Khôi phục sinh kế bền vững cho người dân tái định cư của công trình thuỷ điện Sơn La

MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu Cho đến nay, mặc dù Việt Nam vẫn là một nước nghèo nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế và sự phát triển xã hội đã đạt được nhiều tiến bộ đáng kể. Việc đầu tư các dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn như những dự án thuỷ điện là những phần quan trọng cho phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trong thời gian dài. Các công trình thuỷ điện có vai trò vô cùng quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước, góp phần đảm bảo nhu cầu năng lượng trong đờ

doc105 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2565 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Khôi phục sinh kế bền vững cho người dân tái định cư của công trình thuỷ điện Sơn La, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i sống và sản xuất của nhân dân. Để xây dựng một công trình thuỷ điện, công tác giải phóng mặt bằng và tái định cư phải được thực hiện ở giai đoạn đầu tiên. Mặc dù các dự án thủy điện thường được triển khai xây dựng tại miền núi, nơi ít có dân cư sinh sống, tuy nhiên không tránh khỏi phải di chuyển những cộng đồng dân cư sinh sống trong phạm vi lòng hồ thuỷ điện. Những cộng đồng dân cư này chủ yếu là người dân tộc thiểu số với tập quán sản xuất, sinh hoạt và nền văn hoá lâu đời. Vì vậy, việc di dời và tái định cư người dân trong các công trình thủy điện ở miền núi có nhiều khác biệt với các dự án giải phóng mặt bằng ở miền xuôi. Việc di dời này sẽ khiến cho đời sống của người dân vùng tái định cư gặp phải nhiều biến động hơn. Do đó rất cần có những chính sách và biện pháp đặc biệt trong công tác di dân, tái định cư nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực đến tài nguyên, con người, “bảo đảm cho người dân có cuộc sống, nơi ở mới tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ” như chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta đã xác định [2, trang 26]. Tuy nhiên, việc triển khai xây dựng các công trình xây dựng đã và đang làm nảy sinh một số vấn đề bất cập về môi trường, văn hoá và đặc biệt là đời sống của người dân sinh sống ở những vùng lòng hồ thuỷ điện. Công tác đền bù và tái định cư bắt buộc tuy được chính phủ quan tâm đầu tư nhưng vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần giải quyết, trong đó vấn đề khôi phục sinh kế cho những người dân phải tái định cư đến nơi ở mới thật sự chưa được quan tâm đúng mức và chưa được thực hiện một cách hoàn chỉnh và bền vững. Việc khôi phục sinh kế đóng vai trò rất quan trọng trong việc giảm thiểu nguy cơ rủi ro cho những người phải tái định cư bắt buộc. Bởi vì, đây là những người bị tước đi những tài sản, lối sống, tập quán sản xuất vốn có của mình... để chuyển đến một môi trường mới với những điều kiện sản xuất mới, văn hoá mới, cộng đồng mới. Họ rất dễ bị cô lập hoặc bị nghèo đi so với thời điểm trước khi phải tái định cư. Việc xây dựng các công trình thuỷ điện cũng như những công trình quốc gia lớn khác là không tránh khỏi trong tiến trình phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Điều đó có nghĩa là sẽ vẫn còn những cộng đồng dân cư sẽ buộc phải di dời để dành mặt bằng cho những công trình đó. Từ đó, vấn đề cần đặt ra là làm thế nào để giảm thiểu tối đa những tác động không mong muốn đối với người dân phải tái định cư thông qua việc tạo lập một sinh kế bền vững cho người dân tái định cư. Thủy điện Sơn La là công trình thuỷ điện có quy mô lớn nhất Việt Nam. Đây cũng là công trình có quy mô di chuyển dân để giải phóng mặt bằng rất lớn, với 18 nghìn hộ, bao gồm hàng chục vạn dân của 160 bản, thuộc 17 xã ở 3 tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu. Tuy nhiên, các dự án tái định cư thủy điện trong quá trình thực hiện đã bộc lộ nhiều khó khăn, vướng mắc. Các đơn vị được lựa chọn chỉ xây dựng hạ tầng kỹ thuật mà rất ít quan tâm về lĩnh vực quy hoạch dân cư, di dân và tái định cư, khôi phục sinh kế và các vấn đề xã hội liên quan. Từ những vấn đề nêu trên, tôi chọn: "Khôi phục sinh kế bền vững cho người dân tái định cư của công trình thuỷ điện Sơn La" làm đề tài luận văn thạc sỹ kinh tế. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về di dân tái định cư và vấn đề sinh kế bền vững trong các dự án tái định cư của các công trình thuỷ điện. Đánh giá đúng thực trạng khôi phục sinh kế bền vững trong xây dựng và triển khai các dự án tái định cư của công trình thuỷ điện Sơn La nói chung, ở các điểm điều tra sâu nói riêng. Rút ra được các kết quả, những vấn đề đặt ra cần giải quyết và những nguyên nhân của chúng. Đề xuất các biện pháp tiếp tục khôi phục sinh kế một cách bền vững cho người dân tái định cư của công trình thuỷ điện Sơn La dựa trên một số kế hoạch tái định cư đã và đang triển khai của dự án thuỷ điện Sơn La và kinh nghiệm của dự án thuỷ điện Hoà Bình. 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu đến các vấn đề liên quan đến các vấn đề khôi phục sinh kế cho những người dân tái định cư của công trình thuỷ điện Sơn La, bao gồm việc xây dựng và triển khai các dự án tái định cư và các dự án phát triển kinh tế xã hội khác có liên quan trực tiếp đến kinh tế của các hộ tái định cư thuộc công trình thuỷ điện Sơn La nói chung, hộ tái định cư ở các khu tái định cư xã Chiềng Ngàm (huyện Thuận Châu) và xã Nậm Ét (huyện Quỳnh Nhai) nói riêng. 4. Phương pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp nghiên cứu chung Trong triển khai nghiên cứu luận văn, tác giả dùng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nhìn nhận, phân tích đánh giá các vấn đề một cách khoa học và khách quan. Đây cũng là cơ sở của phương pháp luận để vận dụng các phương pháp chuyên môn được chính xác trong quá trình nghiên cứu của đề tài. 4.2. Các phương pháp cụ thể - Các phương pháp thu thập thông tin: Luận văn tiến hành rà soát mọi tài liệu, văn bản, báo cáo và nghiên cứu hiện có được thu thập tại Việt Nam thông qua nhiều nguồn khác nhau (Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á, Bộ NNPTNT, các cơ quan trong nước, Internet, các chuyên gia quốc tế tại Việt Nam,...) nhằm thu được hiểu biết chung về các vấn đề quan tâm và nhiệm vụ nghiên cứu. - Phương pháp chuyên gia: Phỏng vấn và trao đổi với các chuyên gia về lĩnh vực tái định cư nhằm thu được những kinh nghiệm, nhận xét và ý kiến của họ về vấn đề tái định cư nói chung và các khía cạnh cụ thể (quy hoạch, đền bù, di dân,...) trong từng tình huống cụ thể tại các dự án phát triển đã và đang thực hiện. - Phương pháp tổng hợp: Đề tài thực hiện tổng hợp, phân tích và đánh giá trên cơ sở tài liệu, thông tin thu được để đưa ra nhận xét, tìm tòi và kết luận về tác động của hoạt động tái định cư tới người dân bị ảnh hưởng. Đặc biệt, đề tài nghiên cứu đánh giá dựa trên cơ sở thông tin định lượng, dựa trên thông tin thu thập từ điều tra khảo sát một nhóm người dân bị ảnh hưởng từ công trình thuỷ điện Sơn La về tác động của tái định cư đến tài sản, thu nhập, và việc làm. - Điều tra xã hội học: + Lựa chon địa bàn điều tra: Dựa trên tính chất điển hình của các xã tái định cư của thuỷ điện Sơn La, chúng tôi lựa chọn hai xã Chiềng Ngàm huyện Thuận Châu và xã Nậm Ét huyện Quỳnh Nhai của tỉnh Sơn La để tiến hành nghiên cứu tác động của quá trình tái định cư đến sinh kế của người dân. Mỗi xã điều tra ở 3 bản. + Xác định đối tượng điều tra: Các hộ điều tra thuộc nhóm hộ phải di dời tái định cư đến nơi ở mới thuộc công trình TĐSL của hai xã thuộc địa bàn nghiên cứu. + Kích thước mẫu điều tra: Dựa trên quy mô số hộ của các xã điều tra, chúng tôi lựa chọ số hộ điều tra. Số hộ điều tra gồm 70 hộ, là những hộ tái định cư của thuỷ điện Sơn La chia đều cho hai xã thuộc hai huyện của tỉnh Sơn La. + Phương pháp điều tra: Phỏng vấn sâu các hộ tái định cư, nhằm thu thập thông tin từ những cá nhân có vị trí chủ chốt trong cộng đồng như già làng, trưởng bản, và lãnh đạo chính quyền địa phương. + Phương pháp phân tích kết quả điều tra: Số liệu sau khi thu thập được tổng hợp và xử lý thông qua phần mềm tính toán Microsoft Excel. 5. Kết cấu của đề tài Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục và Danh mục tài liệu tham khảo, Đề tài được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về sinh kế và khôi phục sinh kế bền vững cho người dân tái định cư của các công trình thủy điện. Chương 2: Thực trạng khôi phục sinh kế bền vững cho người dân tái định cư của công trình thủy điện Sơn La. Chương 3: Quan điểm, phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm khôi phục sinh kế bền vững cho người dân tái định cư của công trình thủy điện Sơn La. CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ SINH KẾ VÀ KHÔI PHỤC SINH KẾ BỀN VỮNG CHO NGƯỜI DÂN TÁI ĐỊNH CƯ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH THUỶ ĐIỆN 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SINH KẾ VÀ KHÔI PHỤC SINH KẾ BỀN VỮNG CHO NGƯỜI DÂN TÁI ĐỊNH CƯ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH THUỶ ĐIỆN 1.1.1. Khái niệm sinh kế và khôi phục sinh kế bền vững 1.1.1.1. Khái niệm về sinh kế Khái niệm về sinh kế của hộ hay một cộng đồng là một tập hợp của các nguồn lực và khả năng của con người kết hợp với những quyết định và những hoạt động mà họ sẽ thực hiện để không những kiếm sống mà còn đạt đến mục tiêu đa dạng hơn. Hay nói cách khác, sinh kế của một hộ gia đình hay một cộng đồng còn được gọi là kế sinh nhai của hộ gia đình hay cộng đồng đó [10, trang 7]. Để duy trì sinh kế, mỗi hộ gia đình thường có các kế sách sinh nhai khác nhau. Kế sách sinh nhai của hộ hay chiến lược sinh kế của hộ là quá trình ra quyết định về các vấn đề cấp hộ. Bao gồm những vấn đề như thành phần của hộ, tính gắn bó giữa các thành viên, phân bổ các nguồn lực vật chất và chi phí vật chất của hộ. Chiến lược sinh kế của hộ phải dựa vào năm loại nguồn lực (tài sản) cơ bản sau: - Nguồn nhân lực: bao gồm kỹ năng, kiến thức, khả năng lao động và sức khoẻ con người. Các yếu tố đó giúp cho con người có thể theo đuổi những chiến lược tìm kiếm thu nhập khác nhau và đạt những mục tiêu kế sinh nhai của họ. Ở mức độ gia đình nguồn nhân lực được xem là số lượng và chất lượng nhân lực có sẵn. - Nguồn lực xã hội: là những nguồn lực định tính dựa trên những gì mà con người đặt ra để theo đuổi mục tiêu kế sinh nhai của họ. Chúng bao gồm uy tín của hộ, các mối quan hệ xã hội của hộ. - Nguồn lực tự nhiên: là cơ sở các tài nguyên thiên nhiên của hộ hay của cộng đồng, được trông cậy vào để sử dụng cho mục đích sinh kế như đất đai, nguồn nước, cây trồng, vật nuôi, mùa màng... Trong thực tế, sinh kế của người dân thường bị tác động rất lớn bởi những biến động của nguồn lực tự nhiên. Trong các chương trình di dân tái định cư, việc di chuyển dân đã làm thay đổi nguồn lực tự nhiên của người dân và qua đó đã làm thay đổi sinh kế của họ. - Nguồn lực vật chất: bao gồm tài sản hộ gia đình hỗ trợ cho sinh kế như nhà ở, các phương tiện sản xuất, đi lại, thông tin... - Nguồn lực tài chính: là những gì liên quan đến tài chính mà con người có được như: nguồn thu nhập tiền mặt, tiền tiết kiệm, tín dụng và các nguồn khác như lương, bổng, nguồn hỗ trợ, viện trợ từ bên ngoài cho hộ gia đình và cho cộng đồng. Mỗi hộ dân là một bộ phận cấu thành nên cộng đồng họ đang sống, các tài sản và nguồn lực của họ cũng là một phần tài sản và nguồn lực của cộng đồng đó, vì vậy chiến lược sinh kế của mỗi hộ đều có sự tương đồng và phù hợp với nhau cũng như phù hợp với chiến lược sinh kế của cộng đồng. Chiến lược sinh kế cộng đồng cũng dựa trên năm loại nguồn lực trên nhưng mang ý nghĩa rộng hơn cho cả cộng đồng, đó là số lượng và chất lượng nguồn nhân lực của cộng đồng; thể chế chính trị, phong tục, tập quán, uy tín của cả cộng đồng; điều kiện tự nhiên của địa bàn cộng đồng sinh sống; các cơ sở hạ tầng xã hội hỗ trợ cho sinh kế như giao thông, hệ thống cấp nước, hệ thống ngăn, tiêu nước, cung cấp năng lượng, thông tin... 1.1.1.2. Khái niệm sinh kế bền vững Một sinh kế được xem là bền vững khi nó có thể đối phó và khôi phục trước tác động của những áp lực và những biến động, và duy trì hoặc tăng cường những năng lực cũng như nguồn lực của nó trong hiện tại và tương lai, trong khi không làm suy thoái nguồn tài nguyên thiên nhiên [10, trang 9]. Mục tiêu sinh kế bền vững hướng đến một tầm rộng lớn hơn, chú trọng vào con người và hiểu tầm quan trọng của các quy trình và cấu trúc trong quá trình xác định cách mà các nguồn lực, tài sản được tạo ra và sử dụng. Như vậy, để có sinh kế bền vững, trước hết cần phải sử dụng các nguồn lực, tài sản vốn có một các bền vững lâu dài. Cả hộ gia đình và cộng đồng phải ý thức được việc không chỉ sử dụng nguồn lực sẵn có mà phải liên tục bổ sung, tăng cường và phát triển nguồn lực đó để phát triển bền vững sinh kế của mình. - Để duy trì và tăng cường nguồn lực con người có thể thực hiện cả trực tiếp lẫn gián tiếp. Trong cả hai cách thực hiện đó kết quả thực sự mang lại chỉ khi chính bản thân con người sẵn sàng đầu tư cho vốn con người của mình bằng cách tham gia vào các khoá đào tạo, tiếp cận với các dịch vụ... Vì vậy, cải thiện phương thức tiếp cận với giáo dục chất lượng cao, thông tin, công nghệ và đào tạo nâng cao dinh dưỡng và sức khoẻ sẽ góp phần làm phát triển nguồn nhân lực. - Duy trì và tăng cường nguồn lực xã hội là tăng cường xây dựng vốn xã hội, tập trung vào các thể chế địa phương như thông qua việc tạo ra các khả năng, huấn luyện đào tạo hay phân phối các nguồn lực hoặc thông qua việc tạo ra một môi trường dân chủ thông thoáng. Thông thường, những để nguồn lực xã hội cần phải có sự hỗ trợ từ các lĩnh vực khác, cần gắn chặt trách nhiệm của các tổ chức đoàn thể, xã hội vào nguồn vốn xã hội. - Duy trì và tăng cường nguồn lực tự nhiên cần được thực hiện bằng cách điều chỉnh các phương cách tiếp cận đối cới nguồn lực tự nhiên, cải thiện việc quản lý các nguồn lực. Việc hỗ trợ nguồn lực tự nhiên có thể thông qua sự chuyển đổi các tiến trình và cấu trúc tự nhiên đồng thời có sự tái tạo cho nhu cầu sử dụng trong tương lai. Một trong những nội dung chính của mục tiêu sinh kế bền vững là theo đuổi mục tiêu ổn định nhiều loại nguồn lực khác nhau sao cho không ảnh hưởng đến sự ổn định của môi trường tự nhiên. - Tăng cường nguồn lực vật chất nhằm giúp người dân tiếp cận cơ sở hạ tầng thích hợp, những thứ giúp ích cho sinh kế của họ. Nguồn lực vật chất không chỉ yêu cầu nguồn vốn đầu tư ban đầu mà còn cung cấp tài chính cho những gì đang diễn ra và nguồn lực con người đáp ứng những hoạt động và duy trì chi phí cho dịch vụ. - Tạo nguồn lực tài chính cho người dân không nên hỗ trợ trực tiếp vốn tài chính mà nên thông qua các trung gian gián tiếp như: + Tăng cường hiệu quả tiết kiệm và dòng tài chính. + Tăng cường tiếp cận dịch vụ tài chính. + Cải thiện môi trường dịch vụ tài chính. 1.1.1.3. Khôi phục sinh kế bền vững Bản thân mỗi hộ gia đình để tồn tại đều có một sinh kế riêng với cách thức tổ chức sản xuất, sử dụng nguồn lực và tài sản của mình để kiếm sống. Qua thời gian, sinh kế của mỗi hộ gia đình có sự tương đồng và liên kết chặt chẽ với nhau trong mỗi cộng đồng, tạo nên sinh kế của cộng đồng. Những sinh kế này dù ở những địa phương còn kém phát triển, những cộng đồng dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn nhưng xét ở khía cạnh tích cực thì bản thân nó đã là một sinh kế bền vững. Khi những biến động xảy ra (như một cuộc di dân quy mô lớn) di chuyển toàn bộ cộng đồng đến một hoặc một vài địa phương khác thì cũng có nghĩa là có một biến động to lớn đến hoạt động sinh kế của hộ dân cũng như của cộng đồng bị ảnh hưởng. Việc di chuyển, đặc biệt là di chuyển tái định cư của các dự án thuỷ điện, sẽ làm thay đổi môi trường sống, tác động mạnh mẽ đến lối sống, điều kiện sản xuất, sinh hoạt và các nguồn lực, tài sản khác của hộ gia đình và cộng đồng. Để tồn tại, người dân cũng như cộng đồng đó sẽ phải có những nỗ lực để duy trì những hoạt động sinh kế cũ cũng như cố gắng tiếp nhận những cách thức hoạt động sinh kế mới phù hợp với nơi ở mới, đó là những hoạt động khôi phục sinh kế. Khôi phục sinh kế bền vững có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bản thân hộ gia đình và cộng đồng chịu tác động khi phải di dân tái định cư quy mô lớn. Để khôi phục sinh kế, bản thân hộ gia đình phải đặt ra chiến lược sinh kế riêng cho mình phù hợp với chiến lược sinh kế chung của cả cộng đồng đã bị ảnh hưởng. Chiến lược sinh kế để chỉ ra phương pháp và mức độ kết hợp các lựa chọn và quyết định mà con người đưa ra trong việc sử dụng và quản lý các nguồn vốn nhằm đạt đến mục tiêu và kết quả sinh kế đã được xác định [10, trang 9]. Chiến lược sinh kế bao gồm những lựa chọn và quyết định của con người như: - Sử dụng nguồn vốn nào và kết hợp các nguồn vốn và tài sản như thế nào để đạt hiệu quả cho sinh kế. - Xác định qui mô của các hoạt động tạo thu nhập. - Cách thức quản lý như thế nào để bảo tồn các nguồn vốn. - Cách thức tiếp nhận và áp dụng những kiến thức, kỹ năng tăng cường sinh kế như thế nào. - Cách thức đối phó với những cú sốc, những rủi ro hay khủng hoảng... như thế nào. - Cách sử dụng nguồn lao động (sức lao động, kỹ năng lao động, thời gian lao động) như thế nào để làm được những điều trên. Để khôi phục sinh kế bền vững, hộ gia đình và cộng đồng cần phải có những chiến lược sinh kế bền vững. Thông thường với những hộ dân bị ảnh hưởng bởi những biến động to lớn, ảnh hưởng tới hoạt động sinh kế của họ sẽ lần lượt có chiến lược khôi phục kinh tế theo ba cấp độ chiến lược như sau: - Chiến lược tồn tại: là chiến lược ngắn hạn, gồm cả các hoạt động tạo thu nhập chỉ để tồn tại mà không có tích luỹ cho tương lai cũng như không quan tâm đến môi trường xung quanh. - Chiến lược tái sản xuất: là chiến lược trung hạn gồm nhiều hoạt động tạo thu nhập, nhưng ưu tiên có thể nhắm tới hoạt động cộng đồng và an ninh xã hội. - Chiến lược tích luỹ: là chiến lược dài hạn nhằm hướng tới tăng trưởng và có thể là kết hợp của nhiều hoạt động hướng tới tích luỹ của cải và giàu có. Đây chính là chiến lược sinh kế bền vững. Như vậy, mục tiêu của hoạt động khôi phục sinh kế bền vững là kết quả của các sinh kế bền vững, bao gồm: - Tăng cường an ninh lương thực; - Nâng cao thu nhập và ổn định nguồn thu nhập; - Nâng cao chất lượng đời sống và giá trị cuộc sống. - Giảm khả năng tổn thương từ các biến động (như thiên tai, bệnh dịch, thay đổi môi trường sống, môi trường sản xuất...) và các tác động do mùa vụ gây ra trong quá trình hoạt động sinh kế; - Sử dụng bền vững hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Bản thân hộ gia đình và cộng đồng bị ảnh hưởng có thể tự điều chỉnh để khôi phục sinh kế cho mình nhưng như vậy sẽ phải mất rất nhiều thời gian cũng như sẽ phải trả những giá rất đắt cho quá trình này. Hơn nữa, những hộ phải tái định cư của các công trình thuỷ điện thường là người dân tộc thiểu số có trình độ dân trí thấp và rất chậm thích nghi, vì vậy việc tái định cư nếu không có sự hỗ trợ từ những người tổ chức tái định cư để cùng với người dân xây dựng chiến lược khôi phục sinh kế phù hợp, đúng đắn có thể sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho cộng đồng bị ảnh hưởng cũng như những dự án được triển khai. Chính vì vậy, với các dự án buộc phải thu hồi đất và di chuyển người dân quy mô lớn (như các dự án xây dựng các khu đô thị, khu công nghiệp hay các dự án thuỷ điện) cần phải có kế hoạch tái định cư và khôi phục sinh kế bền vững cho người dân phải tái định cư. Các kế hoạch tái định cư này ngoài những hỗ trợ về xây dựng hạ tầng cơ sở còn cần các kế hoạch tạo sinh kế và chiến lược khôi phục sinh kế cho người dân bị ảnh hưởng. Do người dân buộc phải tái định cư một cách không tự nguyện để phục vụ lợi ích kinh tế hay lợi ích quốc gia, vì vậy đòi hỏi chính phủ hay các tổ chức kinh tế xã hội liên quan phải có những kế hoạch, những chiến lược phù hợp và mang tính bền vững trong việc khôi phục sinh kế bền vững cho họ. 1.1.2. Các điều kiện sinh kế bền vững và trường hợp phải khôi phục sinh kế bền vững 1.1.2.1. Các điều kiện sinh kế bền vững Như vậy, điều kiện để có một sinh kế bền vững là hộ gia đình và cộng đồng cần lập ra được một chiến lược sinh kế bền vững để tái tạo và sử dụng các nguồn lực, tài sản của mình một cách bền vững. Các chính sách và thể chế là những cơ hội cho chiến lược sinh kế của hộ gia đình hay cộng đồng được thực hiện một các bền vững. Các chính sách và thể chế bao gồm những luật lệ, những qui định, những chính sách cụ thể của các tổ chức các cấp, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ liên quan đến hoạt động sinh kế của người dân và cộng đồng. Chính sách và thể chế không những tạo ra cơ hội nhằm giúp cho người dân và cộng đồng thực hiện các mục tiêu đã xác định để nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống trong sinh kế mà còn là cơ hội, là cứu cánh cho người dân và cộng đồng giảm thiểu được các tổn thương và sử dụng hợp lý bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên Tuy nhiên, nếu chỉ có chính sách và thể chế thì chưa thể có một sinh kế bền vững mà điều kiện quan trọng là khả năng tiếp cận của các chính sách, thể chế này đến người dân, và khả năng tiếp cận các cơ hội đó của người dân. Vì vậy, cần khuyến khích, vận động được người dân tích cực tham gia vào mọi quá trình phát triển, đồng thời huy động sự tích cực tham gia của nhiều bên có liên quan từ chính quyền các cấp, các tổ chức, đoàn thể... 1.1.2.2. Các trường hợp cần khôi phục sinh kế bền vững Việc khôi phục sinh kế bền vững chỉ phải thực hiện trong các trường hợp người dân bị tác động đột biến đến sinh kế và các tác động này ảnh hưởng không có lợi đến sinh kế của họ [10, trang 10]. Thông thường, sinh kế thường bị ảnh hưởng bởi các biến động hay các thay đổi của hoàn cảnh kinh tế - xã hội và môi trường như sau: * Các loại biến động thường gặp - Biến động do sức khỏe của con người. - Biến động kinh tế (làm ăn thua lỗ, mất nguồn thu nhập...). - Biến động do chiến tranh và xung đột. - Biến động về mùa màng thất bát (mất mùa). - Biến động về khủng hoảng gia súc, gia cầm, cây trồng (do dịch bệnh). - Biến động về thời tiết, khí hậu (do bão lụt, ngập lũ, hạn hán, nóng lạnh), do môi trường bị phá hoại nghiêm trọng. * Các thay đổi về kinh tế - xã hội - Tăng dân số. - Biến động về lao động (thiếu hoặc thừa lao động). - Biến động về kinh tế (giá hàng hoá bấp bênh). - Biến động về chính trị. - Thay đổi công nghệ (mẫu mã biến đổi, chủng loại mặt hàng thay thế...). - Biến động về giá cả, thị trường. - Biến động do phải di chuyển chỗ ở và điều kiện sản xuất (do các dự án di dân tái định cư). Đây là trường hợp nghiên cứu của luận văn. 1.1.3. Di dân tái định cư trong các công trình thuỷ điện 1.1.3.1. Khái niệm di dân Biến động dân số bao gồm hai cấu thành cơ bản là tăng tự nhiên và tăng cơ học. Tăng trưởng tự nhiên của dân số gắn liền với quá trình sinh học sinh ra, tồn tại và mất đi của con người theo thời gian. Quá trình này thông qua hiện tượng sinh và chết. Di biến động dân cư còn do tác động cơ học của quá trình di dân. Trong mọi quốc gia, những luồng di cư tạo nên sự phân bố lại dân cư, đồng thời làm tăng giảm mật độ dân cư giữa các vùng miền địa lý. Di dân về bản chất không phải là hiện tượng sinh học như sinh, chết. Di dân có thể diễn ra nhiều lần, lặp đi lặp lại trong cuộc đời của một cá nhân, trong khi sinh đẻ và tử vong chỉ diễn ra một lần [1, trang 35]. Di dân là quá trình phân bố lại lực lượng lao động và dân cư, và là nhân tố quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Di dân và quá trình tập trung dân số ở địa bàn nơi đến luôn đặt ra những thách thức mới cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội bền vững, đặc biệt trong mối quan hệ với các nguồn lực tự nhiên, môi trường của các vùng miền đất nước. Theo nghĩa rộng, di dân là sự chuyển dịch bất kỳ của con người trong một không gian, thời gian nhất định kèm theo sự thay đổi nơi cư trú tạm thời hay vĩnh viễn. Với khái niệm này, di dân đồng nhất với sự di động dân cư. Theo nghĩa hẹp, di dân là sự di chuyển dân dân cư từ một đơn vị lãnh thổ này đến một đơn vị lãnh thổ khác nhằm thiết lập một nơi cư trú mới trong một khoảng thời gian nhất định [1, trang 36, 37]. Tóm lại, khái niệm di dân có thể được tóm tắt theo các điểm chung như sau: - Người di dân di chuyển ra khỏi một địa dư nào đó đến nơi khác sinh sống. - Người di chuyển bao giờ cũng có những mục đích, họ đến một nơi nào đó và định cư tại đó trong một thời gian để thực hiện mục đích đó. - Di dân gắn liền với sự thay đổi công việc, nơi làm việc, công việc nghề nghiệp, sở thích, lối sống,... Có nhiều cách phân loại di dân theo các góc độ khác nhau [1, trang 39 - 41], như: - Theo khoảng cách di chuyển, gồm có: di dân nông thôn - thành thị, di dân nông thôn - nông thôn,... - Theo độ dài thời gian cư trú, gồm có: di chuyển ổn định, di chuyển tạm thời, di dân mùa vụ,... - Theo tính chất di dân: + Di dân tự nguyện: là trường hợp người di chuyển tự nguyện di chuyển theo đúng mong muốn hay nguyện vọng của mình. + Di dân ép buộc: diễn ra trái với nguyện vọng di chuyển của người dân. Loại hình di chuyển này thường đem lại những hậu quả không mong muốn cho xã hội và cần được hạn chế tối đa. - Theo đặc trưng di dân: + Di dân có tổ chức: là hình thái di chuyển dân cư được thực hiện theo kế hoạch và theo chương trình mục tiêu nhất định do nhà nước, chính quyền các cấp vạch ra và tổ chức, thực hiện với sự tham gia của các tổ chức đoàn thể xã hội. Về nguyên tắc, người dân di chuyển có tổ chức được nhà nước và chính quyền địa phương nơi nhập cư giúp đỡ. Di dân có tổ chức có thể giảm bớt khó khăn cho những người nhập cư, tăng nguồn lực lao động địa phương, có thể tránh được việc khai thác tài nguyên thiên nhiên bừa bãi gây ảnh hưởng xấu tới môi trường. + Di dân tự phát (tự do): là hình thái di dân mang tính cá nhân do bản thân người di chuyển hoặc bộ phận gia đình quyết định, không có và không phụ thuộc vào kế hoạch và sự hỗ trợ của nhà nước và câc cấp chính quyền. Di dân tự phát phản ánh tính năng động và vai trò độc lập của cá nhân và hộ gia đình trong việc giải quyết đời sống, tìm công ăn việc làm. 1.1.3.2. Tái định cư Tái định cư là việc phải di chuyển đến một nơi khác để sinh sống, đây là thuật ngữ chung liên quan tới bị thu hồi đất, mất đất, mất chỗ ở, mất tài sản, mất nguồn thu nhập hay mất những phương tiện kiếm sống khác. Theo khái niệm của Ngân hàng Phát triển châu Á năm 1995 [8, trang 12], tái định cư được phân loại dựa trên thiệt hại của người tái định cư: - Thiệt hại về tài sản sản xuất, bao gồm đất đai, thu nhập và đời sống. - Thiệt hại về nhà ở, có thể là toàn bộ cộng đồng và các hệ thống, dịch vụ kèm theo. - Thiệt hại về các tài sản khác. - Thiệt hại về các nguồn tài nguyên của cộng đồng như môi trường sinh sống, văn hóa, và hàng hóa. 1.1.3.3. Tái định cư tự nguyện và không tự nguyện Tái định cư được hiểu là con người tạo dựng cuộc sống ở nơi cư trú mới sau khi rời khỏi nơi cư trú cũ của họ. Thực tế có nhiều lý do mà người dân phải tái định cư và có thể chia ra thành hai loại: Tái định cư bắt buộc (do những điều kiện khách quan như chiến tranh, thiên tai, xây dựng công trình, thu hồi đất,...) và Tái định cư tự nguyện (do nhu cầu người dân muốn cải thiện cuộc sống). Thực tế tại Việt Nam có nhiều hình thức tái định cư và được tổng hợp thành hai hình thức tái định cư phổ biến như sau [7, tramg 8]: (1) Tái định cư tập trung theo quy hoạch, kế hoạch chung, có tổ chức (còn gọi là tái định cư bắt buộc): - Di dân từ các tỉnh miền Bắc và miền Trung vào Tây Nguyên xây dựng các vùng kinh tế mới. Hình thức này chủ yếu diễn ra trước năm 1990. - Xây dựng làng thanh niên lập nghiệp và các khu giãn dân. - Xây dựng các công trình phục vụ lợi ích quốc gia (các công trình thủy điện tại Tây Nguyên, Sơn La,...). Tái định cư bắt buộc là việc tái định cư do người dân bị trưng dụng đất để xây dựng dự án vì lợi ích chung của cộng đồng. Việc tái định cư bắt buộc liên quan tới tất cả lứa tuổi và giới, những mong muốn của một số người bị ảnh hưởng có thể không được đáp ứng. Rất nhiều người có thể gặp rủi ro và thiếu động lực, sáng tạo để di chuyển và tái lập nơi ở mới và thực hiện những định hướng mới. Phụ nữ và những hộ gia đình do họ đứng đầu thường chịu nhiều thiệt thòi vì đền bù lại thường chỉ giành cho nam giới, những hộ do phụ nữ đứng đầu lại thường trong tình trạng kinh tế mong manh, hơn nữa phụ nữ thường bị hạn chế trong tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ. Không có sự giúp đỡ mạnh mẽ, thì những người bị tái định cư bắt buộc sẽ trở nên nghèo khó. Nếu việc tái định cư bắt buộc là không thể tránh khỏi thì nó cần được hoạch định và thực thi một cách chu đáo để kinh tế có thể được tăng trưởng và giảm được nghèo đói, đặc biệt đối với những người dễ bị tổn thương [7, trang 8]. (2) Di dân tự do (tái định cư tự nguyện): di cư tự phát vào Tây Nguyên từ các tỉnh miền Bắc và miền Trung, trong đó có cả nhân dân các dân tộc ở miền núi phía Bắc như Tày, Nùng, Dao, Sán Chỉ, H’Mông. Di dân tự phát diễn ra mạnh ở một số thời điểm và thường gây áp lực lớn về đất đai. Những người tái định cư tự nguyện được tự quyết định lựa chọn. Họ thường là nam giới ở lứa tuổi trẻ hoặc trung niên vì vậy họ khá năng động, sáng tạo và chấp nhận rủi ro. Chính phủ sẽ tổ chức các chương trình tái định cư được quy hoạch trước, các chương trình này không chỉ quy hoạch nơi ở mới mà còn quy hoạch điều kiện sống tại nơi ở mới, cung cấp các dịch vụ xã hội và thậm chí phục vụ cả nhu cầu văn hóa và tôn giáo [7, trang 9]. 1.1.3.4. Di dân tái định cư trong các công trình thuỷ điện Di dân tái định cư trong các công trình thuỷ điện thường là di dân bắt buộc để giải phóng mặt bằng, thi công công trình thuỷ điện. Các công trình thuỷ điện đều mang tính quan trọng quyết định đối với sự phát triển của địa phương, khu vực và quốc gia. Tuy nhiên, chúng cũng làm nảy sinh mâu thuẫn giữa mục đích phát triển quốc gia lâu dài với quyền lợi của các cộng đồng và cá nhân - những người chịu bất lợi trước tiên. Các dự án này đều có thể tác động bất lợi tới những người đang sử dụng các nguồn tài nguyên như đất đai, nguồn nước, hay các loại tài nguyên thiên nhiên khác và các phương tiện kinh tế, xã hội, văn hoá và tôn giáo liên quan. Điều quan trọng là phải cân nhắc lợi ích đạt được với cái giá phải trả cho các ảnh hưởng này bằng cách xem xét các phương án triển khai hoặc không phải di dân, hoặc chỉ gây gián đoạn nhỏ về kinh tế, xã hội và tìm ra cách để hoà hợp những quyền lợi và mâu thuẫn nói trên. Trường hợp không tránh khỏi tái định cư, phải tiến hành các biện pháp cụ thể nhằm đạt được các nội dung như sau: - Bảo vệ quyền lợi và cuộc sống của những người bị di chuyển do dự án; - Giảm và đền bù những thiệt hại về tiềm năng kinh tế của người bị ảnh hưởng, của nền kinh tế khu vực và địa phương; - Hỗ trợ phát triển tiềm năng kinh tế, xã hội và văn hoá cho các cộng đồng và người bị ảnh hưởng. 1.1.3.5. Đặc điểm của di dân tái định cư trong các công trình thuỷ điện Các công trình thuỷ điện chủ yếu được đầu tư xây dựng ở bên các con sông có địa hình đồi núi cao. Mục đích xây dựng nhằm lợi dụng địa thế tự nhiên để hình thành các hồ chứa nhân tạo. Một nhà máy thuỷ điện không chiếm nhiều diện tích nhưng hồ chứa nước để đảm bảo vận hành nhà máy chiếm diện tích rất lớn, từ vài km2 đến hàng trăm km2 (diện tích hồ thuỷ điện Hoà Bình là 208 km2, Sơn La là 224 km2). Điều đó cũng có nghĩa là có diện tích đất tương ứng bị mất đi, hơn nữa, đó chủ yếu là diện tích canh tác đã ổng định lâu đời (do điều kiện đất ở đây gần ngu._.ồn nước, trong thung lũng và được canh tác lâu đời chủ yếu là đất tốt). Số lượng người dân phải tái định cư và bị ảnh hưởng một phần từ các dự án thuỷ điện thông thường cũng rất lớn, xem Bảng 2.1. Ảnh hưởng của các công trình thuỷ điện trên sông Đà. Bảng 1.1. Ảnh hưởng của các công trình thuỷ điện trên sông Đà ĐVT: Người Công trình thuỷ điện Số người bị ảnh hưởng Số người phải TĐC - Thuỷ điện Hoà Bình - 52.400 - Thuỷ điện Sơn La - 91.000 - Thuỷ điện Lai Châu 42.181 7.049 - Thuỷ điện Bản Chát 74.862 12.397 - Thuỷ điện Huổi Quảng 156.500 5.255 Nguồn: Nghiên cứu về tái định cư ở Tây Bắc Việt Nam (2007). Đại đa số người dân ở đây rất nghèo, trình độ nhận thức thấp và không đủ ăn hàng năm. Các dự án tái định cư này sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của các huyện cũng như của toàn tỉnh và có khả năng sẽ làm cho chính quyền địa phương gặp khó khăn hơn trong việc đạt được các mục tiêu phát triển đã đề ra. 1.1.4. Sự cần thiết khôi phục sinh kế bền vững của các hộ di dân tái định cư trong các công trình thuỷ điện Các dự án thủy điện đa phần đều thuộc địa bàn các tỉnh nghèo miền núi và phần lớn ảnh hưởng đến đồng bào các dân tộc thiểu số. Trong những năm qua, Việt Nam đã thực hiện nhiều dự án thủy điện đòi hỏi việc phải xây dựng các hồ chứa nước, hình thành đập thủy điện, tác động nhiều đến đời sống kinh tế, xã hội, truyền thống văn hóa của đồng bào các dân tộc. Các công trình thủy điện với quy mô lớn như: thủy điện Hòa Bình, Sơn La, Tuyên Quang,... đòi hỏi việc di chuyển hầu hết cộng đồng dân cư, nhiều vùng trong khu vực lòng hồ, người dân phải di dời, thay đổi nơi cư trú và tái định cư trên nhiều địa bàn mới. Quá trình thực hiện việc di dân và tái định cư của các công trình thủy điện đã nảy sinh nhiều vấn đề bất cập, gây ra những khó khăn, cản trở cho công tác trên. Hiện nay các chính sách tái định cư của Việt Nam vẫn chưa có sự thống nhất. Chính phủ ban hành các quyết định riêng cho từng công trình, dự án, mỗi dự án lại có một mức đền bù, hỗ trợ khác nhau, làm nảy sinh tư tưởng so sánh quyền lợi trong nhân dân, ảnh hưởng đến vấn đề công bằng xã hội. Mặt khác, công tác tái định cư còn mang tính áp đặt chủ quan từ các cơ quan chức năng, nguyện vọng của người dân chưa được nhìn nhận thấu đáo trong quá trình hoạch định chính sách. Công tác đền bù, tái định cư mới chỉ dừng lại ở việc đền bù quyền sử dụng đất và các tài sản thiệt hại trực tiếp. Các thiệt hại gián tiếp và vô hình khác về thu nhập kinh tế, lợi thế vị trí kinh doanh, đánh bắt cá, sản phẩm rừng... chưa được tính đến đầy đủ, trong khi đây lại là những điểm rất quan trọng đối với đời sống người dân và đồng bào dân tộc. Trong thực tiễn, hầu hết người dân tái định cư được đền bù diện tích đất canh tác hẹp hơn và chất lượng xấu hơn so với nơi xuất cư. Hậu quả là trong khi quỹ đất cho sản xuất bị thu hẹp, người dân phải tiếp tục khai thác rừng để bảo đảm nguồn sinh kế, dẫn đến rừng và đất rừng ngày càng bị thu hẹp với chất lượng xấu. Việc khôi phục lại đời sống của những hộ dân bị ảnh hưởng từ việc tái định cư đòi hỏi phải có thời gian lâu dài. Tuy nhiên, chính sách hỗ trợ để khôi phục thu nhập, ổn định cuộc sống của người dân, nhất là giải quyết việc làm thường là ngắn hạn, chưa được xem xét với nguồn tài chính bảo đảm trong nhiều năm. 1.1.5. Những nội dung chủ yếu của khôi phục sinh kế bền vững trong các công trình thuỷ điện Ở Việt Nam, những người di dời được xem như nhóm chủ yếu của những người bị ảnh hưởng của dự án. Trong trường hợp các dự án đầu tư phát triển, nếu như yêu cầu về đền bù, hỗ trợ tái định cư của bên tài trợ khác nhau, trước khi thoả thuận, cơ quan quản lý đầu tư dự án phải báo cáo lên Thủ tướng chính phủ để xem xét và ra quyết định. Ban quản lý dự án cũng phải gửi tờ trình về các thoả thuận với các đối tác trong việc thực hiện chính sách thực hiện trong kế hoạch tái định cư. Xét về mặt lợi ích lâu dài điều đáng nói nhất là luật đã thiết lập các nguyên tắc nhằm ổn định cuộc sống và sản xuất cho người dân bị ảnh hưởng của dự án. Những nguyên tắc này không chỉ áp dụng trong phạm vi những người bị mất đất mà còn hướng tới những đối tác khác có tài sản hoặc nguồn sinh sống bị ảnh hưởng do dự án. Khái niệm về vùng đất tái định cư cần phải "có điều kiện sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ" cũng quan trọng trong vịệc xem xét phát triển cơ sở hạ tầng ở địa phương. Những điểm khác biệt với thông lệ quốc tế là các phương pháp áp dụng để tính toán đền bù. Chẳng hạn như với các dự án do nước ngoài tài trợ, giá thay thế cho tài sản bị thiệt hại được xác định dựa trên giá thị trường. Chính sách của Việt Nam, một mặt yêu cầu việc đền bù đất đai bị thiệt hại phải dựa trên mức giá "gần" với mức giá chuyển nhượng Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất trên thị trường, mặt khác lại cho phép chính quyền địa phương đặt ra các mức giá cho các loại đất khác nhau. Các mức giá hành chính kể trên không phản ánh được các điều kiện thị trường và không được cập nhật thường xuyên. Hướng dẫn của các nhà tài trợ cũng yêu cầu phải bồi thường đầy đủ khi có thiệt hại về kinh doanh, tuy nhiên, điều này không được đề cập trong các chính sách của Việt Nam. Một khác biệt quan trọng nữa là thời gian đền bù. Đối với dự án nước ngoài tài trợ, việc đền bù phải được hoàn tất trước khi có tái định cư. Trong khi đó, đối với các dự án có vốn trong nước, thường chỉ sau khi bàn giao mặt bằng người bị ảnh hưởng mới nhận được hỗ trợ. Với việc ban hành Luật Đất đai năm 2003 thì nhiều điểm khác biệt giữa các nguyên tắc quốc tế và các chính sách của Việt Nam đã bị xoá bỏ. Những điểm khác biệt còn lại là cần phải thông báo và tham khảo ý kiến những đối tượng tái định cư và để tích cực giúp họ hoà nhập với cộng đồng dân cư nơi ở mới. Trong khi chính quyền cấp tỉnh có thể áp dụng thêm các biện pháp như thế này nếu muốn, họ lại không bị yêu cầu phải làm như vậy. Giám sát độc lập việc thực hiện các kế hoạch tái định cư cũng không nằm trong các chính sách của Việt Nam, trong khi đây lại thường là yêu cầu của của các dự án do nước ngoài tài trợ. Các điều khoản về đền bù, hỗ trợ và tái định cư cho các hộ gia đình có đất đai (và tài sản) do Nhà nước thu hồi để giành cho các dự án thuỷ điện được được tóm tắt như sau: - Đền bù bằng đất: Đất đổi đất là khi vẫn còn quyền sử dụng và khu đất mới có có mục đích sử dụng và giá trị tương đương. Trong trường hợp không còn đất hoàn trả, việc đền bù tương đương với giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm ra quyết định thu hồi đất; - Đền bù tài sản: Việc đền bù dựa trên giá thị trường và được các UBND tính toán và xác định theo các hướng dẫn của Sở Tài chính (xác định giá trị tài sản bao gồm nhà cửa, nông trại, mùa màng và các tài sản cố định khác...). - Hỗ trợ xây dựng lại nơi mới các khoản chi thực tế để chuyển đến một địa điểm mới và chỗ ở tạm thời trong trường hợp việc định cư bị trì hoãn (ví dụ: hỗ trợ tiền thuê nhà ở tạm). - Ổn định cuộc sống: Các hộ nông nghiệp có trên 30% đất nằm trong diện thu hồi sẽ được nhận hỗ trợ tối đa là trong vòng 12 tháng (mức tối đa áp dụng với các hộ di chuyển đến nơi mới có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn) và số ngày cắt giảm thấp hơn cho các đối tượng khác. Mức đền bù bằng tiền cho mỗi nhân khẩu tương đương với 30 kg gạo, tính theo giá cả trung bình tại từng địa phương. - Ổn định sản xuất: Các hộ nông dân có trên 30% đất nông nghiệp bị thu hồi sẽ nhận được hỗ trợ chuyển đổi việc làm nếu như còn ở trong độ tuổi lao động, như quy định của UBND cấp tỉnh. Thông thường là hỗ trợ đào tạo việc làm tại các trung tâm hướng nghiệp dạy nghề. - Các biện pháp khác cho việc ổn định cuộc sống tại nơi tái định cư: Các biện pháp này hướng đến cộng đồng tái định cư, bao gồm: hỗ trợ giống cây trồng và vật nuôi cho vụ sản xuất đầu tiên cũng như hỗ trợ khuyến khích nông nghiệp và lâm nghiệp và các dịch vụ thú y. Hỗ trợ cũng có thể được đưa ra nhằm tạo ra buôn bán hàng hoá và việc làm trong vùng tái định cư, phù hợp với người lao động đặc biệt là lao động nữ. - Hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm: Theo tuổi lao động, nếu là hộ nông nghiệp được cho học nghề tại cơ sở dạy nghề tại địa phương. Trường hợp không có nơi đào tạo nghề hoặc người lao động không muốn học nghề thì hỗ trợ bằng tiền, mức hỗ trợ các trường hợp do UBND tỉnh quyết định. - Người dân bị mất vĩnh viễn hơn 20% đất sinh hoạt hay đất sản xuất hoặc thu nhập khác thì được ưu tiên đào tạo dạy nghề hoặc sẽ được hưởng tiêu chuẩn bồi hoàn khác. Nếu người dân có nhu cầu chuyển tới nơi ở mới thì sẽ được ưu tiên theo các điều sau: (i) chi phí vận chuyển (ii) trợ giá xây dựng lại nhà ở (iii) chi phí đào tạo dạy nghề hoặc một số tiêu chuẩn bồi hoàn khác. 1.1.6. Các điều kiện cần thiết của khôi phục sinh kế bền vững cho người tái định cư của các công trình thuỷ điện Để khôi phục sinh kế bền vững cho người dân tái định cư của các công trình thuỷ điện cần thoả mãn được một số điều kiện như sau: - Việc lập dự án và triển khai dự án di dân tái định cư cần phân tích được một cách đầy đủ những tác động của dự án để đảm bảo tính bền vững về sinh kế của người tái định cư. Các dự án cần khảo sát, nghiên cứu chi tiết về hiện trạng sinh kế của người dân tái định cư và đặc điểm nơi đến của họ để từ đó xây dựng lên các hoạt động sinh kế phù hợp và bền vững cho người dân tái định cư tại nơi ở mới. Đặc biệt, việc lập dự án tái định cư cần tôn trọng bản sắc, phong tục tuyền thống của người dân và cần để cho những người bị ảnh hưởng có cơ hội được tham gia, góp ý cho dự án. - Để khôi phục sinh kế bền vững cho người dân cũng cần tính toán đầy đủ các nguồn lực có tính hỗ trợ của nhà nước. Dự án cần xây dựng được kế hoạch sử dụng các nguồn lực này như liệt kê các nguồn lực, người sử dụng nguồn lực, thời gian sử dụng nguồn lực... Việc sử dụng nguồn lực có tính hỗ trợ của nhà nước không những để sử dụng nguồn lực này một cách hiệu quả, đúng mục đích mà còn tránh được những tác dụng không mong muốn của các nguồn vốn hỗ trợ đến người dân như tính ỷ lại, tính không minh bạch... gây nên những xung đột và hậu quả sẽ đem lại là tính không bền vững cho quá trình phát triển của cộng đồng. 1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ SINH KẾ VÀ KHÔI PHỤC SINH KẾ BỀN VỮNG CHO NGƯỜI DÂN TĐC CỦA CÁC CÔNG TRÌNH THUỶ ĐIỆN 1.2.1. Những chính sách quốc tế về tái định cư bắt buộc Rất nhiều dự án phát triển đòi hỏi người dân bị bắt buộc phải di dời, nói chung đã có những tác động môi trường, xã hội và kinh tế bất lợi đối với những người phải di dời. Sinh kế của người dân tái định cư bị thay đổi hầu như hoàn toàn. Nhà cửa bị bỏ đi, hệ thống sản xuất bị thay đổi, các tài sản và nguồn thu nhập bị mất đi. Những người phải di dời có thể phải sống ở nơi mới mà kinh nghiệm của họ không phù hợp, việc khai thác các nguồn tài nguyên bị hạn chế và họ có thể không hoà hợp về văn hoá, lối sống với dân cư sở tại. Quá trình tái định cư có thể phá vỡ cấu trúc cộng đồng đã được hình thành ở nơi ở cũ, các mối quan hệ xã hội, bản sắc văn hoá có thể bị mất đi. Để tồn tại, những người di dời cũng có thể khai thác quá mức hệ sinh thái tại nơi ở mới, gây ra tình trạng suy thoái môi trường. Nếu không có các biện pháp phát triển thích hợp về đền bù, tái định cư và khôi phục sinh kế cho người dân tái định có thể gây ra sự thiệt hại rất lớn cho các cộng đồng bị ảnh hưởng, tác động nghiêm trọng tới dân cư sở tại, và dẫn đến thiệt hại nghiêm trọng về môi trường. 1.2.1.1. Chính sách tái định cư bắt buộc của Ngân hàng Thế giới (WB) Chính sách tái định cư bắt buộc của Ngân hàng Thế giới [6, trang 32] gồm các mục tiêu chính: i) Đảm bảo các hộ bị ảnh hưởng do dự án phải được hưởng lợi từ dự án và ít nhất cũng khôi phục hoặc cải thiện được cuộc sống, đặc biệt là đối với những nhóm người dễ bị tổn thương. Đây phải được xem như là kế hoạch phát triển. Kế hoạch tái định cư không tự nguyện là một phần của dự án; ii) Cần tránh hoặc giảm thiểu tối đa tái định cư không tự nguyện/bắt buộc khi có thể; và iii) Khi không thể tránh được việc di dời, cần phải: cung cấp đầy đủ nguồn đầu tư và cơ hội chia sẻ lợi ích của dự án cho các hộ bị ảnh hưởng. Chính sách có những điều khoản chủ yếu được tóm tắt như dưới đây: - Đền bù đầy đủ theo giá thay thế trước khi trước khi trưng dụng đất. - Giúp đỡ các hộ bị ảnh hưởng trong thời gian chuyển tiếp ở nơi định cư mới. - Giúp đỡ hộ bị ảnh hưởng phục hồi mức sống, tạo thu nhập, tăng cường năng lực sản xuất hay ít nhất cũng hồi phục lại mức sống của họ như trước khi có dự án. - Đặc biệt chú ý đến nhóm người nghèo và dễ bị tổn thương nhất. - Có sự tham gia của cộng đồng trong quá trình lập và thực hiện kế hoạch tái định cư. - Những người tái định cư cần phải được hoà nhập về mặt kinh tế-xã hội với cộng đồng tiếp nhận. Cần tham vấn với cộng đồng tiếp nhận. - Các thủ tục pháp lý sẽ không bị cản trở khi xem xét đền bù và phục hồi cuộc sống. Những người chiếm dụng trái phép sau ngày giới hạn sẽ không được đền bù. Kế hoạch tái định cư có mục tiêu phục hồi và cải thiện sinh kế cho các hộ phải di dời càng nhanh càng tốt. Khi không tránh được số lượng lớn người phải di dời, cần có kế hoạch đền bù, tái định cư, thời gian và nguồn vốn thực hiện chi tiết. Kế hoạch tái định cư với chiến lược phát triển và nguồn vốn đầu tư nhằm cải thiện hoặc ít nhất cũng phục hồi được mức sống cho các hộ bị ảnh hưởng. Chiến lược tái định cư trên cơ sở đất đền đất cho người dân, nếu không có đất cần tạo cơ hội để tìm kiếm hoặc tự tạo việc làm cho họ. Kế hoạch tái định cư cần được lập chi tiết về đền bù, di chuyển, cơ cấu về tổ chức thực hiện, nguồn tài chính và nhân lực để đạt được mục tiêu về phục hồi thu nhập. 1.2.1.2. Chính sách tái định cư bắt buộc của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) [6, trang 33] Có ba yếu tố quan trọng trong tái định cư bắt buộc, đó là: (i) Đền bù những tài sản bị mất và những thiệt hại về sinh kế và thu nhập, (ii) Hỗ trợ di dời bao gồm cung cấp địa điểm di dời với các dịch vụ và phương tiện thích hợp, và (iii) Hỗ trợ để khôi phục đạt được ít nhất bằng mức sống trước khi có dự án. Đối với những dự án đòi hỏi di chuyển người dân thì tái định cư phải là phần tổng hợp trong thiết kế dự án và phải được giải quyết từ các giai đoạn đầu tiên trong chu trình dự án, có nghiên cứu các nguyên tắc sau đây: - Tránh tái định cư bắt buộc ở những nơi có thể bố trí dân cư tại chỗ. - Khi không thể tránh khỏi di dân, cần giảm đến mức tối đa việc di chuyển bằng cách xem xét tất cả các phương án thiết thực của dự án. - Những người bị buộc phải di chuyển cần được đền bù và trợ giúp, sao cho tương lai kinh tế và xã hội của họ nhìn chung cũng sẽ được thuận lợi như khi không có dự án. - Những người bị ảnh hưởng cần phải được thông tin đầy đủ và được tham khảo ý kiến về các phương án tái định cư và đền bù. - Những thiết chế văn hoá và xã hội hiện hữu của những người bị di chuyển và của những người ở nơi tiếp nhận dân tái định cư cần phải được hỗ trợ và sử dụng tới mức tối đa có thể, và những người bị di chuyển cần phải được hoà nhập về mặt kinh tế và xã hội vào cộng đồng nơi họ di chuyển tới. - Việc thiếu các quyền pháp lý chính thức về đất của một số nhóm xã hội bị ảnh hưởng không thể cản trở việc họ được đền bù; cần chú ý đặc biệt đến những hộ gia đình mà chủ hộ là phụ nữ và những nhóm xã hội dễ bị ảnh hưởng khác. - Tái định cư bắt buộc cần phải được nhận thức và thực hiện tới mức tối đa như một phần của dự án. - Toàn bộ chi phí tái định cư và đền bù cần được thực hiện trong chi phí và hiệu ích của dự án. - Những chi phí về đền bù và tái định cư có thể được xem xét đưa vào vốn vay của Ngân hàng đối với dự án. 1.2.2. Những kinh nghiệm về tái định cư và khôi phục sinh kế bền vững trong tái định cư của một số nước trong khu vực 1.2.2.1. Trung Quốc [6, trang 28] Trung Quốc đã được coi là một trong những nước có chính sách TĐC tốt và phù hợp với đa số các yêu cầu của các tổ chức cho vay vốn, đặc biệt trong các nỗ lực nhằm khôi phục cuộc sống và nguồn thu nhập cho các hộ bị ảnh hưởng. Mục tiêu bao trùm của chính sách tái định cư của Trung Quốc là hạn chế đến mức tối đa việc thu hồi đất cũng như số lượng người bị ảnh hưởng của dự án. Song nếu việc tái định cư là không thể tránh khỏi thì cần có sự chuẩn bị các kế hoạch cẩn thận để đảm bảo cho những người bị ảnh hưởng được đền bù và hỗ trợ đầy đủ, có tính đến các lợi ích của Nhà nước, tập thể và cá nhân, và dần dần làm cho những người bị ảnh hưởng khôi phục lại hoặc cải thiện thêm mức sống ban đầu của họ. Theo đánh giá của một số chuyên gia tái định cư, sở dĩ Trung Quốc có những thành công nhất định trong công tác tái định cư là do họ đã xây dựng các chính sách và thủ tục rất chi tiết, ràng buộc đối với các hoạt động tái định cư trong các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt trong hoạt động tái định cư của các công trình thuỷ điện, hồ chứa. Mục tiêu của các chính sách này là cung cấp các cơ hội phát triển cho tái định cư, với phương thức tiếp cận cơ bản là tạo các nguồn lực sản xuất cho những người tái định cư. Các kế hoạch tái định cư chi tiết cùng các thoả thuận phục hồi kinh tế cho từng làng, từng hộ gia đình bị ảnh hưởng được chuẩn bị trước khi thông qua dự án. Để đảm bảo sau khi tái định cư, việc hỗ trợ cho những người bị di chuyển vẫn được tiếp tục, các quy định quốc gia quy định rằng cần phải lập ra một quỹ phát triển hồ chứa và duy trì nó trong 10 năm, sử dụng một phần thu nhập của dự án. Bên cạnh việc có chính sách tốt thì nhân tố quan trọng thứ hai khiến hoạt động tái định cư ở Trung Quốc thành công là năng lực thể chế mạnh của các chính quyền địa phương. Chính quyền cấp tỉnh chịu trách nhiệm hoàn toàn trong việc thực hiện chương trình tái định cư. Quyền sở hữu tập thể là một nhân tố quan trọng khác làm cho việc thực hiện tái định cư ở Trung Quốc có nhiều thuận lợi, đặc biệt ở nông thôn. Tiền đền bù đất đai bị mất không trả cho từng hộ gia đình và được cộng đồng sử dụng để tìm kiếm, phát triển đất mới hoặc mua của các cộng đồng sở tại hay dùng để phát triển cơ sở hạ tầng. Chính quyền thôn, xã sẽ chịu trách nhiệm phân chia lại đất cho các hộ bị ảnh hưởng. 1.2.2.2. Thái Lan [6, trang 30] Ở Thái Lan, Hiến pháp năm 1982 đã quy định khi trưng dụng đất cho các mục đích xây dựng cơ sở hạ tầng, quốc phòng, phát triển nguồn tài nguyên cho đất nước, phát triển đô thị, cải tạo đất đai và các mục đích công cộng khác phải thực hiện đền bù theo giá thị trường cho những người hợp pháp về tất cả những thiệt hại do việc trưng dụng gây ra. Trên cơ sở này, các ngành có các quy định chi tiết cho việc thực hiện trưng dụng đất của ngành mình theo những nguyên tắc đã quy định trong Hiến pháp. Năm 1987, Thái Lan ban hành Luật về Trưng dụng bất động sản mang tên B.E. 2530 áp dụng cho việc trưng dụng đất cho các mục đích xây dựng tiện ích công cộng, quốc phòng, phát triển nguồn tài nguyên hoặc các lợi ích khác cho đất nước, phát triển đô thị, nông ngiệp, công nghiệp, cải tạo đất đai và các mục đích công cộng khác. Luật này cũng quy định các nguyên tắc trưng dụng đất, các nguyên tắc tính giá trị đền bù các loại tài sản bị thiệt hại, trình tự lập và phê duyệt dự án và đền bù, tái định cư, trình tự đàm phán, nhận tiền đền bù, trình tự khiếu nại và giải quyết khiếu nại, trình tự đưa ra toà án. Tuy nhiên, Luật B.E. 2530 cũng chỉ quy định các nguyên tắc chung, không quy định cụ thể, vì vậy, từng ngành có các quy định riêng cho ngành mình về các trình tự và nguyên tắc cụ thể để xác định giá trị đền bù và thực hiện tái định cư cho người bị thu hồi đất. Trong việc thực hiện thì ngành điện lực thực hiện tốt nhất. Cơ quan điện lực Thái Lan là nơi có nhiều dự án tái định cư lớn nhất nước đã có chính sách riêng về đền bù và tái định cư với mục tiêu "đảm bảo cho những người bị ảnh hưởng một mức sống tốt hơn" thông qua việc cung cấp cơ sở hạ tầng nhiều hơn và tốt hơn, đảm bảo cho người bị ảnh hưởng có thu nhập cao hơn và được tham gia nhiều hơn vào quá trình phát triển. Chính sách đền bù và tái định cư của cơ quan Điện lực Thái Lan đã vượt trên các đòi hỏi về mặt pháp lý của luật pháp Thái vì được xây dựng với mục tiêu nâng cao mức sống của những người bị ảnh hưởng và trên thực tế đã tỏ ra có hiệu quả trong nhiều dự án đập lớn của Thái Lan. 1.2.3. Những chính sách về tái định cư và khôi phục sinh kế cho người dân tái định cư của Việt Nam Hiện tại Việt nam chưa có các quy định cụ thể và thống nhất về di dân - tái định cư nói chung và triển khai công tác này trong các dự án phát triển. Các kế hoạch di dân tái định cư thường được xây dựng tùy theo điều kiện cụ thể của dự án và khả năng của nhà đầu tư. Trước năm 1993, Nhà nước có thể thu hồi đất mà không đền bù gì hoặc chỉ đền bù cho chính quyền địa phương hoặc tổ chức tập thể đã được cấp đất. Cơ sở pháp lý cho chính sách tái định cư dần dần được hình thành với sự ra đời của Hiến pháp năm 1992 và Luật Đất đai năm 1993, kèm theo đó là hướng dẫn thực hiện trong Nghị định 22/1998/NĐ-CP, cùng với những cải thiện trong Luật Đất đai năm 2003. Cho đến nay, luật đã quy định là phải đền bù những thiệt hại về đất và các tài sản kèm theo đất. Các biện pháp hỗ trợ ổn định mức sống của những đối tượng bị ảnh hưởng đã được đưa ra với nguyên tắc chung là nơi tái định cư phải có điều kiện sống ít nhất là ngang bằng hoặc tốt hơn. Dưới đây là tóm tắt một số văn bản pháp luật về tài nguyên thiên nhiên, đất đai và các chính sách liên quan đến đền bù, TĐC từ năm 1993. - Luật Đất đai 1993 - Nghị định 90/NĐ-CP ngày 17/8/1994 của Chính phủ về quy định đền bù những thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất. - Nghị định 87/NĐ-CP ngày 17/8/1998 của Chính phủ về giá đất. - Nghị định 17/NĐ-CP ngày 21/3/1998 điều chỉnh Phần 2, Điều 4 của Nghị định 87/CP về quy định khung giá các loại đất. - Nghị định 22/1998/NĐ-CP về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất. - Luật Đất đai 2003. - Nghị định 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ về thực hiện Luật Đất đai. - Nghị định 188/2004/NĐ-CP về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất. - Thông tư số 114/2004/TT-BTC ngày 26/11/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 188/2004/NĐ-CP, hướng dẫn phương pháp xác định giá đất và tổ chức thực hiện. - Nghị định 197/2004/NĐ-CP về đền bù, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. 1.2.4. Kinh nghiệm tái định cư và khôi phục sinh kế của công trình thuỷ điện Hoà Bình Theo số liệu của Ban công tác Sông Đà hai tỉnh Hòa Bình và Sơn La đến thời điểm năm 1998 số dân được di chuyển ra khỏi vùng lòng hồ là 9305 hộ, 54.230 khẩu là đồng bào các dân tộc Mường, Thái của 51 xã, 9 huyện. Hồ chứa làm ngập 25.000 ha đất trong đó khoảng 5.000 ha đất canh tác. 1.2.4.1. Chính sách TĐC được áp dụng - Nhà ở: đền bù và hỗ trợ cho 3 dạng nhà ở (kê, chôn, nhà đất) được tính theo chất lượng, khối lượng công việc phải bỏ ra để làm lại nhà nơi ở mới theo công thức bù hao hụt, vật liệu (gỗ, tre, nứa), công tháo dỡ, vận chuyển, đục đẽo, san nền... - Đền bù công trình phụ, cây cối trong vườn nhà. - Hỗ trợ đền bù sân phơi, giếng nước - Hỗ trợ bốc dỡ di chuyển mồ mả... - Đền bù đất sản xuất theo công thức: (Năng suất bình quân) x (giá thóc thu mua tại thời điểm) x (3 năm). + Cây lâu năm, cây công nghiệp, cây lâm nghiệp đền bù theo giá do Ban quản lý công trình thủy điện Hòa Bình quy định. + Hỗ trợ lương thực: các hộ dân tái định cư đi xa khỏi khu vực ngập được mua 6 tháng, các hộ di vén tái định cư tại chỗ được mua 3 tháng, mổi tháng 15kg thóc/khẩu. + Đền bù công trình kiến trúc công cộng: Đền bù 60% giá trị để các hợp tác xã, các đơn vị tập thể di chuyển và xây dựng lại nơi ở mới. + Nhà nước hỗ trợ kinh phí xây dựng các công trình mới tại khu tái định cư như đường giao thông, công trình thủy lợi thông qua phương thức cấp chỉ tiêu lương thực theo định mức ngày công của khối lượng xây dựng. + Hàng năm cấp chỉ tiêu vật tư, thiết bị theo khối lượng xây dựng cơ sở hạ tầng nơi tái định cư. 1.2.4.2. Kết quả thực hiện di dân và tái định cư - Công tác di dân khỏi vùng ngập bắt đầu từ năm 1982 và kết thúc vào năm 1994 theo 3 hình thức: i) Di chuyển đi xa ngoài vùng ngập, tái định cư tại địa bàn các xã và huyện trong tỉnh. ii) Di vén lên cao khỏi cốt ngập ngay tại địa bàn bản cũ. iii) Tái định cư xen ghép vào các bản không bị ngập trong địa bàn xã. Trong tổng số trên 9.000 hộ toàn vùng có 60 - 65% số hộ tái định cư ven hồ (khoảng 6.000 hộ), số hộ còn lại tái định cư ngoài các xã, huyện vùng ngập. 1.2.4.3. Những tồn tại cần khắc phục Qua 16 năm thực hiện công tác “di dân giải phóng lòng hồ sông Đà”, mục tiêu “giải phóng lòng hồ” để đảm bảo tiến độ thi công nhà máy thủy điện đã đạt được. Tuy nhiên, vấn đề ổn định và phát triển sản xuất, đời sống cho người dân di chuyển khỏi vùng lòng hồ đã không mấy thành công. Đời sống kinh tế của người dân di chuyển ra khỏi vùng lòng hồ Hòa Bình vô cùng khó khăn. Phần đông nhóm hộ chuyển cư có thu nhập thấp so với nhóm hộ không phải di chuyển. Theo báo cáo của Ban kinh tế đối ngoại Hòa Bình, 40% số hộ di chuyển khỏi vùng lòng hồ thiếu ăn 5 - 6 tháng, 45% số hộ thiếu ăn 3 - 4 tháng. Do thu nhập thấp kém, đời sống văn hóa xã hội của người dân di chuyển khỏi vùng lòng hồ Hòa Bình đã xuống cấp nghiêm trọng. Về giáo dục, do nơi ở không ổn định, cơ sở trường lớp không đủ, điều kiện giao thông khó khăn, tỷ lệ trẻ em thất học ở nhiều nơi tăng lên, chiếm 47% trẻ em trong độ tuổi, hệ trung học cơ sở không tồn tại. Các trạm xã xã chưa kịp khôi phục hoặc không đủ điều kiện phục vụ chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Trong khi đó, điều kiện cung cấp nước sạch cũng yếu kém. Hệ thống cấp nước sạch không đủ nên người dân phải dùng nước hồ cho sinh hoạt, vì vậy các bệnh liên quan đến nguồn nước như tiêu chảy, đau mắt, sốt rét đã xảy ra thường xuyên. Theo báo cáo của sở y tế tỉnh Hà Sơn Bình, trong 3 năm từ 1987 - 1990, đã có hơn 90 người chết vì sốt rét ác tính. Ở huyện Phù Yên, mặc dù Nhà nước đã hỗ trợ hơn 60 triệu đồng cho công tác phòng chống bệnh nhưng vẫn không dập tắt được các ổ dịch ở đây, trong năm 1989 đã có hơn 30 người chết vì bệnh tật. Truyền thống văn hóa của các dân tộc không được chú trọng đầy đủ, do vậy các truyền thống văn hóa dân tộc bị phai mờ, các phong tục, y phục và lễ hội truyền thống của các dân tộc bị giảm lược và bị mai một dần. Các mối quan hệ trong nội bộ từng dân tộc cũng như giữa các dân tộc đã bị tác động mạnh. Các quan hệ cũ bị phá vỡ trong khi các quan hệ làng bản mới chưa được thiết lập vững chắc nên tính cộng đồng suy giảm. Ngoài ra, do người dân ở nơi nhận dân tái định cư phải chia sẻ lại đất canh tác và các nguồn tài nguyên khác nên giữa các xóm, các bộ phận dân cư, đặc biệt là giữa dân gốc và dân chuyển cư đã xuất hiện nhiều vụ tranh chấp về đất nương rẫy và nguồn nước. Hơn nữa, những biến động về kinh tế xã hội đã làm cho người dân không hài lòng, suy giảm niềm tin và hoang mang. Tỷ lệ cúng bái khi có người ốm đau đang có nguy cơ phát triển trở lại. Do lòng hồ đã làm ngập hầu hết diện tích đất ruộng nên người dân chuyển cư phải chuyển sang canh tác nương rẫy, trong khi đó, đất nương rẫy chỉ canh tác được một hay hai vụ rồi phải bỏ hóa. Tình trạng du canh phát triển trở lại làm cho hàng ngàn héc ta rừng bị đốt phá, dẫn đến tình trạnh xói lở đất trầm trọng. Tác động của hồ chứa và sau đó là của con người đã làm cạn kiệt môi trường tự nhiên, hủy hoại môi sinh cho cả con người và quần thể động vật tồn tại trước đó. 1.2.4.4. Những bài học kinh nghiệm trong việc tổ chức ổn định và phát triển sản xuất, đời sống cho nhân dân vùng lòng hồ Hòa Bình Việc tổ chức di dân tái định cư vùng lòng hồ Hoà Bình ngoài việc thực hiện đảm bảo tiến độ phục vụ công tác thi công công trình thuỷ điện còn rút ra được một số bài học kinh nghiệm trong công tác tổ chức ổn định và phát triển sản xuất, đời sống cho người dân tái định cư như sau: i) Nhận thức của những người có trách nhiệm về công trình thủy điện còn giản đơn ii) Công tác nghiên cứu đánh giá tác động môi trường không được tiến hành một cách thấu đáo, không xây dựng được một chương trình thống nhất nào nhằm sớm ổn định và phát triển sản xuất, nâng cao đời sống cho người dân TĐC. iii) Trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong việc tổ chức ổn định và phát triển sản xuất, đời sống cho người dân vùng lòng hồ đã không được xác định rõ ràng. iv) Chưa làm tốt công tác đền bù thiệt hại cho nhân dân. Đơn giá đền bù thấp, không đủ bù đắp thiệt hại cho người dân bị ảnh hưởng, không được thay đổi kịp thời trong điều kiện lạm phát cao. Tiền đền bù trả không đúng lúc, phương thức trả bằng số tiết kiệm, bằng hiện vật không phù hợp với điều kiện thực tế. v) Chế độ đền bù và hỗ trợ không nhất quán lại không được phổ biến kịp thời nên đã gây ra tâm lý bất bình cho người dân. Quy định về những đối tượng được hưởng chế độ đền bù không hợp lý, không tôn trọng quy luật di dân. vi) Các hộ bị ảnh hưởng gián tiếp hầu như không được để ý tới trong quá trình tổ chức đền bù và ổn định đời sống cho người dân bị ảnh hưởng. vii) Công tác khảo sát, quy hoạch thiết kế vùng tái định cư đã không được làm tốt dẫn đến những thiệt hại và sai lầm đáng tiếc, hiệu quả đầu tư thấp. Xác định địa bàn tái định cư còn nhiều sai lầm. viii) Không đánh giá hết tiềm năng phát triển kinh tế vùng ven hồ và do vậy đã không coi trọng phương án di vén dân tại chỗ. ix) Sau khi quy hoạch, địa bàn tái định cư đã không được chuẩn bị chu đáo để nhận dân tái định cư. x) Công tác tuyền truyền, vận động, giải thích chưa được làm tốt dẫn đến tình trạnh người dân phải chuyển nhiều lần. xi) Công tác quản lý vốn chưa tốt khiến cho đầu tư công trình kém hiệu quả, tỷ lệ thất thoát lớn đối với vồn đền bù trực tiếp và gián tiếp. Tóm lại, việc tái định cư cho dân vùng lòng hồ sông Đà thực thế chỉ nhằm chuyển dân ra khỏi vùng ngập. Thuật ngữ “di dân giải phóng lòng hồ” đã phần nào phản ánh mục tiêu của công cuộc tái định cư ở đây là giải phóng lòng hồ để xây dựng công trình thủy điện hơn là ổn định và tạo điều kiện phát triển sản xuất, nâng cao đời sống cho người dân di chuyển. Hậu quả của nó là hàng ngàn hộ gia đình rơi vào tình trạng đói khổ mà chưa có lối thoát. Đây là bài học lớn cho những công trình thủy điện tiếp theo. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG KHÔI PHỤC SINH KẾ BỀN VỮNG CHO NGƯỜI DÂN TÁI ĐỊNH CƯ CỦA CÔNG TRÌNH THUỶ ĐIỆN SƠN LA 2.1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA DỰ ÁN THUỶ ĐIỆN SƠN LA VÀ DỰ ÁN TÁI ĐỊNH CƯ CỦA CÔNG TRÌNH THUỶ ĐIỆN SƠN LA 2.1.1. Đặc điểm._.ết được sự thiệt hại như chia sẻ rừng, đồng cỏ chăn nuôi bò cho dân tái định cư và quỹ đất cho phát triển lâu dài cho con cháu họ bị thu hẹp. 3.2.2. Giải pháp về quy hoạch - Người bị ảnh hưởng sẽ di dời tới các điểm tái định cư mới chỉ sau khi các kế hoạch chi tiết được chấp thuận đối với điểm này. Tại các điểm tái định cư đô thị, các dự án hợp phần bao gồm hạ tầng cơ sở vệ sinh và nước cơ bản, đường xá, các ranh giới rõ ràng và các kế hoạch chi tiết về phát triển thị xã phải hoàn thành trước khi người bị ảnh hưởng di chuyển tới. - Tổng công ty Điện lực Việt Nam (EVN) phải liên kết việc xây dựng trong Dự án Thủy điện Sơn La với dự án tái định cư và phải giải thích rõ những tác động của công trình đối với tái định cư. Hiện nay, nhiệm vụ đặt ra đối với lãnh đạo địa phương cấp tỉnh nhằm giải quyết những hậu quả của hoạt động EVN đối với tái định cư. Hơn là đẩy nhanh việc xây dựng dự án, thì cần phải làm chậm tiến độ để giải quyết việc tái định cư. a) Bản Kế hoạch di dân/tái định cư cần bao gồm - Mục tiêu và tổng quan chính sách trong nước và của nhà tài trợ; - Mô tả dự án và quy mô di dân; - Phân tích về ảnh hưởng của dự án đối với các nhóm có nguy cơ; - Các thông tin cơ bản về tác động của việc thu hồi đất và mất mát đối với những người sẽ bị ảnh hưởng cùng các mô tả rõ ràng về cân nhắc các tiêu chí để xem xét được hưởng lợi của dự án; - Khung thể chế đối với triển khai tái định cư/di dân; - Mô tả ngân sách, bao gồm cả chi phí cấp đất và tái định cư, di chuyển, nguồn kinh phí; - Hệ thống giám sát và đánh giá. b) Cấu trúc của kế hoạch di dân Mục tiêu và khung chính sách - Mục đích và mục tiêu của công tác di dân/tái định cư trong khuôn khổ dự án hay hoạt động của dự án - Các văn bản pháp luật liên quan tới đất đai và đền bù của trung ương và địa phương (Luật, Nghị định, Quyết định…) - Chính sách của nhà tài trợ - Các nguyên tắc và cam kết của cơ quan đầu tư c) Thiết kế dự án và quy mô tái định cư - Mô tả chi tiết quy mô tái định cư và quan hệ của tái định cư với dự án chính (quy mô thu hồi đất). Trong phần này cần mô tả rõ diện tích đất bị thu hổi, phân theo các loại hình sử dụng đất hiện tại. Cần lập thống kê chi tiết về các khu đất bị thu hổi, chú ý đến tính hợp pháp của các chủ sử dụng đất và quyền sử dụng đất đi kèm. - Các giải pháp thay thể để giảm thiểu tái định cư/di dân. Có thể đưa ra các giải pháp khác nhau và các lý giải để lựa chọn giải pháp cuối cùng. Trong khi xây dựng các giải pháp cần chú ý nhưng nhóm người dân tại chỗ (người dân tộc hoặc người Kinh đã cư trú lâu năm tại vùng dự án) và các nhóm dễ tổn thương khác - Trách nhiệm lập kế hoạch và triển khai di dân/tái định cư d) Thông tin kinh tế - xã hội Các nhóm dân được đưa vào kế hoạch di dân/tái định cư. Nếu có nhóm khác không được đưa vào trong kế hoạch này cũng cần được giải thích đầy đủ và rõ ràng về việc không cho họ tham gia vào kế hoạch này. - Mô tả ảnh hưởng của việc thu hồi đất/triển khai hoạt động đối với những người có thể bị ảnh hưởng. Cần phân ra các ảnh hưởng đối với các cơ quan/tổ chức và ảnh hưởng đối với các hộ gia đình/cá nhân đang sử dụng đất trong vùng dự án - Xác định các mất mát đối với những người phải di chuyển và nơi tiếp nhận người tái định cư. Các mất mát này cần được lượng hóa bằng các con số cụ thể. - Chi tiết về các tài nguyên sử dụng chung như các tuyến giao thông, các nguồn cung cấp nước, các bãi chăn thả súc vật cùng các thay đổi sau khi tái định cư. - Mốc thời hạn để tính các quyền lợi mà người di dân/tái định cư được hưởng. Cần chú ý là một số nhà tài trợ có các cách tính khác nhau về mốc thời gian này. - Chính sách đến bù: đên bù bằng đất/nhà, đền bù bằng tiền hay hỗ trợ di dân, các mất mát không được đền bù e) Xây dựng điểm tái định cư và tái lập thu nhập - Vị trí, đặc điểm và nhu cầu phát triển của địa điểm tái định cư. Trong phần này cần mỗ tả tất cả các địa điểm tái định cư được chuẩn bị. Các địa điểm tái định cư phải phù hợp với các đối tượng tái định cư và có đủ khả năng tiếp nhận. - Bố trí, thiết kế và hạ tầng xã hội của các điểm tái định cư. - Kế hoạch di chuyển, mô tả rõ mốc thời gian và số lượng người cần di chuyển. Các phương án đảm bảo di chuyển cũng phải được thể hiện. - Đảm bảo thu nhập và cuộc sống cho những người tái định cư. Trong phần này phải mô tả các định hướng lao động sản xuất cho những người phải tái định cư. Có phương án chuyển đổi sản xuất cho số này, kể cả đào tạo nghề hay chuyển đổi phương án canh tác. - Các chương trình tạo thu nhập cho số dân tái định cư và dân cư của các cộng đồng tiếp nhận. Chú ý tới việc hòa nhập với cộng đồng tiếp nhận. g) Khung thể chế của công tác tái định cư - Quy chế hoạt động cuả cơ quan tái định cư - Tổ chức bộ máy tái định cư, sự tham gia của chủ đầu tư trong công tác tái định cư. - Các hỗ trợ kỹ thuật để nâng cao năng lực của cơ quan tái định cư h) Tham vấn và tham gia của cộng đồng - Xác định các bên liên đới - Cơ chế tham gia của các bên liên đới - Quản lý công tác di dân/tái định cư có sự tham gia của người dân - Các tổ chức tham gia vào giám sát di dân/tái định cư i) Ngân sách và tài chính - Chi phí đên bù, hỗ trợ cho người bị ảnh hưởng và chi phí di dân - Phân bổ ngân sách và thời gian giải ngân - Nguồn tài chính và quy trình xét duyệt các chi phí k) Giám sát và đánh giá - Xây dựng hệ thống giám sát và đánh giá - Giám sát và báo cáo - Đánh giá ảnh hưởng của tái định cư l) Trong khi xây dựng kế hoạch tái định cư/di dân cần tham khảo: - Chính sách đất đai của nhà nước - Các quy định/chế độ về đền bù giải phóng mặt bằng của địa phương - Các quy định khác có liên quan - Đánh giá tác động môi trường và xã hội của các hoạt động tái định cư/di dân khác đã làm 3.2.3. Giải pháp cho chương trình tái định cư a) Hỗ trợ người dân tái định cư thiết kế, xây dựng và phát triển chiến lược sinh kế bền vững: - Quá trình tái định cư cần được tiến hành một các hiệu quả và bền vững hơn. Cần phải giải quyết một cách thận trọng những vấn đề khó khăn mà người dân đang gặp phải và xây dựng kế hoạch tổng thể để tháo gỡ khó khăn cho tái định cư. Các chương trình tái định cư phải tiến hành đồng thời với chương trình giải quyết việc làm cho người dân tái định cư. Cụ thể là phải tập trung vào các vấn đề: + Ổn định chỗ ở cho người dân tái định cư; + Tạo cơ hội việc làm, có thu nhập ổn định lâu dài cho họ; + Xây dựng các chính sách và cơ chế hỗ trợ hiệu quả để chuyển đổi sinh kế thành công cho người tái định cư, phù hợp với yêu cầu và điều kiện mới. - Đa số người tái định cư trong độ tuổi lao động không có trình độ, chuyên môn kỹ thuật, kinh nghiệm thị trường còn rất nhiều hạn chế, vì vậy họ là những đối tượng rất dễ bị tổn thương nếu không có sự hỗ trợ hiệu quả của chính quyền địa phương và Ban quản lý di dân tái định cư. Vì vậy việc xây dựng các chương trình đào tạo và đào tạo lại cho người dân tái định cư sẽ giúp họ chuyển nghề nghiệp tại nơi ở mới là một vấn đề rất cấp thiết. Do vậy cần tập trung vào việc nâng cao trình độ của người dân tái định cư, tăng cường nguồn vốn và tài sản cho người dân, cải tạo điều kiện sản xuất, làm ăn, sinh sống cho người dân tái định cư. Đồng thời, cần tăng cường sự tham gia của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội trong việc tạo việc làm mới cho người dân tái định cư... - Cần phải tăng cường công tác thông tin cho người dân ở các vùng chịu tác động của chương trình tái định cư thuỷ điện, cụ thể như các thông tin liên quan đến pháp luật, chủ trương chính sách đền bù, kế hoạch quy hoạch di dân tái định cư... Bên cạnh đó, các cấp chính quyền phải thiết lập kênh thông tin hai chiều, đảm bảo rằng mọi tác động của quá trình này đến được những người phải di dời, các diễn biến và xu hướng của quá trình di dân, tái định cư phải được phản ánh kịp thời ở cấp cao hơn để có những biện pháp can thiệp đúng mức. Các cấp chính quyền cũng như Ban Quản lý chương trình tái định cư cũng cần phải có thông tin về chiến lược sinh kế của các hộ dân cũng như cộng đồng người dân tái định cư, tổng kết các hộ gia đình có chiến lược sinh kế tốt để phổ biến cho các hộ gia đình khác, từ đó rút kinh nghiệm và đưa ra những bài học về khôi phục sinh kế cho người dân vào vào các chương trình hành động phát triển sinh kế cho người dân tái định cư. b) Tạo thêm nhiều cơ hội cho người dân tái định cư được tham gia vào chương trình khôi phục sinh kế: - Người dân tái định cư cần phải nhận thức được rằng họ cần phải năng động hơn và có động lực hơn trong việc tìm và huy động các giải pháp nhằm phát triển sinh kế cho chính bản thân họ. Họ không thể chỉ trông chờ vào sự hỗ trợ trực tiếp của chính phủ và những nguồn hỗ trợ, giúp đỡ từ bên ngoài. - Để phát huy và nắm bắt cơ hội từ quá trình phát triển, người dân tái định cư cần được hỗ trợ về giáo dục, đào tạo nghề nhằm đáp ứng những yêu cầu trong môi trường mới, hơn nữa còn có khả năng kiểm soát và quản lý nguồn lực của họ tốt hơn. Ngoài ra, họ cũng cần phải có những kỹ năng và kinh nghiệm cần thiết để tự thiết kế lại sinh kế của họ nhằm khắc phục những thay đổi, những tác động mà chương trình tái định cư đã đem lại cho họ và cho cộng đồng họ. 3.2.4. Giải pháp hỗ trợ các thiệt hại - Người bị ảnh hưởng phải được đền bù về những thiệt hại tài sản, cây cối, cây trồng và các tài sản khác. Cụ thể là, khi người dân phải di chuyển khỏi địa bàn sống của mình trước khi đất nông nghiệp mới được phân phối, thì người bị ảnh hưởng phải có được thời gian quá độ đầy đủ để điều chỉnh môi trường mới của họ với sự hỗ trợ thỏa đáng của chính phủ để đảm bảo cho sinh kế và an ninh lương thực của họ. - Người bị ảnh hưởng sẽ không di dời khi mà chưa có đất nông nghiệp. Di chuyển người bị ảnh hưởng mà không cung cấp sinh kế thích hợp đang gây ra một tình trạng nguy hiểm khi mà tiền đền bù bị mau chóng sử dụng và người dân lại không có lao động trong nhiều tháng. Tính không chắc chắn này dẫn đến việc tiêu dùng lãng phí, nghiện rượu và sự trì trệ về thể lực. - Người bị ảnh hưởng phải có chiến lược sinh kế hiệu quả trước khi họ tái định cư. Một phần của kế hoạch phải bao gồm việc thảo luận với những người tái định cư về những gì họ có thể làm tại điểm tái định cư để có thu nhập, loại cây trồng gì họ có thể trồng và dịch vụ khuyến nông cần thiết nào mà họ có thể cần tới để giúp đỡ họ tại môi trường mới. - Việc đền bù phải dành cho những người mà sinh kế phụ thuộc vào các dòng sông hoặc hai bên bờ sông mà giờ đây phải tái định cư ở xa con sông. - Việc đền bù phải giành cho đầu tư cơ sở hạ tầng được làm theo các cộng đồng theo nơi ở cũ và những chi phí cho xây dựng (thí dụ hệ thống kênh dẫn nước xây dựng cho các hộ hoặc một nhóm hộ). Những đầu tư này có thể không còn được các cộng đồng sử dụng và sẽ phải được tái xây dựng tại khu tái định cư mới. Các khoản đền bù tái định cư chủ yếu được thanh toán trực tiếp bằng tiền cho người dân bị thiệt hại. Đây là nỗ lực của chính phủ trong việc đền bù thiệt hại cho người dân bị ảnh hưởng. Tuy nhiên mặt trái của việc đền bù bằng tiền cho người dân mà không có bất kỳ hỗ trợ nào về quản lý tài chính, hướng dẫn chi tiêu... có thể gây ra những tác dụng không mong muốn cho người dân. Như đã đề cập đến trong các phần trên, các hộ bị thiệt hại được đền bù hầu hết là người dân tộc thiểu số, có trình độ dân trí không cao và kỹ năng quản lý kinh tế hộ hầu như chỉ trong nền kinh tế tự cung tự cấp. Khi nhận được những khoản tiền đền bù quá lớn trong thời gian ngắn mà không có kế hoạch sử dụng sẽ chắc chắn sẽ dẫn đến việc sử dụng không hiệu quả và bền vững. Tại hai điểm tái định cư được khảo sát ở hai xã Chiềng Ngàm và Nậm Ét, hầu hết các hộ dân tái định cư sử dụng tiền đền bù để mua sắm, trang bị những thiết bị, phương tiện sinh hoạt, trong khi đó không hề có sự đầu tư nào vào phát triển kinh tế. Với việc sử dụng tiền đền bù không hiệu quả sẽ gây ra những tác động tiêu cực đến đời sống của hộ sau này. Các hộ dân tái định cư cần có những hỗ trợ thêm trong việc quản lý, sử dụng nguồn vốn đền bù. Giải pháp ở đây là cần có một tổ chức đứng ra quản lý số tiền đền bù cho người dân tại mỗi điểm tái định cư. Tổ chức này sẽ cùng người dân bàn bạc, lập kế hoạch khôi phục sinh kế để sử dụng tiền đền bù một cách thiết thực và hiệu quả nhất cho người dân. Số tiền đền bù được quản lý chung dưới dạng một quỹ phát triển và cộng đồng sẽ cùng quyết định sử dụng số tiền này để tạo ra các nguồn sinh kế khác thay co nguồn sinh kế bị mất do việc tái định cư gây ra. 3.2.5. Giải pháp về đất đai - Việc triển khai chương trình tái định cư cần được thực hiện một cách đồng bộ, có trọng điểm, có trật tự và phải được thực hiện trên từng địa bàn tái định cư, tránh sự xáo trộn lớn đến vùng nhận dân tái định cư. - Chế độ đền bù đất đai không nên chỉ chi trả một khoản trọn gói mà nên dành riêng một khoản cho chi phí chuyển đổi nghề đối với các hộ gia đình thuộc đối tượng tái định cư. Ngoài ra cần có một cơ quan, tổ chức thiết kế chương trình, xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện, chịu trách nhiệm về chuyển nghề cho người dân (kể cả giải quyết sắp xếp việc làm). - Cần có sự khảo sát kỹ lưỡng về quỹ đất cũng như điều kiện, chất lượng đất đai tại nơi dự kiến nhận dân tái định cư. Dựa trên quỹ đất hiện có để xác định số dân sẽ tái định cư đến cho phù hợp. - Trong trường hợp không có đủ quỹ đất cho tất cả các hộ tái định cư cần đưa ra các phương án tạo thu nhập khác có ít nhu cầu sử dụng đất (nghề phi nông nghiệp). 3.2.6. Giải pháp về việc làm - Tập trung cải tạo điều kiện lao động cho người dân tái định cư. Phát triển hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm và tư vấn hướng nghiệp để cung cấp các thông tin về việc làm thiết thực hơn đối với người dân tái định cư, tăng cờng tổ chức đào tạo nghề dành riêng cho người dân tái định cư. - Xây dựng chế độ hỗ trợ trọn gói đối với người tái định cư, trong đó bao gồm cả chính sách về việc làm, tài chính, đào tạo, xây dựng các chế độ bảo hiểm xã hội cho người tái định cư. Đa dạng hoá các hoạt động phi nông nghiệp trước khi bị mất đất canh tác và không còn việc làm nông nghiệp; cải thiện sự tiếp cận của người tái định cư đối với cơ hội việc làm phi nông nghiệp được trả công và nâng cao cơ hội làm việc phi nông nghiệp. 3.2.7. Giải pháp về thị trường - Có mạng lưới cung cấp thông tin về thị trường cho người dân tái định cư về: + Nhu cầu các loại nông sản trên thị trường. + Giá cả các loại hàng hoá phục vụ cho sản xuất kinh doanh nói chung và các ngành nghề cho người dân tái định cư. - Tiếp tục hoàn thiện các chính sách hỗ trợ người dân tái định cư khi tham gia thị trường - Thực hiện chính sách hướng dẫn, đào tạo huấn luyện các thức làm ăn, phổ biến các hình thức kinh doanh phù hợp khả năng của người. - Các đoàn thể, hiệp hội có các biện pháp giúp người dân tái định cư giảm giá thành sảm phẩm (miễn phí các khâu tư vấn, cung cấp thông tin kỹ thuật, dịch vụ,...). - Có các kế hoạch nghiên cứu nhu cầu thị trường hàng hoá cụ thể để có hướng chuyển dịch các hoạt động kinh tế để đáp ứng nhu cầu thị trường. 3.2.8. Các giải pháp về tổ chức thực hiện - Đất sinh hoạt phải giành cho những người tái định cư có tính đến kiểu cách của các nhóm dân tộc thiểu số khác nhau và sao cho giống với làng xóm của họ trước đây. Các chính sách phải đủ mềm dẻo để cho phép có nhiều diện tích hơn mức tối đa hiện nay 400 m2 đối với đất sinh hoạt (nhà cửa và vườn). - Chất lượng đất nông nghiệp phải được đánh giá với sự tham gia của những người đang tái định cư trước khi chúng được phân bổ. Nếu đất đai màu mỡ, thì số lượng hiện tại là phù hợp để phân bổ. Tuy nhiên, nếu là đất đồi hoặc bạc màu, như thế số lượng phân bổ cho các hộ phải lớn hơn. Việc phân bổ đất phải có khoản dự phòng theo quy mô gia đình. - Việc phân bổ các lô đất sinh hoạt phải tôn trọng nguyện vọng của người dân. Các thành viên của dòng tộc, gia đình phải được phép sống gần hoặc kề bên nhau. Trước khi di chuyển đến nơi ở mới, cộng đồng cần được tìm hiểu và tham gia bàn bạc việc bố trí đất sinh hoạt của các hộ, dòng tộc trong cộng đồng. - Các dịch vụ cơ bản và thiết yếu như trường học phải hoàn tất trước khi năm học mới bắt đầu. Hiện nay, rất nhiều trẻ em tái định cư phải ở nhà vì trường học gần nhất cũng cách xa 10 km và không có phương tiện giao thông công cộng cho chúng tới trường. Việc tiếp cận trường học phải được là quy định luật pháp cho mọi điểm tái định cư. - Quản lý tái định cư phải được cải thiện ở cấp huyện. Những cán bộ tái định cư phải được đào tạo tốt hơn để làm việc với người dân địa phương. Có thể tuyển cán bộ trong số những người dân tộc thiểu số bị ảnh hưởng để gắn bó một cách tốt hơn những khía cạnh văn hóa trong tái định cư. Cần phải tăng số lượng cán bộ chuyên trách tại các đơn vị tái định cư cấp huyện. - Cần tạo ra cơ chế tham gia của người dân bị ảnh hưởng trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch tái định cư. Đối tượng của các kế hoạch tái định cư là người dân nhưng hầu hết các kế hoạc tái định cư như khôi phục sinh kế, phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, môi trường sống... lại được quyết định bởi các nhà lãnh đạo, những người ngoài cộng đồng. Chính vì vậy các kế hoạch tái định cư hiện nay chưa thực sự hiệu quả và chưa có được sự tham gia tích cực của người dân tái định cư. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Nhà máy thuỷ điện Sơn La là một dự án thuộc các công trình quan trọng quốc gia và là công trình lớn nhất Đông Nam Á, là dự án có số lượng di dân và tái định cư lớn nhất từ trước đến nay. Tới năm 2010, sẽ có 91.000 người hoặc 18.968 hộ tại 3 tỉnh Sơn La, Lai Châu và Điện Biên, dự kiến sẽ được tái định cư. Những hộ dân này sẽ phải di chuyển xa khoảng từ 50 đến 100 km so với nơi ở hiện nay và sẽ không còn được tiếp cận với sông Đà - là nguồn sinh kế chính của họ. Công tác di dân tái định cư đang được triển khai và đã đạt được một số thành tựu như: Khuyến khích sự tham gia của chính quyền và nhân dân địa phương; Nâng cao mức sống cho người dân tái định cư Vấn đề môi trường đang được nhấn mạnh. Tuy nhiên vẫn còn những vấn đề cần giải quyết như còn chậm trễ về mặt hành chính, các vấn đề đất đai, sinh kế chưa được thực hiện đầy đủ, các vấn đề quản lý tiền mặt cho đền bù, về với vùng nhận dân tái định cư và về điều kiện sống chưa được quan tâm. Luận văn đề xuất các giải pháp để giải quyết những mặt còn tồn tại của chương trình di dân tái định cư thuỷ điện Sơn La như sau: Các nhóm giải phap về quy hoạch và chính sách quy hoạch, giải pháp cho chương trình tái định cư, hỗ trợ thiệt hại, các giải pháp về đất đai, giải quyết việc làm, đẩy mạnh thị trường tiêu thụ và các giải pháp về tổ chức thực hiện công tác di dân tái định cư. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. TS. Đặng Nguyên Anh (2006), Chính sách di dân trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở các tỉnh miền núi, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội. 2. Đặng Nguyên Anh (2007), “Tái định cư cho các công trình thuỷ điện ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, (số 8/2007). 3. Ban Quản lý dự án thuỷ điện Sơn La (2002), Dự án quy hoạch bố trí dân cư tỉnh Sơn La giai đoạn 2003 - 2010, Hà Nội. 4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2003), Báo cáo Quy hoạch tổng thể di dân tái định cư dự án thuỷ điện Sơn La, Hà Nội. 5. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2005), Báo cáo Quy hoạch tổng thể di dân tái định cư dự án thuỷ điện Sơn La (Tài liệu đã chỉnh sửa theo Quyết định số 196/2004/QĐ-TTg ngày 29/11/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể di dân tái định cư thuỷ điện Sơn La). 6. Phạm Mộng Hoa và Lâm Mai Lan (2000), Tái định cư trong các dự án phát triển: Chính sách và thực tiễn, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội. 7. ThS. Vũ Công Lân, TS. Nguyễn Việt Hải và các cộng sự (2007), Báo cáo phân tích tác động giảm nghèo thông qua đầu tư công đến tái định cư tại Tây Nguyên - Dự án “Giám sát và đánh sát việc thực hiện CPRGS trong lĩnh vực nông thôn Việt Nam" - TF052631, Hà Nội. 8. Ngân hàng Phát triển châu Á (1995), Cẩm nang về tái định cư - Hướng dẫn thực hành. 9. Ngân hàng Phát triển châu Á (2000), Chính sách tái định cư không tự nguyện ở Việt Nam. 10. Bùi Đình Toái (2004), Sử dụng PRA trong việc tăng cường khả năng giảm thiểu tác hại của ngập lụt của cộng đồng địa phương, Đại học Huế. 11. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Sơn La (2005), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Sơn La thời kỳ 2006 - 2020, Sơn La. 12. Uỷ ban Nhân dân tỉnh Sơn La (2005), Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006 - 2010 tỉnh Sơn La, Sơn La. 16. Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2003. 17. Quyết định số 196/2004/QĐ-TTg Ngày 29 tháng 11 năm 2004, của Chính phủ về việc Phê duyệt quy hoạch tổng thể di dân, tái định cư Dự án thuỷ điện Sơn La. 18. Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 3 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về Bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. 19. Thông tư 116/2004/TT-BTC ngày 7 tháng 12 năm 2004 của Bộ Tài chính về Hướng dẫn thực hiện Nghị định Chính phủ 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. 20. Quyết định số 02/2007/qđ-ttg ngày 09 tháng 1 năm 2007 của Chính phủ về việc ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án thuỷ điện Sơn La. 21. Quyết định số 12/2007/QĐ-UBND ngày 8 tháng 5 năm 2007 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La về việc quy định chi tiết một số điều về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư Dự án thuỷ điện Sơn La ban hành kèm theo Quyết định số 02/2007/QĐ- TTg ngày 09/01/2007 của Thủ tướng Chính phủ. Tiếng Anh 22. Chambers, R. And G. Conway (1992), Sustainable rural livelihoods: Practical concepts for the 21 st century, Brighton: IDS. 23. Mekong Economics (2006), Northern Mountains Poverty Reduction Project - Project Impact Evaluation Design and Baseline Survey. 24. Vietnam Union of Science and Technology Association (2006), Study on Impacts of Vietnam's Son La Hydropower Project, Hanoi. PHỤ LỤC PHIẾU ĐIỀU TRA TÌNH TRẠNG ĐỜI SỐNG HỘ GIA ĐÌNH TÁI ĐINH CƯ Phần chung: - Tỉnh: Sơn La Huyện: ............. Xã: ................ Thôn: ................................ - Họ tên chủ hộ: .......................... Giới tính: ........ Năm sinh: ....... Dân tộc: ............ - Trình độ văn hóa: ..................... Tổng số người trong hộ: ........Số Nam: Số Nữ: Phần chi tiết: Anh, chị chuyển về đây khi nào ? Ngày ........... tháng .......... năm .......... Anh, chị đã nhận được loại đền bù và hỗ trợ nào? - Bằng tiền mặt?  - Nhà ở?  - Đất?  - Khác? , cụ thể : + ..................................... + ..................................... Anh, chị đã nhận được bao nhiêu tiền? ............................... Năm nào? ........... Anh, chị có nhận đầy đủ tiền như đã được hứa không? Có . Không . Nếu không, anh chị còn bao nhiêu tiền nữa? ......................... Anh, chị có làm những thủ tục gì để nhận được nốt số tiền còn lại? ................ ....................................................................................................................... Theo anh chị, số tiền đền bù như vậy có thỏa đáng cho hộ gia đình không? Có  Không  Nếu Không, theo anh chị, bao nhiêu mới thỏa đáng: ....................................... Nếu anh, chị được đền bù bằng nhà, anh, chị có hài lòng với nhà đó không? Có  Không  Nếu không, tại sao? ........................................................................................ So sánh nhà ở nơi mới với nhà ở cũ: Thuận tiện hơn  Ít thuận tiện hơn  Rộng hơn  Hẹp hơn  Anh chị có mong muốn nhà nước cấp tiền mặt để anh chị có thể tự xây nhà không? Có  Không  Anh, chị có được nhận đầy đủ diện tích đất như đã hứa không? Có  Không  So sánh đất canh tác nơi ở mới với nơi ở cũ: Nhiều hơn  Bằng  Ít hơn  Tốt hơn  Bằng  Xấu hơn  Đi gần hơn  Bằng  Xa hơn  Anh chị có đủ lương thực ăn trong năm không? Có  Không  So sánh với thời gian trước khi anh, chị chuyển đến đây thì như thế nào? ………………………………………………………………………………………... Từ khi chuyển đến đây, gia đình anh, chị có bị thiếu đói không? Có  Không Nếu Có, + Thiếu mấy tháng trong một năm : ............ + tại sao? ....................................................... + Thỉnh thoảng hay thường xuyên Anh, chị có được đi lấy củi và khai thác tận thu các lâm sản trong rừng của cộng đồng hoặc rừng của nhà nước không? Có  Không  Các nguồn thu nhập bằng tiền mặt chính của gia đình anh chị là gì? Ở nơi ở cũ Nơi ở mới Từ sản phẩm trồng trọt   Từ vật nuôi   Từ gỗ lấy từ rừng   Từ sản phẩm khác   Từ nguồn khác .................. So với thu nhập của gia đình ở nơi ở cũ: Nhiều hơn  Bằng  Ít hơn  Thắp sáng trong nhà: Ở nơi ở cũ Nơi ở mới Từ lưới điện quốc gia   Máy phát thủy điện nhỏ   Đèn dầu   Nhiên liệu để đun nấu thông dụng nhất trong gia đình anh chị là gì? Củi  Rơm  Lá cây  Khác ............................. Gia đình anh chị có đủ chất đốt so với nơi ở cũ không? Có  Không  Nếu Không, tại sao? ................................................................................................ Gia đình anh chị lấy nước sinh hoạt và nước ăn ở đâu? Ở nơi ở cũ Nơi ở mới Giếng xây   Giếng đào   Sông, suối   Nước máy   Khác ......... Anh chị có bao giờ bị thiếu nước dùng không? Không  Có; Nếu Có, thiếu bao nhiêu tháng trong năm? ............ tháng So sánh với nước sinh hoạt ở nơi ở cũ: Nhiều hơn  Bằng  Ít hơn  Tốt hơn  Bằng  Kém hơn  Đi lấy gần hơn  Bằng  Xa hơn  Đi học. Tại khu tái định cư có xây trường học cho trẻ em không? Có  Không ; Nếu có, trường cấp mấy: Mầm non  Tiểu học  Trung học Cơ sở  Khác ..... So sánh với trường học ở nơi ở cũ: Tốt hơn  Bằng  Kém hơn  Đi gần hơn  Bằng  Xa hơn  Con cái anh chị có được đi học không: Có  Không  Nếu Không, tại sao ? ................................................................................................. Tại khu dân cư có trạm y tế nào không? Có  Không ; Nếu Có, trạm y tế có được trang bị đầy đủ không? Có  Không ; So sánh với trạm y tế ở nơi ở cũ: Tốt hơn  Bằng  Kém hơn  Đi gần hơn  Bằng  Xa hơn  Anh chị hoặc người trong gia đình của anh chị có được chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh kịp thời khi đau ốm không? Có  Không  Nếu Không, tại sao .................................... Anh, chị vẫn duy trì các hoạt động văn hóa và các phong tục, tập quán mà anh chị vẫn làm trước kia không? Có  Không  Nếu Không, tại sao ................................................................................................. Tại thôn mới có xây nhà văn hóa không? Có  Không ; Nếu có, nó có được xây theo kiểu truyền thống không? Có  Không  Anh chị có hài lòng với nhà đó không? Có  Không  ; Tại sao ………………. Chợ nông thôn: Tại khu dân cư có chợ không? Có  Không  Anh chị thường đi đến chợ gần nhất bằng phương tiện gì? Đi bộ  Xe đạp  Xe máy  Thuyền  Phương tiện khác: ................. Từ nhà anh chị đến chợ gần nhất hết bao nhiêu lâu ? ............ giờ. So sánh với chợ ở nơi ở cũ: Tốt hơn  Bằng  Kém hơn  Đi gần hơn  Bằng  Xa hơn  Tại cộng đồng đang ở có dự án tạo thu nhập nào không? Có  Không ; Nếu có, anh chị có được khuyến khích để tham gia không? Có  Không ; Nếu Không, tại sao? ................................................................................................... Dự án có giúp cải thiện thu nhập của gia đình không? Có  Không  Tại sao? ....................................................................................................................... Cuộc sống của anh chị tại nơi tái định cư tốt hơn hay tồi hơn so với cuộc sống ở nơi ở cũ? Tốt hơn , Tại sao? ......................................................................... Bằng , Tại sao? ......................................................................... Kém hơn , Tại sao? ........................................................................ Theo anh, chị, cần phải làm gì để cải thiện đời sống của người dân tại nơi tái định cư? ................................................................................................................. ....................................................................................................................................... Ngày tháng năm 2008 Người điều tra Đại diện UBND xã Chủ hộ MỤC LỤC Trang TÓM TẮT LUẬN VĂN i DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ADB: Ngân hàng Phát triển châu Á CTTĐ: Công trình thuỷ điện NBAH: Người bị ảnh hưởng NĐ: Nghị định PTNT: Phát triển Nông thôn SKBV: Sinh kế bền vững TĐC: Tái định cư TĐSL: Thuỷ điện Sơn La UBND: Uỷ ban nhân dân WB: Ngân hàng Thế giới DANH MỤC BẢNG VÀ HÌNH VẼ Trang Bảng 1.1. Ảnh hưởng của các công trình thuỷ điện trên sông Đà 18 Bảng 2.1: Số lượng người bị ảnh hưởng trực tiếp của nhà máy thủy điện Sơn La tính theo dân tộc trong năm 1998 37 Bảng 2.2: Dự kiến tiến độ di chuyển dân qua các năm như sau 46 Bảng 2.3: Tiến độ di dân qua các năm 47 Bảng 2.4: Diện tích đất sản xuất nông nghiệp của các hộ điều tra 51 Bảng 2.5: So sánh diện tích đất nông nghiệp trước và sau tái định cư 52 Bảng 2.6: So sánh chất lượng đất trước và sau tái định cư 52 Bảng 2.7: So sánh vườn cây ăn quả trước và sau tái định cư 53 Bảng 2.8: Diện tích đất lâm nghiệp của các hộ điều tra 55 Bảng 2.9: Diện tích đất nuôi trồng thuỷ sản của các hộ điều tra 55 Bảng 2.10: Tổng đàn, giá trị tổng đàn gia súc, gia cầm của các hộ điều tra 56 Bảng 2.11: Quy mô chăn nuôi gia súc của các hộ điều tra 57 Bảng 2.12: Quy mô chăn nuôi gia cầm của các hộ điều tra 57 Hình 2.1.a. Tháp dân số của các hộ điều tra trước khi tái định cư 58 Hình 2.1.b. Tháp dân số của các hộ điều tra sau khi tái định cư 58 Hình 2.2.a. Cơ cấu thu nhập của các hộ dân trước khi tái định cư 59 Hình 2.2.b. Cơ cấu thu nhập của các hộ dân sau khi tái định cư 59 Bảng 2.13: Mức thu nhập của các hộ điều tra trước và sau khi TĐC 60 Bảng 2.14: Đánh giá hiện trạng sử dụng công trình thuỷ lợi tại nơi ở cũ 61 Bảng 2.15: Đánh giá hiện trạng sử dụng công trình thuỷ lợi tại nơi TĐC 61 Bảng 2.16: Khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội trước và sau tái định cư 62 Bảng 2.17: Cơ cấu dân tộc 2 xã vùng nghiên cứu 64 Bảng 2.18: Điều kiện nhà ở trước và sau tái định cư 65 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2092.doc
Tài liệu liên quan