác lắm rồi.
Bụi bay mù mịt, bẩn cả quần áo.
Họ đi ra thì ngựa ngựa xe xe, ngồi ở nhà thì vênh vênh váo váo
Đứng hay ngồi, họ cao đàm khoát luận như thể ông Cao, Ông Quỳ.
Họ không thể lộ nanh vuốt, nọc độc,
Nhưng ăn thịt người ngọt xớt như ăn đường mật.
Hồn không thấy mấy mấy trăm châu ở Hồ Nam đó sao?
Toàn những người gầy ốm, chẳng một ai béo tốt.
Hồn ơi! Theo đường đó mà về
Thì sao đời Tam Hoàng, chẳng còn hợp thời nữa đâu!
Hãy sớm thu tinh thần về cõi thái hư,
Đừng trở lại đây làm chi cho người ta mai mỉa!
Đời sau này, ai ai cũng gian nịnh như Thượng Quan,
Trên mặt đất đâu đâu cũng là sông Mịch La!
Thân thể không bị cá rồng nuốt thì hùm sói cũng ăn.
Hồn ơi! Hồn ơi! Biết làm thế nào?
Dịch thơ :
Hồn ơi! Hồn ơi! Hồn đừng về!
Khắp nơi chẳng có gì chở che.
Lên trời xuống đất đều không được,
Vào thành Yên, Dĩnh mà làm chi?
Thành quách như cũ, người khác xưa,
Bụi bay mù mịt khắp tư bề,
Đi ra xe ngựa về vênh váo,
Đứng ngồi ăn nói như Cao, Quỳ.
Không lộ nanh vuốt cùng nọc độc,
Nhưng chén thịt người cứ tì tì.
Há chẳng thấy mấy trăm châu ở Hồ Nam?
Người người đói rách, gầy như que.
Hồn ơi! Hồn ơi đường hồn đi,
Sau đời Tam Hoàng không phải thì.
Sớm thu tinh thần về Thái cực,
Đừng về đây nữa mà người chê.
Đời này hết thảy là Thượng Quan,
Nơi nơi đâu cũng là Mịch La!
Ca rồng không nuốt hùm sói tha.
Hồn ơi! Hồn ơi! Biết làm sao?
PHAN HUY CHÚ (1782 - 1840)
Bài: Tam Lư đại phu miếu(1)
Vu chẩn thương hoài thệ thuỷ tần,
Cửu ca(2) tiều tuỵ kỷ lân quân.
Nga mi dung dị chiêu sàm nữ,
Lan uyển thê lương vọng mỹ nhân.(3)
Tương phố thiên thu di bội nguyệt,
Sính môn(4) hà xứ bạch y vân.
Tao từ trùng cảm Nam Lai khách,
Thiều đệ giang cao lãm cự tần.(5)
Trích: Khuất Nguyên - nhà thơ yêu nước, Trần Xuân Đề, Nxb Giáo dục Hà Nội, 1972.
Chú thích :
1) Tam Lư đại phu: chức quan to ở triều đình nước Sở, ở đây muốn nói tới Khuất Nguyên.
2) Cửu ca: tác phẩm của Khuất Nguyên
3) Những từ trong hai câu thơ số 3 và số 4, cũng như trong toàn bài phần lớn đều lấy từ các
tác phẩm của Khuất Nguyên, chủ yếu là trong Li tao. “Mày ngài”: Vẻ đẹp của phụ nữ, ở
đây muốn nói đến người hiền tài; “vườn lan”: ý muốn nói đến đức độ tài năng của những
người hiền tài như Khuất Nguyên; “mỹ nhân”: ý muốn nói đến bậc vua chúa anh minh.
4) Sính đô: đô thành nước Sở
5) Trong các tác phẩm của mình, Khuất Nguyên thường lấy các loài hoa cỏ thơm để tự ví
với tâm hồn cao khiết, lý tưởng cao đẹp vì nước, vì dân của mình.
Dịch nghĩa : Miếu thờ Tam Lư đại phu
Tấm lòng đau đớn u hoài theo bến nước,
Thơ “Cửu ca” chứa chất nỗi khổ đã mấy người thương ông.
Mày ngài xinh đẹp dễ chọc tức bọn đàn bà thích gièm pha chê bai,
Vườn lan lạnh lẽo trông chờ mỹ nhân, mong chờ mãi.
Bến sông Tương ngàn năm còn treo vừng trăng sáng như phiếm
ngọc đeo,
Cổng thành Sính đô biết từ đâu gạt làn mây phủ.
Lời thơ Ly tao làm cho người khách phương Nam xiết bao thương
cảm,
Từ nơi xa muốn ôm lấy đám cỏ thơm bên sông.
NGUYỄN CÔNG TRỨ (1778 - 1859)
Bài: Vịnh Khuất Nguyên
Thế nhân giai tuý nhi giai trọc,
Duy ngã độc tỉnh nhi độc thanh.(1)
Thuở hôn hôn(2) ai tỏ dạ trung thành,
Còn nấn na chi nữa cho bận!
Cô phẫn khai thành thiên khả vấn,
Độc tinh nhân khứ quốc cơ không.(3)
Dòng Mịch La dù đục đục trong trong,
Đèn bất dạ(4) hãy soi người thiên cổ.
Bát ngát buổi giang thiên dục mộ,(5)
Tiếng ngư ca còn đồng vọng đâu đây?
Nghĩ tình ai cũng xót vay!
Trích: Khuất Nguyên - nhà thơ yêu nước, Trần Xuân Đề, Nxb Giáo dục Hà Nội, 1972.
Chú thích :
1) Người đời đều say và đục, chỉ có mình ta là tỉnh và trong sạch. Đây lấy ý hai câu trong
bài Ngư phủ của Khuất Nguyên: “Cử thế giai trọc ngã độc thanh, chúng nhân giai tuý ngã
độc tỉnh” (cũng đọc là tinh) nghĩa là đời đều đục cả mà một mình ta trong, mọi người đều
say mà một mình ta tỉnh.
2) Hôn hôn : mờ mờ, mù tối
3) Cái phẫn uất kết thành khí có thể xông lên mà hỏi đời, người “một mình tỉnh” đã đi thì
cả nước hầu như không còn có ai nữa. Hai câu này lấy trong bài thơ của nữ sĩ Phạm Lan
Anh vịnh Khuất Nguyên. Khuất Nguyên có làm bài Thiên vấn hỏi trời.
4) Đèn bất dạ: Đèn không bao giờ tối, tức tấm lòng của Khuất Nguyên .
5) Giang thiên dục mộ: cảnh sắp tối trên sông.
CAO BÁ QUÁT (1808 - 1854)
Bài: Thù hữu nhân uý vấn
Lâu thượng Nguyên Long khả nại hào!
Đa tinh đa bệnh bất tri lao.
Ngẫu nhiên phủ kỷ tâm thiên toái,
Hốt nhĩ hoài nhân nhật bách tao.
Sác cử tửu bôi liên Tĩnh Tiết,
Lũ niêm thi cú nghĩ Ly tao.
Bằng quân ký ngữ cựu tương thức:
Thử thách sầu trung chỉ tự trào!
Trích: Khuất Nguyên - nhà thơ yêu nước, Trần Xuân Đề, Nxb Giáo dục Hà Nội, 1972.
Chú thích :
1) Nguyên Long: tên tự của Trần Đăng đời Tam Quốc, một người trầm nghị có chí lớn,
khinh những kẻ tầm thường. Một hôm, trong khi bình phẩm các nhân vật đương thời, Hứa
Dĩ có phàn nàn với Lưu Bị rằng: “Nguyên Long là người ngang dọc bể hồ, song tính
ngông vẫn không chịu bỏ” và nói có lần gặp Long, Long lên nằm trên giường cao để Dĩ
nằm cái giường thấp. Lưu Bị nói: “Nay ở trong nước loạn lạc, ông cũng là một đấng nam
nhi, đáng lẽ phải vì nước quên nhà, thế mà ông toàn nói chuyện làm nhà, tậu
ruộng…chẳng câu nào đáng để vào tai cả. Nếu tôi là Nguyên Long thì tôi sẽ nằm trên lầu
cao trăm thước mà để ông nằm dưới đất mới phải.
2) Tĩnh Tiết: biệt hiệu của Đào Tiềm, người đời Tấn. Trước làm chức lệnh ở Bành Trạch,
sau bỏ quan về quê, chỉ thích uống rượu, thưởng cúc. Khi nhà Tấn bị nhà Tống cướp mất
ngôi vua, thì ông tỏ thái độ không thần phục nhà Tống.
3) Ly tao: tên một tác phẩm của Khuất Nguyên.
Dịch nghĩa : Trả lời người bạn hỏi thăm
Nguyên Long ở trên lầu, hào khí vẫn còn giữ mãi,
Tình nhiều bệnh nhiều mà vẫn không nhụt chí.
Bất chợt nghĩ đến mình, nát tường khúc ruột.
Có khi nhớ tới bạn mỗi ngày hàng trăm lần.
Năng cất chén rượu tỏ lòng mến Tĩnh Tiết.
Lại hay làm thơ để sánh với Ly tao.
Xin gửi lời nói với những người quen cũ rằng:
“Cái lão ấy, hễ buồn là chỉ tự nhạo mình mà thôi”!
Dịch thơ :
Trên gác Nguyên Long vẫn tính ngông,
Tình nhiều bệnh lắm chẳng ngồi không.
Xót thân, lòng mấy hồi tan nát,
Vắng bạn ngày trăm lượt nhớ mong.
Bầu dốc những ưu làm Tĩnh Tiết
Vần gieo toan đọ với Tao ông:
Nhờ anh nhắn giúp ai quen biết,
Rằng tớ khi buồn độc nói bông.
Xuân Trang dịch
MIÊN THẨM (1819 - 1870)
Bài: Độc Nguyễn Đình Chiểu điếu nghĩa dân
tử trận quốc ngữ văn
Chiến trường hựu bả điếu văn khai,
Lạp lạp biên thành nhất nhất lai.
Quốc ngữ danh tề Manh Tả(1) sử,
Quỉ hùng ca đáo Khuất Bình(2) ai!
Yết cam trảm mộc(3) kham thiên cổ,
Oán hạc đề viên(4)tính kỷ hồi.
Chí cánh thư sinh không bút trận,
Báo quân chỉ thử diệc bí tai!
Chú thích :
1) Manh Tả: Tả Khưu Minh đời Xuân Thu là sử gia thời bấy giờ. Vì mắt mù nên gọi là
Manh Tả; ví với Nguyễn Đình Chiểu cũng bị mù mà làm văn tế.
2) Khuất Bình: chính tên là Khuất Nguyên, người đời Chiến Quốc, làm vong điếu trận
vong tướng sĩ, có câu “Hồn phách nghị hề vi quỷ hùng”, nghĩa là: các chiến sĩ hồn phách
cương nghị, tuy chết nhưng cũng làm con ma anh hùng
3) Yết can trảm mộc: cầm sào, chặt gỗ. Trần Thắng và Hạng Vũ khởi binh đánh Tần, quân
lính đều dựng tre làm cờ, chặt gỗ làm giáo. Ý nói vũ khí thô sơ (Hán thư)
4) Oán hạc đề viên: hạc oán, vượn kêu. Mục vương nhà Chu đem quân đi đánh giặc, quân
và tướng đều biến hình; tướng tá hoá làm vượn và hạc, binh lính hoá làm cát và sâu (Thái
bình ngự lãm). Đây ý nói: nghĩa dân cũng chết theo quan dân của triều đình.
Dịch nghĩa: Đọc bài văn ông Nguyễn Đình Chiểu
nghĩa dân chết vì nước
Lại mở đọc bài văn điếu về chiến trường,
Tựa hồ như tin ở biên giới dồn dập đưa về.
Quốc ngữ ông cũng hay như ông Tả Khưu Minh mắt mù làm sử,
Lời văn của ông cũng giống bài ca “quỷ hùng” của ông
Khuất Nguyên điếu các người tử trận.
Nhân dân cầm sáo làm cờ, chặt gỗ làm gươm, ngàn xưa vẫn anh
dũng,
Mà đã thành con vượn kêu, con hạc oán mấy lâu nay!
Một người thư sinh mà đến đỗi dùng bút đánh giặc.
Báo ơn vua chỉ ngần ấy cũng khá thương lắm thay!
PHẠM QUÝ THÍCH (1760 - 1825)
Bài: Thu hoài
Cố quốc sơn hà dĩ đại thù,
Cố viên tùng cúc bán hoang vu.
Mang mang thiên địa hoàn bộ khách,
Nhiễu nhiễu phong trần tự hủ nho.
Bệnh cốt bình phân thu lĩnh sấu,
Thần tâm những bạn nguyệt luân cô.
Hữu nhân khuyến ngã bôi tung thú,
Vị vấn Tam Lư(1) chẳng tuý vô?
Trích: Khuất Nguyên - nhà thơ yêu nước, Trần Xuân Đề, Nxb Giáo dục Hà Nội, 1972.
Chú thích :
1) Tam Lư đại phu: chức quan của Khuất Nguyên. Ở đây tác giả tự ví mình như ông Khuất
Nguyên, lo phiền vì vận nước sắp nguy, không nỡ uống rượu làm ngơ.
Dịch nghĩa : Tả nỗi lòng
Non sông nước cũ nay đã khác xa,
Cây tùng cây cúc ở vườn cũ phần nửa đã hoang vu.
Trời đất mịt mù, mình vẫn là một người trốn tránh,
Gió bụi tơi bời mình vẫn là một anh đồ hủ.
Đau ốm gầy còm như núi mùa thu,
Tấm lòng tôi con bạn cùng vừng nguyệt.
Có người khuyên ta mượn thú uống rượu làm vui,
Nhưng thử hỏi ông Tam Lư có chịu say không?
Dịch thơ :
Đổi thay nước cũ, khác non sông,
Hoang vắng rừng xưa, ít cúc tùng.
Trốn tránh trời đất, thân lạc lõng,
Hủ nho gió bụi kiếp long đong.
Tấm thân gầy ốm, non thu lạnh,
Tấc dạ tôi con bóng nguyệt trong.
Có kẻ khuyên ta vui với rượu,
Khuất Nguyên xưa hỏi có say không?
CHU VĂN AN
KHUẤT NGUYÊN
(340?-278? tr.CN)
Khuất Nguyên trên dòng sông Mịch La
Cố hương Khuất Nguyên
NGUYỄN TRÃI
(1380-1442)
NGUYỄN DU
(1765-1820)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dư Quan Anh chủ biên (1997), Lịch sử văn học Trung Quốc , tập 1, Nxb
Văn học Hà Nội.
2. Arixtốt, Nghệ thuật thơ ca, Lưu Hiệp, Văn tâm điêu long (1999), Nxb
Văn học Hà Nội.
3. Trịnh Ân Ba, Trịnh Thu Lôi (2002), Văn học Trung Quốc (Lê Hải Yến
dịch), Nxb Thế giới Hà Nội.
4. Lương Minh Cừ, Nguyễn Thị Hương (2007), “Tư tưởng thời thế của
Nguyễn Trãi qua tác phẩm Quân Trung Từ Mệnh Tập”, Tạp chí
Khoa học xã hội, số 3.
5. Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê (1989), Chiến quốc sách, Nxb Trẻ Hà Nội.
6. Nhật Chiêu (1997), Câu chuyện văn chương Phương Đông, Nxb Giáo
dục.
7. Doãn Chính chủ biên (1993), Đại cương lịch sử triết học Phương Đông
cổ đại, Nxb Giáo dục.
8. Ngô Vĩnh Chính chủ biên (1994), Đại cương lịch sử văn hoá Trung
Quốc, (nhiều người dịch), Nxb Văn hoá Thông tin Hà Nội.
9. Xuân Diệu (1987), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb Văn học Hà Nội.
10. Đỗ Đức Dục (1989), Về chủ nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du, Nxb
Văn học Hà Nội.
11. Lê Chí Dũng, Phạm Quang Trung chủ biên (1999), Một số vấn đề văn
học Việt Nam, Nxb Văn học Hà Nội.
12. Dương Ngọc Dũng (1999), Dẫn nhập tư tưởng lý luận văn học Trung
Quốc, Nxb Văn học.
13. Will Durant (1972), Lịch sử văn minh Trung Quốc (Nguyễn Hiến Lê
dịch), ĐHSP.TPHCM.
14. Trần Xuân Đề (1972), Khuất Nguyên - nhà thơ yêu nước, Nxb Giáo dục
Hà Nội.
15. Trần Xuân Đề (2000), Tác giả, tác phẩm văn học Phương Đông (Trung
Quốc), Nxb Giáo dục Hà Nội.
16. Trần Xuân Đề (2002), Lịch sử văn học Trung Quốc, Nxb Giáo dục.
17. Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu
(2007), Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục
18. Hà Minh Đức chủ biên (1998), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.
19. Lâm Ngữ Đường (1994), Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa (Nguyễn
Hiến Lê dịch), Nxb Văn hoá.
20. Lâm Ngữ Đường (2001), Trung Hoa, đất nước con người (Trần Văn Từ
dịch), Nxb Văn hoá Thông Tin Hà Nội.
21. Nguyễn Thạch Giang, Trương Chính (Biên khảo và chú giải) (2000),
Nguyễn Du - Tác phẩm và lịch sử văn bản, Nxb TP.HCM.
22. Nguyễn Thạch Giang, Trương Chính (2001), Nguyễn Du, cuộc đời và tác
phẩm, Nxb Văn hoá Thông tin Hà Nội.
23. Dương Quảng Hàm (2002), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Hội nhà văn.
24. Chương Bồi Hoàn, Lạc Ngọc Minh chủ biên (2000), Văn học sử Trung
Quốc ,Tập 1, Nxb Phụ nữ.
25. Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng Phương Đông gợi những điểm nhìn
tham chiếu (Nguyễn Huệ Chi, soạn, chú, giới thiệu), Nxb Văn học.
26. Trần Đình Hượu (1999), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại,
Nxb Giáo dục.
27. Lê Đình Kỵ (1998), Phê bình nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục.
28. Trần Trọng Kim (1971), Nho giáo (quyển thượng), Bộ giáo dục trung tâm
học liệu xuất bản.
29. Đinh Gia Khánh chủ biên (2000), Văn học Việt Nam (Thế kỉ X - nửa đầu
thế kỉ XVIII), Nxb Giáo dục.
30. Nguyễn Hiến Lê (1997), Sử Trung Quốc, Tập 1, Nxb Văn hoá.
31. Mai Quốc Liên chủ biên, (1996), Nguyễn Du toàn tập, Nxb văn học,
Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.
32. Mai Quốc Liên (1998), Phê bình và tranh luận văn học, Nxb Văn học Hà
Nội.
33. Mai Quốc Liên chủ biên (2001), Nguyễn Trãi toàn tập tân biên, Trung
tâm nghiên cứu Quốc học, Nxb Văn học.
34. Ngô Sĩ Liên (1993), Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 2, Nxb KHXH, Hà Nội.
35. I.S.Lisevich (1993), Tư tưởng văn học Trung Quốc cổ xưa, Trường
ĐHSP.TPHCM.
36. Đoàn Ánh Loan (2000) “Ảnh hưởng của quan niệm thẩm mỹ cổ phương
Đông trong việc sử dụng điển cố”, Tạp chí văn học, số 3.
37. Nguyễn Lộc (1999), Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỉ XVIII - hết thế kỉ
XIX), Nxb Giáo dục.
38. Phương Lựu (1985), Tinh hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc , Nxb
Giáo dục Hà Nội.
39. Phương Lựu (1997), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học
Trung Đại Việt Nam, Nxb Giáo dục.
40. Hà Thúc Minh (1997), Lịch sử triết học Trung Quốc, tập 1, Nxb TP.
HCM.
41. N.I. Niculin (2000), Văn học Việt Nam và giao lưu quốc tế, (Nguyễn Hữu
Sơn tuyển chọn và giới thiệu), Nxb Giáo dục.
42. Nguyễn Thị Nương (2007), “Tìm hiểu sự vận động trong tư tưởng nghệ
thuật của Nguyễn Du qua những bài thơ Tự thuật”, Tạp chí Hán
Nôm, số 4.
43. Nguyễn Viết Ngoạn (nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn) (2002), Nguyễn
Công Trứ: Tác giả - Tác phẩm - giai thoại, Nxb Đại học quốc gia
TPHCM.
44. Khuất Nguyên (1974), Sở từ (Đào Duy Anh, Nguyễn Sĩ Lâm dịch và chú
thích), Nxb Văn học Hà Nội.
45. Bùi Văn Nguyên (1984), Văn chương Nguyễn Trãi (chuyên luận), Nxb
Đại học và Trung học chuyên nghiệp.
46. Bùi Văn Nguyên (1992), Nguyễn Du người tình và Nguyễn Du tình
người, Nxb Khoa học xã hội - Nxb Mũi Cà Mau.
47. Bùi Văn Nguyên (2003), Thơ quốc âm Nguyễn Trãi, Nxb Giáo dục.
48. Nguyễn Tôn Nhan (2003), 100 nhân vật nổi tiếng nhất văn hoá Trung
Quốc, Nxb Văn học.
49. Nhà xuất bản đại học bách khoa toàn thư Trung Quốc (2000), Khái yếu
lịch sử văn học Trung Quốc , Tập 1, Nxb Thế giới.
50. Nguyễn Khắc Phi, Trương Chính (1987), Văn học Trung Quốc, tập 1,
Nxb Giáo dục Hà Nội.
51. Nguyễn Khắc Phi (1998), Thơ văn cổ Trung Hoa, mảnh đất quen mà lạ.
Nxb Giáo dục Hà Nội.
52. Nguyễn Khắc Phi (2001), Mối quan hệ giữa Văn học Việt Nam và Văn
học Trung Quốc , Nxb Giáo dục.
53. Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang, Trần Ngọc Vương, Trần
Nho Thìn, Đoàn Thị Thu Vân (1997), Về con người cá nhân trong
văn học cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục Hà Nội.
54. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học Trung Đại Việt Nam - Quan niệm về
con người và tiến trình phát triển, Nxb Khoa học xã hội.
55. Sở nghiên cứu văn học thuộc viện khoa học xã hội Trung Quốc (1998),
Lịch sử văn học Trung Quốc (Lê Huy Tiêu, Lương Duy Thứ,
Nguyễn Trung Hiền, Lê Đức Niệm, Trần Thanh Liêm dịch), Nxb
Giáo dục Hà Nội.
56. Trần Đình Sử (2001), “Điển cố trong Truyện Kiều”, Tạp chí văn học,
số 5.
57. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học Trung Đại Việt Nam, Nxb Đại
học quốc gia Hà Nội.
58. Bùi Duy Tân (2005), Theo dòng khảo luận văn học Trung Đại Việt Nam,
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
59. Nguyễn Bá Thành (2006), Bản sắc Việt Nam qua giao lưu văn học, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội.
60. Tư Mã Thiên (1988), Sử ký (Nhữ Thành dịch), Nxb Văn học Hà Nội.
61. Trần Nho Thìn (2001), Bi kịch tinh thần của nhà nho Việt Nam với tính
cách là một nhân vật văn hóa (khảo sát qua trường hợp Nguyễn
Trãi), Tạp chí văn học, số 7.
62. Trần Nho Thìn (2003), Văn học Trung Đại Việt Nam dưới góc nhìn văn
hoá, Nxb Giáo dục Hà Nội.
63. Lương Duy Thứ chủ biên (1997), Đại cương văn hoá Phương Đông, Nxb
Giáo dục Hà Nội.
64. Lương Duy Thứ, Nguyễn Lộc biên soạn (1997), Thơ ca cổ điển Trung
Quốc, Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học TPHCM, Nxb Trẻ.
65. Sài Phi Thư Trang (2007), “Môi trường văn hoá Nguyễn Du”, Tạp chí
Hán Nôm, số 4.
66. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2000), Tổng tập văn
học Việt Nam, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
67. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2000), Tổng tập văn
học Việt Nam, tập 3, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
68. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2000), Tổng tập văn
học Việt Nam, tập 4, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
69. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2000), Tổng tập văn
học Việt Nam, tập 6, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
70. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2000), Tổng tập văn
học Việt Nam, tập 7, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
71. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2000), Tổng tập văn
học Việt Nam, tập14, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
72. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2000), Tổng tập văn
học Việt Nam, tập15, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
73. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2000), Tổng tập văn
học Việt Nam, tập 16, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
74. Trường ĐHSP TPHCM, Phòng KHCN và Sau đại học (1977), Văn học
Việt Nam từ thời Trung cổ đến hiện đại, thế kỷ X - XIX, tác giả
N.I.Niculin, Nxb Khoa học Ban biên tập văn học Phương Đông.
75. Lê Trí Viễn (1985), Lịch sử văn học Việt Nam, Trường ĐHSP- TPHCM,
Lưu hành nội bộ.
76. Viện văn học - Tuyển tập 40 năm Tạp chí văn học (1960 - 1999), tập 2,
Văn học cổ cận đại Việt Nam, Nxb TPHCM.
77. Lê Thu Yến (1999), Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb
Thanh Niên.
78. Lê Thu Yến chủ biên (2000), Văn học Việt Nam: Văn học Trung Đại -
Những công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục.
79. Lê Thu Yến (2001), Nguyễn Du và Truyện Kiều trong cảm hứng thơ
người đời sau, Nxb Giáo dục.
80. Lê Thu Yến (2002), Nhà văn trong nhà trường - Nguyễn Du, Nxb Giáo
dục.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7612.pdf