Phần I: Khu kinh tế cửa khẩu và tác động của nó đối với việc phát triển vùng Đông Bắc
I. Một số khái niệm về khu kinh tế cửa khẩu:
1. Khái niệm:
Thuật ngữ khu kinh tế cửa khẩu mới được dùng ở Việt Nam trong một số năm gần đây khi quan hệ kinh tế-thương mại Việt Nam và Trung Quốc đã có những bước phát triển mới, đòi hỏi phải có mô hình kinh tế phù hợp nhằm khai thác các tiềm năng, thế mạnh kinh tế của hai nước thông qua các cửa khẩu biên giới. Bên cạnh đó Việt Nam còn có biên giới với Lào và C
92 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1332 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Khu KT cửa khẩu và tác động của nó đến việc phát triển vùng đông Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ampuchia, tuy họ là các quốc gia nhỏ, còn khó khăn về kinh tế, nhưng lại có vị trí hết sức quan trọng là nằm trong tiểu vùng sông Mêkông. Giữa các quốc gia thuộc tiểu vùng sông Mêkông đang có nhiều dự án xây dựng cầu, đường thúc đẩy phát triển kinh tế theo tuyến hành lang Đông-Tây trên cơ sở dòng chảy tự nhiên của sông Mêkông. Tât cả các điều kiện thuận lợi trên chỉ có thể phát huy tốt nếu có các mô hình kinh tế thích hợp, trong đó phải kể đến khu kinh tế cửa khẩu.
Để đưa ra được khái niệm về khu kinh tế cửa khẩu, cần phải dựa trên cơ sở của nhiều khái niệm có liên quan. Khái niệm được đề cập đến đầu tiên là “giao lưu kinh tế qua biên giới”, từ trước đến nay khái niệm về “giao lưu kinh tế qua biên giới” thường được hiểu theo nghĩa hẹp là các hoạt động trao đổi thương mại, trao đổi hàng hoá giữa cư dân sinh sống trong khu vực biên giới, hoặc giữa các doanh nghiệp nhỏ đóng tại các địa bàn biên giới xác định, thuộc tỉnh có cửa khẩu biên giới. Thương mại qua các cửa khẩu biên giới có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: trao đổi hàng hoá qua các cặp chợ biên giới, nơi cư dân 2 bên biên giới thực hiện các hoạt động mua/bán hàng hoá trên cơ sở tuân thủ các quy định của Nhà nước về tổng khối lượng hoặc tổng giá trị trao đổi. Địa điểm cho các cặp chợ này do chính quyền của cả 2 bên thỏa thuận. Hoặc là các hoạt động thương mại biên giới thực hiện dưới dạng trao đổi hàng hoá giữa hai xí nghiệp nhỏ tại địa phương với các đối tác của mình ở bên kia biên giới. Thông thường, đây là các hoạt động trao đổi hàng hoá với giá trị không lớn lắm. Trong khi đó, hiểu theo nghĩa rộng, giao lưu kinh tế qua biên giới bao gồm các dạng hoạt động trao đổi kinh tế, kĩ thuật qua các cửa khẩu biên giới, trong đó các hoạt động trao đổi thương mại là một trong những yếu tố cấu thành. Trong vòng hơn một thập kỉ vừa qua , nội dung của giao lưu kinh tế đã có những thay đổi lớn và trở thành các hoạt động hợp tác kinh tế, kĩ thuật ngày càng đầy đủ và toàn diện hơn. Trong đó, các hoạt động giao lưu kinh tế không chỉ đơn thuần là việc buôn bán, trao đổi hàng hoá thông thường mà còn bao gồm cả các hoạt động hợp tác kỹ thuật, xuất và nhập khẩu dịch vụ, thực hiện các liên doanh xuyên biên giới, các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư của phía bên kia biên giới, buôn bán các trang thiết bị kỹ thuật, liên doanh phát triển cơ sở hạ tầng, du lịch qua biên giới, v..v… Như vậy, có thể trao đổi hàng hoá đơn giản thành các hoạt động hợp tác sản xuất kinh doanh. Tại một số nước (như Trung Quốc, Thái Lan) xu hướng này ngày càng trở nên rõ ràng và trở thành hướng đi chính, dẫn tới việc thành lập các khu mậu dịch tự do biên giới, hoăc thành lập các khu hợp tác kinh tế khu vực và quốc tế.
Các lý thuyết kinh tế học phát triển đã chỉ rõ rằng giao lưu kinh tế qua biên giới với tư cách là một hình thức mở cửa kinh tế giữa các nước láng giềng có thể mang lại nhiều lợi thế cho các nước này. Sơ lược có thể đưa ra bốn lợi thế như sau: Thứ nhất, các nước láng giềng có ưu thế về vị trí địa lý, khoảng cách nối liền qua biên giới sẽ làm giảm nhiều chi phí giao thông vận tải và liên lạc; các vùng biên giới lại thường là các vùng có nguồn tài nguyên dồi dào, sản vật quý đa dạng, là những tiền đề tốt để phát triển thương mại và du lịch. Thứ hai, khu vực các cửa khẩu biên giới trên bộ hiện còn chưa phải đối mặt với cạnh tranh thương trường ở mức gay gắt như các vùng cửa khẩu hàng không hàng hải, mà chỉ là một thị trường mới mở, mang tính chất bổ sung cho các nhu cầu của nhau. Thứ ba, các nước láng giềng có trình độ phát triển không quá chênh lệch về cơ cấu ngành nghề, sản phẩm, nguyên liệu, nhu cầu thị trường. Thứ tư, buôn bán biên giới trên bộ có thể có những hình thức đa dạng hơn so với buôn bán qua các cửa khẩu hàng không, hàng hải. Nhân dân vùng biên giới hai nước qua lại buôn bán, giao lưu, làm thúc đẩy nhu cầu quan hệ, trao đổi chính thức ở cấp Nhà nước.
Giao lưu kinh tế tại khu vực các cửa khẩu biên giới là hình thức tiếp cận mới để thực hiện mục tiêu mở rộng hợp tác kinh tế giữa các nước láng giềng. Cho đến nay, lịch sử hợp tác kinh tế đã biết đến nhiều hình thức liên kết kinh tế thông thường. Trong đó, ở trình độ cao, phải kể đến các hình thức như:
- Khu vực thương mại tự do
- Liên minh thuế quan
- Thị trường chung
- Liên minh kinh tế
Trong khi đó, tại các vùng, các địa phương có trình độ phát triển kinh tế còn thấp, các hoạt động hợp tác kinh tế còn được thực hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau. Trong đó phải kể đến là:
- Các vùng tăng trưởng: là hình thức hợp tác kinh tế mới giữa các vùng nằm kề nhau về mặt địa lý của các nước làng giềng, cho phép đạt được mục tiêu tăng trưởng nhanh hơn về thời gian, thấp hơn về chi phí. Đồng thời, chúng còn có các ưu điểm khác nhau cho phép khai thác các thế mạnh bổ sung của mỗi nước thành viên, tận dụng hiệu quả kinh tế qui mô lớn.
- Các thỏa thuận về thương mại miễn thuế: cũng là một hình thức liên kết thương mại được xem xét tại một số nước đang phát triển ở châu á (ví dụ: giữa ấn Độ và Nêpan. Trung Quốc và một số nước láng giềng,vv…). Những thỏa thuận này có thể dẫn đến việc thực hiện các qui định về miễn thuế quan cho một số loại hàng hoá được trao đổi gữa các nước thành viên, và thậm chí có thể làm tiền đề cho một liên minh thuế quan về sau.
- Các đặc khu kinh tế (như khu chế suất, khu công nghiệp tập trung) được áp dụng tại nhiều nước Đông á và Đông-Nam á trong vài thế kỉ gần đây, và ở Việt Nam hiện nay, cũng là một trong những hình thức đặc thù này.
Yếu tố chính qui định sự khác biệt về mức độ hợp tác và các hình thức được lựa chọn là sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế của các nước đang thực hiện liên kết. Tính đa dạng trong các loại hình và yếu tố quyết định sự cho sự lựa chọn một mô hình cụ thể phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, những điều kiện cần và đủ để quyết định hình thức này hay hình thức kia sao cho phù hợp hơn và có hiệu quả hơn.
Do đó, thông qua các hình thức, các cấp độ phát triển khác nhau của liên kết kinh tế, căn cứ theo đặc điểm của một loại hình kinh tế gắn liền với cửa khẩu, cho phép áp dụng những chính sách riêng trong một phạm vi không gian và thời gian xác định mà ở đó đã có giao lưu kinh tế biên giới phát triển… sẽ hình thành khu kinh tế cửa khẩu. Vì vậy, có thể hiểu khu kinh tế cửa khẩu là một không gian kinh tế xác định, gắn với cửa khẩu, có dân cư hoặc không có dân cư sinh sống và được thực hiện những cơ chế chính sách phát triển riêng, phù hợp với đặc điểm ở đó nhằm đưa lại hiệu quả kinh tế-xã hội cao hơn do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Hay khu kinh tế cửa khẩu có thể được hiểu là một vùng lãnh thổ bao gồm một hoặc một số cửa khẩu biên giới được Chính phủ cho áp dụng một số chính sách ưu đãi, khuyến khích phát triển kinh tế-xã hội nhằm tăng cường giao lưu kinh tế với các nước, tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và đầu tư chuyển đổi cơ cấu kinh tế các địa phương có cửa khẩu.
2. Những điểm giống và khác nhau giữa khu kinh tế cửa khẩu với các khu kinh tế khác.
Nội hàm của khái niệm về khu kinh tế cửa khẩu đã đề cập ở trên cho ta thấy, nó có một số điểm giống và khác nhau so với một số mô hình kinh tế như khu công nghiệp, khu chế xuất… Và thông qua sự so sánh này chúng ta sẽ có cái nhìn toàn diện hơn về mô hình khu kinh tế cửa khẩu.
- Trên thế giới có nhiều cách hiểu và tiếp cận khác nhau về khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. Đối với Việt Nam các khái niệm trên được hiểu một cách thống nhất theo cơ chế KCN, KCX, KCNC ban hành kèm theo NĐ số 36/Chính phủ ngày 24/4/1997. Các khái niệm được hiểu như sau:
Khu chế xuất là khu chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới xác định không có dân cư sinh sống, được hưởng một chế độ ưu tiên đặc biệt của Chính phủ, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
- Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, được hưởng một số chế độ ưu tiên của Chính phủ hay địa phương, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Khu công nghiệp là mô hình kinh tế linh hoạt hơn, hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, là đối tượng đầu tư chủ yếu vào các khu công nghiệp vì họ hi vọng vào thị trường nội địa, một thị trường mới, có dung lượng lớn để tiêu thụ hàng hoá của mình. Hơn nữa, việc mở của thị trường nội địa cũng phù hợp với xu hướng tự do hóa mậu dịch trên thế giới và khu vực… Việc cho phép tiêu thụ hàng hoá tại thị trường trong nước không những tạo nên yếu tố kích thích cạnh tranh sản xuất trong nước từ đó nâng cao khả năng xuất khẩu mà còn góp phần tích cực đẩy lùi và ngăn chặn hàng nhập lậu.
- Khu công nghệ cao là khu tập trung các doanh nghiệp công nghệ kỹ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao, gồm nghiên cứu - triển khai khoa học – công nghệ, đào tạo và các dịch vụ có liên quan, có ranh giới địa lý xác định được hưởng một số chế độ ưu tiên nhất định, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
- Đặc khu kinh tế là một khu vực không gian kinh tế, mà ở đó thiết lập một chế độ ưu tiên riêng, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ thành lập. Chế độ ưu tiên này được hình thành nhờ một loạt các điều kiện ưu đãi nhất định (như được miễn giảm các loại thuế, nới lỏng qui tắc thuế quan và ngoại hối…), nhằm thúc đẩy các hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc nghiên cứu khoa học trong khu vực.
Như vậy, khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao là ba loại của đặc khu kinh tế, chúng có những đặc điểm khác nhau xuất phát từ sự khác nhau về mục đích, đối tượng tham gia hay mối liên kết của chúng đối với nền kinh tế. Qua các khái niệm trên có thể thấy một số điểm giống và khác nhau giữa khu kinh tế cửa khẩu với các loại hình kinh tế trên là:
- Điểm giống nhau, trước hết về tư cách pháp nhân, chúng được thành lập do quyết định của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ và được hưởng một số chế độ ưu đãi của Chính phủ hoặc chính quyền địa phương,có một không gian kinh tế hay một vị trí xác định. Ngoài ra, các hình thức kinh tế này đều nhằm mục đích nâng cao hiệu quả, thúc đẩy phát triển kinh tế vùng, địa phương, thông qua việc phát huy đặc điểm hoạt động của từng loại hình này đối với vùng, địa phương, hay kinh tế cả nước.
- Điểm khác nhau cơ bản giữa khu kinh tế cửa khẩu với các hình thức kinh tế này, là ở vị trí và điều kiện hình thành. Để thành lập khu kinh tế cửa khẩu trước hết phải gắn với vị trí cửa khẩu, đây là khu vực có dân hoặc không có dân sinh sống, có các doanh nghiệp trong nước ngoài. Hơn nữa, mực đích thành lập khu kinh tế cửa khẩu nhằm ưu tiên phát triển thương mại, xuất nhập khẩu, dịch vụ, du lịch và công nghiệp. Trong đó, qua trọng nhất là hoạt động thương mại, dịch vụ, bao gồm: hoạt động xuất, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, vận chuyển hàng hoá quá cảnh, kho ngoại quan, cửa hàng miễn thuế… Như vậy, nguồn hàng hóa trao đổi ở đây có thể là tại chỗ, hoặc từ nơi khác đưa đến, khác với khu công nghiệp và khu chế xuất. Do đó các chính sách ưu tiên cũng khác nhau, phù hợp với đặc thù của vùng, địa phương nơi các loại hình này được thành lập.
II. Mô hình phát triển khu kinh tế cửa khẩu.
1. Mô hình không gian.
Các khu kinh tế cửa khẩu đều có đặc điểm chung về hành chính là nơi tiếp giáp hai hay nhiều quốc gia, có vị trí địa lý riêng trên đất liền, biển, sông hồ…. nằm trong tài liệu phân chia biên giới theo Hiệp Định và được Nhà nước cho áp đặt một số chính sách riêng.
1.1. Nguyên tắc chung của mô hình không gian:
- Tôn trọng chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải, thuỷ, thềm lục địa, vùng trời theo hiệp định đã ký và các quy ước quốc tế.
- Các hoạt động ở khu vực phải xét đến yếu tố địa lý, tự nhiên để không làm tổn hại đến lợi ích các bên về các mặt, chú ý đến lĩnh vực môi trường.
- Bảo đảm sự phối hợp tốt nhất các yếu tố tự nhiên để các bên cùng có lợi.
- Cần có sự bàn bạc cụ thể khi triển khai các hoạt động trong khu vực nhằm tạo ra sự hợp tác các nguồn lực của các bên.
- Tìm kiếm các các yếu tố tương đồng, tìm kiếm và hướng tới các vị trí mà ở đó có mối liên hệ tốt trong nội địa để bù đắp các thiếu hụt về nguồn lực, về trao đổi hàng hoá.
- Tránh các vị trí bất lợi, vị trí để tội phạm hoạt động hoặc có thể xảy ra tranh chấp, lấn chiếm, vị trí dễ nảy sinh mâu thuẫn.
1.2. Một số mô hình không gian:
Mô hình đường thẳng: Đây là mô hình tốt, một mặt giảm tập trung cao về biên giới, đồng thời là nơi sử dụng hàng hoá nhập khẩu và tạo ra hàng xuất khẩu dựa trên cơ sở lợi thế về mặt giao thông. Để đáp ứng về điều đó các bên phải có tuyến đường bộ, đường sắt, đường sông, hoặc liền bờ biển, ngoài ra trên các tuyến giao thông đó cần hình thành các, khu công nghiệp, đô thị, bến cảng ở mỗi bên với cự ly hợp lý, có mối liên hệ kinh tế mật thiết với khu kinh tế cửa khẩu. Mô hình này gần như đã tồn tại một cách “tự nhiên” trong lịch sử, từ một lối mòn dân chúng qua lại sau đó nhu cầu trao đổi tăng giao thông phát triển trở thành cửa khẩu. Có thể cho rằng mô hình này là cơ sở của các mô hình khác. (hình 1a)
Mô hình quát giao nhau ở cán: là mô hình dựa trên hai bên có hành loạt các đô thị, khu công nghiệp, các vùng sản xuất nhưng cách biên giới một khoảng do tự nhiên hoặc quy ước một cách phù hợp, việc trao đổi hàng hoá đều tập trung về khu kinh tế theo đường giao thông gần nhất. Mô hình này có tính tập trung cao về thương mại, có thể gọi là cảng khô hay khu thương mại tự do. (hình1b)
Mô hình quạt giao nhau ở cánh: là mô hình mà biên giới có các khu đô thị, khu công nghiệp tập trung, hàng hoá hai bên được trao đổi một cách phân tán ở nhiều cặp chợ biên giới. Mô hình này thích hợp với biên giới có địa hình phẳng đông dân cư để có thể xây dựng các phố biên giới dài hàng km. (hình 1c)
Mô hình lan toả: là mô hình dựa trên cơ sở tập quán sinh hoạt của dân cư nên mô hình này mang tính tự phát và phát triển theo yêu cầu lợi dụng các yếu tố tự nhiên. Mô hình này thích hợp với các cặp chợ, thị trấn biên giới, hay các công trình hạ tầng do hai bên hợp tác, hoặc sẵn có.
Sơ đồ 1: Sơ đồ các mô hình không gian
1a. Mô hình đường thẳng 1b. Mô hình quạt giao nhau ở cán
1c. Mô hình quạt giao ở cánh 1d. Mô hình lan tỏa
1.3. Mô hình một khu kinh tế cửa khẩu:
Là mô hình căn cứ vào nhu cầu phát triển kinh tế của mỗi nước, khả năng giao lưu với nước thứ ba nhờ hệ thống giao thông như đường bộ, sân bay bến cảng đường thủy; dựa trên các điều kiện tự nhiên thuận lợi các nước sẽ bố trí các cặp cửa khẩu quốc tế, quốc gia và địa phương.
Mô hình này được dựa trên một số các nguyên tắc như: thuận lợi cho việc kiểm soát các phương tiện, người và hàng hoá qua lại, trong đó cần có sự phối hợp hỗ trợ về các tiện ích công cộng như điện, nước, chiếu sáng, cây xanh, môi trường. Ngoài ra cần có dịch vụ tốt cho sự lưu trú của người cũng như của hàng hoá và các phương tiện quá cảnh,... Có hai mô hình cụ thể sau:
- Mô hình đối xứng: là mô hình được xây dựng theo định hướng phát triển của mỗi bên và thoả thuận quốc gia, mỗi bên xây dựng khu kinh tế cửa khẩu độc lập, cạnh tranh phát triển, do vậy nó có nét đối xứng mỗi bên có kết cấu hạ tầng giống nhau do đó chúng có những điểm bố trí tương đồng với nhau về kết cấu bao gồm: khu dân cư, khu thương mại, khu sản xuất, khu vui chơi giải trí, khu hành chính.
Sơ đồ 2: Sơ đồ mô hình khu kinh tế cửa khẩu đối xứng
Khu sản xuất
Các cửa kiểm soát
Khu hành chính
Khu thương mại và dịch vụ
Dải phân cách
Khu sản xuất
Các cửa kiểm soát
Khu hành chính
Khu thương mại và dịch vụ
Mô hình đặc biệt: đây là mô hình liên kết hai giai đoạn, tạo ra vùng lãnh thổ đặc biệt, hai bên có thể thoả thuận bằng một hiệp ước, theo đó chỉ ra vùng lãnh thổ hợp lý, có hàng rào, không có dân cư sinh sống. Điểm khác biệt về nguyên tắc của mô hình là hình thành một công ty kinh doanh hạ tầng cho thuê toàn bộ các tiện ích trong khu theo danh mục ngành nghề kinh doanh. Mô hình này có lợi thế khai thác tốt nhất hạ tầng và có khả năng thu hút đầu tư quốc tế. Tuy nhiên cơ chế qui định trách nhiệm và lợi ích mỗi bên cần được phân định một cách thật rõ ràng.
Sơ đồ 3: Sơ đồ khu kinh tế cửa khẩu đặc biệt
Khu sản xuất (công ty liên doanh đầu tư phát triển và kinh doanh hạ tầng thuê đất)
Các cửa kiểm soát
Khu hành chính
Khu thương mại và dịch vụ
Đường phân cách
Khu sản xuất (công ty liên doanh đầu tư phát triển và kinh doanh hạ tầng thuê đất)
Các cửa kiểm soát
Khu hành chính
Khu thương mại và dịch vụ
2. Mô hình thể chế.
2.1. Nguyên tắc chung:
- Tôn trọng luật pháp quốc tế, các hiệp định thoả thuận, quốc gia, khu vực trên cơ sở bảo đảm hoà bình, thịnh vượng và cùng có lợi.
- Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
- Chủ động thông báo cho nhau cùng hợp tác, thiện chí giải quyết những vướng mắc dựa trên sự tôn trọng truyền thống và tập quán, bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc.
- Tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư và dân chúng làm ăn.
- Phân cấp giải quyết các vấn đề phát sinh thường xuyên cho các cấp chính quyền khu vực theo nguyên tắc đối xứng.
Giữa các quốc gia có chung biên giới cần có sự trao đổi thông tin một cách thường xuyên về tình hình xây dựng cơ chế, chính sách phát triển khu kinh tế cửa khẩu của mỗi nước, để cùng phối hợp điều chỉnh và thực hiện cho phù hợp. Những nội dung mà các bên cùng quan tâm là :
- Khảo sát thực tế nguồn lực trong khu vực qui ước như điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội, văn hóa, dân tộc và tập quán, các ưu thế và các hạn chế.
- Những vấn đề về cơ chế chính sách chung như đường lối, chủ trương, chính sách, những văn bản pháp lý, các hiệp định, mô hình thể chế tại các khu vực cửa khẩu.
- Các chính sách cụ thể trong hoạt động xuất nhập khẩu, các biểu thuế và thủ tục hải quan, xuất nhập cảnh đối với người và phương tiện; những văn bản quy định về đầu tư nước ngoài vào khu vực này, cũng như các biện pháp đảm bảo an ninh, trật tự và các biện pháp bảo vệ môi trường cho sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu.
- Các văn kiện thỏa thuận dự kiến đưa ra trao đổi và phân cấp hợp tác. Các dự án đầu tư hỗn hợp và danh sách các đối tác trực tiếp tham gia.
2.2. Vùng giao thoa các chính sách khuyến khích
Các khu kinh tế cửa khẩu thuộc khu vực hành chính đến cấp cơ sở (thôn, tổ dân phố) được chính quyền Trung ương phân cấp quản lý theo hướng khuyến khích phát triển hơn các vùng khác nhưng không phải khu hành chính riêng như các đặc khu kinh tế vì vậy khu kinh tế cửa khẩu là vùng giao thoa chính sách.
2.3. Một cửa áp dụng cho hình thức phân cấp quản lý :
Một trong những vấn đề được mọi nguời quan tâm và lo ngại đó là vấn đề trong việc ra vào khu kinh tế cửa khẩu và xuất nhập cảnh. Cần phải có sự công khai công việc và thống nhất trong các đơn vị làm dịch vụ về vấn đề thu lệ phí.
Các khu kinh tế cửa khẩu có nhiều hình thức và phân cấp quản lý khác nhau nhưng đều theo nguyên tắc một cửa cho các hoạt động đầu tư và thương mại.
- Cửa khẩu độc lập, hình thành theo điều ước quốc tế mà chính phủ nước sở tại phê chuẩn giao cho ngành hải quan quản lý có qui chế riêng.
- Khu thương mại tự do trong đó có khu công nghiệp tự do cấp tỉnh hoặc cấp quốc gia, khu vực này không có dân cư, hàng hoá vào được miễn thuế, việc chuyển đổi hàng hoá như thay đổi nhãn hiệu, bao bì, lắp ráp,… không chịu sự giám sát của hải quan và khi tái xuất hoặc nhập khẩu phải lập sổ sách chịu sự giám sát của hải quan, phải nộp thuế.
Khu kinh tế cửa khẩu cấp tỉnh trong đó có khu thương mại tự do như trên, có dân cư và có đặc quyền riêng về đầu tư và thương mại, ở vùng thuận lợi có sân bay, bến cảng có thể hình thành đặc khu kinh tế với vùng lãnh thổ rộng, thiết chế hành chính riêng.
3. Mô hình của một khu kinh tế cửa khẩu không có dân.
Cửa khẩu mỗi nước có bốn cửa. Xu hướng tự do hoá thương mại, hàng hóa, trong danh mục thoả thuận được tự do vào khu, chỉ thu phí và phía bên kia miễn thuế nhập khẩu. Chỉ kiểm soát hàng hoá xuất ra khỏi khu để vào nội địa việc này phụ thuộc chính sách của mỗi nước.
Thu phí theo danh mục niêm yết đối với hàng hoá từ nội địa vào khu và từ phía bên kia nhập vào khu.
Quy định loại hàng hoá sản xuất kinh doanh trong khu được miễn kiểm soát của hải quan, không phải chịu bất kì loại thuế nào nhưng phải trả tiền thuế đất và các dịch vụ theo mức cao hơn nội địa, chịu thuế khi xuất khỏi khu vào nội địa; kê khai nộp lệ phí khi xuất sang bên kia
Có cửa thì chỉ có một cửa thu thuế và ba cửa thu phí. Thu lệ phí vào một lần trong đó có lệ phí sử dụng các tiện ích công cộng trong khu không phải trả tiền như bãi đỗ xe trong ngày, vệ sinh công cộng cho cá nhân, bảo đảm an ninh trật tự… và được miễn thuế, lệ phí khi mang hàng hoá theo cá nhân về nội địa và khi xuất cảnh.
Sơ đồ 4: Sơ đồ khu kinh tế cửa khẩu không có dân.
Kiểm soát nhập khẩu vào nội địa, nộp thuế
Miễn thuế nhập, kê khai nộp phí
Khuyến khích xuất khẩu, kê khai, nộp lệ phí
Vào tự do chỉ phai nộp lệ phí
Vào tự do chỉ phai nộp lệ phí
Khuyến khích xuất khẩu, kê khai, nộp lệ phí
Kiểm soát nhập khẩu vào nội địa, nộp thuế
Miễn thuế nhập, kê khai nộp phí
Khu kinh tế cửa khẩu nước B
Khu kinh tế cửa khẩu nước A
Đường
phân
cách
III. Vai trò và vị trí của các khu kinh tế cửa khẩu
Khu kinh tế cửa khẩu (KKTCK) ở Việt Nam ra đời phù hợp với quan điểm đổi mới mở cửa, hội nhập nền kinh tế thế giới của Đảng và Nhà nước trong những năm trở lại đây. Khu kinh tế cửa khẩu đầu tiên ở Việt Nam là KKTCK Móng Cái được thành lập ngày 18/9/1996 theo Quyết định 675 /TTg của Thủ tướng Chính phủ. Trong thời gian qua, hoạt động của khu KTCK đã đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế của tỉnh, của vùng khi có KTCK nói riêng và của cả nước nói chung. Đối với những nước có nền kinh tế hàng hóa chưa phát triển như Việt Nam thì việc phát triển khu kinh tế cửa khẩu sẽ mở rộng quy mô thị trường, tăng cường giao lưu hàng hóa, kích thích sản xuất và tăng tính cạnh tranh cho các sản phẩm hàng hóa. Ngoài ra việc phát triển khu KTCK sẽ tạo bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế mới theo hướng tích cực, tăng tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỉ trọng nông nghiệp trong tổng GDP. Với những đóng góp không nhỏ đối với phát triển kinh tế xã hội trong thời gian qua các khu KTCK đã ngày càng khẳng định rõ vai trò và vị trí của mình.
1. Đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân
Các khu kinh tế cửa khẩu được hình thành nhằm mục đích phát huy lợi thế về quan hệ kinh tế-thương mại cửa khẩu biên giới, thu hút các kênh hàng hoá, đầu tư, thương mại, dịch vụ và du lịch từ các nơi trong cả nước từ nước ngoài vào nội địa thông qua cơ chế chính sách ưu đãi tại các khu kinh tế cửa khẩu. Chính sự thu hút này đã làm cho các ngành, các địa phương trong cả nước, tùy theo quy mô, sự hấp dẫn của cơ chế chính sách ưu đãi thực hiện sự chuyển dịch sản xuất, lưu thông hàng hoá cho phù hợp. Bên cạnh đó khi mô hình khu kinh tế cửa khẩu được phát huy tốt sẽ tạo ra sự lưu thông hàng hoá giữa trong và ngoài nước nhằm khai thác thị trường rộng lớn của nước bạn. Hơn nữa, trong các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ và và du lịch cũng có những đòi hỏi tương tự, cần phải mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế để nhanh chóng hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Điều này càng có ý nghĩa đối với nền kinh tế hàng hoá chậm phát triển, thị trường còn nhỏ hẹp, sức mua thấp, khả năng cạnh tranh trước mắt của nền kinh tế còn thấp kém như Việt Nam.
Việc hình thành khu kinh tế cửa khẩu đã làm phong phú thêm tính đa dạng hóa của các loại hình khu kinh tế đặc biệt như khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế mở được xây dựng tại nước ta trong thời kì đổi mới vừa qua. Và cũng chính việc hình thành các khu kinh tế cửa khẩu đã hình thành một mô hình phát triển kinh tế nhằm khơi dậy và phát huy khu kinh tế cửa khẩu tiềm năng của địa bàn có điều kiện đặc thù là có các cửa khẩu.
Khu KTCK có sức thu hút đầu tư khá mạnh mẽ không chỉ các nhà đầu tư trong nước mà cả các nhà đầu tư nước ngoài. Để mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế nhằm thực hiện kế hoạch phát triển vùng của Chính phủ. Bên cạnh đó, khu KTCK góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra một hệ thống cơ sở hạ tầng mới, hiện đại, có giá trị lâu dài ở địa phương. Mặt khác, khu KTCK còn góp phần làm tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương giảm bớt sự phụ thuộc, trông chờ vào ngân sách Nhà nước. Hơn nữa còn đóng góp cho ngân sách Nhà nước ở cửa khẩu có doanh thu lớn, qua đó nâng cao được tỉ lệ tích luỹ đầu tư cho tương lai, đồng thời nâng cao đời sống của đồng bào vùng biên giới thông qua việc tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng khu KTCK, nâng cao dân trí đồng bào biên giới thông qua việc tiếp xúc với các hoạt động kinh tế, thị trường, qua đó lan toả tới đồng bào biên giới các địa bàn xa hơn.
Bên cạnh đó, quá trình phát triển các khu KTCK tác động thúc đẩy mạnh mẽ quá trình giao lưu kinh tế giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nó có tác dụng như chiếc cầu nối kinh tế Việt Nam với kinh tế thế giới, nhằm đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế, góp phần quan trọng trong việc thực hiện quan điểm phát triển giai đoạn 2001-2002 mà Đảng ta đã đề ra trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX là: “Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tựchủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”.
2. Đối với sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Khu KTCK hình thành sẽ tạo ra sự phân công lao động theo hướng chuyển lao động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp sang lĩnh vực phi nông nghiệp, tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương theo hướng phát triển các ngành thương mại, dịch vụ, du lịch, công nghiệp, hỗ trợ phát triển đối với dịch vụ trong nước thông qua việc đẩy mạnh giao lưu kinh tế với các nước láng giềng; tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, kiểm tra giám sát các hoạt động, phát hiện và xử lý các vi phạm. Điều đó thể hiện khi môi trường kinh tế phát triển thuận lợi khu KTCK cũng là nơi thể hiện sự giao thoa về các chính sách kinh tế đối ngoại củ các quốc gia có đường biên giới chung. Vì vậy những nhu cầu về kinh tế cả cho sản xuất và tiêu dùng trong phạm vi hẹp, trực tiếp phục vụ cho nhu cầu tại chỗ của địa phương, vùng lân cận; trong phạm vi rộng nó sẽ trực tiếp đáp ứng nhu cầu của địa phương, các vùng trong cả nước thông qua sự luân chuyển các kênh hàng hóa từ khu vực KTCK đến các nơi và ngược lại theo sự vận động của quan hệ cung cầu và giá cả trên thị trường đối với các chủng loại hàng hóa trao đổi ở đây. Do đó với phạm vi ảnh hưởng càng lớn, khu KTCK càng phát triển, nó sẽ tác động càng mạnh mẽ tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy phân công lao động, làm cho thị trường được thông suốt trong cả nước, khai thác tối đa những tiềm năng và thế mạnh của vùng.
Ngoài ra đối với một số tỉnh miền núi biên giới phía Đông Bắc nơi có khu KTCK nó còn góp phần đẩy nhanh xu hướng đô thị hoá, hình thành những thị trấn, thị tứ, các khu thương mại dịch vụ …
3. Đối với quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hoá đất nước
Phát triển các khu KTCK là một trong những chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta nhằm xây dựng một mô hình kinh tế mới, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Các khu KTCK thúc đẩy quá trình hiện đại hoá thông qua việc ứng dụng công nghệ mới và trình độ quản lý hiện đại trong hoạt động thương mại, dịch vụ và sản xuất, tạo ra những yếu tố để liên kết các doanh nghiệp đầu tư trong nước cũng như ngoài nước, góp phần tích cực vào việc nâng cao giá trị kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ; thực hiện phân công lao động góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
4. Đối với phát triển xã hội
Sự tác động đối với kinh tế kinh tế của các khu kinh tế cửa khẩu cũng thực chất là tác động đến phát triển xã hội, nhằm hướng tới mục tiêu phát triển xã hội là nâng cao phúc lợi xã hội cho con người. Các khu KTCK còn góp phần giải quyết vấn đề việc làm tạo sự ổn định cho cuộc sống của nhân dân qua việc đào tạo và nâng cao tay nghề cho lực lượng lao động xã hội, hình thành nhiều trung tâm tạo việc làmmới, phát triển kinh tế gắn văn minh, tiến bộ và công bằng xã hội. Với sự tác động có tính lan toả mạnh mẽ thì các khu KTCK sẽ thúc đẩy phát triển xã hội rất hiệu quả, đặc biệt là các vùng biên giới cửa khẩu còn đang gặp rất nhiều khó khăn.
5. Đối với an ninh quốc phòng
Việc hình thành các khu kinh tế cửa khẩu sẽ thu hút dân cư đến làm ăn, sinh sống, tạo thành những khu tập trung dân cư, một số đô thị biên giới góp phần làm tăng thêm tiềm lực kinh tế, quốc phòng tại tuyến biên giới. Đời sống của nhân dân tại địa bàn các khu kinh tế cửa khẩu sẽ được thay da đổi thịt tạo thêm lòng tin về chính quyền và về các chính sách của Đảng và Nhà nước. Ngoài ra, các lực lượng công an, hải quan, biên phòng tại khu kinh tế cửa khẩu được tăng cường năng lực cũng như trang thiết bị, do đó hoạt động bảo vệ biên giới, chủ quyền Quốc gia, đảm bảo an ninh, quốc phòng sẽ được nâng cao về nhiều mặt.
Như vậy việc thành lập khu KTCK có tác động nhiều mặt đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước như tổ chức lại cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ, bố trí dân cư, nâng cao mức sống nhân dân, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội cho khu vực.
IV. Kinh nghiệm phát triển khu KTCK ở một số nước
Có thể nhận thấy rằng hầu hết các quốc gia có sử dụng các loại hình kinh tế này đều nhận thấy vai trò to lớn của nó trong thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hóa nhờ tính đặc thù về cơ chế, chính sách của từng mô hình kinh tế. Mức độ ảnh hưởng và phạm vi tác động thường tỉ lệ thuận với quy mô phát triển của từng loại mô hình này về giá trị, tỉ trọng đóng góp trong GDP cũng như hiệu quả toàn diện về mặt kinh tế - xã hội do phát triển các loại hình kinh tế này mang lại. Sự tác động của các khu kinh tế cửa khẩu tới việc phát triển kinh tế có được là nhờ các chức năng đặc thù về ưu đãi xuất, nhập khẩu, các cơ chế chính sách khuyến khích về công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, du lịch. phát triển các loại hình này cũng đồng nghĩa với việc thúc đẩy xuất, nhập khẩu công nghiệp, nông nghiệp, du lịch và dịch vụ phát triển, đây là cơ sở kinh tế hàng hóa trong nước phát triển.
1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Sau hơn 20 năm mở cửa, tuy đã bắt đầ._.u được khai phát một cách tích cực, khu vực biên giới Trung Quốc nhìn chung vẫn lạc hậu và có khoảng cách xa với các vùng ven biển. Việc kiên trì theo đuổi đường lối mở cửa và những biến đổi trong phát triển kinh tế ở Trung Quốc và thế giới đã buộc nước này phải điều chỉnh và hoàn thiện chính sách này theo hướng đẩy nhanh mở cửa vùng biên giới nội địa để phối hợp phát triển với các vùng duyên hải. Chính vì vậy, đã có một số chính sách phát triển mới ra đời: chính sách cải cách mở cửa không chỉ dựa vào nguồn tài chính của chính phủ trung ương mà còn “nới quyền, nhường lợi” cho các địa phương, xí nghiệp, và các chính sách ưu đãi khác để phát triển kinh tế tại các khu vực lãnh thổ khác nhau. Các chính sách này được thực hiện với những nội dung không giống nhau, tuỳ thuộc vào đặc thù của từng khu vực.
Việc mở cửa vùng biên giới đất liền nhằm khai thác thị trường, tiêu thụ hàng công nghiệp địa phương và cung cấp nguyên vật liệu cho ngành công nghiệp Trung Quốc, thực hiện “tam khứ nhất bổ” (Tam khứ: xuất khẩu hàng hóa, lao động, thiết bị, kỹ thuật; Nhất bổ: lấy về những mặt hàng thiếu hoặc khan hiếm ở Trung Quốc) cũng là một trong số những chính sách mới kể trên. Tư tưởng chủ đạo của Trung Quốc trong việc mở cửa vùng biên giới là cho phép các tỉnh hợp tác kinh tế trực tiếp với các nước láng giềng, theo nhiều hướng, nhiều hình thức và nhiều con đường, tuỳ điều kiện cụ thể của từng tỉnh đó.
* Chính sách biên mậu của Trung Quốc
Hoạt động kinh tế biên mậu (KTBM) là kết quả tất yếu khách quan của quá trình hợp tác và giao lưu kinh tế giữa các quốc gia có chung đường biên giới với nhau. Đây cũng là một trong những hình thức thương mại truyền thống của Trung Quốc. Là một bộ phận hữu cơ trong hoạt động thương mại quốc tế của Trung Quốc, KTBM đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các khu vực biên giới nói riêng cũng như tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế nói chung.
Quá trình phát triển kinh tế biên mậu của Trung Quốc
Trung Quốc là một nước có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc triển khai và xúc tiến hoạt động biên mậu (HĐBM). Dựa vào lợi thế có đường biên giới trải dài và tiếp giáp với nhiều quốc gia, HĐBM của Trung Quốc có một lịch sử phát triển lâu đời. Sau khi nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (PRC) được thành lập. Chính phủ Trung Quốc đã lần lượt ký kết các hiệp định thương mại với Liên Xô (cũ), Việt Nam, Triều Tiên, ấn Độ và các quốc gia có chung đường biên khác từ những năm đầu của thập kỷ 50. Tuy nhiên, trong thập kỷ 60 và 70, hoạt động này đã bị tạm ngưng một thời gian do một số vấn đề trong và ngoài nước. Đến đầu thập kỷ 80, cùng với sự cải cách và mở cửa của Trung Quốc cũng như việc nối lại quan hệ chính trị với các quốc gia có chung đường biên. HĐBM lại được tiếp tục và chuyển sang giai đoạn phát triển mới:
- Giai đoạn khôi phục và mở rộng (1982-1991)
Năm 1982, các tỉnh biên giới phía Bắc Trung Quốc đã nối lại quan hệ thương mại với vùng miền Đông Liên xô (cũ). Năm 1988, Chính phủ Trung Quốc đã ban hành một số chính sách ưu đãi đối với HĐBM. Nhờ đó tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động thương mại các tỉnh biên giới của Trung Quốc, làm cho phạm vi và quy mô của HĐBM đã được mở rộng đáng kể trong giai đoạn này.
- Giai đoạn phát triển (1992-1995):
Năm 1992, Trung Quốc đã thực hiện một số chính sách để đẩymạnh việc trao đổi hàng hóa với Liên Xô (cũ) vàcác nước Đông Âu. Năm 1993, lầm đầu tiên kim ngạch xuất nhập khẩu trong HĐBM (gồm cả hình thức trao đổi hàng) đạt mức cao nhất là hơn 5 tỷ USD. Tuy nhiên, do sự bất ổn của thị trường cùng với việc xuất hiện các sản phẩm xuất khẩu kém chất lượng đã buộc Chính phủ Trung Quốc phải thực hiện các biện pháp để ổn định lại trật tự trong HĐBM vào năm 1994.
- Giai đoạn điều chỉnh và tiêu chuẩn hoá (1996 đến nay)
Để đảm bảo sự ổn định trong hoạt động thương mại, Chính phủ Trung Quốc đã ban hành Quy định về các vấn đề liên quan đến HĐBM vào năm 1996. Nhờ việc ban hành quy định này đã chuẩn hoá sự quản lý đối với HĐBM. Trong thời gian điều chỉnh ban đầu,hoạt động này đã bị giảm sút nhưng sau đó được phục hồi từ năm 1999 và duy trì được mức độ tăng trưởng ổn định sau năm 2000.
Nhìn chung, kim ngạch xuất nhập khẩu trong hoạt động KTBM của Trung Quốc biến động theo mô hình tăng trưởng làn sóng. Năm 1993, kim ngạch xuất nhập khẩu trong hoạt động KTBM đã đạt mức kỷ lụclà5,512 tỷ USD, chiếm tới 2,63% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Tuy trong thời gian sau đó (1994-1998) đã có sự giảm sút nhưng đến năm 1999, kim ngạch xuất nhập khẩu qua biên giới của Trung Quốc lại đạt được quy mô như năm 1993. Và xu thế tăng trưởng này tiếp tục được duy trì đều đặn từ sau năm 2000. Ước tính, năm 2003 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua biên giới đạt khoảng 71 tỷ USD (tăng hơn 35% so với năm 2002). chiếm 1% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Các hàng hóa xuất khẩu chủ yếu trong hoạt động KTBM của Trung Quốc là các sản phẩm nông sản như: gạo. rau, hoa quả, các sản phẩm dệt may, sản phẩm công nghiệp nhẹ ,… trong khi Trung Quốc chủ yếu nhập khẩu nguyên liệu thô như gỗ, thép, bột giấy, khoáng sản, các kim loại không chứa sắt, phân bón …
Các hình thức trao đổi trng hoạt động KTBM của Trung Quốc rất phong phú và đa dạng, và phụ thuộc vào đặcđiểm kinh tế - xã hội của các quốc gia có chung đường biên giới. Nhìn chung, theo quy định của Chính phủ Trung Quốc, hai hình thức chủ yếu trong trao đổi KTBM là:
- Hình thức trao đổi hàng hóa của dân cư vùng biên giới: Hình thức trao đổi này được chính phủ quy định trong phạm vi 20km tính từ đường biên giới với một giá trị hạn mức trao đổi tối đa. Hình thức này được sử dụng phổ biến, thuận tiện với nhiều ưu đãi về thuế quan nhằm hỗ trợ cho các tỉnh biên giới phát triển cũng như tạo điều kiện cải thiện đời sống nhân dân.
- Hình thức thương mại tiểu ngạch: Là hoạt động buôn bán giữa các doanh nghiệp Trung Quốc với các doanh nghiệp hoặc tổ chức kinh doanh các nước có chung đường biên giới tại khu vực cửa khẩu. Hình thức này được tập trung quản lý thống nhất và chịu sự điều chỉnh của các chính sách thương mại.
2. Thái Lan
Thái Lan có đường biên giới khá dài, các hoạt động trao đổi kinh tế - thương mại cửa khẩu biên giới khá sôi động trong thời gian qua với các nước láng giềng là Campuchia, Myanmar, Lào, Malaysia. Có thể thấy rằng, thông qua việc khai thác lợi thế thương mại cửa khẩu biên giới, hàng hóa của Thái Lan đã xâm nhập rất mạnh sang các nước láng giềng. Nhìn chung, các hoạt động này được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu là thương mại chính thức và thương mại phi chính thức. Thương mại biên giới chính thức là các hoạt động biên giới theo các quy định của luật pháp (các quy chế, hoặc các hiệp định, thoả thuận đã được hai chính phủ ký kết). Các hoạt động này thường phải chịu những khoản thuế quan nhất định, được ghi chép trong hệ thống sổ sách của các cơ quan có thẩm quyền về xuất nhập khẩu.
Thương mại biên giới phi chính thức bao gồm các hoạt động giao lưu thương mại qua đường biên giới không phải qua (hoặc trốn tránh) các thủ tục hải quan, thường là nhằm mục tiêu trốn chạy việc kiểm soát thương mại, hay trốn thuế hải quan và các sắc thuế khác, kể cả thuế thu nhập. Việc trốn tránh các thủ tục hải quan ở các vùng biên giới này được thực hiện dễ dàng nhờ các điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý và quan hệ gần gũi của dân chúng ở hai bên đường biên.
Phần lớn các hàng xuất khẩu theo đường phi chính thức từ Thái Lan là các hàng tiêu dùng, các dụng cụ gia đình, thuốc tây, các loại xe gắn máy và phụ tùng. Hàng nhập khẩu phi chính thức vào Thái Lan là đá quý, các hàng lương thực thực phẩm sơ chế hoặc chưa chế biến,. các dụng cụ điện gia dụng, rượu mùi, thuốc lá, gia súc và các hàng nông sản. Theo ước tính, hiện nay kim ngạch thương mại phi chính thức chiếm khoảng từ 1/3 đến trên 1,0 lần so với thương mại chính thức giữa Thái Lan và lào, lớn gấp đôi thương mại chính thức giữa Thái Lan và Myanmar và giữa Thái với Malaysia. Điều cần chú ý là các hàng hóa được buôn bán theo con đường phi chính thức này bao gồm cả những sản phẩm được chế tạo từ những nước khác chứ hông chỉ là từ nước láng giềng có đường biên giới với Thái Lan (ví dụ như rượu, thuốc lá, các đồ điện gia dụng …).
Bảng: Mậu dịch biên giới của Thái Lan với các nước láng giềng
Đơn vị: Triệu bath
Năm
Lào
Campuchia
Mianma
Malaysia
Tổng kim ngạch
Cán cân thương mại
Tổng kim ngạch
Cán cân thương mại
Tổng kim ngạch
Cán cân thương mại
Tổng kim ngạch
Cán cân thương mại
1988
1882
264
15
13
797
-21
5684
1400
1989
2793
459
91
-87
1468
-408
8799
3071
1991
2904
-254
….
….
2671
1693
….
….
1992
2770
412
2791
-2053
4069
-867
50035
…..
1993
4128
608
3700
24
5468
1264
54252
….
1994
6511
2603
3914
477
7945
2781
66261
31272
1995
10284
6060
6398
4
5906
3602
38779
24265
1997
12893
8893
8271
477
Nguồn: Văn phòng thư ký thường trực Bộ Thương mại Thái Lan
Các hình thức tổ chức kinh tế biên mậu của Thái Lan khá đa dạng và phong phú, với sự thông thoáng và đơn giản trong nhiều thủ tục hải quan. Nhờ có sự ưu đãi hợp lý của Nhà nước với mức độ quan tâm phù hợp đã càng tạo ra sự hấp dẫn trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực dịch vụ và du lịch đang trong đà tăng trưởng mạnh. Với nhiều thoả thuận ở cấp quốc gia trongviệc phát triển quan hệ thương mại biên giới, theo hướng khai thác tốt hơn những đặc điểm kinh tế - xã hội củakhu kinh tế cửa khẩu, tìm kiếm các mô hình kinh tế linh hoạt hơn với các chính sách cởi mở nhằm tăng cường trao đổi giao lưu thương mại giữa các nước, mở rộng và phát triển nhiều hình thức hoạt động kinh tế k hác. Để từ đó hình thành một số vùng kinh tế, gắn với các cửa khẩu tạo điều kiện phát triển nhanh hơn để lôi kéo các khu vực lân cận cùng phát triển thông qua sự phát triển có tính chất lan toả.
3. Về Tây Âu và Bắc Mỹ
Có thể nhận thấy rằng hầu hết các quốc gia có sử dụng các loại hình kinh tế này đều nhận thấy vai trò to lớn của nó trong thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hóa nhờ tính đặc thù về cơ chế, chính sách của từng mô hình kinh tế. Mức độ ảnh hưởng và phạm vi tác động thường tỉ lệ thuận với quy mô phát triển của từng loại mô hình này về giá trị, tỉ trọng đóng góp trong GDP cũng như hiệu quả toàn diện về mặt kinh tế - xã hội do phát triển các loại hình kinh tế này mang lại. Sự tác động của các khu kinh tế cửa khẩu tới việc phát triển kinh tế có được là nhờ các chức năng đặc thù về ưu đãi xuất, nhập khẩu, các cơ chế chính sách khuyến khích về công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, du lịch. phát triển các loại hình này cũng đồng nghĩa với việc thúc đẩy xuất, nhập khẩu công nghiệp, nông nghiệp, du lịch và dịch vụ phát triển, đây là cơ sở kinh tế hàng hóa trong nước phát triển.
Hình thức quan hệ thương mại qua biên giới đã được một số nước sử dụng thành công. ở Bắc Mỹ, lợi dụng những những điểm khác biệt về chế độ thuế giữa Mỹ và Canada, Mỹ đã chủ động mở nhiều điểm bán hàng giữa biên giới hai nước, khai thác những điểm hạn chế về thuế quan để thu lợi cho mình. Hơn nữa, trong quan hệ hai nước, Mỹ và Canada đã phối hợp xây dựng hàng loạt các xí nghiệp gia công, chế tác theo hình thức liên doanh trên tuyến biên giới. Một số nước khác cũng sử dụng hình thức này, như quan hệ Mêhicô và Mỹ, với nhiều thị trường tự do được xây dựng, trong đó có những ưu đãi về cơ chế chính sách, thuế và mậu dịch, tạo điều kiện thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại qua cửa khẩu biên giới.
Đối với các nước Tây Âu, có đặc điểm về lãnh thổ là các nước tiếp giáp nhau có khoảng cách qua lại gần. Trên cơ sở những chính sách chung của khối EEC, nhiều quốc gia đã xây dựng những chính sách nhằm phối hợpchặt chẽ hơn về kinh tế và thương mại. Năm 1992, theo thống kê của Cộng đồng chung châu Âu, kim ngạch buôn bán biên giới tăng 550 tỉ mác Đức so với năm 1980. Nước Pháp, một nền kinh tế phát triển mạnh ở châu Âu cũng chủ trương khai thác những thế mạnh trên các tuyến biên giới trong trao đổi kinh tế - thương mại. Pháp đã xây dựng nhiều khu kinh tế mở ở biên giới phía Đông, biến khu vực này trở thành trung tâm kinh tế phát triển.
Phần II Thực trạng về các khu kinh tế
cửa khẩu vùng Đông Bắc
I. Tổng quan chung về vùng Đông Bắc
1. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
1.1 Vị trí địa lý, địa hình khí hậu :
Vùng Đông Bắc tiếp giáp với Đồng Bằng Sông Hồng, Tây Bắc, biển Đông và Trung Quốc. Đây là một vị trí hết sức thuận lợi trong việc đẩy mạnh giao lưu kinh tế giữa các vùng và đặc biệt là nước láng giềng Trung Quốc. Việc tiếp giáp với Đồng Bằng Sông Hồng và có một lãnh thổ gắn với vùng phát triển kinh tế trọng điểm Bắc Bộ với những trung tâm đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng đã cho thấy tiềm năng rất lớn của vùng sau này. Dự báo đến năm 2010 dân số Trung Quốc vào khoảng 1,3 tỷ người sẽ có nhiều khả năng trở thành cường quốc kinh tế của thế giới. Khu vực Đông, Đông Nam Trung Quốc đang phát triển vào loại nhanh nhất khu vực. Trong đó Quảng Đông và một phần vùng ven biển Quảng Tây, đảo Hải Nam đang bứt lên với tốc độ nhanh. Việc Hồng Kông đã được sát nhập trở lại với Trung Quốc và Ma Cao cũng đã được trả lại về Trung Quốc sẽ tạo ra một dải ven biển phát triển hùng hậu, sẽ có những ảnh hưởng lớn từ phía này đối với quá trình đi lên của Đông Bắc. Lúc đó, Đông Bắc bị cuốn vào quá trình phát triển, hợp tác và đứng trước những cơ hội và thách thức lớn.
Vùng Đông Bắc của Việt Nam có địa hình chia cắt phức tạp, ở phía Tây có những dãy núi chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, đặc biêt dãy Hoàng Liên Sơn có đỉnh núi Fanxipăng cao hơn 3000 m, chia cắt Tây Bắc với Đông Bắc Bắc Bộ. ở phía Đông của Đông Bắc có nhiều dãy núi cao hình cánh cung tạo nên địa hình hiểm trở. Đông Bắc tuy vẫn nằm ở vùng khí hậu nhiệt đới, nhưng chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc và khí hậu phân dị tạo ra nhiều tiểu vùng sinh thái cho phép phát triển nhiều loại cây trồng, vật nuôi đa dạng phong phú, trong đó có những loại đặc sản có giá trị kinh tế cao.
Chính sự độc đáo về vị trí địa lý kinh tế của vùng Đông Bắc mà các tỉnh tính toán và lựa chon cần xem xét hết các vấn đề khai thác các yếu tố tự nhiên để phát triển nền nông, lâm nghiệp sinh thái nhiệt đới bền vững.
1.2 Đông Bắc là một trong những vùng giàu tài nguyên khoáng sản :
Có thể nói rằng tài nguyên khoáng sản của vùng thuộc loại bậc nhất nước ta hiện nay với những loại tài nguyên khoáng sản có ý nghĩa quan trọng đối với quốc gia như : than, apatít, sắt, đồng, chì, kẽm, thiếc,v…v… là những tài nguyên quan trọng để phát triển công nghiệp khai khoáng.
Đông Bắc có vùng than Quảng Ninh lớn nhất nước ta với chủ yếu là antraxit chất lượng tốt. Nếu tính đến độ sâu 300 m thì vùng này có trữ lượng than thăm dò tới khoảng 3,5 tỷ tấn trong đó mỏ lộ thiên khoảng 195 triệu tấn. Ngoài than Quảng Ninh còn có than lửa dài tập trung ở Na Dương, Thái Nguyên với trữ lượng khá.
Đông Bắc là vùng duy nhất ở nước ta có mỏ apatít với trữ lượng lớn và tập trung. Tổng trữ lượng dự báo khoảng 2,1 tỷ tấn, đủ đáp ứng cho nhu cầu sản xuất phân lân phục vụ phát triển nông nghiệp ở nước ta và có thể dành để xuất khẩu một phần.
Đồng chì kẽm là những loại khoáng sản tuy không lớn nhưng tập trung chủ yếu ở vùng Đông Bắc. Nếu được đầu tư khai thác tốt, với trữ lượng tuy không lớn nhưng có thể đáp ứng một phần quan trọng nhu cầu trong nước.
Thiếc tập trung lớn ở tỉnh Tĩnh Túc (Cao Bằng), Sơn Dương (Tuyên Quang). Một số điểm quặng nằm rải rác ở các địa phương. Cần nâng cao chất lượng khai thác và tuyển, luyện, nâng cao mức độ sạch của thiếc, kim loại quí như đồng, vonphram, titan…
Ngoài ra, Đông Bắc còn có các loại khoáng sản như pirit, sắt, vàng đá quí, đất hiếm, đá granit, đá xây dựng, đá vôi xi măng, nước khoáng v..v… Đây cũng là những loại khoáng sản có tiềm năng, là thế mạnh để phát triển công nghiệp khai khoáng và chế biến khoáng sản của Đông Bắc và cả nước.
1.3 Tài nguyên du lịch đặc sắc
Vùng Đông Bắc có tiềm năng du lịch rất phong phú, đa dạng và có sức hấp dẫn chẳng những với du khách trong nước, mà còn với khác du lịch nước ngoài. Có khả năng tiếp nhận lớn khách du lịch và đáp ứng các yêu cầu của nhiều loại hình du lịch với các đối tượng khác nhau.
Về mặt tự nhiên, vùng này có rất nhiều cảnh đẹp. Cảnh thiên nhiên núi rừng hùng vĩ, biển thơ mông, đặc biệt có Vịnh Hạ Long ( Quảng Ninh) một danh thắng nổi tiếng thế giới. Khách du lịch tới đây sẽ bị lôi cuốn trước vẻ đẹp của tạo hóa, kỳ thú của một thế giới đảo đá vôi muôn hình muôn vẻ, nửa nổi, nửa chìm trong vịnh biển. Bãi biển Trà Cổ dài, thoải, nước trong và quanh năm lộng gió. Đồng thời có nhiều cảnh quan hấp dẫn như hồ Thác Bà, hồ Ba Bể, hồ Núi Cốc…. Thác nước Bản Dốc, Đầu Đẳng và núi Các Mác, suối Lê Nin và các cánh rừng già nguyên sinh như khu rừng cấm Tam Đảo với hệ sinh thái rừng nhiệt đới làm thoả mãn trí tò mò của các du khách với lòng say mê nghiên cứu của các nhà khoa học.
Về mặt văn hoá lịch sử, vùng này phản ánh bề dày lịch sử Việt Nam. Những di tích khảo cổ học chứng minh cho nền văn hoá Đông Sơn, Hạ Long nổi tiếng từ hồi tiền sử, những di tích lịch sử qua các triều đại của nước ta còn được bảo toàn hoặc phục hồi như khu rừng Trần Hưng Đạo,khu Cao Bằng Pắc Pó và nhiều danh thắng lịch sử khác rất có giá trị về khoa học và giáo dục truyền thống, truyền bá kiến thức. Bên cạnh đó với những lễ hội truyền thống như Hội Đền Hùng, Hội Lim… mang đậm đà bản sắc dân tộc đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho khách du lịch, thăm quan, tìm hiểu và nghiên cứu.
2. Dân số và nguồn nhân lực
Vùng Đông Bắc có số dân khoảng 12,9 triệu người vào năm 2004 chiếm 14,5% dân số cả nước. Dân số của vùng tăng nhanh nhưng nhịp độ tăng dân số đã có xu hướng giảm dần, tuy nhiên mức sinh của dân số vùng Đông Bắc còn cao hơn so với trung bình của cả nước và các vùng khác.
Vùng Đông Bắc có cơ cấu dân tộc đa dạng nhất trong cả nước với 40 dân tộc anh em cùng sinh sống. Các dân tộc ít người sống tập trung trên những địa bàn nhất định thuận lợi cho việc thực hiện chính sách và tổ chức cuộc sống phù hợp với đặc điểm tập quán, lối sống và trình độ vủa mỗi dân tộc, nhưng cũng khó khăn trong việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào đời sống vì trình độ dân trí của đồng bào quá thấp.
Trình độ học vấn và chuyên môn khoa học kỹ thuật trung bình của dân cư nguồn nhân lực ở Đông Bắc khá cao tương đương với trình độ trung bình của cả nước. Có đến 53,7% tổng số nguồn nhân lực đã tốt nghiệp PTCS trở lên cao hơn mức trung bình của cả nước. Tuy nhiên còn có một tỉ lệ không nhỏ nguồn nhân lực không biết chữ và chưa tốt nghiệp PTCS chủ yếu là các đồng bào các dân tộc ít người.
Trong vùng có một số khu tập trung công nghiệp với lịch sử hình thành hàng chục năm nên có đội ngũ chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ khá đông đảo. Toàn vùng có trên 60 vạn người đã qua đào tạo, chiếm 12% tổng số lao động tương đương với trình độ trung bình của cả nước trong đó có trên 8 vạn người có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên. Tuy nhiên lại có sự chênh lệch lớn về trình độ học vấn và chuyên môn khoa học kỹ thuật của nguồn nhân lực giữa các tỉnh trong vùng. Và có sự khác biệt lớn về trình độ học vấn giữa các dân tộc, đặc biệt là người Dao, người Hmông có tỉ lệ trẻ em 5-19 tuổi đi học là rất thấp trong khi tỉ lệ mù chữ lại rất cao.
Cơ cấu phân công lao động xã hội của vùng còn rất lạc hậu, khu vực nông lâm nghiệp chiếm tỉ trọng cao, trình độ trang thiết bị kĩ thuật của người lao động còn thấp kém nên không đủ sức khai thác các thế mạnh của vùng, năng suất lao động rất thấp chỉ bằng 65% mức bình quân chung của cả nước. Ngoài ra Đông Bắc có tỷ lệ dân số đô thị thấp và không đồng đều giữa các tỉnh.
3. Đánh giá khái quát về thực trạng kinh tế – Xã hội vùng Đông Bắc
Trong những năm gần đây nền kinh tế của vùng Đông Bắc đã có những nét khởi sắc đặc biệt ở một số tỉnh thực hiện mô hình khu kinh tế cửa khẩu được áp dụng một số các chính sách ưu đãi. Đời sống nhân dân được cải thiện một cách nhanh chóng, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội cơ bản được giữ vững. Tuy nhiên nền kinh tế vùng Đông Bắc còn tồn tại nhiều mặt yếu kém cần được giải quyết và khắc phục.
Điểm xuất phát còn đang ở mức thấp. Tổng GDP toàn vùng hiện chỉ bằng khoảng 7,5% so với cả nước. Nhịp độ tăng trưởng GDP thấp kéo dài trong nhiều năm. Từ năm 1991 đến 1994 nhịp độ tăng trưởng GDP đạt khoảng 5,9% năm là thấp so với cả nước (7,9% năm). Từ 1994 đến nay nhịp độ tăng trưởng GDP đạt 6,7%, nhịp độ tăng trưởng đã cao hơn rất nhiều nhưng vẫn ở mức thấp hơn so với cả nước. Trong khi đó dân số vẫn tăng khoảng 2% nên GDP bình quân đang ở mức thấp hơn so với mức trung bình của cả nước. Tỉ suất hàng hoá thấp, sản phẩm hàng hoá còn ít cả về chủng loại và khối lượng, hầu hết là những sản phẩm hàng hoá thông thường, chất lượng không cao và khả năng cạnh tranh của nhiều sản phẩm còn kém. Tuy nhiên có những sản phẩm hàng hoá chiếm tỉ trọng lớn trong cả nước như chè, hồi, quế, sơn, than, apatít và phân lân, giấy.
GDP bình quân đầu người đă thấp nhưng lại không đồng đều giữa các khu vực và tầng lớp dân cư. GDP/người của nhân khẩu nông nghiệp chỉ bằng khoảng 62% mức trung bình của toàn vùng.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm, nông- lâm nghiệp còn chiếm tỉ trọng lớn. Công nghiệp tuy có những nơi được phát triển sớm, chủ yếu là công nghiệp khai khoáng và chế biến nông- lâm sản, nhưng nhìn chung ở phần lớn lãnh thổ của Đông Bắc công nghiệp chưa phát triển. Năm 2004 công nghiệp mới thu hút 10,5% lao động xã hội và đóng góp 18% GDP của vùng. Trình độ trang thiết bị kỹ thuật thấp, sản phẩm công nghiệp mới còn ít, chất lượng còn chưa cao nên mặc dù có ý nghĩa quan trọng đối với đóng góp thu ngân sách Nhà nước nhưng vai trò công nghiệp chưa lớn, nhất là chưa khai thác các tiềm năng về thị trường, về khoáng sản cũng như lợi thế khác biệt của vùng để phát triển kinh tế.
Các ngành dịch vụ nhất là dịch vụ ở khu vục nông thôn chưa phát triển và hiệu quả thấp. Du lịch có tiềm năng lớn nhưng phát triển chậm và còn nặng về khai thác tự nhiên cho nên hiệu quả thấp. Thương nghiệp nhất là thương mại biên giới có phát triển khá hơn nhưng vẫn còn nhỏ bé. Thương nghiệp hoạt động chưa rộng khắp, giao lưu kinh tế còn hạn chế, nhiều khu vực ở Đông Bắc đang thiếu vắng dịch vụ thương nghiệp.
Ngoài ra, do vùng Đông Bắc là vùng đồi núi có địa hình cao so với mặt nước biển và bị chia cắt bởi nhiều dãy núi và sông suối đồng thời điều kiện khí hậu phân dị, chính điều này đã tác động làm cho phát triển theo lãnh thổ có sự chênh lệch lớn. Do đó sẽ tạo ra sự phức tạp trong quản lý và việc phát triển cơ sở hạ tầng cũng gặp nhiều khó khăn.
II. Các nhân tố tác động đến sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu
1. Nhân tố tự nhiên và trình độ phát triển kinh tế-xã hội
1.1 Vị trí địa lý
Việc lựa chọn xây dựng các khu kinh tế cửa khẩu, trước hết căn cứ vào điều kiện tự nhiên xã hội, đó phải là những nơi có thuận lợi về vị trí, Phù hợp với giao lưu kinh tế – thương mại biên giới, là cầu nối giữa kinh tế trong nước với kinh tế nước ngoài. Các cửa khẩu nằm trên vùng Đông Bắc ở những vị trí tương đối thuận lợi, các khu kinh tế cửa khẩu thường nằm ở các thị trấn, thị tứ và đầu mối giao thông như quốc lộ 1A dài 168 km từ Hà Nội đến Hữu Nghị, đường sắt Côn Minh – Lào Cai… Đây được coi là những yếu tố hết sức quan trọng cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của khu kinh tế cửa khẩu. Bởi vì, do đặc điểm của nó, hoạt động thương mại- dịch vụ là một trong những nội dung cơ bản trong sự phát triển của khu kinh tế cửa khẩu, muốn vậy phải có nguồn hàng hóa, dịch vụ từ nội địa được vận chuyển đến để trao đổi qua cửa khẩu biên giới đồng thời phải có hệ thống giao thông thuận lợi để đưa hàng hóa nhập khẩu từ bên ngoài vào trong nước. Hơn nữa, do nhiều nét tương đồng về khí hậu, môi trường sinh thái, trình độ phát triển, cho nên đòi hỏi phải có các chủng loại hàng hóa đáp ứng được nhu cầu trao đổi, có loại được sản xuất tại chỗ, có loại được khai thác trong nội địa theo nguyên tắc xuất những hàng hóa mà thị trường bạn cần mà ta có lợi thế và nhập những hàng hóa chúng ta chưa có khả năng đáp ứng cho thị trường trong nước. Chính vì thế yếu tố địa lý là rất quan trọng.
1.2 Yếu tố xã hội và trình độ phát triển.
Bên cạnh yếu tố địa lý thì các vấn đề xã hội, trình độ dân trí, phong tục tập quán, cũng ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu. Mặc dù, các khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc nằm ở những nơi đô thị hóa, có trình độ phát triển cao hơn so với các vùng khác trong vùng nhưng nhìn tổng thể thì đây vẫn là khu vực khó khăn với trên 30 dân tộc sinh sống.
Trình độ dân trí ở đây nhìn chung còn rất thấp với tỉ lệ mù chữ cao, trình độ văn hóa thấp. Số lao động qua đào tọa chỉ chiếm 5% lực lượng lao động của vùng, đáng chú ý là trong số này chủ yếu là giáo viên và bác sỹ. Do trình độ lao động thấp, chủ yếu là lao động giản đơn dựa vào kinh nghiệm là chính, không qua đào tạo nên năng suất lao động thấp, giá trị cá biệt của hàng hóa cao nhưng chất lượng của sản phẩm còn hạn chế, vì thế khả năng cạnh tranh của sản phẩm sẽ rất khó khăn khi trao đổi hàng hóa qua cửa khẩu. Cơ cấu kinh tế vẫn còn ở mức lạc hậu, nông – lâm nghiệp vẫn chiếm tỉ trọng cao khoảng 55%, do đó thu nhập bình quân đầu người vẫn ở mức thấp.Vấn đề này sẽ dẫn đến hàng loạt các khó khăn khác như : Đời sống văn hoá tinh thần không được đảm bảo, các dịch vụ xã hội còn thiếu và ở mức yếu kém. Đây là những khó khăn cho việc phát triển giao lưu kinh tế qua cửa khẩu biên giới và nó cũng tác động không nhỏ đến sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu.
2. Bầu không khí chính trị của các nước trong khu vực và trực tiếp là quan hệ hữu nghị thân thiên giữa Việt Nam và Trung Quốc
Đây là một nhân tố mang tính khách quan, qui định sự hình thành và phát triển các khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc nói riêng và biên giới phía Bắc nói chung, không chỉ hiện nay mà cả trong tương lai. Một Đông Nam á hòa bình hữu nghị và hợp tác sẽ là môi trường tốt để đẩy mạnh giao lưu hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và các nước. Trong các quan hệ này Trung Quốc có vị trí trực tiếp và ảnh hưởng to lớn tới các quan hệ khác. Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia có truyền thông hữu nghị lâu đời đều lựa chọn con đường theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, nhân dân hai nước đặc biệt là cư dân sống ở khu vực biên giới từ lâu đã có quan hệ tốt đẹp qua lại thăm thân, trao đổi hàng hóa qua cửa khẩu, qua đường mòn biên giới ngoài vấn đề chính trị – xã hội, trong phát triển kinh tế, Việt Nam và Trung Quốc còn có nhiều điểm tương đồng về trình độ phát triển, cùng trong quá trình chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường. Cơ cấu hàng hóa, tập quán tiêu dùng cũng có nhiều điểm bổ sung cho nhau. Hơn nữa, điều quan trọng là có nhu cầu mở rộng hợp tác để phát triển. Do đó việc hai nước kí Hiệp Định phân chia đường biên giới trên bộ và được Quốc Hội hai nước phê chuẩn và đầu năm 2000 là môi trường tốt để đẩy mạnh hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia.
Do đặc điểm của mô hình khu kinh tế cửa khẩu, sự hình thành và phát triển của nó phụ thuộc chặt chẽ vào sự ổn định chính trị, an ninh biên giới trong từng nước, giữa các nước có đường biên giới chung và các nước trong khu vực. Đây là một thực tế giải thích vì sao mô hình này ở một số nước đã thực hiện rất thành công nhưng ở Việt Nam mãi đến 1996 mới tiến hành thí điểm. Hơn nữa thực tiễn lịch sử ở Việt Nam cũng đã chứng kiến nhiều thời kì, khi quan hệ giữa hai nước lắng xuống khu vực biên giới trở thành điểm nóng về an ninh, chính trị, trật tự- an toàn xã hội, phải đóng cửa hàng loạt các cửa khẩu biên giới, và khi đó trao đổi thương mại hầu như không có. Vì vậy vấn đề này không chỉ có vai trò quan trọng sống còn, có ý nghĩa quyết định đến sự hình thành và phát triển khu vực cửa khẩu. Mà trong tương lai, khi qui mô của loại hình này mở rộng, các hoạt động thương mại xuất nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, hoạt động dịch vụ du lịch, trao đổi thông tin tư vấn. Hội trợ phát triển thì sự liên kết không chỉ trực tiếp giữa hai quốc gia, mà đòi hỏi sự tham gia có tính chất khu vực, nơi đây sẽ thực sự là cầu nối, là kênh quan trọng hỗ trợ cho nền kinh tế hội nhập, mở cửa theo xu thế toàn cầu hóa và cạnh tranh diễn ra gay gắt giữa các nước, các nền kinh tế trong khu vực và thế giới.
3. Tác động của chính sách kinh tế đối ngoại và quan hệ kinh tế Việt Nam Trung Quốc.
Sự phát triển của các khu kinh tế cửa khẩu phụ thuộc trực tiếp vào chính sách kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Từ khi thực hiện chính sách đổi mới năm 1986 đến nay đường lối đối ngoại mở rộng của chúng ta : " Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước ", trên nguyên tắc: bình đẳng, cùng có lợi; tôn trọng chủ quyền và không can thiệp và công việc nội bộ của nhau; giữ vững độc lập; chủ quyền dân tộc; kiên định sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội… Trên những định hướng cơ bản đó, chúng ta chủ trương giữ vững các thị trường truyền thống, đồng thời tìm kiếm và mở rộng thị trường ra các nước, các khu vực khác trên thế giới. Trong đó, Trung Quốc được coi là thị thị trường truyền thống, có nhiều tiềm năng, là thị trường lớn với hơn 1,3 tỉ dân, có nhiều nét tương đồng với Việt Nam. Việc thực thi một chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa các hình thức kinh tế đối ngoại cho phép Việt Nam tìm kiếm nhiều mô hình, hình thức kinh tế đa dạng, năng động. Trong đó, bên cạnh các hoạt động xuất, nhập khẩu; hoạt động hợp tác, đầu tư nước ngoài; hoạt động chuyển giao công nghệ; hoạt động tài chính, tiền tệ quốc tế; hoạt động dịch vụ du lịch thu ngoại tệ…, các hình thức này kết hợp đa dạng, đan xen với nhau, hỗ trợ nhau cùng phát triển. Từ đó nhiều mô hình kinh tế mới ra đời, kết hợp được nhiều ưu điểm trong tổ chức, hoạt động của các hình thức kinh tế đối ngoại, như khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế cửa khẩu … Điều quan trọng hơn với chính sách kinh tế đối ngoại rộng mở, nền kinh tế thực sự chuyển động theo xu hướng hội nhập, mở cửa nhiều hơn đối với các nước láng giềng, các nước trong khu vực, cũng như nhiều nơi khác trên thế giới. Việt Nam đă dần tạo lập được khoảng 10 mặt hàng mũi nhọn, có lợi thế từ đặc điểm truyền thống của kinh tế trong nước, nhưng có khả năng thâm nhập và thị trường quốc tế. Tuy năng lực cạnh tranh của các sản phẩm trong nước còn đang hạn chế, nhưng điểm yếu này đang t._.tâm hành chính khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái, bố trí ở khu vực phía nam thị trấn Móng Cái hiện nay, gồm trụ sở và nơi làm việc của các cơ quan quản lý Nhà nước. Khu dân cư được bố trí tập trung dọc theo 2 bên đường từ Móng Cái đến Trà Cổ và dọc theo bờ sông Ka Long.
Xây dựng cơ sở hạ tầng
Nâng cấp, mở rộng tuyến đường từ Hồng Gai – Móng Cái dài 175 km. Cải tạo và nâng cấp hệ thống giao thông nội thị hiện có, gồm 3 trục đường lấy điểm xuất phát từ cầu Ka Long đi Hồng Gai, đi Trà Cổ; đi qua trung tâm thương mại tới cầu Bắc Luận. Hướng tương lai xây dựng mới trục đường đối ngoại, từ cầu Bắc Luận đi qua phía đông nam trung tâm thương mại, vượt cầu mới sông Ka Long cách cầu cũ khoảng 100m về phía nam nối với đường 4 tại km số 9.
Cải tạo và nâng cấp cảng hàng hoá Vạn Gia cho tàu 5000 tấn: cảng biển du lịch Tràng Vĩ và Mũi Ngọc. Sau 2 năm 200 xây dựng sân bay dân dụng phục vụ khách du lịch và thương mại, cách Móng Cái 15 km về phía Tây. Ngoài ra, hệ thống kết cấu hạ tầng khác như hệ thống cung cấp điện, cấp thoát nước v.v.. cũng được xây dựng đồng bộ.
3.2. Định hướng phát triển Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng (Lạng Sơn)
Khu kinh tế Đồng Đăng Lạng Sơn nằm ở địa đầu phía Đông Bắc tổ quốc thuộc tỉnh Lạng Sơn, phía Bắc giáp Trung Quốc, có biên giới dài 13 km, có diện tích tự nhiên 207 km, dân số khoảng 70 nghìn người.
Khu vực này được ngăn cách với các khu vực khác bởi ranh giới tự nhiên bao gồm núi đá phía Bắc và các dãy núi đất thị xã Lạng Sơn và thị trấn Đông Đăng, là nơi giao lưu hàng hoá sầm uất từ lâu đời.
Khu vực Đồng Đăng – Lạng Sơn có hệ thống đường giao thông thuận lợi bao gồm: tuyến đường sắt chạy qua Trung Quốc tới các nước Đông Âu, tuyến đương bộ xuyên Việt 1A sang Trung Quốc, đường 1B đi Thí Nguyên, Đường đi Cao Bằng, đường 4B ra các cảng biển của tỉnh Quảng Ninh.
Trên địa bàn kinh tế đô thị Đồng Đăng – Lạng Sơn có các cửa khẩu quan trọng của nước ta như : cửa khẩu Quốc tế đường sắt - Đồng Đăng, cửa khẩu Quốc tế đường bộ Hữu Nghị. Cửa khẩu Tân Thanh và Cóc Nam có khối lượng hàng hoá trao đổi tiểu ngạch là rất lớn.
Thị xã Lạng Sơn và thị trấn Đồng Đăng được xây dựng cải tạo mở rộng thành một thành phố hiện đại, với vai trò đô thị cửa ngõ biên giới phía Bắc nước ta, nối đại lục Trung Quốc với Đông Nam á, là đầu mối giữa hai vùng lớn ở Châu á. Thành phó này có đủ điều kiện kinh tế, văn hóa, an ninh quốc phòng tương tác với các khu vực đang phát triển sôi động ở Bằng Tường Trung Quốc. Trong đó có cơ sở vật chất theo tiêu chuẩn cửa khẩu Quốc gia tại khu vực Tân Thanh.
Khu kinh tế Đồng Đăng – Lạng Sơn có tính chất như sau:
- Là cửa khẩu quan trọng của nước ta, mang ý nghĩa lớn về chính trị ngoại giao, kinh tế, thương mại. v..v…
- Là trung tâm thương mại du lịch
- Là khu công nghiệp tập trung và kho tàng
- Là khu du lịch nghỉ ngơi trong nước và quốc tế
- Có vị trí quan trọng về an ninh và quốc phòng
Các phương án bố cục không gian đô thị
Phương án 1: Không gian khu kinh tế đô thị được bố cục theo dạng chuỗi…
- Công nghiệp và kho tàng tập trung chủ yếu ở Đồng Đăng và một phần ở Lạng Sơn.
- Trung tâm thương mại ở Đồng Đăng và Lạng Sơn.
- Cửa khẩu Hữu Nghị và khu vực Tân Thanh chủ yếu xây dựng một số cơ quan quản lý Nhà nước như biên phòng, hải quan, thuế vụ, kiểm dịch. Tại tân Thanh có chợ giao dịch buôn bán và kho tàng nhỏ. Không gian đô thị tập trung chủ yếu ở 2 cực của khu vực là thị xã Lạng Sơn và thị trấn Đồng Đăng sau phát triển thành thị xã Đồng Đăng.
- Hướng phát triển không gian chủ yếu của thị xã Lạng Sơn là về phía Quan Hồ, phía đông quốc lộ 1A. Còn hướng phát triển không gian chủ yếu của Đồng Đăng là phía nam. Tại khu vực phát triển mới có khu công nghiệp tập trung, kho tàng, trung tâm giao dịch, thương mại, dịch vụ,… phục vụ cho toàn vùng cửa khẩu, Đồng Đăng là cửa ngõ biên giới, nơi hội tụ đầu mối của các cửa khẩu quan trọng.
Phương án II: Không gian khu kinh tế được bố trí trải dài trên tuyến quốc lộ 1A với một giải đô thị mỏng theo hành lang kỹ thuật.
Đồng Đăng phát triển về phía nam theo hành lang kỹ thuật nêu trên để trong tương lai có thể gắn kết hai đô thị dạng tuyến tính.
Trong 2 phương án trên chon phương án I vì một số lý do như : Phương án I phù hợp với đặc điểm tình hình hiện trạng, đặc điểm điều kiện tự nhiên, nhất là quỹ đất đai có khả năng xây dựng. Phù hợp với tính chất chức năng khu kinh tế đô thị, việc phân kỳ xây dựng được thuận lợi, đáp ứng nhu cầu xây dựng trước mắt cũng như lâu dài trong tương lai.
Khu kinh tế cửa khẩu Đồng Đăng Lạng Sơn được cấu thành bởi các chức năng chính như:
- Các khu vực quản lý Nhà nước về cửa khẩu: được phân thành các cấp khác nhau – khu vực quản lý hành chính được đặt ở Đồng Đăng, đầu mối của 3 cửa khẩu. ở đây có các trụ sở cơ quan ngoại giao, hải quan, thuế vụ, biên phòng hành chính trong khu vực. Tại các cửa khẩu có các phòng thường trực của cơ quan quản lý trực tiếp, cụ thể việc xuất nhập khẩu người và hàng hoá.
- Các trung tâm thương mại – dịch vụ: tại Đồng Đăng tổ chức một trung tâm thương mại lớn gồm chợ Quốc tế, chợ giao dịch bán buôn, để các tổ chức cá nhân trong nước và nước ngoài thuê địa điểm dể trưng bày và giới thiệu sản phẩm, giao dịch đại lý mua bán hàng hóa. Tại Lạng Sơn, tổ chức trung tâm văn hóa đại diện thương mại của các Công ty trong và ngoài nước muốn kinh doanh trong khu vực; cần dành đất xây dựng một trung tâm hội chợ triển lãm Quốc tế tổ chức định kỳ, một trung tâm giao dịch và ngân hàng.
- Các khu công nghiệp và kho tàng: tại Đồng Đăng, bố trí một khu công nghiệp tập trung bao gồm: công nghiệp gia công, lắp ráp, tái chế cơ khí, điện tử; công nghiệp chế biến các mặt hàng xuất khẩu từ nông lâm sản; các kho tàng đường bộ và đường sắt gồm các kho ngoại quan để tiếp nhận và trung chuyển các loại hàng hoá nước ngoài với lượng lớn.
- Trung tâm hành chính: chủ yếu tập trung ở Lạng Sơn; tại Đồng Đăng chỉ có các cơ quan hành chính thị trấn (sau này là thị xã) và 1 phần cơ quan quản lý khu kinh tế đô thị Lạng Sơn-Đồng Đăng
- Trung tâm văn hóa giáo dục y tế: tại Lạng Sơn chủ yếu là cơ quan chức năng phục vụ toàn tỉnh và phục vụ thị xã Lạng Sơn; các cơ quan phục vụ khu kinh tế đô thị Lạng Sơn-Đồng Đăng được bố trí tại Đồng Đăng, trong đó có trường đào tọa, trung tâm văn hóavà bệnh viện.
- Trung tâm du lịch: tổ chức các trung tâm du lịch trong khu vực, phục vụ khách du lịch trogn và ngoài nước, khách vãng lai và nhân dân; du lịch sinh thái tại rừng nguyên sinh Quốc gia và Quán Hồ; du lịch, nghỉ dưỡng ở Quán Hồ, Mẫu Sơn; làng Nguyên Lốc các dân tộc tại quán Hồ; làng du lịch văn hóac dân tộc và du lịch hang động tại khu nhất, nhị, Tam Thanh Lạng Sơn; du lịch nghiên cứu ỏ Lạng Sơn.
- Hệ thống cửa khẩu được định hướng là:
Cửa khẩu Hữu Nghị
+ Giao thông: đường bộ
+ Tính chất: quốc tế
+ Lưu lượng hàng hóa/tháng: 9.000 lượt hành khách xuất nhập cảnh bằng hộ chiếu/tháng. Kim ngạch xuất nhập khẩu đạt khoảng 13 triệu USD/tháng.
Cửa khẩu Đồng Đăng
+ Giao thông: đường sắt
+ Tính chất: quốc tế
+ Lưu lượng hàng hóa/tháng: 1000 lượt hành khách xuất nhập cảnh bằng hộ chiếu/tháng. Kim ngạch xuất nhập khẩu đạt khoảng 14 triệu USD/tháng.
Cửa khẩu Tân Thanh
+ Giao thông: đường bộ
+ Tính chất: cặp chợ biên giới
+ Lưu lượng hàng hóa/tháng: chủ yếu cư dân biên giới qua lại bằng sổ thông hành. Kim ngạch xuất nhập khẩu đạt khoảng 3 triệu USD/tháng.
3.3. Định hướng phát triển Khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai
Cửa khẩu Lào Cai là một trong những cửa khẩu quan trọng nhất ở phía Bắc Việt Nam giáp với Trung Quốc. Khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai có tính chất : Là cửa khẩu quốc gia và quốc tế; là đầu mối đường sắt đường bộ, giữa hai nước Việt – Trung; là trung tâm thương mại dịch vụ và du lịch của tỉnh và toàn vùng. Có vị trí quốc phòng, an ninh quốc gia quan trọng trong vùng biên giới phía Bắc Việt Nam.
Có hai phương án được đề xuất:
Phương án I: Trên cơ sở thực tại đi lên, không phá vỡ quy hoạch tổng thể luận chứng KTKT hệ thống cây xanh, lâm viên đã được duyệt, tôn trọng và sử dụng các công trình mới xây dựng, cấp đát. đây là phương án khống chế tối đa sự phát triển khu dân cư, ưu tiên dành đất cho phát triển thương mại, dịch vụ cho bến bãi, kho tàng cho phục vụ hoạt động giao thông xuất nhập cảnh, giải quyết tốt quy trình cửa khẩu.
Khu cửa khẩu có chức năng sau: khu quản lý Nhà nước và bến bãi kho tàng giao thông kiểm soát xuất nhập cảnh; khu thương mại và trao đổi mậu dịch; khu công nghiệp – dịch vụ- văn hóa – vui chơi…; khu đại diện thương mại quốc tế; khu đại diện thương mại trong nước; khu dân cư (phố chợ ở của cán bộ công nhân viên + thuê ở); khu di tích, danh thắng, và lâm viên; khu quân sự và nhà máy nước.
Phương án II: Có sự đầu tư đột biến trong tương lai biến vùng này thành một thương trường quốc tế lớn, phát triển thương mại và thị trường tự do đến mức tối đa. Phương án này có cơ cáu phân khu chức năng như phương án I nhưng khai thác đất đai trên đồi 117 một cách triệt để thu hẹp diện tích cây xanh lâm viên, danh thắng và di tích, du lịch để sử dụng cho thuê đất xây dựng công trình, cho nước ngoài đầu tư – biến khu cửa khẩu thàn một thương trường tự do theo một cơ chế “ mở”. đây là phương án dự phòng.
Phương án I được chọn làm phương án để quy hoạch chi tiết khu kinh tế cửa khẩu. Nguyên tắc chính tổ chức không gian theo phương án I được chọn là:
- Tạo một trục chính khu vực nhằm xây dựng các công trình chủ đạo. Trục này là luồng giao thông chính của người du lịch, tham quan, thương khách v.v.. Trục chính với không gian kiến trúc đa dạng, phong phú, xây dựng tập trung, ưu tiên các công trình có vốn lớn (dịch vụ khách sạn, đại diện quốc tế) có thể nhanh chóng tao được một bộ mặt cho khu kinh tế cửa khẩu quốc gia và quốc tế.
- Công năng về giao thông quá cảnh, đường sắt , khu quản lý và kiểm soát, khu sân bãi hải quan được tách riêng có hành lang bảo vệ phục vụ cho chức năng cửa khẩu. Luồng người, hàng hoá thô sơ đi theo một đường riêng (phía tây đường sắt) không đi chung với đường trục chính khu vực. Triệt để khai thác địa hình, cảnh quan của sông Nậm Thi, sông Hồng, Đồi Đền Thượng., đồi 117 làm nơi thăm quan du lịch, nghỉ dưỡn và lâm viên.
- Khu dân cư chủ yếu buôn bán dịch vụ đưa ra sát đường biên tạo ra những dãy buôn bán sầm uất dọc theo biên giới Việt – Trung. Khu thương mại trao đổi mậu dịch, dịch vụ , khi sinh hoạt văn hóa là hạt nhân của hoạt động cửa khẩu. Thỏa mãn được các mối quan hệ về hoạt động kinh tế, giao thông, quá cảnh, kiểm soát hàng, người, của cửa khẩu và các khu phụ cận. Các cơ quan đại diện trong và ngoai nước được đặt ở các vị trí có tầm nhìn tốt, để đạt được hiệu quả kiến trúc hiện đại và phong phú.
- Quy hoạch sử dụng đất đai: khu vực cửa khẩu Lào Cai tương lai sẽ trở thành một siêu thị thương mại và dịch vụ, do vậy tiêu chuẩn điều phối quỹ đất ở đây không thể áp dụng như các khu dân cư khác. Đối với khu dân cư: chủ yếu là buôn bán dịch vụ, đề xuất tiêu chuẩn là một lô đất ở không quá 70 m2 , tối thiểu là 50 m2 (ở theo tiêu chuẩn đô thị). Các khu đất đã chia nhưng dân chưa xây dựng hoặc mới làm nhà có thể xem xét cấp hoặc điều phối lại. Việc xây dựng cần phải đảm bảo về kiến trúc xây dựng hạ tầng kỹ thuật và vệ sinh môi trường, mật độ xây dựng. Các khu đất đã cấp nhưng không phù hợp với cơ cấu phân khu chức năng có thể chuyển đổi tính chất và phân bố lại. Việc sử dụng đất trong xây dựng cần có sự tính toán cụ thể hợp lý để phù hợp với từng loại hình kinh doanh.
- Kế hoạch khai thác và sử dụng đất đó là: ưu tiên dành đất cho chức năng cửa khẩu, tận dụng các quỹ đất không thuận lợi (khu trũng, thung lũng) để làm kho bãi hải quan, khai thác triệt để đất xây dựng tốt. Lập kế hoạch để xây dựng kè chống lũ lụt và bảo vệ đất đồng thời thêm được quỹ đất cho xây dựng, tăng thêm đất cho cây xanh vườn hoa và cảnh quan ven sông.
- Tổ chức không gian quy hoạch kiến trúc: quan điểm về không gian kiến trúc quy hoạch toàn khu với cảnh quan thiên nhiên sinh động và hấp dẫn, tạo được điểm nhìn tốt từ nhiều phía, nhất là từ Hà Khẩu (Trung Quốc) và Cố Lếu nhìn sang việc tổ chức không gian kiến trúc 3 chiều cũng như bố trí các công trình kiến trúc ven bờ sông Hồng và sông Nậm Thi phải được đặc biệt quan tâm. Đối với từng loại công trình kiến trúc, hình thức và nội dung phải được kết hợp hài hòa, đẹp và sang trọng. Ngoài ra các công trình của các khu vực trọng tâm, trọng điểm cũng như các công trình kiến trúc quan trọng được bố trí ở vị trí thuận lợi và cần thiết phải có sự khang trang và hiện đại.
- Các qui định khi thiết kế các công tình cụ thể: khi xây dựng từng công trình cụ thể phải có thiết kế được các cấp có thẩm quyền về chuyên môn xét duyệt. Các mẫu mã nhà ở phải được thiết kế, hướng dẫn tuân thủ theo những quy định về mặt nhà, tầng cao, hình khối kiến trúc từng đoạn phố, ô phố phải đồng nhất và mang tính dân tộc, hiện đại. Để phù hợp với cảnh quan miền núi, cần khuyến khích và ưu tiên các kiểu nhà mái dốc, nên hạn chế các kiểu nhà mái bằng. Các công trình công cộng, văn phòng đại diện có quy mô nhỏ, nên tập trung hợp khối, hợp vốn, không xây dựng lẻ tẻ vụn vặt, lãng phí đất ảnh hưởng đến bộ mặt kiến trúc toàn khu vực, đảm bảo tầng cao quy định.
- Qui hoạch tổng thể hệ thống kết cấu hạ tầng: cửa khẩu Lào Cai là cửa khẩu duy nhất ở nước ta nằm ngay tại thị xã tỉnh lỵ, do đó vừa đảm bảo chức năng giao thông của cửa khẩu, vừa đảm bảo chức năng giao thông của đô thị. Khu vực cửa khẩu có tuyến đường sắt nối Hà Khẩu (Trung Quốc) với thị xã Lào Cai qua cầu Hồ Kiều. Ga cửa khẩu nằm ở phố mới, cách cầu Hồ Kiều 2km. Đường bộ khu vực cửa khẩu nối Hồ Kiều với quốc lộ 4D. mạng lưới đương khu vực cửa khẩu được xây dựng theo quy hoạch tổng thể thị xã Lào Cai. Để đảm bảo chức năng cửa khẩu cần tách riêng giao thông cửa khẩu với giao thông đô thị, xây dựng mới tuyến giao thông đối ngoại nối cầu Hồ Kiều-QL4D phía đông đường sắt, đường rộng 18,5m. Phía đông Cầu Chui bố trí bẫi đỗ xe dự trữ cho khu vực cửa khẩu diện tích 100m2, bố trí 40 ô tô. Tính không giữa đường chính khu vực đi dưới đường sắt là 3,5m.Trong tương lai tuyến đường sắt Vân Nam sẽ thông qua tuyến đường sắt qua cửa khẩu Lào Cai. Do đó cần hạn chế giao thông cùng cao độ đường sắt và đường bộ. Quan hệ đường thủy chủ yếu là hàng tiểu ngạch giữa một số khu vực dân cư dọc sông Nậm Thi với thị xã Lào Cai. Về cấp nước: tổng nhu cầu cấp nước của khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai khoảng 800m3, ngày đêm vào năm 2010.
Nhận thấy được sự tác động không nhỏ của khu kinh tế cửa khẩu đến phát triển kinh tế UBND tỉnh Lào Cai đã phê duyệt Đề án phát triển kinh tế cửa khẩu giai đoạn 2001-2005-2010 theo Quyết định số 50/QĐ-UB ngày 18/12/2002. Nhằm đạt được một số mục tiêu cơ bản như sau:
- Quy hoạch xây dựng khu kinh tế cửa khẩu với phạm vi toàn bộ các xã, phường thuộc thị xã Lào Cai, thôn Na Mo, xã Bản Phiệt, huyện Bảo Thắng, xã Mường Khương và huyện Mường Khương với tổng diện tích 9.178 ha.
- Điều chỉnh Quy hoạch và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các khu du lịch kinh tế cửa khẩu đặc biệt là khu cửa khẩu quốc tế Lào Cai, đảm bảo yêu cầu phát triển kinh tế, thương mại, du lịch, dịch vụ cho trước mắt và lâu dài, tương xứng với tầm cửa khẩu quốc tế văn minh hiện đại.
- Sắp xếp, củng cố tổ chức và đổi mới công tác quả lý tại các cửa khẩu theo Quyết định số 53/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, tạo điều kiện thuận lợi, thực sự thông thoáng, đúng pháp luật cho mọi thành phần kinh tế đến đầu tư buôn bán, hoạt động dịch vụ, du lịch tại khu kinh tế cửa khẩu tỉnh Lào Cai.
- Nhằm khai thác một cách tốt nhất những lợi thế của khu vực kinh tế cửa khẩu; đưa kinh tế cửa khẩu thực sự là mũi nhọn, là động lực để phát triển kinh tế địa phương.
- Xây dựng cơ sở vật chất khu kinh tế cửa khẩu đảm bảo đủ sức hấp dẫn với các đối tác trong và ngoài nước đến đầu tư, buôn bán du lịch và đảm bảo ổn định an ninh trật tự biên giới.
- Phấn đấu từ nay đến năm 2005 mỗi năm số thu từ khu kinh tế cửa khẩu tăng 15-20% so với năm trước, năm 2005 đạt số thu từ kinh tế cửa khẩu: 230-250 tỉ đồng Việt Nam từ năm 2006 trở đi mỗi năm số thu từ khu kinh tế cửa khẩu đạt 300-400 tỷ đồng/ năm và chiếm từ 65-70% số thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn.
Thực hiện được các mục tiêu của đề án trên đây sẽ góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội chung của toàn tỉnh mà Đại hội Tỉnh lỵ Lào Cai khóa XII đã đề ra.
- Đề án nhằm phát huy lợi thế của khu kinh tế cửa khẩu tăng nguồn thu ngân sách từ khu kinh tế cửa khẩu hàng nă từ 15-20 %. Đạt số thu năm 2005 từ 230-250 tỷ đồng
- Tác động trực tiếp đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh, mũi nhọ của khu kinh tế cửa khẩu là dịch vụ và du lịch.
- Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu kinh tế cửa khẩu để thu hút đầu tư, thúc đẩy kinh tế của tỉnh phát triển, mặt khác giải quyết tạo điều kiện việc làm cho người lao động.
- Tạo sự thông thoáng về cơ sở hạ tầng với khu kinh tế cửa khẩu song vẫn đảm bảo thực hiện tốt công tác quản lý an ninh biên giới quốc gia.
II. Các giải pháp nhằm phát triển Khu kinh tế cửa khẩu vùng Đông Bắc
Với chủ trương xây dựng mối quan hệ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc ngày càng tốt đẹp cũng như nhằm tranh thủ thời cơ trong xu thế hội nhập hiện nay thì việc phát triển các khu kinh tế cửa khẩu là rất quan trọng và để thực hiện được điều đó cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp chủ yếu sau:
1. Ký kết và triển khai thực hiện các hiệp định kinh tế – thương mại song phương giữa hai nước Việt – Trung.
Phát triển các khu kinh tế cửa khẩu đã đem lại nhiều mặt tích cực, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội của cả hai nước, trước hết là ở các tỉnh biên giới. Với những lợi ích do các khu kinh tế cửa khẩu đem lại là to lớn không chỉ về mặt kinh tế mà còn cả về mặt xã hội và nhiều lĩnh vực khác. Song sự phát triển của các khu kinh tế cửa khẩu chưa đáp ứng được nhu cầu giao lưu kinh tế của hai nước, nhất là đối với Việt Nam. Một trong những nguyên nhân đó là do hai quốc gia còn có qua ít các hiệp định kinh tế – thương mại song phương. Nội dung các hiệp định đã ký kết còn hạn hẹp, gò bó, chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của quan hệ hợp tác hiện tại và trong tương lai. Hơn nữa, việc triển khai thực hiện các hiệp định trên còn chậm.
Muốn phát triển các khu kinh tế cửa khẩu biên giới, chúng ta phải xây dựng được các chủ trương, chính sách, kế hoạch cụ thể, và tất cả những điều đó phải dựa trên cơ sở những hiệp định hợp tác ký kết giữa hai bên. Mặc dù có những sự thay đổi tích cực trong các hoạt động thương mại giữa hai nước nhưng vẫn ở tình trạng bấp bênh, không ổn định, lúc tăng lúc giảm gây nhiều bất lợi cho ta. Nguyên nhân do hạn chế về ký kết và thực hiện các hiệp định, mặt khác nguyên nhân này cũng làm cho các chính sách kinh tế của nước ta với Trung Quốc thiếu linh hoạt, uyển chuyển, bổ sung không kịp thời, các địa phương, doanh nghiệp thiếu tính chủ động trong trao đổi buôn bán, dẫn đến “mất trật tự” trong quan hệ buôn bán qua biên giới. Ngoài ra chính việc thiếu các hiệp định, khung pháp lý cần thiết cho các hoạt động cũng là nguyên nhân sâu xa tác động làm cho việc đầu tư vào các cơ sở hạ tầng còn kém xa so với đòi hỏi thực tế bởi chúng ta không dám mạnh dạn đầu tư vào cơ sở hạ tầng.
Do đó giảp pháp tăng cường ký kết các hiệp định kinh tế giữa hai bên là vô cùng quan trọng. Các hiệp định đó phải đảm bảo các nguyên tắc cùng có lợi, không làm thiêt hại cho bên đối tác, phải tuân theo các tập quán và thông lệ.
2. Xây dựng và phát triển đồng bộ cơ chế, chính sách đối với các khu kinh tế cửa khẩu biên giới phía Bắc.
Thực tế trong những năm qua, Trung Quốc chủ động và khai thác tốt lợi ích từ giao lưu kinh tế qua biên giới Việt – Trung là vì các hoạt động biên mậu của Trung Quốc đã được thực hiện trên cơ sở khung pháp lý, đường lối đầy đủ và hoàn chỉnh bao gồm các luật, chỉ thị của Quốc vụ viện, các chính sách cụ thể phù hợp.
Ngược lại, Việt Nam thực hiện giao lưu kinh tế qua biên giới thường bị động, chưa tận dụng tốt những lợi thế và hiệu quả cảu kinh tế – thương mại cửa khẩu. Một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng đó là chúng ta thiếu một khung pháp lý về cơ chế, chính sách cho các hoạt động cụ thể, phù hợp với đặc điểm, điều kiện tự nhiên cũng như khai thác một số lợi thế của những mô hình kinh tế mới. Vì vậy, xây dựng và phát triển đồng bộ cơ chế, chính sách để phát triển các khu kinh tế cửa khẩu biên giới phía Bắc nói chung và phía Đông Bắc nói riêng là việc cần thiết, cấp bách. Các cơ chế chính sách cụ thể nên xây dựng theo hướng sau:
Về chính sách kinh tế – thương mại:
- Nên có chính sách đa dạng hóa các hình thức giao lưu kinh tế qua cá khu kinh tế cửa khẩu, tạo điều kiện thông thoáng và ưu đãi đối với những hoạt động kinh tế đáp ứng yêu cầu, lợi ích của cả hai phía, thúc đẩy kinh tế hàng hoá và hội nhập kinh tế của mỗi nước, phù hợp với thông lệ quốc tế. Các chính sách cần phải có sự cụ thể về các hoạt động đa dạng đó bởi hoạt động giao lưu kinh tế qua cửa khẩu cần được hiểu một cách toàn diện hơn, đầy đủ hơn. Cần xây dựng, ban hành cụ thể những quy chế về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ, du lịch, quá cảnh ở khu kinh tế cửa khẩu. Cần có một chính sách cơ cấu mặt hàng phù hợp, cụ thể là, phải có qui định danh mục những loại hàng hoá được phép kinh doanh, không được phép kinh doanh hoặc hạn chế kinh doanh của khu kinh tế cửa khẩu.
- Cần có chính sách khuyến khích xuất khẩu tiểu ngạch hợp pháp, vì thực chất thương mại tiểu ngạch là phương thức mua bán hàng hoá rất linh hoạt, phong phú, thanh toán thuận lợi và hiện còn đang thích hợp với trao đổi thương mại qua các khu kinh tế cửa khẩu cửa khẩu phía Bắc nước ta.
- Có chính sách ưu tiên ưu đãi hợp lý để khuyến khích các địa phương vùng biên giới tăng cường phát huy tính chủ động sáng tạo, linh hoạt nhằm tân dụng các lợi thế so sánh của cá vùng trong quan hệ kinh tế – thương mại. Muốn vậy phải mở rông, tăng cường quyền tự chủ của các địa phương vùng biên giới có cửa khẩu về các khoản thu ngân sách, về đầu tư, quản lý vốn, quyền về cấp hạn ngạch xuất khẩu …
Về chính sách dịch vụ, du lịch:
- Cần có các chính sách khuyến khích mở rộng, phát triển nhiều loại hình dịch vụ qua khu kinh tế cửa khẩu như : dịch vụ tạm nhập, tái xuất, dịch vụ quá cảnh, dịch vụ chuyển khẩu hàng hoá, dịch vụ giao nhận vận chuyển hàng hoá quá cảnh cho nước láng giềng, dịch vụ kho ngoại quan và cửa hàng miễn thuế. Các hình thức này phải đa dạng, thuận tiện, phù hợp với xu thế hội nhập, mở cửa hiện nay trên thế giới, nhưng đồng thời phải có sự quản lý, kiểm soát chặt chẽ, đảm bảo an ninh biên giới, lợi ích quốc gia, đảm bảo giữ vững và giữ gìn mối quan hệ truyền thống, hữu nghị giữa hai nước.
- Có chính sách hợp lý để thu hút khách du lịch của các Trung Quốc sang Việt Nam. Trước hết là du lịch ở vùng biên giới, các tỉnh biên giới và dần phát triển các tour du lịch theo tuyến đi sâu vào nội địa Việt Nam … Gắn liền với việc thu hút khách du lịch qua cửa khẩu là chính sách quản lý xuất nhập cảnh. Mục tiêu của chính sách quản lý xuất nhập cảnh là tạo điều kiện tốt nhất cho người dân hai bên biên giới thăm viếng lẫn nhau, giao lưu kinh tế và cho khách du lịch thực hiện các chuyến du lịch tốt nhất.
Về chính sách thuế :
- Phải đổi mới, bổ sung và sửa đổi chính sách thuế ở các khu kinh tế cửa khẩu Đông Bắc, nhất là biểu thuế xuất nhập khẩu, nhằm khuyến khích phát triển sản xuất trong nước để xuất khẩu, tránh làm ảnh hưởng xấu đến phát triển sản xuất trong nước, trước hết là các tỉnh có khu kinh tế cửa khẩu. Để chống tệ nạn tham nhũng, thất thoát ngân sách Nhà nước, tác động xấu đến hoạt động kinh tế – thương mại qua biên giới, cần có sự tăng cường về công tác kiểm tra, thanh tra thuế, có thưởng phạt nghiêm minh.
Về chính sách tài chính – tiền tệ:
- Cần có chính sách tài chính thích hợp, ưu tiên cho phát triển cơ sở hạ tầng đối với các khu kinh tế cửa khẩu. Ưu tiên nguồn tài chính để tập trung phát triển sản xuất nguồn hàng xuất khẩu sang Trung Quốc và đầu tư cho phát triển du lịch.
- Cần phải xây dựng và thực hiện các quy chế về hoạt động tiền tệ ở biên giới, khuyến khích các ngân hàng thương mại mở rộng quan hệ đại lý và các quan hệ thanh toán khác với ngân hàng phía Trung Quốc, dần tiến tới ngân hàng hóa thanh toán thương mại ở khu vực cửa khẩu biên giới. Xóa bỏ dần tình trạng buôn bán tiền tệ tự phát, xóa bỏ phương thức thanh toán trực tiếp.
3. Tăng cường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cho các khu kinh tế cửa khẩu.
Chúng ta cũng đã biết cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng vật chất kỹ thuật, có vai trò rất rất quan trọng đối với hoạt động giao lưu kinh tế-thương mại ở các khu kinh tế cửa khẩu. Các khu kinh tế cửa khẩu biên giới Việt-Trung có địa hình phức tạp, xa các thành phố lớn, xa các trung tâm kinh tế của đất nước. Vì vậy, việc phát triển cơ sở hạ tầng của các khu kinh tế cửa khẩu càng trở nên cấp thiết nhưng cũng gặp rất nhiều khó khăn.
Thực tế trong thời gian qua cho thấy, chúng ta bị thua thiệt trong cạnh tranh kinh doanh với Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực, một trong những nguyên nhân là sự yếu kém về cơ sở hạ tầng. Trung Quốc đã có sự chuẩn bị cho cơ sở hạ tầng ở khu vực cửa khẩu tốt hơn ta, do đó nước bạn luôn tạo được thế chủ động trong hoạt động kinh tế-thương mại ở các cửa khẩu biên giới, tạo điều kiện thuận lợi cho tăng trưởng, phát triển kinh tế ở các tỉnh cso cửa khẩu với Việt Nam, cụ thể là sự phát triển kinh tế nhanh ở hai tỉnh Quảng Tây và Vân Nam.
Phương châm hiện nay là nâng cấp cơ sở hạ tầng hiện có và xây dựng mới các cơ sở hạ tầng cần thiết tại các khu kinh tế cửa khẩu. Trước hết, cần nâng cấp các trục đường tại cửa khẩu và đi đến cửa khẩu. Khai thông và nâng cấp các tuyến vành đai biên giới và các tuyến đường phụ “xương cá” đi tới các cửa khẩu, các tụ điểm dân cư lớn, đồng thời xây dựng mới đường sá ở những nơi cần thiết. Cần xác định thứ tự ưu tiên trên các tuyến trục đường chính dẫn tới các cửa khẩu lớn, quan trọng như Quốc lộ 1A,18 và 70. Mục tiêu đến năm 2010 sẽ là nâng cấp tất cả các tuyến đường Quốc lộ lên biên giới theo tiêu chuẩn trải nhựa, rộng đủ hai làn xe.
Về bưu chính viễn thông và các dịch vụ thông tin khác: Cần cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới các tổng đài, mạng lưới thông tin ở các cửa khẩu, các khu du lịch, bảo đảm nhu cầu thông tin liên lạc trong nước và quốc tế ngày càng cao. Xây dựng các trung tâm thông tin kinh tế, thương mại, dịch vụ nhằm cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời các thông tin về thị trường trong nước, thị trường Trung Quốc và quốc tế. Hình thành và xây dựng các tổ chức hỗ trợ cho thương mại như tư vấn thông tin thương mại, thị trường pháp luật và kiến thức về thương mại, dịch vụ…
Đẩy mạnh việc cáp quang hóa mạng viễn thông từ TW đến các tỉnh biên giới phía Đông Bắc, tăng cường việc sử dụng thông tin vệ tinh, mở rộng mạng lưới thông tin công cộng quốc gia đến từng cửa khẩu. từng cụm xã biên giới…
Muốn phát triển cơ sở hạ tầng như trên, đòi hỏi một lượng vốn lớn. Vì vậy phải có giải pháp khai thác, huy động khuyến khích đầu tư từ nhiều nguồn, phải cụ thể hóa thêm các điểm trong một số cơ chế, chính sách được áp dụng tại khu kinh tế cửa khẩu về xây dựng cơ sở hạ tầng, cụ thể là:
- Nhà nước đã đầu tư riêng qua ngân sách tỉnh với tỷ lệ không dưới 50% tổng thu ngân sách tại các khu kinh tế cửa khẩu. Tuy nhiên, cần phải có tỷ lệ đầu tư cao hơn thì những cửa khẩu có nguồn thu ít mới xây dựng nâng cấp cơ sở hạ tầng được, mà phát triển cơ sở hạ tầng cần phải đi trước kinh doanh.
- Chúng ta đã thí điểm các chính sách giảm giá thuế đất, miễn giảm thuế lợi tức cho các chủ đầu tư ở các ngành được ưu tiên, chủ đầu tư mới được ưu tiên nộp thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài ở mức thấp nhất. Tuy nhiên cần phải cụ thể hóa hơn với từng mức độ, từng loại với tỷ lệ bao nhiêu để khuyến khích đầu tư vào khu kinh tế cửa khẩu.
Điều này chúng ta có thể tham khảo kinh nghiệm mà phía Trung Quốc đã thực hiện như: giảm thuế thu nhập cho đầu tư nước ngoài 24%, giảm 1/2 thuế lợi tức trong vòng 5 năm, miễn thuế 3 năm đầu và giảm thuế 1/2 trong 2 năm tiếp theo cho đầu tư nước ngoài.
4. Tăng cường đổi mới quản lý Nhà nước ở các khu kinh tế cửa khẩu.
Để đẩy mạnh hoạt động giao lưu kinh tế-thương mại tiến tới “hợp tác đầu tư toàn diện, ổn định lâu dài”, rút kinh nghiệm từ thực tế thực hiện thí điểm về khu kinh tế cửa khẩu trong vài năm qua, trong thời gian tới, cần tiếp tục tăng cường đổi mới cơ chế phối hợp về quản lý Nhà nước giữa các cơ quan TW và dịa phương đối với các khu kinh tế cửa khẩu, theo hướng sau:
- Đối với TW, cần thiết thành lập một cơ quan thuộc Chính phủ để đảm nhiệm vai trò là cơ quan chủ trì sự phối hợp giữa tất cả các cơ quan ngành dọc hoạt động quản lý Nhà nước tại khu kinh tế cửa khẩu. Cơ quan này phải được quy định đầy đủ, cụ thể về các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm để trực tiếp giúp Chính phủ tổ chức, lãnh đao, chỉ đạo, điều hành sự phối hợp giữa các cơ quan TW và địa phương thực hiện tốt quản lý Nhà nước đối vớii các khu kinh tế cửa khẩu.
- Đối với địa phương, ở mỗi khu kinh tế cửa khẩu cần thành lập một ban quản lý khu kinh tế cửa khẩu, bao gồm sự tham gia đầy đủ của các ban ngành hữu quan như: hải quan, công an, biên phòng, thuế vụ, quản lý thị trường, ủy ban nhân dân huyện, xã, thị trấn sở tại…Ban quản lý này do ủy ban nhân dân Quyết định thành lập và cử người lãnh đạo; được quy định quyền hạn, chức năng, nhiệm vụ cụ thể, chịu sự lãnh đạo trực tiếp của cơ quan ngành dọc của TW và ủy ban nhân dân tỉnh. Cần thiết thành lập một công ty phát triển cơ sở hạ tầng ở mỗi cửa khẩu theo tinh thần Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, nhằm phát huy tối đa hiệu quả nguồn vốn đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng tại các khu kinh tế cửa khẩu. Cần chú ý vừa có sự phối hợp nhịp nhàng nhưng vừa phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước và chức năng kinh doanh trong xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng. Ban quản lý thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, còn công ty phát triển cơ sỏ hạ tầng thực hiện chức năng trong kinh doanh xây dựng và dịch vụ hạ tầng cho các hoạt động kinh tế xã hội ở khu kinh tế cửa khẩu. Tăng cường hơn nữa sự phân cấp cho địa phương, nơi có khu kinh tế cửa khẩu về thẩm quyền, chức năng quản lý, có trách nhiệm và lợi ích cụ thể đối với tòan bộ sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu tại địa phương
Contents
.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- QT499.Doc