Lời cảm ơn!
Được làm khóa luận tốt nghiệp đối với em là một may mắn, một vinh dự, một dịp để học hỏi thêm nhiều kiến thức bổ ích và hấp dẫn. Tuy nhiên, với năng lực và kiến thức còn rất hạn chế, chắc chắn khoá luận tốt nghiệp của em sẽ còn nhiều thiếu sót. Em xin chân thành mong mỏi được các thầy, cô và các bạn chỉ bảo. Nhân dịp này, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với nhà trường, Khoa Văn học, Bộ môn Lý luận Văn học, các thầy cô đã dạy bảo em trong suốt khoá học. Đặc biệt, em xin cảm ơn
41 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2940 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Không gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng dẫn TS. Nguyễn Văn Nam và cô giáo phản biện PGS.TS. Lý Hoài Thu.
Mở đầu
Xuân Diệu là một trong những gương mặt tiêu biểu nhất, nổi bật nhất của phong trào thơ mới 1932 - 1945. Thơ Xuân Diệu đắm say, rạo rực một tình yêu mãnh liệt, yêu con người, yêu cuộc đời, yêu trần thế… Với cá tính độc đáo và mạnh mẽ, Xuân Diệu đã đem đến góp vào cho thơ Mới một phong cách nghệ thuật thật tiêu biểu, thật nổi bật và cũng thật riêng tư, thật khác biệt. Thơ ông là cả một thế giới nghệ thuật rộn ràng thanh sắc, say đắm tình đời. Không gian nghệ thuật là một bộ phận, một yếu tố hợp thành, là diện mạo của cái thế giới nghệ thuật đó.
Thời gian và không gian đều là những thuộc tính phổ biến, những điều kiện tất yếu, những hình thức tồn tại của thế giới. Cùng tương tự như vậy, trong nghệ thuật, thời gian và không gian nghệ thuật là hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật. Thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật chịu tác động có ý nghĩa quyết định của quan niệm về thế giới và con người của nhà văn và phong cách sáng tạo của nhà văn. Đồng thời, chúng phản ánh, bộc lộ, thể hiện các đặc trưng của chính cái phong cách đó. Tìm hiểu thời gian và không gian nghệ thuật giúp ta hiểu sâu sắc hơn, từ những góc độ đặc biệt, cá tính của nhà văn và những đặc sắc của thế giới nghệ thuật mà nhà văn đã sáng tạo nên.
Từ trước đến nay, nói đến thơ Xuân Diệu người ta thường nghĩ ngay đến cảm hứng thời gian, nỗi ám ảnh thời gian, những âu lo, hãi hùng, phiền muộn của nhà thơ trước những bước đi không gì chống lại được của thời gian kéo theo bao nhiêu là tàn phai, úa héo, phôi pha… Có thể nói sự than vãn về sức tàn phá của thời gian là một trong những cảm hứng chủ đạo của thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám.
Nhưng không gian nghệ thuật cũng là một phương diện thể hiện theo cách khác những cảm hứng và bản sắc sáng tạo của nhà thơ. Trong khuôn khổ của một khoá luận tốt nghiệp, em xin tập trung vào nhiệm vụ tìm hiểu những đặc điểm nổi bật của không gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu.
Khoá luận được chia làm 2 chương chính, cùng lời mở đầu và kết luận.
Chương I có tiêu đề là: "Không gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu - một không gian trần thế xinh đẹp, đầy sức sống:.
Chương II: Không gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu - Một không gian tồn tại trong những đối cực.
Để tránh những từ lặp lại nhiều lần, em xin phép được dùng cụm từ "thơ Xuân Diệu" trong khoá luận này để chỉ thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám 1945.
Chương I
Không gian nghệ thuật trong thơ
xuân diệu - một không gian trần thế
xinh đẹp, đầy sức sống
Như chúng ta đã biết, trên nền chung của Phong trào thơ mới, của văn học lãng mạn Việt Nam 1932 - 1945, Xuân Diệu chiếm một vị trí đặc biệt. Về quan niệm nghệ thuật, về cách hiểu mối quan hệ giữa các nhà thơ, thơ ca và cuộc đời, Xuân Diệu đều có những cách ứng xử riêng biệt, độc đáo. Thơ của ông thể hiện rõ lòng yêu cuộc sống, thiên nhiên và ham muốn tận hưởng hạnh phúc. Ông là một nhà thơ tình yêu số một của Việt Nam và là người đầu tiên đem đến cho văn chương Việt Nam quan niệm tình yêu mới mẻ của con người hiện đại.
Quan điểm của các nghệ sĩ lãng mạn đối với thực tại chủ yếu là phủ nhận, khước từ. Sự phủ nhận khước từ đó được thể hiện rằng những khát vọng và toan tính li khai, thoát ly trên nhiều hướng. Trong thơ mới 1932 - 1945, Huy Thông làm sống dậy những hình bóng hào hùng của một quá khứ xa mờ. Nguyễn Nhược Pháp hồi tưởng lại thủa xưa trong trẻo và vô tư. Vũ Đình Liên cảm thán trước những tàn phai của một thời đại, một lớp người đẹp một vẻ đẹp cổ kính và héo úa. Chế Lan Viên dựng lên cả một thế giới đổ nát, chết chóc, tang thương, đầy sầu hận... Các nhà thơ đó đều là những nhà thơ hoài cổ theo cách riêng của mình, đều tìm ở quá khứ những ánh hồi quang huy hoàng để đối lập với hiện tại đắng cay và xám ngắt.
Không chìm sâu vào quá khứ lịch sử xa xăm, Huy Cận lại thoát lên không gian vũ trụ bao la và rợn ngợp:
"Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu"
(Ê Chề)
Còn Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng thì thả hồn trong những thú vui có phần trụy lạc, siêu thoát chờ làm khói đê mê của "nàng tiên nâu".
Hàn Mặc Tử lại thành kính tìm thấy ở tôn giáo một sự hứa hẹn giải thoát cho mình khỏi những đớn đau xé buốt khổ đến cả hình hài.
Maria linh hồn tôi ớn lạnh
Run như run thần tử thấy long nhan
Run như run hơi thở chạm tơ vàng
Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến
Chỗ khác của Xuân Diệu so với những thi sĩ lãng mạn ấy chính là ở cái cách mà ông xác định vị trí của mình trong đời, ở quyết tâm của ông gắn bó với "vườn trần" và hơn thế nữa, ở quan niệm của ông coi trần gian như là cội nguồn của vẻ đẹp vô tận và vĩnh cửu. Xuân Diệu tìm thấy trong cái thực tại " ở đây" và "bây giờ" một nguồn cảm hứng sáng tạo bất tuyệt cho thi ca.
Nhà thơ Thế Lữ đã coi Xuân Diệu là " một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian. Ông đã không trốn tránh mà còn quyến luyến cõi đời".
Phong cách khá điển hình cho tình yêu vô biên của Xuân Diệu đối với cõi đời được thể hiện đầy đủ qua những câu thơ thật mạnh mẽ và nồng nàn:
Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn
Làm dây da quấn quít cả mình xuân
Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần
Chân hoá rễ để hút mùn dưới đất
(Thanh niên)
Tình yêu đời của Xuân Diệu thật mãnh liệt. Thi sĩ khao khát tận hưởng cuộc đời trần thế bằng cường độ sống mãnh liệt.
Sống toàn tâm, toàn trí, sống toàn hồn
Sống toàn thân và thức nhận giác quan
Và thức cả trong giấc nồng phải ngủ
Sống, tất cả sống, chẳng bao giờ đủ
(Thanh niên)
Những đam mê đến cuồng nhiệt, những khao khát đến bỏng cháy của nhà thơ hiện hình qua từng động tác " trữ tình" mạnh mẽ; những "ôm" "ôm bó","riết", "say", "thâu", "cắn", "hút", "quấn quít"...
" Ta muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !"
(Vội vàng)
Trong tốc độ và trong cường độ, từ quan niệm đến tư thế và động tác, tâm hồn Xuân Diệu luôn luôn trẻ trung, sôi nổi, rạo rực. Thơ ông say đắm tình yêu đời, cuồn cuộn, bỏng cháy nỗi khát khao hưởng thụ đến tuyệt đỉnh, đến tận cùng hương sắc muôn màu của trần gian. Tấm lòng yêu đời mãnh liệt ấy, tâm hồn trẻ trung và cường tráng ấy không thể không in đậm dấu ấn trong những hình ảnh không gian của thơ Xuân Diệu. Không gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu là sự phản chiếu tuyệt vời tình yêu cuộc sống của nhà thơ.
Không gian nghệ thuật là diện mạo của thế giới. Người ta cảm thụ về không gian chính nhờ bởi những vật thể lấp đầy nó. Mong muốn và chờ đợi gì ở cuộc đời, nhà thơ sẽ nhìn thấy một không gian tương xứng.
"Không gian trần thế trong thơ Xuân Diệu la sự đối lập hoàn toàn với thế giới hư vô, thiên đường và địa ngục. Ông đã tự tay dựng lấy phần không gian của mình sao cho thật vui tươi, chan hoà. Đó là nơi gặp gỡ của những tình cảm yêu đời, yêu người tha thiết, nơi con người có quyền "cảm xúc", "hẹn hò", "yêu" "tương tư", "thở than", "sầu"… là thế giới kỳ diệu của thiên nhiên với những "nụ cười xuân", những đêm trăng "huyền diệu", những "sương mờ"… Đọc thơ và gửi hương cho gió người ta rất dễ hình dung ra mặt bằng ấm áp và vui tươi trong thơ Xuân Diệu".
(Lý Hoài Thu. Sđd, tr-102)
Trong không gian thơ Xuân Diệu luôn vằng vặc một vầng trăng. "Thơ Xuân Diệu là cả một thế giới trăng với đủ mọi hình hài, dáng vẻ và mọi trạng thái cảm xúc "Trăng ngà", " trăng ngần", "trăng vàng", " trăng sáng", " trăng xa", "trăng rộng", " trăng ngẩn ngơ", " trăng đẹp", " trăng thánh thót", " trăng thâu", " trăng tàn", " trăng thương", " trăng nhớ":.... có thể nói rằng trong hằng hà sa số những câu thơ viết về thiên nhiên của thơ mới, Xuân Diệu đã góp vào đó nhiều câu thơ vô cùng sáng giá về trăng " (Lý Hoài Thu. Sđđ. Tr 45)
Trăng, vú mộng đã muôn đời thi sĩ
Giơ hai tay mơn trớn vẻ tròn đầy
Trăng, hoa vàng lay lắt cạnh bờ mây
Trăng, đĩa ngọc giữa mâm trời huyền bí;
.... Trăng, nguồn sương làm ướt cả giá hây,
Trăng, võng rượu khiến đêm mờ chếnh choáng,
Người ám ảnh hương thơm bằng ánh sáng,
Ru màu êm mà gọi thức lòng ngây........."
Vầng trăng trong thơ Xuân Diệu không xa thẳm, cách vời mà sinh động, mà phập phồng sự sống. Trong cái nhìn âu yếm của nhà thơ, trăng gần lại với con người, hiển hiện hữu hình hơn. Trăng gợi nhắc đến những biểu tượng của sự sống, thức dậy ở con người tình yêu trần thế, khát vọng tận hưởng những vẻ đẹp trời ban, cái tuyệt mỹ và diệu huyền của tạo hoá. Những cảm xúc thẩm mỹ thức dậy từ vầng trăng tròn đầy trong thơ Xuân Diệu như thế thật khác với những tình cảm u ẩn, những tâm trạng sầu thương hay những ám ảnh có phần nghiêng về nhục cảm kiểu như:
" Ngoài kia trăng sáng chảy bao la
Ta nhảy vào quay cuồng thôi lăn lộn
Thôi ngụp lặn trong ánh vàng hỗn độn
Cho trăng ghì, trăng riết cả làn da.....
(Tắm trăng - Điêu tàn)
"Trăng nằm sõng xoài bên cành liễu
Đợi gió thu về để lả lơi"…
"Ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe"
(Hàn Mặc Tử)
Vườn là khoảng không gian tràn đầy hương và sắc của trần gian.
Giữa vườn ánh ỏi tiếng chim vui
Thiếu nữ nhìn sương chói mặt trời
Sao buổi đầu Xuân êm ái thế!
Cánh hồng biếc những nụ cười tươi
ánh sáng ôm trùm những ngọn cao
Cây vàng rung nắng, lá xôn xao;
Gió thơm phơ phất bay vô ý
Đem đụng cành mai sát nhánh đào.
Tóc liễu buông xanh quá mỹ miều
Bên màu hoa mới thắm như kêu;
Nỗi gì âu yếm qua không khí
Như thoảng đưa mùi hương mến yêu....
(Nụ Cười Xuân)
Vườn cười bằng bướm, hót bằng chim;
Dướt nhánh, không còn một chút đêm
Những tiếng tung hô bằng ánh sáng
Ca đời hưng phục trẻ trung thêm....
(Lạc Quan)
Vườn là điểm hội tụ của gió, nắng, chim, hoa, ong, bướm, ánh sáng long lanh và âm thanh náo nức. Tất cả đều tươi rói, sáng rực, phơi phới, rạng ngời trong vẻ hân hoan ban mai và điều này mới là quan trọng, là đặc trưng cho thiên nhiên, cho các vật thể không gian của thơ Xuân Diệu: ở đó muôn vật đều " vừa tầm với bắt của tay người " (Lạc Quan)
Không gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu thường được cảm nhận trong buổi bình minh, trong ánh ban mai, ở đó, tất cả tạo vật đều đẹp một vẻ đẹp tinh khôi, thanh tân, trinh bạch của "buổi ban đầu" của thủa "ban sơ" của mối "tình thứ nhất" của " mùa xuân đầu".... không gian ấy luôn tràn ngập ánh sáng. "Nếu không gian vườn ấy được mô tả dưới ánh sáng ban ngày thì tất cả đều long lanh, rực rỡ vô ngần:
Tóc liễu buông xanh quá mỹ miều
Bên màu hoa mới thắm như kêu:
(Nụ cười xuân)
Son sẻ trời như mười sáu tuổi
Má hồng phơn phớt mắt long lanh
(Rạo rực)
Một tổ hợp từ được huy động để diễn tả sự phát sáng và khả năng khúc xạ của mặt trời:
" Nhìn sương chói mặt trời", "tung hô bằng ánh sáng", "ánh sáng ca", "một luồng ánh sáng", "ánh dương vui", "hoa ngang ngửa thắm", "thắm tươi", " vàng tươi", "ửng rạng", "đắm sắc", " trồi biếc", "má hây hây"...(Lý Hoài Thu. Sđd. tr 104).
Nhưng ngay cả bóng đêm cũng không hề kéo về cùng nó những ma, quỷ, vong hồn từ âm thế như trong thơ của nhiều thi sĩ lãng mạn khác. Vườn kết hợp với trăng trong thơ Xuân Diệu tạo thành một không gian rất lung linh, huyền ảo, nửa thực, nửa mơ nhưng vẫn tràn đầy nhựa sống và náo nức lòng trần. Không gian đêm có khi còn nồng nàn hương tình ái hơn cả dưới ánh sáng ban ngày.
" Gió canh khuya như nghìn ngón tay ôm
Trăng mối lái phủ màng tơ mơ mộng..."
(Hoa Đêm)
Thơ Xuân Diệu đầy hoa. Trong không gian vườn đời lộng lẫy nhan sắc thắm tươi của đủ các loài hoa.
" Cánh hồng kết những nụ cười tươi"
(Nụ cười xuân)
Vàng tươi, thược dược cánh hơi xoà
ửng rạng phù dung nghiêng mặt hoa
(Lạc Quan)
" Chen lá lục, những búp lài mở nửa
Hớp bóng trăng đầy miệng nhỏ xinh xinh;
Hoa lài xanh dưới ánh nguyệt tuôn trời
ánh nguyệt trắng trên hoa lài đúc sữa"
(Hoa đêm)
" Gió thu hoa cúc vàng lưng dậu
Sắc mạnh huy hoàng áo trạng nguyên
(Thu)
Trong số các loài cây mà Xuân Diệu đưa vào không gian thơ ông thì hình như liễu được chú ý nhiều hơn cả. Liễu được nhìn nhận như là một biểu tượng của mùa, xanh thắm tốt tươi hay bơ phờ, ủ rủ cùng trời đất và lòng người. Khi thì:
"Tóc liễu buông xanh quá mĩ miều"
Khi thì:
"Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Liễu được chú ý đặc tả có lẽ một phần vì dáng nét của liễu tha thướt, yêu kiều, rất phù hợp với quan niệm về một vẻ đẹp mong manh sương khói của nghệ sĩ lãng mạn. Nhưng có lẽ một phần còn là vì liễu rất gần với những gì thuộc về thế giới của tình yêu, của ái ân, của phụ nữ. Trong thơ Xuân Diệu liễu gắn bó nhiều hơn cả chính là với người đàn bà cả xưa lẫn nay.
"Gót sen vàng liễu yếu chạy về đâu"
(Mơ xưa)
"Bước đẹp em vừa gởi tới đây
Chim hoa ríu rít, liễu vui vầy.
(Dâng)
Lá liễu dài như một nét mi
(Nhị hồ)
Cho liễu người khô, ngọc mắt phai
(Kẻ đi đày)
Tóc liễu gợi nhắc đến tóc người đàn bà:
"Tóc liễu buông xanh…"
"Tóc buồn buông xuống.."
Không gian trong thơ Xuân Diệu là một thế giới náo nức âm thanh và ánh sáng. Đó là một không gian dào dạt gió, tưng bừng muôn khúc nhạc thần tiên của trời đất và lòng người. Không gian ấy cũng tràn ngập "tiếng chim vui", tiếng nổ giòn lách tách của hoa đêm, tiếng gió xinh thì thào.... Mơ hồ hơn nhưng cũng không kém phần rạo rực bồi hồi là những khúc nhạc thầm lên tiếng "say mê", "tiếng tung hô bằng ánh sáng", là "dư âm giọng nói đã lâu ngày, một sớm tím bỗng dịu dàng đồng vọng". Đó là cả một bản tấu của những thanh âm dìu dặt, du dương, yên bình và mê đắm.
Đó là một không gian ửng rạng ban mai, bừng sáng nắng nhưng cũng nhiều khi mông lung trong sương và mơ hồ huyền diệu dưới ánh trăng. Những luồng ánh sáng đó, những mầu sắc trần gian đó chủ yếu thể hiện sức sống, nét thanh tân, vẻ tươi tắn, dung mạo kiều diễm của tạo vật.
"Giữa vườn ánh ỏi tiếng chim vui
Thiếu nữ nhìn sương chói mặt trời
Sao buổi đầu xuân êm ái thế
Cánh hồng kết những nụ cười tươi
(Nụ cười xuân)
Có một điều khá lý thú là trong không gian thơ Xuân Diệu, thấp thoáng một số gương mặt tuổi trẻ, nhưng chủ yếu là gương mặt thiếu nữ. Người ta có thể hiểu vì đây là thơ của một thi sĩ đàn ông, một chàng trẻ tuổi đa tình. Và sự lấn át hẳn về số lần xuất hiện của dung nhan thiếu nữ so với hình bóng nửa kia của nhân loại chứng tỏ rất rõ ràng một lần nữa là tình yêu chiếm một vị trí quan trọng nhất trong tâm hồn nhà thơ Xuân Diệu. Đến mức chỉ còn đối tượng của ái tình là hiện ra thật rõ rệt còn những gương mặt khác, ngoài tầm chú ý cao độ của chủ thể thì nhoè phai, mờ nhạt hẳn.
Gương mặt đó khi thì bừng sáng long lanh như buổi bình minh:
"Thiếu nữ nhìn sương chói mặt trời"
Khi tươi tắn trong niềm vui
"Em vui đi răng nở ánh trăng rằm"
"Thiếu nữ làm duyên đứng mỉm cười"
Khi bâng khuâng
"Thiếu nữ bâng khuâng đợi một người"
Khi rầu rĩ, mơ màng
"ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn song nghĩ ngợi gì"
Nhưng đều nhận được những nâng niu, âu yếm của nhà thơ. Và dường như cả tạo vật cũng đẹp một cách đầy nữ tính trong thơ Xuân Diệu. Cả không gian thơ Xuân Diệu tràn ngập những duyên dáng, tình tứ, tha thướt, yêu kiều, tươi thắm, dịu dàng… vốn là những đặc tính của một nhan sắc yêu kiều đầy nữ tính. Trăng được hình dung như "vú mộng tràn đầy". Liễu được nhìn như suối tóc dài thiếu nữ:
"Tóc liễu buông xanh quá mĩ miều"
Và cả trời đất có khi cũng tràn ngập sức quyến rũ của tuổi trăng tròn lẻ:
"Son sẻ trời như mười sáu tuổi
Má hồng phơi phới mắt long lanh"
(Rạo rực)
Nhìn chung có thể nhận rõ những đặc điểm sau đây của không gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu trước cách mạng:
1. Trong không gian ấy, những hiện tượng và sự vật chủ yếu là trăng, hoa, cây, lá, vườn, nắng, mưa, mây, gió, sương, những con đường những dòng sông, những dẫy núi và thấp thoáng một ít gương mặt tuổi trẻ.
Đó chủ yếu là những gì thuộc về thiên nhiên, là một không gian được nhìn từ góc độ của những hiện tượng và sự vật tự nhiên, thiên tạo.
Trong không gian ấy hình bóng của con người cụ thể không rõ lắm (trừ một đôi gương mặt tuổi trẻ như đã nói trên). Đó cũng không phải là một không gian gồm chứa những dấu vết, những chứng tích, những thành quả của văn hoá, của lịch sử kiểu như không gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Khoa Điềm sau này
"Ôi đất nước đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…"
(Đất nước)
Đặc điểm này vốn bắt nguồn từ một quy luật chung của nghệ thuật lãng mạn: chủ nghĩa lãng mạn lý tưởng hoá thiên nhiên, tìm thấy ở thiên nhiên một nơi chốn lý tưởng cho cái đẹp cư ngụ, đặt thiên nhiên trong thế đối lập với xã hội, với loài người, với đô thị. Xã hội loài người là xấu xa và nguy hiểm. Đô thị phồn hoa là nơi dung chứa tội ác và tội lỗi, là sa mạc tinh thần giam hãm những cá nhân cô độc. Ngược lại thiên nhiên là trong sạch và thánh thiện, " là lý tưởng đã hoá đá", là cội nguồn của cái đẹp và là sức mạnh xoa dịu, cứu vớt, an ủi con người bị thương từ xã hội, từ đô thị trở về.
Nghiêng hẳn về phương diện thiên nhiên trong tạo dựng không gian nghệ thuật, thơ Xuân Diệu đã thể hiện thật rõ nét một quy luật của văn học lãng mạn.
2. Không gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu tràn ngập âm sắc quyến rũ của trần gian, phản chiếu một cách sinh động nỗi đam mê lớn lao đối với cuộc đời và khát vọng sống mãnh liệt của thi sĩ.
Đây là một không gian của sức sống, của niềm vui, của những giá trị tích cực, của thế giới được nhìn từ phương diện đáng yêu nhất, sung mãn nhất...Không gian nghệ thuật ấy được xây dựng bởi những chất liệu của thực tại, là không gian của những cái " ở đây" và " bây giờ". Thơ Xuân Diệu là một bài ca về trần gian hiện tại trong dung mạo yêu kiều nhất của nó. Đây chính là điểm phân biệt thơ Xuân Diệu với thơ nhiều thi sĩ lãng mạn khác cùng thời, cùng trào lưu với ông.
Không gian nghệ thuật hân hoan, tươi rói trong thơ Xuân Diệu thật khác so với không gian tĩnh lặng, cao rộng đến rợn ngợp trong thơ Huy Cận mà ở đó con người chỉ là những chấm nhỏ đơn côi.
" Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu..."
(Tràng Giang)
Xét về phương diện này. Xuân Diệu ở vào thế hoà hợp " hữu nghị", tương giao thân ái với không gian. Còn Huy Cận lại thường rợn ngợp, khắc khoải với mặc cảm bị chìm đi, bị khuất lấp, bị bỏ mặc, bị tan biến trong một không gian khổng lồ ở tầm vũ trụ và trống vắng đến mức đe doạ.
Không gian nghệ thuật thơ Xuân Diệu bao giờ cũng được cảm nhận từ thời điểm hiện tại, được tạo dựng bởi những vật liệu thực có thể cảm nhận và kiểm chứng rằng các giác quan. Đó là một thế giới sinh động và hiện hữu. Trái lại, trong thơ của một thi sĩ nổi tiếng hoài cổ là Chế Lan Viên, không gian nghệ thuật lại được lấp đầy bởi những đầu lâu và xương cốt, oan hồn và ma quỷ, những đổ vỡ và hoang phế.
" Đây những tháp gầy mòn vì mong đợi
Những đền xưa đổ nát dưới thời gian
Những sông vắng lê mình trong bóng tối
Những tượng chàm lở lói rỉ rên than
Đây những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn
Muôn ma hời sờ soạng dắt nhau đi......"
( Trên đường về)
Đó là một không gian của khổ đau và hờn oán, một không gian được nhìn từ phương diện tan rữa, lụi tàn với những sắc màu tàn khốc nhất.
" Chiều hôm nay bỗng nhiên ta lạc bước
Vào nơi đây thế giới vạn cô hồn
Hơi người chết toả đầy trong gió lướt
Tiếng gió kêu dung chuyển cỏ xanh non
Trên một nấm mồ tàn ta nhặt được
Khớp xương ma trắng tựa não con người
Tuỷ đã cạn, nhưng vẫn đầm hơi ướt
Máu tuy khô, còn đượm khí tanh hôi"
( Xương Khô)
Đó là một không gian " rờn rợn khí yêu ma" được xây dựng lên bởi những chất liệu chắt ra từ hồi ức, từ hoài niệm và chủ yếu là từ tưởng tượng. Đó là một không gian hoang đường và kỳ ảo, khác rất xa với cái cõi đời tươi tắn, nõn nà và ấm nóng, nồng nàn của Xuân Diệu.
Ngược lại, cảm hứng chủ đạo ca ngợi vườn trần, xưng tụng sự sống sẽ còn xuyên suốt cuộc đời Xuân Diệu, qua tất cả những chặng đường sáng tạo về sau của nhà thơ.
3. Không gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu là một không gian " vừa tầm tay với của con người". Trong cái không gian ấy, tất cả đều đáng yêu, tươi tắn, gần gũi và thân thiện. Đó là một không gian cho con người
Có nhà nghiên cứu đã nhận xét: " Xuân Diệu, khó lòng làm chủ được những không gian tầng cao như Huy Cận, Hàn Mặc Tử" . Điều này hoàn toàn phù hợp với các tạng riêng của một nhà thơ thích hiện diện ngay ở giữa cõi đời, quyến luyến say mê mọi vẻ đẹp hồng tươi rực rỡ của đời sống, trần thế, Sợ "bóng tối" và " hư vô"
Đặc biệt ở những bài thơ có không gian trăng mặt bằng không gian càng rộng, sự lấn át càng lớn. Giữa không gian ấy ông bao giờ cũng trở nên nhỏ nhoi chao đảo.
"Trăng sáng trăng xa trăng rộng quá
Hai ngưòi nhưng chẳng bớt bơ vơ"
"Khắp biển trời xanh, chẳng bến trời
Mắt tìm thêm rợn ánh khơi vơi"
( Buồn trăng)
( Lý Hoài Thu. Thơ Xuân Diệu trước CM tháng 8 năm 1945 . tr 107)
Trong thơ Xuân Diệu đôi khi cũng có những không gian hoành tráng
"Huy hoàng trăng rộng, nguy nga gió
Xanh biếc trời cao, bạc đất bằng"
( Buồn trăng)
Nhưng những phong cảnh trên không xuất hiện với tần số cao trong thơ ông và ngay trong bài thơ ấy thì rút cục chủ thể trữ tình cũng không tan biến vào khoảng bao la kia mà lại trở về cõi trần nức hương, gần gũi và an bình của mình.
Thế Lữ có một tuyên ngôn nghệ thuật
" Tôi chỉ là một khách tình si
Ham vẻ đẹp muôn hình muôn vẻ
Mượn cây bút nàng ly tao tôi vẽ
Và mượn cây đàn ngàn phím tôi ca"
Cảnh vĩ đại, sóng nghiêng trời, thác ngàn đổ…
Nét mong manh thấp thoáng cánh hoa bay...
( Cây đàn muôn điệu)
Trong sự phong phú vô cùng của chất liệu nghệ thuật mà người nghệ sĩ lãn mạn lựa chọn, Xuân Diệu không có thiên hướng đi tìm những cảnh vĩ đại, sóng nghiêng trời, thác ngàn đổ ", ông nghiêng hẳn về những " nét mong manh thấp thoáng cánh hoa bay"
Nếu diễn đạt bằng những từ ngữ mỹ học, ta có thể nói rằng trong không gian nghệ thuật của thơ Xuân Diệu, cái xinh xắn, cái duyên dáng, cái đẹp xuất hiện với số lượng nhiều hơn hơn hẳn so với cái cao cả, cái vĩ đại, cái khổng lồ, cái siêu phàm.
Chương II
Không gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu
Một không gian tồn tại trong những đối cực
Một đặc điểm nổi bật của không gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu là nó không thuần nhất, không trong suốt mà chứa đựng những mâu thuẫn, những đối cực - Sự đối lập của những trạng thái rất khác nhau đã tạo nên cái xốn xang, bồn chồn và hối hả rất điển hình cho thơ Xuân Diệu.
1. Không gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu - một không gian tình ái.
Xuân Diệu là nhà thơ thiết tha gắn bó với cuộc đời. Mà đỉnh điểm của lòng yêu đời là khát vọng ái tình. Sự sống ở trạng thái sung mãn nhất sẽ trào lên thành tình yêu, thành nhu cầu giao hoà, ân ái, dâng hiến và chiếm lĩnh… Đối với Xuân Diệu, tình yêu là tinh hoa của sự sống, là biểu tượng rực rỡ nhất của tuổi thanh xuân, là nguồn hạnh phúc vô biên cho con người, nguồn thi hứng vô tận cho thơ ca. Phần lớn các bài thơ của Xuân Diệu trong giai đoạn này là thơ tình yêu. Đương thời và mãi về sau, Xuân Diệu luôn được coi là thi sĩ của tình yêu, là hoàng tử của thơ tình Việt Nam thế kỷ XX. "Là một nhà thơ luôn mang trong mình nỗi ao ước được tận hưởng mọi vẻ đẹp của đời sống trần thế, Xuân Diệu đã chọn tình yêu để gửi gắm lòng yêu đời và nỗi khát sống của mình" (Lý Hoài Thu -Sđd. tr.51). "Một nét đặc sắc nữa trong cảm xúc tình yêu của thơ Xuân Diệu là ông đã nâng tình yên lên thành triết lý về sự sống. Nhiều người đã nói về sự đa thanh, đa sắc trong tình yêu của Xuân Diệu. Nhưng có lẽ điều đáng nói nhất ở đây lại chính là ở chỗ Xuân Diệu xem tình yêu cao hơn chính nó, đó không chỉ là tình yêu nữa, mà là sự sống "(Lê Tiến Dũng- Những cách tân nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu giai đoạn 1932- 1945 - NXB Giáo dục - Hà Nội - 1998 - Tr.75)
Thế Lữ đã nhận xét từ rất sớm là: "Ham yêu, biết yêu, Xuân Diệu muốn tận hưởng tình yêu vì ông thấy chỉ tình yêu mới gồm được bao nhiêu ý nghĩa". Thế Lữ gọi Xuân Diệu là "Một con người ân ái đa tình". "Bằng những cảm xúc chân thực và khát vọng ân ái chính đáng của mình, Xuân Diệu đã thiết lập nên một thứ "chủ nghĩa yêu đương" hoàn toàn mới mẻ, phù hợp với quan niệm sống và yêu của thế hệ trẻ đương thời" (Lý Hoài Thu, Sdd tr. 52).
Thơ tình Xuân Diệu vừa thể hiện đến mức độ cao nhất, mức độ điển hình tâm thế mới, quan niệm sống mới của nghệ thuật lãng mạn, của phong trào thơ mới lại vừa có những nét đặc sắc riêng biệt chỉ riêng thuộc về cá tính sáng tạo của ông. Thơ tình Xuân Diệu phản ánh cái tôi vô cùng mạnh mẽ và độc đáo của nhà thơ.
Hơn ai hết, Xuân Diệu đã nâng tình yêu lên thành một triết lý sống, xem tình yêu là tinh hoa, là cốt lõi của sự sống. Ông tôn thờ tình yêu như là một thứ tôn giáo của "vườn trần". Xuân Diệu cũng là nhà thơ đã đem lại cho tình yêu trong thơ những sắc màu trần gian nhất. Nói cho thật chính xác, thơ tình Xuân Diệu đã kết hợp được một cách hài hoà giữa thể xác và linh hồn, giữa tâm linh và nhục thể, giữa dâng hiến và hưởng thụ. Xuân Diệu thần thánh hoá tình yêu nhưng không đi quá xa về phía đạo lý và khắc kỷ theo kiểu lý tưởng hoá. Thơ tình Xuân Diệu tràn trề những cảm giác ấm nóng, đê mê, nồng nàn và đắm đuối mà không trượt dài về phía nhục dục và thô thiển. Có nhà nghiên cứu đã viết " Xuân Diệu là người đưa nhục thể vào thơ một cách đầy tinh tế…" Nhục thể trong tình yêu Xuân Diệu là nhục thể của một tâm hồn "mang sắc lòng tươi quá" nhưng lại không thô tục. Ông đã diễn tả bao nhiêu sắc độ của tình yêu với những trạng thái mạnh mẽ như muốn "ôm", muốn "siết", muốn "say", muốn "cắn", muốn "ngoàm", muốn "hút"… mà không gợi lên sự sống sưọng của xác thịt, trái lại chỉ gợi cảm giác nồng nàn, tha thiết của tình yêu" (Lê Tiến Dũng. Sđd. tr.72).
Tình yêu như là cảm hứng chủ đạo trong thơ Xuân Diệu sẽ nhào nặn không gian nghệ thuật của thơ ông. Đó là một không gian tràn ngập tình yêu, thấm đẫm hương vị tình ái. Đó là một không gian phản chiếukhát vọng tình yêu mãnh liệt của nhà thơ đến mức tự nó cũng trở nên gợi tình và khát tình ở mọi nơi và mọi lúc.
Chúng ta đều biết rằng thời gian là nỗi ám ảnh lớn nhất trong thơ Xuân Diệu. Thời gian trôi chảy một cách vô tình và không thể nào cưỡng lại được. Mọi vật trên thế gian này đều bị cuốn trôi đi cùng với dòng chảy của thời gian. Theo Xuân Diệu, chỉ có thể chống lại thời gian bằng cách sống hết mình trong hiện tại, sống tối đa trong cương độ và tốc độ, sống ở trạng thái sung mãn và mãnh liệt nhất: yêu đương. Trong cuộc đấu tranh chống lại thời gian của Xuân Diệu, ông lấy không gian làm một đồng chí, một đồng loã của mình.
Không gian trong thơ Xuân Diệu chan chứa hương tình yêu.
"Tóc liễu buông xanh quá mỹ miều
Bên màu hoa mới thắm như kêu
Nỗi gì âu yếm qua không khí
Như thoảng đưa mùi hương mến yêu…"
(Nụ cười xuân)
Chỉ trong thơ ông người ta mới được tận hưởng cái mùi vị nội tâm rất đặc biệt ấy: mùi hương mến yêu. Trong bầu khí quyển đậm đặc tình áiđó, mọi vật đều trở nên tình tứ và duyên dáng. Cả những hiện tượng tưởng như là tự nhiên nhất, vô tình nhất cũng hoá ra không phải là vậy, hoá ra là đầy ngụ ý, đầy ám ảnh và tất cả đều gợi nhắc đến những ý tứ, những động tác của tình yêu.
"ánh sáng ôm trùm những ngọn cao
Cây vàng rung nắng lá xôn xao.
Gió thơm phơ phất bay vô ý
Đem đụng cành mai sát nhánh đào"
(Nụ cười xuân)
"Là một tâm hồn khao khát tình yêu, Xuân Diệu, luôn luôn tiếp cận thiên nhiên qua lăng kính ái ân. Nhà thơ thường mang cái cảm xúc trẻ trung, sôi nổi của tâm hồn mình trải lên cảnh vật. Ông nhìn thấy trong sắc nắng mùa xuân những hồi hộp xao xuyến của một thứ tình yêu ngây thơ, non trẻ… Và cũng chỉ Xuân Diệu mới nhìn thấy nét gợi tình lạ lùng này:
"Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần"
(Lý Hoài Thu. Sđd. tr.47)
Thiên nhiên đồng dạng với tâm hồn đa tình của nhà thơ. Trong văn học lãng mạn, người ta hay nói đến thiên nhiên nhưlà người chứng giám, như là kẻ thứ ba tham gia vào những cuộc tình tự. Trong thơ Xuân Diệu, thiên nhiên dường như tiến xa hơn nhiều vai trò chở che và chứng kiến đó: nó cũng trở nên đắm say như chính bản thân tác giả đang yêu.
Khi nhà thơ ở trong trạng thái ngây ngất.
"Với bàn tay ấy ở trong tay"
đến độ có thể nguôi quên hận tháng ngày, mỗi sầu hận ám ảnh dai dẳng nhất và sâu sắc nhất tâm hồn con người: thì thiên nhiên cũng lạc vào trạng thái căng tràn những khát khao giao hoà và ân ái. Cảnh vật không đứng yên, không tĩnh lặng. Chúng mải miết tìm kiếm và quyết luyến nhau.
"… Một tối bầu trời đắm sắc mây
Cây tìm nghiêng xuống nhành hoa gầy
Hoa nghiêng xuống cỏ trong khi cỏ
Nghiêng xuống làn rêu, một tối đầy…
Những lời huyền bí toả lên trăng
Những ý bao la rủ xuống trần
Những tiếng ân tình hoa bảo gió.
Gió đào the thẻ bảo hoa xuân…"
(Với bàn tay ấy)
Em đã được xem bức tượng Mùa xuân vĩnh cửu của nhà điều khắc người Pháp Rôđanh. ở tác phẩm đó, tư thế ái ân âu yếm của một đôi tình nhân được mô tả như là vẻ đẹp lý tưởng và vĩnh cửu của nhân loại. Người đọc cũng có một cảm tưởng tương tự, dường như trong bài thơ này của Xuân Diệu, hoa, cỏ, rêu, cây, gió, mây, trăng… cũng đang ở vào tư thế ái ân, đang quấn quýt, giao hoà với nhau đầy âu yếm trong một niềm hoan lạc vô biên. Và đólà một trạng thái yêu đương ở tầm không gian, ở tầm vũ trụ, ở quy mô tổng thể vì không chỉ những sự vật cụ thể mới tham gia vào vũ điệu tình ái đó, mà là cả trời và đất, cả không gian và trần gian. Những thông điệp của tình yêu được gửi từ dưới đất "lên trăng" và từ bao la" rủ xuống trần".
Đến "Hoa đêm" thì đã là cả một cuộc tình tự đắm say mà gió và hoa trở thành những nhân vật chính. Không gian và thời gian đêm trong thơ Xuân Diệu khác nhiều so với không gian và thời gian đêm trong thơ của nhiều nhà thơ lãng mạn khác. Trong thơ Huy Cận hay thơ Chế lan Viên, đêm thường đồng nghĩa với những gì là buồn bã, âm u, hoặc rùng rợn, ma quái. Đêm ám ảnh con người. Đêm đem lại bao nhiêu là cảm nhận day dứt hơn về cái nhỏ nhoi của kiếp người, về sự trống vắng và bao la của không gian đối lập với những chấm nhỏ cá thể bơ vơ và đơn côi. Đêm ảo não với bao nhiêu hồn ma, bóng quỷ hiện về…
Ngược lại, đêm trong thơ Xuân Diệu là thời khắc của tình ái. Hình như bóng đêm, bóng trăng đều trợ lực, đồng loã với những cặp tình nhân. Trong đêm, hương tình còn có phần nồng nàn hơn cả ban ngày. Đây là không gian yên lành v._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0296.doc