Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam

Lời nói đầu Trong những năm 1990, tốc độ toàn cầu hoá và khu vực hoá kinh tế đã nhanh chóng trở thành một hiện tượng gây ra sự lo ngại rộng rãi trong nền kinh tế thế giới. Đây là những đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển của xã hội loài người trong thế kỷ 20, một xu hướng không thể đảo ngược vào thế kỷ 21. Những đặc điểm này dẫn tới những mối quan hệ gần gũi hơn giữa tất cả các nước và khu vực cũng như sự phụ thuộc lẫn nhau và cạnh tranh lớn hơn trên quy mô toàn cầu. Vì vậy, liệu một nướ

doc126 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1694 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c có thể duy trì được tăng trưởng kinh tế liên tục và lành mạnh hay không được quyết định bởi việc nước này có thể đối phó lại với xu hướng phát triển kinh tế thế giới đúng lúc và điều chỉnh hướng phát triển của mình. Trong bối cảnh sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau ngày càng sâu sắc ở tầm khu vực và toàn cầu và việc các nước ASEAN đã gần thực hiện xong Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), câu hỏi đặt ra là liệu ASEAN sẽ đi theo định hướng hội nhập khu vực nào sau AFTA. Trong khi đó, mối quan hệ hợp tác kinh tế ASEAN - Trung Quốc ngày càng phát triển, việc Trung Quốc gia nhập WTO, những gần gũi về địa lý và văn hoá giữa ASEAN và Trung Quốc, thì sự lựa chọn thiết lập một Khu vực mậu dịch tự do giữa ASEAN và Trung Quốc – ACFTA (ASEAN – China Free Trade Area) có thể là một câu trả lời về một trong những định hướng hợp tác phát triển kinh tế tiếp theo của ASEAN. Thật vậy, ASEAN và Trung Quốc là những nước đang phát triển và đang ở những giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau song cùng đang phải đối mặt với những cơ hội và thách thức trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Việc thành lập một hiệp định thương mại tự do và tăng cường quan hệ song phương là một quyết định sáng suốt của hai bên trong quá trình theo đuổi những cơ hội phát triển mới. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm lại và nhiều năm suy thoái của cường quốc kinh tế khu vực Nhật Bản, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ đặc biệt có lợi đối với tiềm năng tăng trưởng kinh tế của hai bên. Hơn nữa, điều này sẽ tạo ra một cơ chế quan trọng nhằm bảo đảm sự ổn định kinh tế ở khu vực và cho phép ASEAN và Trung Quốc có tiếng nói lớn hơn trong các vấn đề thương mại quốc tế. Bên cạnh những cơ hội đó, việc thiết lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc trong vòng 10 năm tới chắc chắn sẽ tạo ra nhiều thách thức lớn đối với các nước tham gia, đặc biệt đối với các thành viên mới của ASEAN trong đó có Việt Nam. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những cơ hội và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc là một trong những vấn đề có tính thời sự và có ý nghĩa thiết thực trong bối cảnh hiện nay để có thể giúp các nước thành viên, nhất là Việt Nam, có thể chuẩn bị đầy đủ để tham gia có hiệu quả vào Khu vực mậu dịch tự do này. Do vậy, em mạnh dạn chọn đề tài "Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam” với mong muốn đề tài này sẽ góp phần làm sáng tỏ những mảng sáng tối của bức tranh kinh tế các nước ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng trong bối cảnh một khu vực mậu dịch tự do được thiết lập giữa ASEAN và Trung Quốc, từ đó giúp Việt Nam hội nhập thành công vào khu vực này. Khoá luận sử dụng kết hợp một số phương pháp nghiên cứu bao gồm phương pháp lý luận biện chứng, phương pháp nghiên cứu tài liệu, có sự tổng hợp, phân tích và so sánh, nhằm làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu. Bố cục của khoá luận, ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, bao gồm 3 chương chính: Chương 1 phân tích những nhân tố thúc đẩy sự ra đời của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc và tóm tắt quá trình hình thành khu vực này, đồng thời khái quát hoá những nội dung cơ bản nhất của Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc (FAACCEC). Chương 2 đi sâu phân tích những cơ hội và thách thức nói chung của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đối với các nước thành viên. Chương 3 là chương cuối cùng, tập trung vào những tác động của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đối với Việt Nam, từ đó đưa ra một số kiến nghị để thúc đẩy sự hội nhập của Việt Nam vào Khu vực mậu dịch tự do này. Dựa trên cơ sở nghiên cứu tài liệu và tiến hành tổng hợp, phân tích, so sánh, khoá luận đã có những cố gắng nhất định nhằm đưa ra một cái nhìn tổng quan về những cơ hội và thách thức đối với các nước thành viên, đặc biệt là đối với Việt Nam, một khi Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc được thành lập, từ đó đưa ra một số đề xuất để tăng cường sự hội nhập của Việt Nam vào Khu vực mậu dịch tự do này. Tuy vậy, do tính mới mẻ của đề tài cũng như những hạn chế về thời gian, kiến thức và tài liệu nghiên cứu, khoá luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của của các thầy cô và các bạn. Qua đây, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến cô giáo, Tiến sĩ Vũ Thị Kim Oanh, đã hướng dẫn và chỉ bảo tận tình cho em trong suốt thời gian thực hiện khoá luận. Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các cô, chú và anh, chị đang công tác tại Vụ hợp tác kinh tế đa phương (Bộ Ngoại giao), Trung tâm thông tin Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Trung tâm thông tin tư liệu thuộc Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), và Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc đã giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này. Hà nội, tháng 12/ 2003 Sinh viên Đinh Thị Việt Thu Chương 1: Quá trình hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) 1.1. Những nhân tố thúc đẩy sự hình thành ACFTA 1.1.1. Sự phát triển mạnh mẽ của các khu vực mậu dịch tự do (FTA) trên toàn cầu Nền kinh tế thế giới đã trải qua sự biến đổi chưa từng thấy trong nửa cuối những năm 1990. Đặc biệt, các hoạt động của các tập đoàn đã được toàn cầu hoá mạnh mẽ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), sự sáp nhập và mua lại (M&As) xuyên biên giới và thông qua các kênh giao dịch quốc tế khác nhau. Cùng với cuộc cách mạng công nghệ thông tin, luật chơi mới về cạnh tranh đã được thiết lập ở các lĩnh vực như kiểm soát quản lý, quản lý công nghệ, nội địa hoá và mối quan hệ giữa các hãng, tìm kiếm các nguồn lực bên ngoài và sử dụng các chính sách thương mại quốc tế. Mục đích và nội dung của các thoả thuận thương mại ưu đãi (PTA) cũng đã thay đổi mạnh mẽ. Trong quá trình hình thành khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) và Liên minh Châu Âu (EU) vào nửa đầu những năm 1990, cuộc thảo luận kinh tế về những quan điểm thuận và chống PTA phần lớn chỉ giới hạn ở những đánh giá mang tính lý thuyết và chiêm nghiệm về sức sáng tạo thương mại của J. Viner [1] và các tác động méo mó của thương mại. Tuy nhiên, không khí xung quanh ý tưởng chủ nghĩa khu vực đã thay đổi mạnh mẽ vào nửa cuối những năm 1990. Một đối tác tích cực là EU. Sau khi hoàn thành sự hội nhập sâu sắc giữa các nước thành viên, EU bắt đầu đàm phán một loạt khu vực mậu dịch tự do (FTA – Free Trade Area) với một số thành viên của Hội đồng thương mại tự do Châu Âu (EFTA), với các nước Đông Âu và các nước ven Địa Trung Hải. Các đối tác tích cực khác là những nước tương đối nhỏ bao gồm Mehico, Chile và Singapore. Những nước này đã đàm phán và ký kết một số FTA với cả những nước trong khu vực cũng như những nước cách xa về địa lý. Bị kích thích bởi các bước phát triển này, trong suốt những năm 80, Mỹ đã tích cực theo đuổi khả năng thành lập khu vực mậu dịch tự do với các nước khác ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương. Bước đi đầu tiên của nước này là việc đưa ra đề nghị thành lập khu vực mậu dịch tự do với Australia. Năm 1987, Mike Mansfield - đại sứ Mỹ tại Nhật Bản đã đưa ra đề nghị nghiên cứu khả năng thành lập Khu vực mậu dịch tự do Mỹ – Nhật Bản. Năm 1989, báo cáo cuối cùng về “Sáng kiến ASEAN – Mỹ” đã được cùng nghiên cứu và đưa ra kêu gọi thành lập khu vực mậu dịch tự do giữa ASEAN và Mỹ. Gần đây hơn, năm 1997, Mỹ đã đưa ra đề nghị thành lập khu vực mậu dịch tự do P5 (Pacific 5 – nhóm 5 nước ở Thái Bình Dương, bao gồm Australia, Chile, New Zealand, Singapore và Mỹ). Sang đến năm 2002, quá trình thành lập các khu vực mậu dịch tự do đã được Mỹ đẩy mạnh. Ngoài những FTA với Mehico, Canada, Jordan và Israel, trong năm 2003, Mỹ đã ký FTA với Singapore, Chile và các hiệp định khung về thương mại và đầu tư với Thái Lan, Philippines và Indonesia. Đầu tháng 6/ 2003, Mỹ cũng bắt đầu thương thảo để ký FTA với Liên hiệp quan thuế miền nam châu Phi (gồm các nước Nam Phi, Boswana, Lesotho, Namibia và Swaziland). Ngoài ra, Mỹ cũng đang xem xét khả năng ký kết FTA với Colombia và Bahrain (xem bảng 1). Bảng 1: Các khu mậu dịch tự do lớn của 1 số nước Các khu mậu dịch tự do đã ký kết Singapore Mehico Chile Mỹ EC/ EU * New Zealand, Nhật Bản, EFTA Mỹ và Canada (NAFTA), EU, EFTA, Chile, Israel, Các nước thuộc khối tam giác phía bắc (El Salvador, Honduras, Nicaragoa), Dominica, Nicaragoa, Costa Rica, Bolivia, G3. Canada, Mehico, Trung Mỹ (Costa Rica, El Salvador, Honduras, Guatamela, Nicaragoa), Venezuela, Columbia, Equdor, MERCOSUR, Peru, Bolivia Canada và Mehico (NAFTA), Israel, Jordan Malta, Cyprus, Andora, Thổ Nhĩ Kỳ, Thuỵ Sỹ, Liechtenstein, Ireland, Norway, Séc, Hungary, Ba Lan, Slovak, Rumania, Bulgaria, Lithuania, Estonia, Latvia, Faeroes, Slovenia, Mehico, Chile, Palestine, Tunisia, Israel, Jordan Các khu mậu dịch tự do đang đàm phán hay có kế hoạch bắt đầu đàm phán Mỹ, Mehico, Canada, Australia Singapore Mỹ, EU, EFTA, Hàn Quốc, Panama, Cuba, MERCOSUR Chile, FTAA, Singapore MERCOSUR, Các nước khối Andean (Bolivia, Columbia, Peru, Venezuela) Các khu mậu dịch tự do đang ở giai đoạn đề xuất Chile, EU, Hàn Quốc, Pacific 5 Nhật, New Zealand Nhật, Singapore, Pacific 5 Pacific 5 Nguồn: Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (METI), 2001, Theo Sách trắng về thương mại quốc tế của JETRO (Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản), cho đến tháng 5/ 2003 đã có khoảng 250 hiệp định mậu dịch tự do (FTA) song phương và khu vực đã được thông báo cho GATT/ WTO, trong đó có 130 hiệp định được thông báo sau tháng 1/ 1995. Khoảng trên 170 FTA đang có hiệu lực và 70 FTA khác đã có hiệu lực mặc dù chưa được thông báo cho WTO. Dự kiến đến cuối năm 2005, sẽ có 300 hiệp định mậu dịch tự do song phương và khu vực có hiệu lực [2]. Chính tổng giám đốc WTO Sapuchai Panitchpakdhi cũng phải thừa nhận xu thế đàm phán hiệp định mậu dịch tự do song phương và khu vực đã trở nên phổ biến, và nghi ngại rằng xu thế này có thể phá vỡ các hoạt động đa phương trong khuôn khổ WTO [3]. ở khu vực Đông á, tính đến tháng 12/ 2002 chỉ có 4 khu vực như vậy được ký kết (tham khảo Phụ lục 1), nhưng điều cần nói là xu hướng này mới chỉ xuất hiện ở Đông á từ năm 1999. Vào cuối năm 1998, Hàn Quốc đã đề nghị Nhật Bản nghiên cứu khả năng thành lập khu vực mậu dịch tự do giữa hai nước. Tháng 9/ 1999, Singapore đã nhất trí với New Zealand về việc bắt đầu đàm phán thành lập khu vực mậu dịch tự do, nước này cũng đưa ra đề nghị tương tự đối với các nước Chile, Mehico và Hàn Quốc. Tháng 10 năm đó, Singapore đã đưa ra đề nghị thiết lập quan hệ giữa Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) với Hiệp định quan hệ kinh tế gần gũi hơn giữa Australia và New Zealand (CER). Tháng 11 năm đó, Singapore bắt đầu đàm phán với Chile và tháng 12, nước này đề nghị đi đến một hiệp định với Nhật Bản. Chỉ đến năm 1999 và 2000, các cuộc đàm phán và nghiên cứu ở cấp chính phủ mới thật sự có được động lực, và đi tiên phong là Singapore khi nước này đưa ra sáng kiến đàm phán và nghiên cứu về khu vực mậu dịch tự do với một loạt các nước khác trong khu vực. Khái niệm về khu vực mậu dịch tự do đại Đông á (EAFTA) đã được đưa ra thảo luận tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN + 3 tổ chức vào tháng 12/ 2000 và các nước đã đi đến nhất trí thành lập một nhóm nghiên cứu về vấn đề này. Năm 2001, Singapore và New Zealand đã đạt được thoả thuận và đó là khu vực mậu dịch tự do đầu tiên ở Đông á phù hợp với Điều 24 của Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT). Tháng 11 năm đó, ASEAN và Trung Quốc đã đi đến thoả thuận về nguyên tắc đối với việc thành lập 1 khu vực mậu dịch tự do giữa các nước ASEAN và Trung Quốc trong vòng 10 năm. Lý do khiến cho hàng loạt FTA nói trên được ký kết là bởi lẽ thực tế đã cho thấy, ở một mức độ nhất định, nguồn lợi mà FTA mang lại cho các quốc gia là rất lớn: Thứ nhất, về phạm vi điều chỉnh, các FTA gần như bao gồm toàn bộ các lĩnh vực trong quan hệ kinh tế thương mại giữa các thành viên: không chỉ thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, … mà cả các vấn đề khác như du lịch, thương mại điện tử, doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát thanh truyền hình … (tham khảo Phụ lục 2). Với phạm vi bao quát rộng như vậy, FTA sẽ đem lại nhiều lợi ích như mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo công ăn việc làm, xúc tiến đầu tư và chuyển giao công nghệ, tăng cường đàm phán đối với một nước thứ ba. Hơn thế nữa, tự do thương mại thông qua FTA sẽ càng làm tăng sức cạnh tranh của các nhà xuất khẩu và các tổ chức thương mại của các nước thành viên, tạo điều kiện cho họ dễ dàng thành công trong các vòng đàm phán đa phương. Với ý nghĩa như vậy, FTA chính là cánh cửa để một nước hội nhập thương mại với thế giới, khởi đầu cho quá trình tự do hoá cạnh tranh, từ đó các nước có nhiều cơ hội để lựa chọn đối tác thích hợp. Thứ hai, mức độ điều chỉnh của các FTA sâu rộng hơn rất nhiều so với WTO, với những ưu đãi cao nhất, tạo điều kiện thuận lợi tiến tới tự do hoá tối đa và triệt tiêu hoàn toàn những trở ngại đối với thương mại hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, đặc biệt là vấn đề triệt tiêu thuế suất nhập khẩu xuống 0% và các ưu đãi mở cửa thị trường đầu tư. Ngoài ra, bản chất của các FTA không chỉ đơn thuần là việc tự do hoá thương mại, mà còn bao gồm cả việc hợp tác trong tất cả các lĩnh vực ngoài thương mại, ví dụ: hợp tác trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực, hợp tác trong việc phát triển công nghệ thông tin, đơn giản hoá thủ tục hải quan, xúc tiến thương mại và đầu tư, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, … Nói cách khác, do hầu hết các FTA, đặc biệt là những FTA mới được ký kết gần đây, đã đa dạng hoá nội dung bên cạnh nội dung loại bỏ thuế quan và tự do hoá khu vực dịch vụ nên mỗi khi con đường đa phương bị tắc nghẽn hay cản trở, các nước liền tìm đến những dàn xếp song phương hay khu vực. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là các FTA luôn đi ngược lại với tiến trình của các vòng đàm phán đa phương, bởi cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào chứng minh được các Khu vực mậu dịch tự do hỗ trợ hay ngăn cản tự do hoá thương mại trên phạm vi toàn cầu. Nhưng có thể thấy thành viên của hai khối mậu dịch tự do lớn nhất là EU và NAFTA đều là thành viên của WTO mà nguyên tắc cơ bản của tổ chức này là tối huệ quốc (không phân biệt đối xử) được nêu rõ ở điều khoản I, nên khả năng các FTA ngăn cản tiến trình tự do hoá toàn cầu là khó xảy ra. Thật vậy, tuy GATT và WTO đề cao nguyên tắc không phân biệt đối xử trong ngoại thương nhưng vẫn có những điều khoản cụ thể cho phép các thành viên tham gia FTA, với điều kiện phải thông báo về những FTA đó. Điều 24 của GATT quy định về việc thành lập và hoạt động của FTA và liên hiệp thuế quan đối với trao đổi hàng hoá. Điều 5 của GATS (Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ) cho phép lập các FTA về trao đổi dịch vụ. Ngoài ra còn có một điều khoản đặc biệt cho phép ký kết FTA về trao đổi hàng hoá giữa các thành viên là nước đang phát triển. Các quy định này có thể không bắt buộc trong các vụ giải quyết tranh chấp nhưng có tác dụng như là nguyên tắc ứng xử ở một chừng mực nào đó. Tuy nhiên, còn vượt xa phạm vi của những điều khoản này là việc không tồn tại bất kỳ một quy định chính sách nào khác được quốc tế thừa nhận. Vì thế, các thoả thuận khu vực có thể chứa đựng hầu hết các vấn đề vượt xa thương mại hàng hoá và dịch vụ. Nói cách khác, ở một mức độ nhất định, các FTA có tính bổ sung cho WTO trong việc tự do hoá thương mại. Chính vì vậy, giới học giả Nhật cho rằng các FTA nên theo mô hình WTO – cộng, nghĩa là bao gồm nhiều lĩnh vực hơn và mức độ sâu rộng hơn. Tại Hội nghị thách thức và cơ hội đối với việc hợp tác khu vực APEC ngày 16/ 5/ 2003 tại Tokyo (Nhật Bản), Đại sứ Singapore tại Nhật Bản cũng nêu rõ: “Tự do hoá thương mại theo WTO không có được nhiều bước tiến trong những năm gần đây do WTO có quá nhiều thành viên. Trong bối cảnh như vậy, các hiệp định tự do khu vực và song phương sẽ là cơ chế bổ sung tốt cho tiến trình đa phương” [3]. Như vậy, FTA là cách tiếp cận tốt thứ nhì đối với tự do hoá mậu dịch nhưng là giải pháp khả thi nhất trong một thế giới đa dạng. Tuy nhiên, FTA chỉ trở thành những viên đá lát đường cho toàn cầu hoá khi nó phải đảm bảo rằng ảnh hưởng do thương mại tăng lên (trade creation) lớn hơn ảnh hưởng do thương mại giảm đi (trade diversion) [1]. Đến khi đó, FTA sẽ có thể trở thành một đòn bẩy thúc đẩy chủ nghĩa đa phương và tự do thương mại toàn cầu và cuối cùng, chủ nghĩa khu vực mới sẽ đi vào liên kết kinh tế theo chiều sâu. Một điểm lợi nữa của FTA là trong quá trình hình thành mạng lưới các FTA, mối liên hệ với đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và cải cách kinh tế trong nước đã đặc biệt được chú trọng. Các FTA được xem như là các công cụ chính sách để giới hạn hay thúc đẩy cải cách trong nước cũng như thu hút FDI hơn là trông chờ có được các tác động trực tiếp to lớn của giảm thuế quan. Trên thực tế, Mehico đã được hưởng những tác động tích cực rõ ràng của NAFTA đối với cả việc thu hút FDI và việc giới hạn cải cách cơ cấu trong nước. Các nước Đông Âu đã cố gắng giới hạn quá trình chuyển đổi mạnh mẽ các hệ thống kinh tế của họ và một số nước trong số họ đã rất thành công trong việc thu hút FDI. Thêm vào nữa, các nước đã bắt đầu cảm nhận được rằng cái giá của việc không phải là thành viên của bất kỳ thoả thuận khu vực nào là có thật. Giá ở đây gồm sự mất đi thế đàm phán trong các cuộc đàm phán đa phương, bỏ lỡ các cơ hội hưởng lợi từ bên ngoài và sự chậm trễ nói chung trong việc sử dụng hiệu quả làn sóng toàn cầu hoá. Mehico, Chile và Singapore muốn rằng họ trở thành trung tâm mạng lưới FTA và hưởng lợi ích của sự kết nối. Một nước trung tâm có các lợi thế tiềm năng đối với các nước khác ở đầu bên kia trong việc hình thành các luồng thương mại và mạng lưới sản xuất thông qua FDI. Một tài sản quan trọng của các thoả thuận FTA trong bối cảnh này là một nước (ví dụ Mehico) có thể ký kết một FTA mới (ví dụ với EU) mà không cần thay đổi bất cứ thoả thuận FTA cũ nào (ví dụ NAFTA). Nói tóm lại, chính do những lợi điểm kể trên mà việc mở rộng liên kết, thiết lập các Khu vực mậu dịch tự do đã trở thành hướng đi được các nước chú trọng nhằm khai thác tốt nhất lợi thế so sánh của từng quốc gia, tạo ra sân chơi hấp dẫn đầy tiềm năng đáp ứng lợi ích của tất cả các bên có liên quan. Tuy vậy, các FTA cũng đặt ra 1 số vấn đề đáng quan tâm: Thứ nhất, các chính phủ hiện theo đuổi FTA như là 1 công cụ trong chính sách thương mại gồm nhiều tầng nấc đan xen nhau, gồm cả song phương, khu vực và đa phương. Đối với từng chính phủ, chính sách này đòi hỏi rất nhiều nguồn lực, kể cả con người và vật chất, do đó có thể trở thành gánh nặng, nhất là đối với các nước đang phát triển; còn đối với WTO, quá nhiều FTA mà không có sự điều phối thoả đáng thì điều này có thể đe dọa sẽ làm đổ vỡ tiến trình Doha. Chính vì vậy, Tổng giám đốc WTO, Tiến sĩ Sapuchai Panitchpakdhi, đã phải thừa nhận rằng: “FTA là con dao hai lưỡi và là nguyên nhân làm chậm tiến trình toàn cầu hoá” [4]. Thứ hai, hầu như tất cả các FTA hình thành trong thời gian gần đây đều có nội dung toàn diện, không chỉ giải quyết các rào cản tại biên giới quốc gia như các FTA truyền thống mà còn bao trùm các lĩnh vực dịch vụ và sở hữu trí tuệ, đặc biệt cả đầu tư và thương mại điện tử, … là những lĩnh vực chưa có quy định quốc tế chung. Câu hỏi đặt ra là liệu các cam kết mang tính ràng buộc trong những lĩnh vực mới đó có thật sự phù hợp và thuận lợi, hay trên thực tế chúng lại đặt ra những rào cản mới cho các nước bên ngoài và tác động tiêu cực đến tiến trình đàm phán đa phương về các lĩnh vực này. Ngoài ra, còn phải kể đến những vấn đề truyền thống đặt ra cho FTA nói chung, nhất là về khả năng tác động giảm bớt thương mại của các nước không tham gia FTA. Thứ ba, nhiều nước tham gia FTA dường như chỉ nhằm mục đích tự vệ để tránh bị gạt ra ngoài, chứ hoàn toàn không theo 1 chiến lược bài bản, khiến tình hình FTA nói chung trên thế giới ngày càng phức tạp, đặc biệt tại Đông á. Nhật Bản và Malaysia cách đây không lâu còn rất bàng quan, giờ đã trở thành những nước ráo riết tìm kiếm FTA song phương, chủ yếu vì lo ngại các nước khác có FTA sẽ chiếm mất thị trường truyền thống của họ. Thứ tư, mặc dù các FTA song phương nhìn chung đều mang tính mở cửa hơn so với WTO, song vẫn không giải quyết được những lĩnh vực hoặc những ngành hàng nhạy cảm của từng nước. Nông – lâm – ngư nghiệp của Nhật Bản là 1 thí dụ rõ rệt nhất. Nhật Bản đã chọn Singapore làm đối tác đàm phán FTA đầu tiên vì quốc đảo Đông Nam á này hầu như không xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp, vậy mà xuất khẩu cá vàng (gold fish) của Singapore vẫn là một vấn đề lớn trong tiến trình đàm phán giữa 2 nước. Liên quan đến vấn đề này, cũng cần chỉ ra rằng vì các FTA song phương thường được thiết kế sao cho phù hợp với điều kiện cụ thể của hai nước liên quan, cho nên chúng rất khó có thể mở cho các nước khác cùng tham gia, trừ khi là phải xây dựng một hiệp định mới. Thứ năm, liên quan đến thương mại hàng hoá là lĩnh vực quan trọng nhất song hầu hết các FTA quy định về xuất xứ trong các hiệp định thường rất khác nhau. Nếu một nước tham gia nhiều FTA song phương, mà quy tắc xuất xứ của một loại hàng hoá nào đó lại khác nhau trong từng hiệp định, thì doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng đó chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn; về phía chính phủ, cơ quan hải quan cũng sẽ vất vả. Nói tóm lại, lợi ích của các FTA, ngay cả trong ngắn hạn, luôn gắn liền với thương mại và đầu tư. Do đó, chừng nào lượng việc làm do đầu tư nước ngoài tạo ra còn bù được cho những mất mát của các ngành công nghiệp không cạnh tranh được với hàng nhập khẩu thì tham gia FTA vẫn có thể có ích cho toàn xã hội. 1.1.2. Sức mạnh kinh tế mới của Trung Quốc và sự hấp dẫn của khu vực kinh tế năng động ASEAN. Đây cũng là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự hình thành của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc. Tăng trưởng kinh tế đã từng là thành tích đầy ấn tượng của Trung Quốc và phần lớn các nước ASEAN trong 3 thập kỷ vừa qua. Cả Trung Quốc và ASEAN đều theo đuổi chiến lược tăng trưởng hướng về xuất khẩu và đã đạt được các tỷ lệ tăng trưởng cao hơn nhiều tỷ lệ trung bình của thế giới. Kể từ khi mở cửa ra bên ngoài, tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đạt hơn 10% hàng năm. Vào những năm 90, Trung Quốc tăng trưởng ở mức cao nhất trên thế giới. Tổng tiết kiệm nội địa và tổng đầu tư trong thập kỷ cuối đạt lần lượt hơn 40% và 34% GDP. Thành tích trong khu vực đối ngoại cũng rất gây ấn tượng, xuất khẩu tăng ở mức trung bình hàng năm hơn 15%, dự trữ quốc tế của Trung Quốc năm 1997 đạt hơn mức nhập khẩu tương đương của 12 tháng. Vốn nước ngoài chủ yếu là đầu tư trực tiếp nước ngoài, đã tăng 275 lần trong giai đoạn từ năm 1983 đến 1986 [5]. Thâm hụt ngân sách và tỷ lệ lạm phát khá cao trong nửa đầu những năm 90 do sự thịnh vượng kinh tế, đã dần hạ xuống từ năm 1996. Các yếu tố vĩ mô cơ bản (xem bảng 2), cùng với việc không quy đổi của đồng tiền đã lý giải tại sao Trung Quốc không bị tác động trực tiếp của khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1997 giống như các nước châu á khác. Bảng 2: Một vài chỉ số kinh tế vĩ mô của Trung Quốc Đơn vị: % Tỷ lệ tăng trưởng 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998* GDP thực 3.84 9.19 14.24 13.49 12.66 10.55 9.54 8.80 7.80 Lạm phát 3.06 3.54 6.34 14.60 24.20 16.90 8.30 2.80 -0.90 Xuất khẩu 19.20 14.36 18.07 8.76 35.56 24.91 17.93 20.91 Nhập khẩu -13.28 18.47 28.32 34.06 10.38 15.52 19.52 3.73 *: cho đến tháng 11/ 1998 Nguồn: J.Lim, “Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc và hệ luỵ của nó đối với ASEAN” – Báo cáo nghiên cứu của Hệ thống các trung tâm nghiên cứu APEC của Philippines (PASCN), 2001. Từ bảng trên có thể thấy tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc tăng khá đều qua các năm, bình quân đạt 7 – 8%/ năm, đặc biệt vào năm 1997 – 1998, trong khi các nước Châu á đang điêu đứng vì khủng hoảng thì Trung Quốc vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. Xuất khẩu và nhập khẩu đều có sự tăng trưởng theo hướng cán cân thương mại ngày càng nghiêng về phía xuất khẩu. Cùng với sự tăng trưởng cao của GDP và ngoại thương, tốc độ lạm phát cũng được điều tiết khá hiệu quả, giảm dần qua các năm, cho thấy chính sách quản lý vĩ mô của Trung Quốc rất tốt. Tính chung trong cả giai đoạn kể từ khi bắt đầu thực hiện chính sách cải cách và mở cửa vào năm 1978 đến năm 2001, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của Trung Quốc là 9.3%/ năm, và tăng trưởng thương mại đạt 15%/ năm. Nói cách khác, trong 23 năm qua, GDP và ngoại thương của Trung Quốc đã tăng tương ứng 8 và 25 lần [6]. Dự trữ ngoại tệ năm 2001 vượt 250 tỷ USD, đứng thứ hai trên thế giới. Cơ cấu ngành nghề biến đổi nhanh: tỷ trọng nông nghiệp chỉ còn 15% trong GDP, dịch vụ đã lên tới 33.6%; dự trữ lương thực, dầu thô tăng đáng kể [7]. Hiện nay, Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn thứ 7 thế giới tính theo tỷ giá hối đoái chính thức, và lớn thứ 2 nếu tính theo sức mua [6]. Nhờ kinh tế tăng trưởng nhanh, Trung Quốc đã giảm mạnh được số người sống dưới ngưỡng nghèo đói. Đồng thời, Trung Quốc đã không chỉ phát triển được nền kinh tế của mình mà còn có nhiều đóng góp đối với các nền kinh tế Châu á. Ví dụ, trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á 1997, Trung Quốc đã không phá giá đồng NDT và do vậy đã giúp các nước bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tránh được tình trạng phá giá để cạnh tranh, phần nào giúp các nước nhanh chóng phục hồi sau khủng hoảng. Bước sang năm 2002, một năm sau khi Trung Quốc chính thức gia nhập WTO, mặc dù bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều nhân tố bất lợi cho sự phát triển nhưng nền kinh tế Trung Quốc vẫn có một năm đầy sức sống với những thay đổi tích cực của đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu (xem biểu đồ 1). Biểu đồ 1: Tốc độ tăng trưởng các chỉ số kinh tế vĩ mô của Trung Quốc năm 2002 Đơn vị: % Nguồn: Cục Thống kê Trung Quốc (NBS) [8]. Từ biểu đồ trên có thể thấy, mức tăng trưởng kinh tế Trung Quốc năm 2002 đạt 8%, cao hơn so với mức dự báo đầu năm là 7% và mức tăng 7.3% của năm 2001. Đặc điểm của sự tăng trưởng kinh tế Trung Quốc năm 2002 là mức tăng trưởng GDP theo quý khá đều đặn: quý I tăng 7.6%; quý II tăng 8%; quý III tăng 8.1%. Tổng GDP trong cả năm đạt 10,000 tỷ NDT, tương đương 1,248 tỷ USD [8]. Cùng với sự tăng trưởng của GDP, kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc năm 2002 cũng tăng gấp khoảng 30 lần so với cách đây 24 năm, khi nước này bắt đầu cải cách và mở cửa. Năm 1978, kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc đạt 20.6 tỷ USD, đứng thứ 32 trong danh sách ngoại thương toàn cầu. Năm 2001, với 509.8 tỷ USD, Trung Quốc trở thành nước buôn bán lớn thứ 6 trên thế giới. Sau một năm gia nhập WTO, kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc năm 2002 tăng 22.3% so với năm trước, đạt 325.57 tỷ USD, lần đầu tiên vượt ngưỡng 300 tỷ USD. Tổng kim ngạch ngoại thương năm 2002 đạt 620.79 tỷ USD, tăng 17.6%, xếp hàng thứ 5 thế giới; trong đó thặng dư mậu dịch là 30.35 tỷ USD, tăng 34.6 %, mức cao nhất trong 4 năm qua [9]. Thu hút vốn FDI tăng bình quân 14.2%/ năm, liên tục 9 năm liền đứng hàng đầu các nước đang phát triển, đã có 400 trên tổng số 500 công ty hàng đầu thế giới đặt cơ sở tại Trung Quốc [7]. Trong những năm 1980, FDI vào Trung Quốc chỉ là 2 – 3 tỷ USD/ năm. FDI chỉ bắt đầu tăng mạnh từ những năm 1992 – 1993, Trung Quốc trở thành nước tiếp nhận FDI lớn nhất trong số các nước đang phát triển (tham khảo Phụ lục 3). Năm 2002, đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 8.7%, lần đầu tiên vượt Mỹ, đạt mức kỷ lục 52.7 tỷ USD, Trung Quốc trở thành nước tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều nhất thế giới. Tính trung bình cả giai đoạn, Trung Quốc thu hút khoảng 45 tỷ USD vốn/ năm, đứng đầu trong các nước đang phát triển và đứng thứ hai thế giới, chỉ sau Mỹ [6]. Sự tăng trưởng liên tục của xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đem lại cho Trung Quốc một nguồn dự trữ ngoại tệ dồi dào. Tính đến cuối năm 2002, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc đạt 274 tỷ USD, tương đương tổng giá trị nhập khẩu của cả nước trong 10 tháng, tăng xấp xỉ 30% so với mức 212.1 tỷ USD vào cuối năm 2001 [8]. Tính trung bình trong thời gian 5 năm (1997 – 2002), dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc đã tăng 104.7%, từ 139.9 tỷ USD lên tới 286.4 tỷ USD, đưa nước này trở thành nước có mức dự trữ ngoại tệ lớn thứ hai trên thế giới, sau Nhật Bản [10]. Nguồn dữ trữ ngoại tệ lớn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với một quốc gia đang phát triển như Trung Quốc, nhất là trong thời điểm hiện nay, khi tỷ giá hối đoái của đồng NDT trên thị trường thế giới rất thấp và không thể chuyển đổi thành vàng được. Bên cạnh đó, nợ nước ngoài của Trung Quốc tiếp tục giảm. Tính đến cuối tháng 6/ 2002, số dư nợ đứng ở mức 160 tỷ USD. Số tiền gửi tiết kiệm của cư dân vào cuối tháng 10/ 2002 đạt 9,200 tỷ NDT (tương đương 1,100 tỷ USD). Tiền gửi của cư dân tăng do thu nhập tăng nhanh: mức GDP bình quân theo đầu người của Trung Quốc tăng từ 787 USD năm 1999 lên 853 USD năm 2000 và đạt 961 USD năm 2002 (tăng 6%) [8]. Cùng với Trung Quốc, các nước ASEAN cũng bắt đầu thực hiện việc nới lỏng chính sách và các biện pháp tự do hoá trong những năm 1990. ASEAN là tổ chức đầu tiên tại Đông á thực hiện các FTA khu vực, đầu tiên là dưới hình thức PTA rồi sau đó là khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) để đáp lại các thách thức của các thị trường đang được toàn cầu hoá nhanh chóng. Tuy khá toàn diện hơn so với PTA, song bản chất tự nguyện của AFTA tiếp tục gạt ra ngoài những khu vực nhạy cảm về chính trị như nông nghiệp và ô tô. Không có bước tiến hay mục tiêu cụ thể nào được đề ra để đạt được ranh giới thời gian 15 năm của AFTA. So với những FTA khu vực khác, như thoả thuận dày hơn 1000 trang của NAFTA, AFTA chỉ có 15 trang. Một số những người chỉ trích ban đầu hoài nghi chủ trương “Nhất trí trước, đàm phán sau” (AFTA – Agree first, Talk after) sẽ có hiệu quả; chỉ có ít người hy vọng vào thành công của AFTA. Tuy nhiên, trong thập kỷ qua, AFTA đã chứng tỏ rằng, tuy khởi đầu uể oải, song nó đã có thể và sẵn sàng thích nghi với nền kinh tế thế giới đang thay đổi liên tục cũng như những tình huống nội bộ. AFTA trước tiên đã thay đổi tốc độ sau hai diễn biến quan trọng bên ngoài: việc ký kết Thoả thuận chung về thuế quan và các vòng đàm phán mậu dịch Uragoay năm 1993 và Tuyên bố Bogor năm 1994 về cam kết tự do hoá thương mại và đầu tư của các nước thành viên._. APEC, lần lượt vào năm 2010 và 2020, cho các nền kinh tế phát triển và đang phát triển. ASEAN đã đẩy nhanh mục tiêu thành lập AFTA từ ngày 1/ 1/ 2005 sang ngày 1/ 1/ 2003. Sự thay đổi tiếp theo là sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997. Bất chấp những động cơ chính trị mạnh mẽ đòi đảo ngược tiến trình tự do hoá, năm 1998, tổ chức đang phải vất vả để đối phó với hậu khủng hoảng về kinh tế này vẫn thông qua một loạt biện pháp táo bạo, trong đó có thoả thuận của 6 nước đầu tiên ký AFTA đẩy sớm lên một năm nhiều khoản cắt giảm thuế quan trước đó đã được hoạch định vào năm 2003. Hơn nữa, 5 nước ASEAN gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan cùng ký kết Hiệp định công nghệ thông tin (ITA) và vì thế có kế hoạch giảm thuế MFN đối với một số mặt hàng có sự tăng trưởng nhanh nhất trong tổng thương mại của họ. Như vậy, bức thông điệp của ASEAN gửi tới thế giới đầy quyết tâm và rõ ràng: họ muốn thương mại tự do cả trong hoàn cảnh thuận lợi và khó khăn. Sự quyết tâm đó của ASEAN đã đem lại những kết quả đáng kể. Mức thuế quan trung bình giữa các nước ASEAN được giảm từ 111.4% năm 1993 xuống còn 3.2% năm 1998 [11]. Tổng số vốn đầu tư nước ngoài ASEAN thu hút trong giai đoạn này đạt 132 tỷ USD. Đầu tư nước ngoài vào ASEAN năm 2000 đã tăng 30% so với năm 1999, từ 21.8 tỷ USD lên 28.4 tỷ USD [12] (tham khảo thêm Phụ lục 3). Cùng với triển vọng về đầu tư bước đầu được cải thiện, thương mại của ASEAN năm 2000 cũng tăng 19.9% với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 423.6 tỷ USD so với 353.3 tỷ USD của năm 1999; tổng kim ngạch nhập khẩu tăng 22.8%, đạt 360.1 tỷ USD so với 293.1 tỷ USD của năm 1999 (xem bảng 3). Xuất khẩu trong nội bộ ASEAN tăng 27%, đạt 97.8 tỷ USD năm 2000 [11]. Bảng 3: Tổng giá trị ngoại thương của ASEAN (1999 – 2000) Đơn vị: triệu USD Nước (*) Xuất khẩu Nhập khẩu 1999 2000 Sự thay đổi 1999 2000 Sự thay đổi Giá trị % Giá trị % Bruney 2,240.7 2,169.1 -71.6 -3.2 1,720.4 1,067.6 -652.8 -37.9 Indonesia 48,665.5 62,124.0 13,458.5 27.7 24,003.3 33,514.8 9,511.5 39.6 Malaysia 84,287.9 98,154.5 13,866.6 16.5 63,677.8 79,647.5 15,969.7 25.1 Myanmar 738.0 1,193.8 455.8 61.8 1,883.0 2,219.4 336.4 17.9 Philippines 35,036.9 38,078.2 3,041.3 8.7 30,742.5 31,387.4 644.9 2.1 Singapore 114,625.1 138,352.5 23,727.4 20.7 110,998.0 134,680.1 23,682.1 21.3 Thái Lan 56,110.9 69,254.1 13,143.2 23.4 48,318.0 61,905.8 13,587.8 28.1 Việt Nam 11,541.0 14,308.0 2,767.0 24.0 11,742.0 15,635.0 3,893.0 33.2 Tổng 353,346.0 423,634.0 70,288.0 19.9 293,085.0 360,057.6 66,972.6 22.9 (*): Thiếu số liệu của Campuchia và Lào Nguồn: Hội nghị lần thứ 15 của Hội đồng AFTA về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN, tháng 9/ 2001 (bản tiếng anh), Ban thư ký ASEAN (www.aseansec.org). Mặc dù năm 2000 thương mại của ASEAN tăng trưởng rất khả quan so với thời kỳ khủng hoảng năm 1997 song bước sang năm 2001, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế ở Mỹ và EU cũng như sự suy thoái của cường quốc kinh tế khu vực Nhật Bản, xuất khẩu của ASEAN năm 2001 giảm xuống còn 366.8 tỷ USD [13]. Năm 2002, mặc dù kinh tế thế giới phục hồi chậm chạp nhưng các nền kinh tế ASEAN vẫn đạt mức tăng trưởng khá cao. Theo đánh giá của Ngân hàng phát triển Châu á (ADB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), tăng trưởng kinh tế của toàn khu vực Đông Nam á là 4.1%, tăng khoảng 2 lần so với mức tăng 2% của năm 2001 và gần đạt mức tăng 4.6% của năm 2000 [8] (xem biểu đồ 2). Cùng với sự tăng trưởng của GDP, năm 2002, tổng kim ngạch xuất khẩu của các nước ASEAN cũng tăng 2.9%, đạt trên 381 tỷ USD và tổng kim ngạch nhập khẩu tăng 2.5%, đạt trên 325 tỷ USD. Riêng quý I/ 2003, tổng xuất khẩu tăng gần 15.7% so với cùng kỳ năm 2002, đạt 86.76 tỷ USD [14]. Biểu đồ 2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2002 của các nước ASEAN Đơn vị: % Nguồn: ADB; IMF World Economic Outlook, 2002. Thương mại nội khối ASEAN cũng có xu hướng tăng. Tuy xuất khẩu nội khối trong 3 quý đầu năm 2002 giảm 1.5% và nhập khẩu nội khối tăng 3% [13] song sự tăng trưởng mạnh của thương mại nội khối trong quý 4 đã làm thay đổi cả diện mạo của ngoại thương ASEAN năm 2002. Xuất khẩu nội khối trong cả năm tăng 2.2%, đạt 86.34 triệu USD và nhập khẩu nội khối tăng 8.1%, đạt 73.12 triệu USD [14]. Trong các đối tác thương mại của ASEAN, Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc (bao gồm cả Hồng Kông) và Hàn Quốc là các thị trường xuất khẩu lớn nhất của ASEAN. Về nhập khẩu thì Nhật Bản là nước nhập nhiều nhất từ ASEAN, sau đó đến Mỹ, EU, Trung Quốc (bao gồm cả Hồng Kông) và Hàn Quốc. Trong 3 quý đầu năm 2002, xuất khẩu của ASEAN sang Mỹ, EU và Nhật Bản giảm đi trong khi xuất khẩu sang Trung Quốc và Hàn Quốc lại tăng lên rất cao, lần lượt là 18.7% và 3.3% [13], cho thấy vai trò của Trung Quốc nói riêng và Đông á nói chung đối với ngoại thương của ASEAN ngày càng được nâng cao. 1.1.3. Những thành tựu hợp tác giữa ASEAN và Trung Quốc 1.1.3.1. Hợp tác về thương mại: Trung Quốc coi việc củng cố quan hệ hợp tác thương mại và kinh tế là một kênh quan trọng cho việc duy trì hoà bình và an ninh trong khu vực. Do vậy, Trung Quốc đã và đang tích cực tham gia vào tất cả các hình thức hợp tác kinh tế khu vực và nỗ lực nhằm mở những hướng hợp tác khu vực mới với các nước ASEAN. Gần đây, ASEAN và Trung Quốc đã dành được tiến bộ đáng kể trong việc thực hiện các chương trình hợp tác trên các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là thương mại quốc tế, một động lực to lớn đối với sự phát triển kinh tế của cả hai bên. Bảng 4: Thương mại song phương giữa ASEAN và Trung Quốc Đơn vị: Tỷ USD Năm Tổng kim ngạch thương mại Xuất khẩu của Trung Quốc sang ASEAN Nhập khẩu của Trung Quốc từ ASEAN Tốc độ tăng trưởng (%) Thị phần của ASEAN trong thương mại của Trung Quốc Thị phần của Trung Quốc trong thương mại của ASEAN Tổng Kim ngạch thương mại Xuất khẩu sang ASEAN Nhập khẩu từ ASEAN 1991 7.96 4.14 3.82 19.6 10.6 29.3 5.8 2.1 1992 8.47 4.26 4.21 6.4 3.0 9.9 1993 10.68 4.68 6.00 2.1 9.8 42.5 1994 13.21 6.38 6.83 23.5 36.2 13.6 1995 18.44 9.04 9.40 39.4 41.6 37.4 1996 20.40 9.70 10.70 4.6 -0.5 9.8 1997 24.36 12.03 12.33 19.4 24.0 15.2 1998 23.48 10.92 12.56 -6.2 -13.6 1.2 1999 27.04 12.17 14.87 14.9 11.1 18.2 2000 39.52 17.34 22.19 46.2 42.5 49.2 8.3 3.9 2001 41.61 18.39 23.22 5.3 6.0 4.7 Nguồn: Tổng cục Hải quan Trung Quốc [16]. Bảng 4 cho thấy bình quân hàng năm từ năm 1995 đến nay, kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc và ASEAN tăng 15%/ năm. Khối ASEAN đã trở thành đối tác thương mại lớn thứ 5 của Trung Quốc (sau Nhật Bản, Mỹ, EU và Hàn Quốc) (tham khảo thêm Phụ lục 4) và Trung Quốc đã trở thành thị trường lớn thứ 6 của khối ASEAN [15]. Vào năm 2000, thương mại giữa ASEAN và Trung Quốc đạt con số kỷ lục là 39.5 tỷ USD, với tốc độ tăng trưởng là 45,3%. Sang năm 2001, trong bối cảnh kinh tế thế giới tăng trưởng chậm, thương mại giữa hai bên vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng. Thương mại song phương tăng 5.3%, đạt 41.6 tỷ USD; trong đó xuất khẩu của Trung Quốc sang ASEAN tăng từ 4.1 tỷ USD năm 1991 tới 18.4 tỷ USD năm 2001 và nhập khẩu của Trung Quốc từ ASEAN tăng từ 3.8 tỷ USD lên 23.2 tỷ USD trong cùng thời gian đó [16] (tham khảo thêm Phụ lục 5). Cùng với sự tăng trưởng của kim ngạch thương mại song phương, cơ cấu thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN đã được cải thiện từng bước với tỷ trọng các sản phẩm mới và công nghệ cao tăng dần. Năm 2001, Trung Quốc đã xuất khẩu 4.7 tỷ USD sản phẩm công nghệ cao sang ASEAN và nhập 797 triệu USD sản phẩm công nghệ cao từ ASEAN [15]. Năm 2002, theo thống kê của Hải quan Trung Quốc, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Trung Quốc với ASEAN đã đạt 54.77 tỷ USD, tăng 31.7% so với năm 2001, chiếm 8.8 % tổng kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc (tỷ lệ này năm 1991 chỉ đạt 5.85%) [17]. Cũng trong năm này, Trung Quốc đã tuyên bố thi hành Kế hoạch giảm nợ cho Châu á, theo đó sẽ giảm hoặc xoá nợ cho 6 nước Châu á, trong đó có Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam. Điều này là minh chứng rõ ràng cho cơ sở và tiềm năng của sự hợp tác trong tương lai. Trong 6 tháng đầu năm 2003, theo số liệu thống kê của Bộ thương mại Trung Quốc (MOC) công bố ngày 17/ 8/ 2003, kim ngạch buôn bán giữa ASEAN và Trung Quốc đạt 34.24 tỷ USD, tăng 45.3% so với cùng kỳ năm ngoái; trong đó xuất khẩu từ ASEAN sang Trung Quốc đạt 20.47 tỷ USD, tăng 55.5% và xuất khẩu của Trung Quốc sang ASEAN đạt 13.77 tỷ USD, tăng 32.4%. Cũng theo dự kiến của MOC, kim ngạch buôn bán ASEAN - Trung Quốc cả năm nay sẽ đạt hơn 70 tỷ USD [18]. 1.1.3.2. Hợp tác về đầu tư: Đầu tư của ASEAN vào Trung Quốc: Biểu đồ 3: Đầu tư của ASEAN vào Trung Quốc giai đoạn 1991 – 2001 Đơn vị: Tỷ USD Nguồn: Bộ Ngoại thương và Hợp tác kinh tế Trung Quốc (MOFTEC) [16]. Từ biểu đồ 3 có thể thấy ASEAN là một nguồn quan trọng cung cấp FDI cho Trung Quốc. Từ năm 1991 đến 2000, đầu tư của ASEAN vào Trung Quốc tăng trung bình 28%/ năm. Năm 1991, đầu tư của ASEAN ở Trung Quốc chỉ là 90 triệu USD trong khi con số này đạt 4.2 tỷ USD năm 1998. Do cuộc khủng hoảng kinh tế, đầu tư của ASEAN ở Trung Quốc giảm xuống 3.3 tỷ USD và 2.8 tỷ USD vào năm 1999 và 2000 [16]. Nhờ vào sự phục hồi kinh tế, đầu tư của ASEAN ở Trung Quốc ngày một tăng. Theo số liệu của Bộ Ngoại thương và Hợp tác kinh tế Trung Quốc (MOFTEC), vào cuối năm 2001, tổng đầu tư của ASEAN vào Trung Quốc bao gồm 17.972 dự án với giá trị cam kết là 53.5 tỷ USD (chiếm 7.2% tổng FDI vào Trung Quốc), và giá trị giải ngân là 26.2 tỷ USD (6.1% tổng FDI của Trung Quốc) [16] (tham khảo Phụ lục 6). Tính đến cuối năm 2002, các nước ASEAN đã có 19,731 dự án đầu tư tại Trung Quốc với tổng giá trị 58.09 tỷ USD [18]. Bảng 5: Đầu tư của từng nước ASEAN vào Trung Quốc (tính đến cuối năm 2000) Nước Số dự án Giá trị cam kết (triệu USD) Giá trị thực hiện (triệu USD) Singapore 9,122 35,381 16,992 Malaysia 2,031 4,936 2,203 Indonesia 760 1,591 837 Thái Lan 2,880 4,971 1,994 Philippine 1,369 2,564 1,029 Việt Nam 373 375 86 Myanma 146 194 34 Campuchia 24 22 7 Bruney 14 36 4 Lào 14 25 5 FDI từ ASEAN (đến hết năm 2000) 16,733 50,095 23,191 FDI từ ASEAN (đến hết năm 2001) 17,972 53,468 26,175 Tổng FDI vào Trung Quốc (đến hết 2001) 390,025 745,391 395,223 Nguồn: Bộ Ngoại thương và Hợp tác kinh tế Trung Quốc (MOFTEC) [16]. Bảng trên cho thấy trong số các nước ASEAN, Singapore là nước đầu tư vào Trung Quốc lớn nhất, chiếm tới gần 65% tổng FDI của cả ASEAN vào Trung Quốc với số vốn FDI đạt 16.9 tỉ USD đến hết năm 2000, sau đó là Malaysia và Thái Lan nhưng số FDI của hai nước này vào Trung Quốc kém hơn nhiều so với Singapore. Các nước ASEAN còn lại có kim ngạch đầu tư vào Trung Quốc còn nhỏ, đặc biệt là đầu tư của Campuchia, Myanmar, Lào,Việt Nam và Brunei hầu như không đáng kể. Theo Bộ Thương mại Trung Quốc (MOC), trong thời gian từ đầu năm 2003 đến nay, một số nước thành viên ASEAN như Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia và Philippines đã đầu tư vào 982 dự án ở Trung Quốc với tổng giá trị cam kết là 2.82 tỷ USD [18]. Đầu tư của Trung Quốc vào ASEAN: Về phía Trung Quốc, mặc dù đầu tư của Trung Quốc vào ASEAN vẫn ở mức thấp, chỉ đạt 135.8 tỷ USD năm 1999, chiếm gần 1% tổng FDI tại ASEAN (xem biểu đồ 4), nhưng đầu tư của Trung Quốc vào ASEAN trong những năm gần đây đã tăng nhanh với tốc độ trung bình 60%/ năm [19]. Biểu đồ 4: Tỷ lệ FDI từ Trung Quốc trong tổng FDI vào ASEAN Đơn vị: % Nguồn: Statistics of Foreign Direct Investment in ASEAN (Extended Data Set); ASEAN Secretariat; World Investment Report 2001. Theo số liệu của Bộ Ngoại thương và Hợp tác kinh tế Trung Quốc (MOFTEC), tổng đầu tư của Trung Quốc vào ASEAN vào cuối năm 2001 bao gồm 740 dự án trị giá 1.1 tỷ USD [16] và tính đến tháng 9/ 2002, Trung Quốc đã đầu tư vào 769 dự án ở các nước ASEAN với tổng giá trị 690 triệu USD [17]. Trong thời gian 6 tháng đầu năm 2003, Trung Quốc đã đầu tư vào 822 dự án của các nước ASEAN với tổng giá trị cam kết là 1.37 tỷ USD [18]. Trong số các nước ASEAN, nước tiếp nhận đầu tư nhiều nhất từ Trung Quốc là Thái Lan (87.980 triệu USD), sau đó đến Campuchia, Singapore và Indonesia (xem bảng 6). Đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam, Lào và Philippines còn rất thấp so với các nước trong khu vực, đặc biệt là Philippines với 14.600 triệu USD; tuy vậy, nếu so với tổng FDI vào mỗi nước thì FDI của Trung Quốc lại chiếm tỷ trọng khá cao. Bảng 6: Đầu tư của Trung Quốc vào từng nước ASEAN (Tính đến cuối năm 2000) Đơn vị: triệu USD Nước Số dự án Tổng đầu tư Đầu tư từ Trung Quốc Tổng 692 892.800 458.660 Việt Nam 41 48.770 31.000 Lào 15 44.040 29.370 Campuchia 50 110.830 85.000 Myanmar 30 146.380 48.580 Thái Lan 219 201.050 87.980 Malaysia 92 69.340 33.900 Singapore 161 78.350 68.620 Indonesia 50 159.070 59.620 Philippines 34 34.980 14.600 Nguồn: Bộ Ngoại thương và Hợp tác kinh tế Trung Quốc (MOFTEC) [16]. Theo đà phát triển của kinh tế, cùng với việc nâng cao năng lực kinh doanh của của các doanh nghiệp và sự hỗ trợ về tài chính tiền tệ và chính sách của nhà nước Trung Quốc, sẽ ngày càng có nhiều doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư ra bên ngoài. Theo dự tính của Uỷ ban phát triển mậu dịch Liên hợp quốc (UNCTAD), các doanh nghiệp Trung Quốc đã trở thành một trong những nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất trong các nước đang phát triển. Các nước ASEAN với vị trí địa lý láng giềng, với lịch sử và văn hoá gần gũi với Trung Quốc, chắc chắn sẽ trở thành một trong những khu vực chủ yếu đón nhận đầu tư từ các doanh nghiệp Trung Quốc. 1.1.3.3. Hợp tác Tiểu vùng Mekong ASEAN và Trung Quốc đã và đang hợp tác chặt chẽ trong các chương trình và dự án phát triển Mekong trong các khuôn khổ khác nhau như phát triển tiểu vùng Mekong mở rộng (GMS), Hợp tác phát triển lưu vực Mekong ASEAN (AMBDC) và Uỷ hội sông Mekong (MRC), trong đó phát triển tiểu vùng Mekong mở rộng là nội dung hợp tác then chốt giữa Trung Quốc và ASEAN nhằm giúp các bên đối tác khai thác những tiềm năng kinh tế đa dạng của mình và phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở bình đẳng, tin tưởng lẫn nhau và cùng có lợi . Trong 10 năm vừa qua, hợp tác kinh tế Tiểu vùng Mekong đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Đã có gần 100 [15] dự án về cơ sở hạ tầng được thực thi trong các lĩnh vực then chốt như giao thông, năng lượng, viễn thông, môi trường, du lịch, phát triển nhân lực, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy phát triển thương mại và đầu tư. Năm 2001, tại hội nghị bộ trưởng lần thứ 10, các nước Tiểu vùng Mekong đã thông qua chiến lược khung cho 10 năm tới của Chương trình hợp tác kinh tế Tiểu vùng Mekong. Các nhà lãnh đạo hợp tác kinh tế Tiểu vùng Mekong cũng đã xác nhận lại kế hoạch hành động chiến lược bao gồm 11 chương trình chính trong các lĩnh vực như các hành lang giao thông chính, các mạng lưới viễn thông, các mạng lưới điện, đầu tư, thương mại và du lịch. Tháng 11 năm 2002 đã diễn ra cuộc họp thượng đỉnh đầu tiên về việc tiếp tục phát triển hợp tác Tiểu vùng Mekong. Tại cuộc họp này, Trung Quốc đã trình bày báo cáo về việc tham gia của Trung Quốc vào việc phát triển lưu vực sông Mekong, trong đó nêu khái quát các kế hoạch và dự án chủ yếu khai thác bồn địa Mekong của Trung Quốc. Hợp tác tiểu vùng Mekong được đẩy mạnh sẽ có lợi cho các nước hữu quan phát huy ưu thế riêng, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển nhanh, có lợi cho tiến trình nhất thể hoá và rút ngắn khoảng cách giữa các nước ASEAN, thúc đẩy kinh tế Đông á tăng trưởng liên tục. 1.1.3.4. Hợp tác tài chính tiền tệ: Sau khủng hoảng tài chính Châu á năm 1997, các nước trong khu vực đã đánh giá rất cao vai trò của hợp tác tài chính tiền tệ. Trong khuôn khổ 10 + 3 (ASEAN + Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc), Trung Quốc và các nước ASEAN đã tiến hành hàng loạt các biện pháp cụ thể để tăng cường hợp tác. Trung Quốc đã tích cực thực hiện Sáng kiến Chiang - Mai và ký kết các hiệp định song biên về hoán đổi tiền với Thái Lan và Malaysia. Từ năm 2001, Chính phủ Trung Quốc đã tổ chức một số hội nghị mang tính kỹ thuật đối với các Ngân hàng Trung ương của các nước 10 + 3 tại Bắc Kinh và Thượng Hải. 1.1.3.5. Nông nghiệp: Trong các năm qua, hợp tác nông nghiệp Trung Quốc - ASEAN đã có những tiến triển tốt. Nhiều lớp đào tạo, hội thảo và hội nghị về công nghệ trong nông nghiệp và đào tạo cán bộ đã được tổ chức tại Trung Quốc và các nước ASEAN. Ngày 2/ 11/ 2002, Bản ghi nhớ về nông nghiệp Trung Quốc – ASEAN đã được ký kết. Bản ghi nhớ đã tập trung vào hợp tác nông nghiệp trung hạn và dài hạn trong những lĩnh vực như lúa lai, nghề cá và thủy sản, công nghệ sinh học, sản phẩm và máy nông nghiệp. 1.1.3.6. Phát triển nguồn nhân lực Phát triển nguồn nhân lực là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, tạo nền tảng cho hợp tác chung giữa ASEAN và Trung Quốc trong các lĩnh vực khác. Phát triển nguồn nhân lực sẽ đem lại sự hiểu biết sâu sắc hơn giữa ASEAN và Trung Quốc thông qua trao đổi và liên kết giữa các chuyên gia, quan chức. Năm 2001, Trung Quốc đưa ra đề nghị 14 dự án [20] hợp tác trong các lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực. Hầu hết các dự án này đã bắt đầu được thực hiện và đã cho kết quả khả quan. Năm 2002, Trung Quốc đưa ra tiếp 7 đề nghị nữa [20]. Tất cả các đề nghị này đã được thông qua tại cuộc gặp lần thứ 4 của Uỷ ban hợp tác chung ASEAN - Trung Quốc và hiện đang được thực hiện. 1.1.3.7. Công nghệ thông tin và liên lạc (ICT) Trong nền kinh tế tri thức, ICT đóng vai trò chủ đạo nhằm đảm bảo sản lượng cao giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. ASEAN và Trung Quốc cho rằng hợp tác trong lĩnh vực ICT cần được coi là một công cụ để rút ngắn khoảng cách phát triển kinh tế. Một số dự án đã được xây dựng nhằm thúc đẩy trao đổi thông tin về xây dựng viễn thông, luật lệ và quy định mạng, bảo mật thông tin. Bên cạnh đó, Trung Quốc luôn ủng hộ và tham gia vào chương trình phát triển ASEAN điện tử (e-ASEAN). Trong những năm tới, Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng cường hợp tác trong việc đào tạo công nghệ thông tin cho nguồn nhân lực của các nước ASEAN và tích cực tham gia vào việc phát triển những cơ sở hạ tầng cần thiết để hỗ trợ cho công nghệ thông tin ở các nước ASEAN. 1.1.3.8. Giao thông vận tải: Năm 2001, tại một loạt các hội nghị thượng đỉnh ASEAN + 1, Cựu Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ đã đề nghị thành lập một cơ chế cho các cuộc gặp cấp bộ trưởng giao thông vận tải để tăng cường liên lạc và điều phối. Ngày 2/ 5/ 2002, Trung Quốc và ASEAN đã đạt được thỏa thuận về các điều kiện tham vấn cho sự hợp tác ASEAN – Trung Quốc nhằm cải thiện giao thông đường bộ, đường biển và đường không cùng với cơ sở hạ tầng và dịch vụ có liên quan. Tháng 9/ 2002, tại cuộc gặp cấp bộ trưởng giao thông vận tải các nước ASEAN và Trung Quốc được tổ chức tại Jakarta, các bên đã đi đến hiệp định về việc tăng cường hợp tác toàn diện trong các vấn đề liên quan tới vận tải đường bộ, đường thuỷ và hàng không. Trung Quốc đã cam kết đầu tư 5 triệu USD để nạo vét thượng nguồn sông Mekong, tài trợ cho 1/3 nguồn kinh phí xây dựng phần tại Lào của đường cao tốc Côn Minh - Bangkok (tương đương với 30 triệu USD) [20]. Ngoài ra, Trung Quốc còn hỗ trợ việc xây dựng tuyến đường sắt xuyên á nối giữa Côn Minh và Singapore. 1.1.3.9. Du lịch: Du lịch giữ vai trò quan trọng trong các nền kinh tế Đông á. Hiện nay thị trường du lịch Trung Quốc đang tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Năm 1995, có 1.1 triệu du khách ASEAN thăm Trung Quốc; con số này đã tăng lên 1.8 triệu vào năm 2000 và 2 triệu vào năm 2002 [15]. Về phần mình, các nước ASEAN cũng trở thành những điểm đến của khách du lịch Trung Quốc với số lượng du khách ngày càng tăng mỗi năm, từ 80 vạn du khách vào năm 1995 lên 2.3 triệu vào năm 2000 [21]. Trung Quốc đã có các Hiệp định hợp tác du lịch cấp chính phủ hoặc Bản ghi nhớ về hợp tác du lịch với nhiều nước ASEAN, trong đó có Thái Lan, Singapore, Philippines, Việt Nam và Myanmar. Tháng 1 năm 2002, tại Yogyakarta (Indonesia) đã diễn ra cuộc họp đầu tiên giữa các bộ trưởng du lịch trong khuôn khổ 10+3 đánh dấu sự khởi đầu chính thức của hợp tác du lịch trong khuôn khổ 10+3. Các nước ASEAN đã là những thành viên tích cực tại hội chợ du lịch quốc tế Trung Quốc tổ chức tại Thượng Hải tháng 11/ 2002. 1.1.3.10. Chính trị ngoại giao và an ninh Về mặt chính trị ngoại giao và an ninh, các nước ASEAN và Trung Quốc đã có truyền thống hợp tác hữu nghị lâu đời. Từ đầu những năm 90 đến nay, một số nước trong ASEAN đã lần lượt thiết lập, khôi phục hoặc bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, từ đó góp phần mở đường hoặc khai thông cho quan hệ kinh tế và các quan hệ khác giữa hai bên phát triển toàn diện. Giữa một số nước ASEAN và Trung Quốc tuy vẫn còn tồn tại một số bất đồng về biên giới lãnh thổ, trong đó có vấn đề tranh chấp chủ quyền ở biển Đông, nhưng tại cuộc gặp gỡ ở Phnompenh tháng 11/ 2002, lãnh đạo cao cấp hai bên đã ký Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC), nhằm tiến tới xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông (COC), mở đường cho một giải pháp cơ bản, lâu dài đối với các tranh chấp ở biển Đông. Ngoài ra, hai bên đã thông qua Tuyên bố chung ASEAN - Trung Quốc về hợp tác trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống. Gần đây nhất, tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 9 diễn ra vào đầu tháng 10/ 2003 tại Bali (Indonesia), các nhà lãnh đạo ASEAN và Trung Quốc đã thông qua Tuyên bố chung về đối tác chiến lược ASEAN - Trung Quốc vì hoà bình và thịnh vượng, đồng thời Trung Quốc cũng chính thức tham gia Hiệp ước thân thiện và hợp tác ASEAN (TAC). Điều này một lần nữa khẳng định vài trò và uy tín ngày càng cao của ASEAN, mở ra triển vọng biến Hiệp ước TAC thành Bộ quy tắc ứng xử giữa ASEAN và các nước ngoài khu vực. TAC sẽ là cơ sở để giải quyết những vấn đề còn tồn tại, đồng thời xây dựng và củng cố quan hệ hợp tác hữu nghị toàn diện giữa ASEAN và Trung Quốc. Hơn thế nữa, những văn kiện trên đánh dấu sự tín nhiệm về chính trị – an ninh giữa ASEAN và Trung Quốc đã phát triển tới một trình độ mới, tạo cơ sở và là điều kiện đảm bảo quan trọng cho việc thành lập khu vực mậu dịch tự do nói riêng và cho việc bảo vệ hoà bình, ổn định ở khu vực nói chung. Nói tóm lại, hợp tác kinh tế ASEAN - Trung Quốc đã phát triển nhanh trong thập kỷ qua trên tất cả các lĩnh vực nhằm đạt được sự tăng trưởng kinh tế bền vững có lợi cho cả hai bên. Trong xu hướng toàn cầu hoá hiện nay, các thể chế thương mại khu vực đòi hỏi phải có sự hợp tác kinh tế chặt chẽ hơn giữa các bên nhằm vượt qua thách thức và tận dụng các cơ hội. Trong bối cảnh đó, ASEAN và Trung Quốc cần quyết tâm đưa ra một khuôn khổ hợp tác kinh tế toàn diện và hướng về tương lai nhằm đặt ra nền tảng pháp lý cho các hoạt động hợp tác kinh tế giữa hai bên, bao gồm một khu vực mậu dịch tự do. Việc thiết lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ mang lại những cơ hội to lớn và cả những thách thức. Để bảo đảm thành công, ý chí chính trị là một yếu tố quyết định, do đó cần xây dựng một lộ trình và kế hoạch hành động cụ thể để Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sớm được thực hiện theo mong muốn của các nhà lãnh đạo hai bên. 1.2. Sự hình thành ACFTA 1.2.1. Các mốc thời gian chính Đầu những năm 90 là giai đoạn hợp tác khu vực còn bị coi nhẹ nhưng trong nửa cuối thập kỷ đó, các nước đã chứng kiến những động thái thể chế hoá các dàn xếp mậu dịch tự do thông qua các khu vực mậu dịch tự do song phương và thông qua các sáng kiến khác. Nếu như những năm đầu thập kỷ 90 là giai đoạn Mỹ tăng cường can dự vào khu vực này, thì nửa cuối thập kỷ chứng kiến việc tăng cường mở rộng hợp tác khu vực thông qua nhóm ASEAN + 3 (10 nước ASEAN và Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc). Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á đã làm các nước trong khu vực nhận thức sâu sắc hơn về tầm quan trọng của hợp tác kinh tế trong khu vực. Sự hợp tác về tiền tệ Châu á và việc tổ chức các cuộc gặp 10 + 3 đã cho thấy, hợp tác kinh tế trong khu vực này đã trở thành một vấn đề rất quan trọng. Theo chương trình này, nhiều kế hoạch hợp tác kinh tế đã được đưa ra, như Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – ấn độ, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Hàn Quốc, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Nhật Bản, Khu vực mậu dịch tự do giữa Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản, Khu vực mậu dịch tự do Đông á, … Vấn dề quan trọng nhất là việc các cường quốc kinh tế đã bắt đầu chú trọng đến phát triển hợp tác kinh tế khu vực. Nhật Bản, nước luôn theo hướng hợp tác thương mại đa phương, nay đã bắt đầu đàm phán với Hàn Quốc, Singapore và Mehico về các hiệp định thương mại song phương. Từ năm 1999, Trung Quốc cũng đã thay đổi thái độ trước đây của mình về hợp tác kinh tế khu vực. Thực tế là Trung Quốc đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, tạo điều kiện để đưa hợp tác kinh tế khu vực lên mức cao hơn trên cơ sở thương mại tự do theo quy định của WTO. Mọi đề nghị về hợp tác kinh tế khu vực ở Đông á đều có thể trở thành hiện thực, nhưng đồng thời những đề xuất này cũng vấp phải những trở ngại nhất định. Xét về mặt khả thi của các mối liên kết kinh tế khu vực, có khả năng nhất trong giai đoạn hiện nay là quan hệ hợp tác giữa 10 nước ASEAN và Trung Quốc. Sự thành công của mối hợp tác kinh tế 10 + 1 này có thể sẽ được phổ biến ra các nước khác trong khu vực Đông á và làm đối trọng với khối Liên hiệp Châu Âu (EU) đã được mở rộng và Khu vực mậu dịch tự do Châu Mỹ (FTAA). ý tưởng về việc thành lập một khu vực mậu dịch tự do giữa Trung Quốc và ASEAN xuất phát từ đề xuất của Cựu Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ tại Hội nghị thượng đỉnh không chính thức ASEAN lần thứ 4 tổ chức vào tháng 11/ 2000. Trong năm này, Trung Quốc còn thoả thuận sẽ tăng cường hợp tác và đưa ra những hạng mục hợp tác cụ thể như khai thác sông Mekong, xây dựng tuyến đường sắt xuyên á… Đến năm 2001, những thoả thuận này giữa Trung Quốc và ASEAN đã có những bước tiến mới. Trung Quốc ủng hộ nỗ lực của ASEAN thiết lập khu vực không có vũ khí hạt nhân, xem xét ký kết Hiệp định hợp tác hữu nghị Đông Nam á, cam kết đầu tư 5 triệu USD để nạo vét sông Mekong và tài trợ 1/3 chi phí xây dựng tuyến đường cao tốc Bankok - Côn Minh. Đặc biệt, tại Hội nghị giữa những nhà lãnh đạo ASEAN - Trung Quốc tổ chức vào ngày 6 /11/ 2001 tại Banda Seri Begawan (Brunei), các nhà lãnh đạo Trung Quốc và 10 nước ASEAN đã đi đến nhất trí về việc thành lập Khu mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) trong vòng 10 năm, đồng thời chính thức uỷ quyền cho các bộ trưởng và quan chức của hai bên đàm phán về vấn đề này. Từ sau khi đạt được thỏa thuận thành lập ACFTA, hai bên đã nỗ lực xúc tiến các công tác thúc đẩy tiến trình ra đời của ACFTA. Các tổ chức như Uỷ ban đàm phán thương mại ASEAN - Trung Quốc (TNC - Trade Negotiation Committee) và Hội đồng thương mại ASEAN - Trung Quốc đã được thành lập. Đồng thời các cuộc gặp giữa các nhà lãnh đạo hai bên để đàm phán về phát triển hợp tác kinh tế thương mại đã diễn ra liên tục trong năm qua như: Cuộc gặp giữa các quan chức kinh tế cao cấp ASEAN - Trung Quốc (SEOM - Senior Economic Officials Meeting) lần thứ 3 hồi tháng 5/ 2002 tại Bắc Kinh, Hội thảo quốc tế về hợp tác trong thương mại, đầu tư và phát triển ASEAN - Trung Quốc diễn ra vào tháng 6 tại Côn Minh Trung Quốc, Diễn đàn về hợp tác ASEAN - Trung Quốc vào tháng 8 tại Kuala Lumpur (Malaysia), Hội nghị bộ trưởng kinh tế ASEAN - Trung Quốc lần thứ nhất vào tháng 9 tại Brunei, cuộc gặp giữa các quan chức kinh tế cấp cao của hai bên vào tháng 10 tại Singapore, … Bên cạnh đó, còn có rất nhiều các cuộc viếng thăm của các nhà lãnh đạo cũng như của các nhóm khảo sát của hai bên đến cả Trung Quốc và ASEAN để tìm hiểu tình hình thị trường và tìm kiếm cơ hội hợp tác. Với những nỗ lực của cả hai bên, ngày 4/ 11/ 2002, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 8 diễn ra ở thủ đô Phnompenh (Campuchia), các nhà lãnh đạo ASEAN và Trung Quốc đã chính thức ký bản hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc (Framework Agreement on Asean–China Comprehensive Economic Cooperation - FAACCEC), mở đường cho việc thiết lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) trong 10 năm tới. Đây là một sự kiện quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới của quan hệ ASEAN - Trung Quốc trong thế kỷ này. ý nghĩa của Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc Trước đây, không phải không có những lo ngại về ý tưởng thành lập khối kinh tế chung giữa Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam á vốn có xu hướng cạnh tranh hơn là hợp tác, thậm chí còn có ý kiến cho rằng sự trỗi dậy của nền kinh tế Trung Quốc, với tỷ lệ tăng trưởng liên tục đạt khoảng 7% [5], sẽ gây nên mối đe dọa đối với ASEAN. Trong bối cảnh đó, theo thông lệ, người ta trông đợi rằng ASEAN sẽ dựng lên những rào cản tự vệ để chống lại hàng hóa của Trung Quốc và triển khai các biện pháp bảo hộ mậu dịch để đánh bật sự thách thức của Trung Quốc. Tất nhiên, đấy là một giải pháp. Nhưng ASEAN đã chọn giải pháp khác, mang tính thách thức hơn, đó là gần gũi hơn và mở cửa nền kinh tế của tổ chức này với Trung Quốc trên cơ sở có đi có lại. Hơn nữa, sau cuộc khủng hoảng 1997, e sợ bị gạt ra ngoài lề công cuộc toàn cầu hoá, ASEAN đã và đang nỗ lực phấn đấu trở thành khu vực kinh tế năng động nhất thế giới. Thêm vào đó, Trung Quốc đưa ra những ưu tiên nhất định – hứa hẹn mở cửa thị trường trước các nước ASEAN, đồng thời ưu đãi các nước kém phát triển trong khối gồm Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanmar. Thế là ASEAN chấp thuận: “Trung Quốc đã có thiện chí, chúng tôi cũng đáp lại” [22] – Noordin Azhari, phụ trách hợp tác kinh tế trong Ban thư ký ASEAN đã phát biểu như vậy. Tại cuộc hội thảo “Quan hệ đối tác kinh tế giữa ASEAN, Nhật Bản và Trung Quốc” tổ chức vào cuối tháng 3/ 2002 tại Singapore, Giáo sư Tommy Koh, giám đốc Viện nghiên cứu chính sách của Singapore cũng nhận định: “Trung Quốc đã đưa ra đề nghị thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc. Đây là một động thái rất thông minh của Trung Quốc và ASEAN đã hành động đúng khi chấp nhận đề nghị này của Trung Quốc. Trung Quốc sẽ không coi ASEAN là một cỗ máy th._.ơn. Kết luận Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) được thành lập đánh dấu một bước ngoặt mới trong quan hệ hợp tác hữu nghị giữa ASEAN và Trung Quốc, đồng thời cũng là một quyết định mang tính lịch sử mà hai bên đã đưa ra để tìm kiếm những cơ hội phát triển mới. Với hơn 1.7 tỷ người tiêu dùng, tổng thu nhập quốc nội vào khoảng 2 nghìn tỷ USD và tổng kim ngạch thương mại ước tính lên đến 1.23 nghìn tỷ USD, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc ra đời hứa hẹn sẽ đem lại nhiều cơ hội tốt đẹp cho sự tăng trưởng kinh tế, thương mại và đầu tư của các nước thành viên. Hơn thế nữa, Khu vực mậu dịch tự do có quy mô lớn nhất thế giới này còn có thể coi là biện pháp chiến lược có ý nghĩa trọng đại để ASEAN và Trung Quốc đi đến nhất thể hoá kinh tế, nâng cao vị thế chính trị trong các vòng đàm phán đa phương cũng như trên các diễn đàn khu vực và quốc tế. Quan trọng hơn, đây chính là viên gạch đầu tiên đặt nền móng vững chắc cho việc xây dựng một khu vực mậu dịch tự do Đông á (EAFTA) trong tương lai, có lợi cho hoà bình thế giới và phát triển kinh tế toàn cầu. Bên cạnh những cơ hội trên, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc ACFTA cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với các nước thành viên, bao gồm thách thức về loại hình tổ chức của ACFTA, tình trạng phân hoá hai cực, yếu tố cạnh tranh, vai trò chủ đạo trong ACFTA; trong đó có thể nói thách thức lớn nhất mà ASEAN và Trung Quốc phải đối phó là sự cạnh tranh gay gắt giữa hai bên trong các lĩnh vực thương mại, đầu tư và phân công tại khu vực Châu á - Thái Bình Dương. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng cạnh tranh bao giờ cũng là nhân tố quan trọng để thúc đẩy sự phát triển, qua cạnh tranh mỗi bên sẽ nỗ lực hơn, từ đó nền kinh tế của mỗi nước thành viên trong khối sẽ có triển vọng phát triển với tốc độ nhanh hơn và đi vào chiều sâu hơn. Và như vậy, khác với trò chơi được mất của bóng đá, sân chơi của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc sẽ là một sân chơi đem lại lợi ích cho tất cả các thành viên tham gia. Là một trong những nền kinh tế năng động với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất Đông Nam á cộng thêm nhiều yếu tố tương đồng với Trung Quốc về điều kiện tự nhiên, văn hoá, xã hội, …, Việt Nam có rất nhiều cơ hội để đạt được sự tăng trưởng cao hơn nữa về thương mại, đầu tư cũng như vai trò chính trị một khi Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc được thành lập. Tuy vậy, cũng giống như các nước thành viên ASEAN khác, Việt Nam cũng phải đối mặt với không ít thách thức trong sân chơi cạnh tranh với người láng giềng khổng lồ Trung Quốc. Hơn thế nữa, do Việt Nam chưa gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO như Trung Quốc và bảy nước thành viên ASEAN khác nên những khó khăn mà Việt Nam phải đối mặt sẽ càng nhiều hơn. Tuy vậy, về mặt tổng thể, cơ hội còn nhiều hơn thách thức. Hơn nữa, cần nhận thức rằng những thách thức đó chỉ mang tính chất tạm thời và đằng sau những thách thức là những lợi ích lâu dài. Điều quan trọng là Việt Nam cần phải có những điều chỉnh thích hợp để nắm bắt, tận dụng cơ hội và ứng phó với những thách thức nhằm được hưởng lợi nhiều nhất từ ACFTA trong tương lai, mà tựu trung lại có thể thông qua một số biện pháp như: Thứ nhất, chuyên môn hoá sản xuất và chế biến những mặt hàng xuất khẩu có lợi thế cạnh tranh hơn so với Trung Quốc. Thực hiện biện pháp này sẽ giúp Việt Nam có cơ hội mở rộng xuất khẩu, tận dụng tối đa thế mạnh của mình, phân bổ nguồn lực hợp lý vào những ngành được sử dụng có hiệu quả và năng suất hơn. Thứ hai, đẩy nhanh tốc độ cải cách kinh tế song song với tăng cường tự do hoá thương mại và xúc tiến đầu tư. Điều này sẽ thúc đẩy tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam, đồng thời cũng chính là chìa khoá để Việt Nam mở cửa hội nhập sâu hơn vào kinh tế khu vực và thế giới, trở thành một nền kinh tế đủ mạnh để chống chọi với sự cạnh tranh khốc liệt từ cường quốc khu vực Trung Quốc. Thứ ba, tăng cường công tác xúc tiến thương mại, đặc biệt chú trọng phát triển mậu dịch biên giới nhằm phát huy lợi thế về vị trí địa lý, giúp Việt Nam trở thành đầu cầu và cửa ngõ của Trung Quốc ở thị trường ASEAN. Thứ tư, nỗ lực đàm phán với Trung Quốc để được hưởng những điều kiện ưu đãi hơn trong việc mở cửa thị trường và thực hiện nguyên tắc tối huệ quốc, giúp Việt Nam nhanh chóng thích ứng trong môi trường cạnh tranh mới. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy hơn nữa và nâng cao chất lượng tham gia của Việt Nam vào Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc nói riêng và hệ thống thương mại toàn cầu nói chung. Thứ năm, tích cực hợp tác với các nước trong khối ASEAN, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa Việt Nam và các nước thành viên khác, thúc đẩy việc hình thành Cộng đồng ASEAN nhằm tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế và nâng cao năng lực cạnh tranh, từ đó đi đến nhất thể hoá thị trường khu vực, tạo nên sức mạnh tổng hợp để đối phó với những rủi ro nảy sinh từ sự ra đời của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc. Trong quá trình thực hiện đề tài, người viết đã hết sức cố gắng để đưa ra những phân tích cơ bản nhất. Hy vọng rằng ở một mức độ nhất định, khoá luận đã cung cấp được cho người đọc một cái nhìn tổng quan về các tác động sâu rộng của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đối với các nền kinh tế tham gia, trong đó có Việt Nam, giúp các nước nói chung và Việt Nam nói riêng chuẩn bị đầy đủ những hành trang cần thiết nhằm đạt được lợi ích tối đa từ Khu vực mậu dịch tự do này. Tuy nhiên, do những hạn chế về kiến thức và thời gian, khuôn khổ khoá luận không cho phép đi quá sâu vào từng lĩnh vực, từng ngành hàng cụ thể; mặt khác, đây lại là một vấn đề khá mới mẻ, tài liệu nghiên cứu chưa nhiều, do vậy đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự chỉ dẫn, góp ý từ các thầy cô và các bạn. Danh mục tài liệu tham khảo Chú thích: [1] Theo Lập luận về tạo thương mại và chuyển hướng thương mại của J. Viner (1950), khi một nước tham gia vào một FTA, nguồn cung cấp hàng hoá và dịch vụ từ các bạn hàng sẽ tăng lên nhưng có thể lại làm giảm nguồn cung cấp trong nước và từ những nước khác trên thế giới. Nếu tổng cung tăng lên và giá nhập khẩu cao hơn giá sản xuất trong nước thì sẽ có trade creation. Ngược lại, nếu nguồn nhập khẩu từ các bạn hàng trong FTA thay thế nhập khẩu thấp hơn từ các nước khác (do chính sách ưu đãi về nhập khẩu) thì sẽ có trade diversion theo đó nước này sẽ bị thua thiệt do thương mại trong khối FTA. (theo Dương Quốc Thanh, “Hợp tác kinh tế từ sau cuộc khủng hoảng tài chính 1997 và khả năng hình thành Khu vực mậu dịch tự do Đông á” – Tạp chí Nghiên cứu quốc tế số 2 (51), tháng 4/ 2003, trang 56). [2] [3] N.T., “Trào lưu ký kết các hiệp định FTA” - Tạp chí Ngoại Thương số 21 (21 – 31/ 7/ 2003), trang 33. [4] Thanh Phương, “Thuận lợi và khó khăn của xu thế hình thành các Khu vực mậu dịch tự do” – Tạp chí Thương mại số 22, tháng 6/ 2003, trang 18. [5] Ellen H. Palanca, “Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc và ASEAN” - Báo cáo nghiên cứu của Hệ thống trung tâm nghiên cứu APEC của Philippines (Philippines APEC Study Center Network - PASCN), Manila, 2001. [6] V. Trân, “Vai trò tương lai của Trung Quốc ở Châu á” – Tạp chí Ngoại Thương số 3 (21 – 31/ 1/ 2003), trang 32. [7] P.Q.L., “Những thành tựu kinh tế của Trung Quốc” - Thời báo kinh tế Việt Nam số 137, ngày 15/11/2002, trang 18. [8] Phạm Thái Quốc, “Trung Quốc sau 1 năm gia nhập WTO”– Chuyên đề Kinh tế 2002-2003 Việt Nam và Thế giới, tập san cuối năm của Thời báo kinh tế Việt Nam, trang 93. [9] Nguyễn Anh Hồng, “Trung Quốc: ngoại thương tăng 30 lần”– Thời báo Kinh tế Việt Nam số 12, ngày 20/1/2003, trang 18. [10] “Tin thế giới: Dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc đứng thứ hai trên thế giới”, Thông tin Tài chính, số 6, tháng 3/ 2003, trang 28. [11] Eng Chuan Ong, Bộ Ngoại giao Singapore, “Gắn thương mại tự do Đông á vào ASEAN”, Washington Quarterly 2003 – Tài liệu dịch số TL 2922, Trung tâm thông tin tư liệu, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW (CIEM). [12] TS. Trần Cao Thành, Viện nghiên cứu Đông Nam á, “ASEAN thực hiện và mở rộng Khu vực mậu dịch tự do” - Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 2 (53)/ 2002, trang 8. [13] S. Pushpanathan, Bộ phận Quan hệ quốc tế, Ban thư ký ASEAN, “ASEAN and free trade area cover China, Japan, India” - Tạp chí Jakarta Post, 14/ 11/ 2002. [14] “Các bộ trưởng kinh tế ASEAN thoả thuận các mục tiêu quan trọng”, Tin Kinh tế quốc tế, Thông tấn xã Việt Nam (www.vnagency.com.vn) ngày 4/ 9/ 2003. [15] Bản tin hội nhập và phát triển, số tháng 2/ 2003, Uỷ ban quốc gia về hội nhập kinh tế quốc tế (DEI). [16] “Triển vọng của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc”, Tham luận của Li Wei, Học viện Thương mại quốc tế và Hợp tác kinh tế Trung Quốc” tại Hội thảo khu vực về “Những thuận lợi và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam và Quỹ Hanns Siedel, CHLB Đức tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 21/ 6/ 2002. [17] “Việt Nam tham dự diễn đàn Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc”, Tin đã đưa của Thông tấn xã Việt Nam tại Bắc Kinh, ngày 25/ 2/ 2003. [18] “Kim ngạch thương mại Trung Quốc – ASEAN tăng hơn 45%”, Tin Kinh tế quốc tế, Thông tấn xã Việt Nam (www.vnagency.com.vn) ngày 18/ 8/ 2003. [19] Statistics of Foreign Direct Investment in ASEAN (Extended Data Set); ASEAN Secretariat; World Investment Report 2001. [20] Việt Nga, “Hợp tác toàn diện Trung Quốc – ASEAN” - Tạp chí Ngoại Thương số 20, ngày 11 – 20/ 7/ 2003, trang 32. [21] D.M.H., “Hiện trạng và triển vọng quan hệ kinh tế Trung Quốc - Đông á” - Kinh tế quốc tế tham khảo (Thông tấn xã Việt Nam), số 034 - TTX, ngày 31/ 8/ 2003, trang 4. [22] Văn Nghĩa, “Dư luận xung quanh Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” - Thời báo Tài chính Việt Nam, số 134, ngày 8/ 11/ 2002, trang 14. [23] V. Trân, “Quan hệ kinh tế ASEAN – Nhật Bản - Trung Quốc” – Tạp chí Ngoại Thương số 19 (1 – 10/ 7/ 2002), trang 29. [24] Minh Nga, “FTA ASEAN - Trung Quốc: Ai được lợi nhất?” – Kinh tế quốc tế tham khảo (Thông tấn xã Việt Nam), số 036 – TTX, ngày 14/ 9/ 2003, trang 1. [25] Nhóm chuyên gia ASEAN - Trung Quốc về hợp tác kinh tế (ASEAN – China Expert Group on Economic Cooperation), “Xây dựng quan hệ kinh tế ASEAN - Trung Quốc chặt chẽ hơn trong thế kỷ 21” (bản tiếng anh – Forging closer ASEAN – China economic relations in the twenty first century), Ban thư ký ASEAN (www.aseansec.org), tháng 10/ 2001. [26] “Luận đàm về việc thành lập khu vực mậu dịch tự do Đông á và các hệ quả của nó” – Tham luận của Inkyo Cheong, Viện chính sách kinh tế Hàn Quốc (KIEP) tại Hội thảo “Những thuận lợi và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam phối hợp với Quỹ Hanns Seidel, CHLB Đức đồng tổ chức tại Hà Nội vào ngày 30/ 8/ 2002. [27] “Khu vực thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc: Thích nghi để vươn lên”, Báo điện tử www.vninvest.com , ngày 12/ 11/ 2002. [28] “Tính cạnh tranh và bổ sung lẫn nhau giữa kinh tế ASEAN và Trung Quốc”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, Thông tấn xã Việt Nam, số 190 ngày 19/ 8/ 2003, trang 16. [29] Lý Hướng Dương, “Tính khả thi của việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do giữa Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc” - Tạp chí Kinh tế Trung Quốc và thế giới (China and World Economy), Trung Quốc, số 1, tháng 2/ 2002. [30] “Triển vọng của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” - Tham luận của Nguyễn Hoài Sơn, chuyên viên Vụ chính sách thương mại đa biên, Bộ thương mại tại Hội thảo khu vực về “Những thuận lợi và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam và Quỹ Hanns Siedel, CHLB Đức tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 21/ 6/ 2002. [31] “Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc: Phải chăng đây là một giải pháp thắng – thắng?” - Tham luận của George Manzano, Trợ lý giáo sư, Khoa Kinh tế, Đại học Châu á Thái Bình Dương, Manila, Philippine tại Hội thảo khu vực về “Những thuận lợi và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam và Quỹ Hanns Siedel, CHLB Đức tổ chức tại Hà Nội, ngày 30/ 8/ 2002. [32] Th.S. Trương Mai Hương, “Trung Quốc gia nhập WTO và ảnh hưởng đối với các nước ASEAN” - Chuyên đề Kinh tế và Kinh doanh quốc tế (Trường Đại học Ngoại Thương), số quý IV/ 2001, trang 63. [33] “Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc: Cơ hội, thách thức và tác động đối với các nước thành viên mới của ASEAN” - Tham luận của Thitapha Wattanapruttipaisan, Chuyên viên cao cấp, Bộ phận dịch vụ công nghiệp, Ban thư ký ASEAN tại Hội thảo khu vực về “Những thuận lợi và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam và Quỹ Hanns Siedel, CHLB Đức tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 21/ 6/ 2002. [34] Chỉ số đặc thù - Specification Index - được tính bằng (xuất khẩu – nhập khẩu)/ (xuất khẩu + nhập khẩu). Chỉ số đặc thù có trị số từ -1 đến +1, trong đó -1 là chỉ có nhập khẩu, xuất khẩu không đáng kể; +1 là trường hợp ngược lại; trị số 0 chỉ trường hợp xuất nhập khẩu gần như bằng nhau. [35] Nguyễn Phương Hoa, “Quan hệ Trung Quốc – ASEAN năm 2000” - Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 3 (37), tháng 6/ 2001, trang 48. [36] “Japan Times nói về ASEAN - Trung Quốc”, Tài liệu của Sứ quán Việt Nam tại Osaka, ngày 15/ 11/ 2002. [37] “Quan hệ thương mại Việt Nam và Trung Quốc: hiện tại và triển vọng” – Báo Thương mại, số 22&23, ngày 20 – 24/ 2/ 2003, trang 20. [38] GS. TS. Nguyễn Thị Mơ, “Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trên lĩnh vực ngoại thương: nhìn lại 10 năm và triển vọng” - Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc số 6 (40), tháng 3/ 2001, trang 36. [39] “Việt Nam hướng tới Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc”, Bộ Tài chính Việt Nam (www.mof.gov.vn), ngày 4/ 11/ 2002. [40] Đ.Đ - V.P., “Giao thương với Trung Quốc bao giờ mới không bị động?”– Tin đã đưa bởi trang web www.sinoviet.com do Cục xúc tiến thương mại hai nước Việt Nam và Trung Quốc là VISTA và GXSTI cùng xây dựng, ngày 28/ 8/ 2003. [41] Vũ Phương, “Nhìn lại tình hình đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam 10 năm qua (11/ 1991 – 11/ 2001) – Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 2 (42), tháng 4/ 2002, trang 31. [42] “Thêm 48 dự án đầu tư của doanh nghiệp Trung Quốc”, Thời báo kinh tế Việt Nam số 193, ngày 3/ 12/ 2003, trang 4. [43] Nguyễn Ngọc Mạnh, “Trung Quốc có thể trở thành động lực tăng trưởng mới ở Châu á?” – Thông tin Tài chính số 15, tháng 8/ 2003, trang 27. [44] “Đưa hàng Việt Nam vào Trung Quốc vẫn còn nhiều cơ hội”, Báo Sài gòn tiếp thị, ngày 18/ 7/ 2002. [45] Lê Quang Lân, “Chương trình thu hoạch sớm ASEAN - Trung Quốc: Doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng gì?” – Thời báo kinh tế Việt Nam, số 139, ngày 20/ 11/ 2002, trang 16. [46] Hà Nguyễn, “Thực hiện chương trình thu hoạch sớm với Trung Quốc: xuất khẩu hải sản sẽ có lợi thế” – Báo Doanh nghiệp, số 39 (25/ 9 – 1/ 10/ 2003), trang 8. [47] Anh Thư, “Tham gia ACFTA là chuẩn bị gia nhập WTO” – Tạp chí Công nghiệp Việt Nam, số 16 (1 – 15/ 9/ 2002), trang 48. [48] “Triển vọng thành lập ACFTA”, Tham luận của ông Trần Đức Minh, Phó tổng thư ký Ban thư ký ASEAN, tại Hội thảo khu vực về “Những thuận lợi và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam và Quỹ Hanns Siedel, CHLB Đức tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 21/ 6/ 2002. [49] “Đánh giá tác động của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đến ngành nông nghiệp Việt Nam” - Tham luận của Bà Phạm Thị Tước, Vụ phó Vụ Kế hoạch và Quy hoạch, Bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn tại Hội thảo khu vực về “Những thuận lợi và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam và Quỹ Hanns Siedel, CHLB Đức tổ chức tại Hà Nội, ngày 30/ 8/ 2002. [50] “ACFTA và tác động đối với ngành công nghiệp Việt Nam” – Tham luận của Ông Lê Minh Đức, Viện nghiên cứu chiến lược chính sách công nghiệp Việt Nam tại Hội thảo khu vực về “Những thuận lợi và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam và Quỹ Hanns Siedel, CHLB Đức tổ chức tại Hà Nội, ngày 30/ 8/ 2002. Tài liệu tham khảo khác Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc (FAACCEC), (bản tiếng anh) – Ban thư ký ASEAN (www.aseansec.org). John Lawrence Avilla, “Torn between two lovers: ASEAN and its evolving economic relations with China and Japan” - PASCN Discussion Paper No. 2002-06. Summary Report, ASEAN - China Dialogue: “The Challenges of Cooperation”, 15 & 16/ 2/ 2002, ASEAN Secretariat. Chuyên đề Kinh tế Việt Nam và Thế giới (Thời báo kinh tế Việt Nam) các năm 2000 – 2001; 2001- 2001; 2002 – 2003. Tạp chí Nghiên cứu quốc tế: số 4 (47) – tháng 8/ 2002; số 2 (51) – tháng 4/ 2003. Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới: số 6/ 2002. Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc: số 1 – tháng 2/ 1999; số 6 – tháng 12/ 1999; số 3 – tháng 6/ 2001; số 6 – tháng 12/ 2001; số 1 – tháng 2/ 2002; số 2 – tháng 4/ 2002; số 6 – tháng 12/ 2002; số 1 – tháng 2/ 2003; số 4 – tháng 8/ 2003. Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc á: số 3 – tháng 6/ 2003. Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á: số 2, 5/ 2002. Tạp chí Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương: số 4 – tháng 12/ 1999; số 1 – tháng 2/ 2002; số 4 – tháng 8/ 2002; số 1 – tháng 2/ 2003. Thông tin Thương mại – Bộ thương mại: số ra các ngày 16/ 9/ 2002; 4/ 11/ 2002; 24/ 2/ 2003. Tạp chí Kinh tế và dự báo: các số 4, 5 / 2002. Tạp chí Công nghiệp: số 16/ 2002; số 7/ 2003. Các trang web: htpp://www.xinhuanet.com Phụ lục Phụ lục 1: Các khu vực mậu dịch tự do ở Đông á Năm Thành viên và quy chế 1. Các khu vực mậu dịch tự do đã có hiệu lực Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) 1992 10 nước thành viên ASEAN Hiệp định mậu dịch tự do Singapore - New Zealand 2001 Có hiệu lực tháng 1/ 2002 Hiệp định đối tác kinh tế Nhật Bản- Singapore 2002 Có hiệu lực tháng 11/ 2002 Hiệp định mậu dịch tự do giữa Singapore và Hiệp hội thương mại tự do Châu Âu 2002 Ký kết tháng 6/ 2002 và có hiệu lực tháng 1/ 2003 2. Các hiệp định đang được đàm phán, nghiên cứu và xem xét Khu vực mậu dịch tự do Đông á 2000 Được đưa ra tại cuộc gặp thượng đỉnh ASEAN + 3 (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc 2001 Được thực hiện trong vòng 10 năm theo thoả thuận đạt được trong cuộc gặp thượng đỉnh ASEAN -Trung Quốc (hiệp định khung được thông qua tháng 11/ 2002) Sáng kiến đối tác kinh tế chặt chẽ hơn giữa Nhật Bản và ASEAN 2002 Được thực hiện trong vòng 10 năm theo thoả thuận đạt được trong cuộc gặp thượng đỉnh ASEAN -Nhật Bản Hiệp định thương mại và đầu tư ASEAN – ấn Độ 2002 Xem xét một hiệp định trong cuộc gặp thượng đỉnh ASEAN – ấn Độ Các hiệp định mậu dịch tự do song phương Singapore: Australia, Canada, Mehico, Đài Loan, Mỹ. Thái Lan: Australia, ấn Độ, Nhật Bản. Trung Quốc: Hồng Kông, Ma Cao. Philippines: Nhật Bản, New Zealand, Mỹ, Panama, Singapore. Nhật Bản: Mehico, Philippines, Hàn Quốc, Thái Lan, Đài Loan. Nguồn: Báo cáo của JETRO (Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản), thuộc Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (METI), tháng 1/ 2003. Phụ lục 2: Các nội dung cơ bản của một số FTA Mỹ – Israel NAFTA Mỹ – Jordan MERCOSUR FTAA Canada - Chile Mehico - Chile EU – Mehico AFTA ANZCERTA Loại bỏ thuế quan * * * * * * * * * * Cấm các hạn chế số lượng * * * * * * * Các biện pháp tự vệ * * * * * * * * Chống phá giá và thuế đối kháng * * * * * * * Các nguyên tắc về xuất xứ * * * * * * * * * * Đánh giá thuế quan và thủ tục hải quan * * * * * * * * Đầu tư * * * * * * * * Dịch vụ * * * * * * * * * * Đánh giá tiêu chuẩn và hợp chuẩn (MRAs) * * * * * * * Vệ sinh dịch tễ * * * * * * * Mua sắm chính phủ * * * * * * * * Quyền sở Hữu trí tuệ * * * * * * * * Cạnh tranh * * * * * * Giải quyết tranh chấp * * * * * * * * * Điều khoản cán cân thanh toán quốc tế * * * Các ngoại lệ chung * * * * * * * Hợp tác kinh tế và kỹ thuật * * * Các uỷ ban hỗn hợp * * * * * * Thương mại điện tử * Đi lại của thể nhân * * * * * Môi trường + * + Lao động + * + * : các mục có trong văn bản chính + : các mục không có trong văn bản chính nhưng có trong các hiệp định bổ trợ Nguồn: Báo cáo “Thực trạng của các FTA chính và các phân tích từ khía cạnh luật pháp”, trang 15 – Trung tâm thương mại và đầu tư Nhật Bản (JMCTI), Tokyo, 2000. Phụ lục 3: Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN và Trung Quốc (1997 - 2001) Đơn vị: triệu USD Nước 1997 1998 1999 2000 2001   Brunei Darussalam 701.7 573.3 596.0 600.2 243.5   Campuchia -14.7 230.4 214.0 179.3 113.0   Indonesia 4,677.0 -356.0 -2,745.0 -4,550.0 -3,277.0   Lào 86.3 45.3 51.5 33.9 23.9   Malaysia 6,324.0 2,714.0 3,895.3 3,787.6 553.9   Myanmar 387.2 314.5 253.1 254.8 123.0   Philippine 1,249.0 1,752.0 578.0 1,241.0 1,792.0   Singapore 10,746.0 6,389.0 11,803.2 5,406.6 8,608.8   Thái Lan 3,626.0 5,143.0 3,561.0 2,813.0 3,759.0   Việt Nam 2,587.0 1,700.0 1,483.9 1,289.0 1,300.0 ASEAN 30,369.5 18,505.5 19,691.0 11,055.4 11,940.1   China 44,237.0 43,751.0 40,319.0 40,772.0 46,846.0 Nguồn: UNCTAD World Investment Report 2002 ( Phụ lục 4: Thương mại của Trung Quốc với những đối tác chủ yếu (1999 - 2001) Đơn vị: Tỷ USD 1999 2000 2001 Giá trị thương mại (tỷ USD) Tốc độ tăng trưởng (%) Giá trị thương mại (tỷ USD) Tốc độ tăng trưởng (%) Giá trị thương mại (tỷ USD) Tốc độ tăng trưởng (%) Trung Quốc 360.65 11.3 474.31 31.5 509.77 7.5 Nhật Bản 66.17 14.2 83.17 25.7 87.75 5.5 Mỹ 61.43 12.0 74.47 21.2 80.49 8.1 EU 55.68 13.9 69.04 24.0 76.63 11.0 Hồng Kông 43.78 -3.6 53.95 23.3 55.97 3.7 ASEAN * 27.04 14.9 39.52 45.3 41.62 5.3 Hàn Quốc 25.04 17.7 34.50 37.8 35.91 4.1 Đài Loan 23.48 14.5 30.53 30.1 32.34 5.9 Australia 6.31 25.0 8.45 33.9 9.00 6.4 Nga 5.72 4.4 8.00 39.9 10.67 33.3 Canada 4.77 9.2 6.92 44.9 7.38 6.7 * : Số liệu ASEAN năm 1999 không bao gồm Campuchia. Nguồn: Tổng cục Hải quan Trung Quốc (theo “Triển vọng của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc”, Tham luận của Li Wei, Học viện Thương mại quốc tế và Hợp tác kinh tế Trung Quốc” tại Hội thảo khu vực về “Những thuận lợi và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam và Quỹ Hanns Siedel, CHLB Đức tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 21/ 6/ 2002. Phụ lục 5: Thương mại của Trung Quốc với từng nước ASEAN Đơn vị: triệu USD 1999 2000 2001 Tổng XK NK Tổng XK NK Tổng XK NK Trung Quốc 27,202 12,275 14,927 39,522 17,341 22,181 41,615 18,385 23,229 Singapore 8,563 4,502 4,061 10,821 5,761 5,060 10,934 5,792 5,143 Malaysia 5,279 1,674 3,606 8,045 2,565 5,480 9,425 3,220 6,205 Indonesia 4,830 1,779 3,051 7,464 3,062 4,402 6,725 2,837 3,888 Thái Lan 4,216 1,436 2,780 6,624 2,243 4,381 7,050 2,337 4,713 Philippine 2,287 1,379 908 3,142 1,464 1,677 3,566 1,620 1,945 Việt Nam 1,318 964 354 2,466 1,537 929 2,815 1,804 1,011 Myanma 508 407 101 621 496 125 632 497 134 Campuchia 160 104 56 224 164 59 240 206 35 Bruney 8 8 0 74 13 61 165 17 148 Lào 32 22 10 41 34 6 62 54 7 Nguồn: Tổng cục Hải quan Trung Quốc (theo “Triển vọng của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc”, Tham luận của Li Wei, Học viện Thương mại quốc tế và Hợp tác kinh tế Trung Quốc” tại Hội thảo khu vực về “Những thuận lợi và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam và Quỹ Hanns Siedel, CHLB Đức tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 21/ 6/ 2002). Phụ lục 6: Tỷ lệ FDI từ ASEAN trong tổng FDI vào Trung Quốc Đơn vị: % Nguồn: Bộ Ngoại thương và Hợp tác kinh tế Trung Quốc (MOFTEC) (theo “Triển vọng của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc”, Tham luận của Li Wei, Học viện Thương mại quốc tế và Hợp tác kinh tế Trung Quốc” tại Hội thảo khu vực về “Những thuận lợi và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam và Quỹ Hanns Siedel, CHLB Đức tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 21/ 6/ 2002). Phụ lục 7: Tác động của ACFTA tới các nền kinh tế ASEAN và Trung Quốc theo mô hình CGE Bảng 1: Tác động của ACFTA tới GDP của khu vực Đơn vị: % Tác động của ACFTA tới GDP Nước Acfta Tự do hoá thương mại Tự do hoá thương mại và tích luỹ vốn Trung Quốc 0.076 0.441 ASEAN 0.229 2.077 ROW (Phần còn lại của thế giới) -0.004 -0.075 Bảng 2: Tác động của ACFTA tới mức độ thịnh vượng của khu vực Đơn vị: %, triệu USD (Các con số trong ngoặc đơn là các biến số tương đương tính bằng triệu USD) Tác động của ACFTA Nước Acfta Tự do hoá thương mại Tự do hoá thương mại và tích luỹ vốn Trung Quốc 0.37 (3,274) 0.59 (5,271) ASEAN 0.96 (5,54) 2.25 (13,044) ROW (Phần còn lại của thế giới) -0.02 (-4,533) -0.07 (-14,426) Bảng 3: Tác động của ACFTA tới xuất khẩu của khu vực Đơn vị: % Tác động của ACFTA Nước Acfta Tự do hoá thương mại Tự do hoá thương mại và tích luỹ vốn Trung Quốc 2.45 3.04 ASEAN 1.99 4.28 ROW (Phần còn lại của thế giới) -0.01 -0.10 Bảng 4: Tác động của ACFTA tới nhập khẩu của khu vực Đơn vị: % Tác động của ACFTA Nước Acfta Tự do hoá thương mại Tự do hoá thương mại và tích luỹ vốn Trung Quốc 3.40 3.61 ASEAN 3.31 4.89 ROW (Phần còn lại của thế giới) -0.13 -0.16 Nguồn: “Luận đàm về việc thành lập khu vực mậu dịch tự do Đông á và các hệ quả của nó” – Tham luận của Inkyo Cheong, Viện chính sách kinh tế Hàn Quốc (KIEP) tại hội thảo “Những thuận lợi và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc” do Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam phối hợp với Quỹ Hanns Seidel, CHLB Đức đồng tổ chức tại Hà Nội vào ngày 30/ 8/ 2002. Phụ lục 8: Tác động của ACFTA đến cơ cấu xuất khẩu của ASEAN và Trung Quốc theo mô hình GTAP Bảng 1: Tác động của ACFTA đến cơ cấu xuất khẩu của ASEAN sang Trung Quốc Đơn vị: triệu USD Indonesia Malaysia Philippine Singapore Thái Lan Việt Nam Tổng Thực phẩm -5.57 -4.86 42.05 -1.27 129.56 -6.02 153.89 Dầu thực vật 42.97 505.54 4.21 34.87 2.83 20.88 611.30 Nông phẩm khác 139.26 145.65 12.27 72.91 290.77 30.08 690.94 Khai khoáng 55.91 25.72 52.18 18.86 9.89 12.28 174.84 Dệt may và quần áo 735.35 465.62 68.54 101.93 1698.77 9.39 3079.60 Hoá chất 94.75 186.37 14.54 369.29 164.89 9.05 838.89 Xe máy 287.91 618.62 5.03 755.72 60.11 150.29 1877.68 Máy móc, thiết bị điện 28.02 495.07 58.82 1344.15 230.28 0.30 2156.64 Hàng chế tạo khác 1281.84 773.63 77.34 948.33 323.73 44.50 3449.37 Các ngành hàng khác -4.34 -4.07 -4.17 -9.21 -3.06 -3.72 -28.57 Tổng 2656.10 3207.29 330.81 3635.58 2907.77 267.03 13004.58 Bảng 2: Tác động của ACFTA đến cơ cấu xuất khẩu của Trung Quốc sang ASEAN Đơn vị: triệu USD Indonesia Malaysia Philippine Singapore Thái Lan Việt Nam Tổng Thực phẩm 58.75 163.54 82.93 117.12 115.82 31.96 570.12 Dầu thực vật 42.39 1.64 0.67 6.09 10.67 0.10 61.56 Nông phẩm khác 31.08 11.47 14.47 80.36 40.32 5.00 182.70 Khai khoáng 18.03 1.90 0.00 -0.68 13.54 0.23 33.03 Dệt may và quần áo 402.76 307.61 622.66 58.62 869.89 240.71 2502.25 Hoá chất 97.98 105.69 179.24 13.94 196.81 31.32 624.97 Xe máy 74.44 45.67 173.97 54.82 357.69 50.78 757.37 Máy móc, thiết bị điện 114.31 361.36 813.43 -12.15 794.09 80.26 2151.31 Hàng chế tạo khác 527.94 453.95 1169.78 329.84 742.79 499.15 3723.45 Các ngành hàng khác 3.92 3.50 0.01 -4.02 -1.46 5.31 7.26 Tổng 1371.60 1456.33 3057.16 643.94 3140.16 944.82 10614.02 Nguồn: Nhóm chuyên gia ASEAN - Trung Quốc về hợp tác kinh tế (ASEAN – China Expert Group on Economic Cooperation), “Xây dựng quan hệ kinh tế ASEAN - Trung Quốc chặt chẽ hơn trong thế kỷ 21”, Ban thư ký ASEAN (www.aseansec.org), tháng 10/ 2001. Phụ lục 9: Các thị trường xuất khẩu chính của Trung Quốc giai đoạn 1986 - 1998 Đơn vị: Tỷ USD Hồng Kông Nhật Mỹ Đức Hàn Quốc Canada Đài Loan ASEAN Châu á Australia 1986 33.8 15.3 8.5 3.4 0.8 1.0 n.a. 5.9 60.9 0.7 1987 37.4 16.2 7.7 3.3 0.8 1.1 n.a. 5.9 61.8 0.8 1988 40.8 16.7 7.1 3.1 0.6 0.9 n.a. 5.6 64.1 0.9 1989 48.0 15.9 8.4 3.1 0.6 0.9 n.a. 5.8 64.5 0.9 1990 42.9 14.5 8.3 3.3 0.6 0.7 0.5 6.0 71.8 0.7 1991 44.7 14.2 8.6 3.3 0.7 0.8 0.8 5.8 74.2 0.8 1992 44.3 13.7 10.1 2.9 0.6 0.8 0.8 5.0 71.9 0.8 1993 24.0 17.2 18.5 4.3 0.7 1.3 1.6 5.1 57.3 1.2 1994 26.7 17.8 17.7 3.9 0.4 1.2 1.9 5.3 60.7 1.2 1995 24.7 19.1 16.8 3.8 0.3 1.0 n.a. 6.0 61.9 1.1 1997 24.0 17.4 17.9 3.6 5.0 1.0 1.9 6.9 59.6 1.3 1998 21.1 16.1 20.7 4.0 3.4 1.2 n.a. 6.0 53.4 1.5 Nguồn: Lee and Abeysinghe (1999) (theo Th.S. Trương Mai Hương, “Trung Quốc gia nhập WTO và ảnh hưởng đối với các nước ASEAN” - Chuyên đề Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, Trường Đại học Ngoại Thương, số quý IV/ 2001, trang 63.) n.a. : không có số liệu Phụ lục 10: Những thị trường xuất khẩu và nguồn nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam năm 2000 Thị trường xuất khẩu % tổng xuất khẩu Nguồn nhập khẩu % tổng nhập khẩu Nhật 18.1 Singapore 17.7 Trung Quốc 10.6 Nhật 14.4 Australia 8.8 Đài Loan 12.1 Singapore 6.1 Hàn Quốc 11.1 Đài Loan 5.2 Trung Quốc 9.1 Nguồn: The Economic Intelligent Unit, 2002 (theo Nhóm chuyên gia ASEAN - Trung Quốc về hợp tác kinh tế (ASEAN – China Expert Group on Economic Cooperation), “Xây dựng quan hệ kinh tế ASEAN - Trung Quốc chặt chẽ hơn trong thế kỷ 21”, Ban thư ký ASEAN (www.aseansec.org), tháng 10/ 2001.) Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV519.doc