PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cà phê là cây công nghiệp quan trọng, nó không chỉ là cây trồng lợi thế
của vùng Tây Nguyên mà còn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Cây cà phê đầu tiên được đưa vào Việt Nam từ năm 1857, mãi đến đầu thế kỷ
XX mới được phát triển trồng ở một số đồn điền của người Pháp. Trải qua
nhiều hình thức tổ chức sản xuất từ các đồn điền cà phê đến các nông trường
quốc doanh cà phê. Với một thời gian không dài chỉ trong vòng 26 năm, trong
một phần tư thế kỷ, kể từ sau n
79 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 485 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Khóa luận Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất cà phê của các hộ nhận khoán thuộc Công ty cà phê Phước An, Huyện Krông Pắk, Tỉnh Đắk Lắk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năm 1975 ngành cà phê Việt Nam đã có những
bước phát triển vượt bậc với tốc độ kỷ lục so với nhiều nước trồng cà phê khác
trên thế giới.
Bước sang thế kỷ XXI, Việt Nam đã có diện tích trồng cà phê trên
500.000 ha với sản lượng cà phê xuất khẩu hàng năm trên dưới 900.000 tấn với
kim ngạch xấp xỉ trên dưới 1,5 tỷ USD. Việt Nam là một nước sản xuất, xuất
khẩu cà phê đứng thứ 2 thế giới và là nước xuất khẩu cà phê Robusta số 1 thế
giới. Hiện nay Cà phê Việt Nam đang được xuất khẩu sang 88 quốc gia và
vùng lãnh thổ, trên các châu lục. Nó không những mang lại hiệu quả kinh tế
cao mà còn mang lại hiệu quả xã hội và cải thiện môi trường sinh thái rất lớn.
Đóng góp vào kết quả trên phải kể đến vai trò tích cực của vùng kinh tế Tây
Nguyên.
Tây Nguyên với đặc điểm thổ nhưỡng đất đỏ bazan ở độ cao khoảng 500
m đến 600 m so với mặt biển, là vùng đất rất phù hợp với những cây công
nghiệp như cà phê, ca cao, hồ tiêu, dâu tằm trong đó cà phê được xem là cây
công nghiệp quan trọng giữ vị trí số một với tổng diện tích khoảng 470.000 ha,
chiếm 92,79% diện tích trồng cà phê của cả nước. Điều đó đã góp phần khai
thác tiềm năng đất đai, lao động và khí hậu ở cao nguyên và miền núi, tạo nên
công ăn việc làm, tăng thu nhập cho hàng triệu nông dân.
Đắk Lắk là một trong 5 tỉnh thuộc khu vực của Tây Nguyên nơi đây
đóng góp một sản luợng cà phê rất lớn cho toàn khu vực Tây Nguyên cũng như
1
của cả nước. Cà phê được trồng ở Đắk Lắk từ rất lâu nhưng đến năm 1986,
xuất phát từ chính sách đổi mới kinh tế của Đảng, Nhà nước, Đảng bộ và chính
quyền Đắk Lắk mới có chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển và thâm
canh cây cà phê. Thực hiện chủ trương của Tỉnh, từ giữa những năm 80 của thế
kỷ XX các đơn vị làm công tác xuất nhập khẩu đã tìm đến từng hộ nông dân
với hình thức đầu tư ứng trước, nghĩa là “quốc doanh” ứng trước cho nông dân
máy cày, phân bón, có cả lương thực và thu hồi vốn sau khi có cà phê nhân,
nông trường quốc doanh thì vận động bà con vào làm công nhân nhận khoán
trồng và chăm sóc cà phê.
Từ đó Đắk Lắk hình thành nhiều vùng chuyên canh cây cà phê, có đơn
vị phấn đấu chỉ tiêu trong một mùa mưa trồng một nghìn ha như Công ty cà
phê Phước An, Thắng Lợi, Ea Tiêu, Xí nghiệp liên hiệp cà phê Việt - Đức. Bên
cạnh đó, Đắk Lắk còn liên doanh trồng cà phê với nước ngoài, cụ thể là Liên
doanh Việt-Xô, Việt - Đức. Vùng chuyên canh cà phê chiếm 86% diện tích sản
xuất nông nghiệp và 89% sản lượng cà phê trong toàn Tỉnh. Hiện nay, tỉnh Đắk
Lắk có 8 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cà phê do Tỉnh quản lý đang thực
hiện các loại khoán trên với tổng diện tích khoảng 6.770 ha.
Cùng chung với sự phát triển trong hoạt động sản xuất cà phê trên địa
bàn Tỉnh, Công ty cà phê Phước An đã có những bước thay đổi trong cách thức
quản lý sản xuất theo từng giai đoạn lịch sử, từ quản lý theo lối hành chính bao
cấp, chuyển sang khoán đến hộ gia đình trong giai đoạn hiện nay. Điều đó đã
góp phần vào việc xoá đói giảm nghèo và làm giàu cho nguời dân vùng núi.
Hình thành và phát triển từ những năm 1977, mô hình cà phê khoán đến các hộ
đang được sự quan tâm và đầu tư của công ty cũng như các hộ dân.
Tuy nhiên, trước tình hình khủng hoảng kinh tế toàn cầu như hiện nay,
Thị trường cà phê trên thế giới trong những năm vừa qua thường chao đảo,
không ổn định nhất là về giá cả. Tổ chức cà phê thế giới (ICO) do không còn giữ
được hạn ngạch xuất nhập khẩu, giá cả trôi nổi trên thị trường tự do cho nên có
những giai đoạn giá cà phê xuống thấp chưa từng có so với vài chục năm trở lại
2
đây. Tình trạng này đã dẫn đến hậu quả là nhiều nước phải hủy bỏ bớt diện tích
cà phê, hoặc không tiếp tục chăm sóc vì kinh doanh không còn thấy có hiệu quả.
Bên cạnh đó trong nước mô hình sản xuất cà phê theo lối tự quản lý của hộ đang
chiếm một vị trí mạnh (gần 80% diện tích cà phê của cả nước do các hộ tự quản
lý), ngược lại mô hình khoán chỉ chiếm khoảng gần (20% diện tích trồng cà
phê) do công ty và hộ nhận khoán hợp tác cùng quản lý.
Chính những biến động và khó khăn đó sẽ làm cho hoạt động sản xuất
cà phê cũng như sự tồn tại của các hình thức khoán ở công ty cà phê Phước An
nói riêng mà cụ thể là những người dân nhận khoán của công ty ít nhiều sẽ bị
ảnh hưởng. Vì thế chúng tôi thiết nghĩ việc tìm hiểu, đánh giá kết quả đầu tư và
hiệu quả sản xuất cà phê khoán tới hộ dân tại công ty cà phê Phước An là rất
cần thiết. Để từ đó tìm ra những giải pháp thích hợp nhằm phát triển hình thức
nhận khoán tới hộ một cách hiệu quả và bền vững.
Xuất phát từ những lý do trên trong thời gian thực tập tốt nghiệp tại
công ty cà phê Phước An thuộc Huyện Krông Pắk, Tỉnh Đắk Lắk tôi đã chọn
đề tài: “Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất cà phê của các hộ nhận khoán
thuộc Công ty cà phê Phước An, Huyện Krông Pắk, Tỉnh Đắk Lắk ” để làm
khoá luận tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Đánh giá thực trạng, tiềm năng để phát triển cà phê theo phương thức
khoán tới hộ thuộc công ty cà phê Phước An.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế của việc trồng cà phê của các hộ gia đình
nhận khoán ở công ty cà phê Phước An.
- Đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
sản xuất cà phê trên địa bàn công ty cà phê Phước An.
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp
- Phương pháp điều tra phỏng vấn thu thập số liệu và thông tin cần thiết
phục vụ cho việc nghiên cứu.
3
- Các phương pháp phân tích để đánh giá thực trạng và tìm ra nguyên
nhân của các vấn đề.
- Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a) Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng và nội dung nghiên cứu chủ yếu của đề tài là những vấn đề
kinh tế, kỹ thuật trong mối quan hệ với các vấn đề tổ chức quản lý hiệu quả sản
xuất cà phê của các hộ nhận khoán.
b) Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Do hạn chế về khả năng và thời gian nghiên cứu nên đề
tài chỉ tập trung phản ánh tình hình sản xuất cà phê tại hai đội đại diện cho 2
hình thức khoán khác nhau: (có đầu tư – không có đầu tư của công ty), đồng
thời là hai đội có diện tích cà phê lớn nhất trong công ty cà phê Phước An,
huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk.
Về thời gian: Qua khảo sát thực tế tại công ty Phước An, chúng tôi chỉ
tiến hành đánh giá, phân tích thực trạng sản xuất cà phê của hộ trong năm
2009.
Do hạn chế về thời gian thực tập cũng như khả năng của bản thân nên đề
tài không thể tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được sự góp
ý và giúp đỡ của quý Thầy, Cô giáo cùng bạn bè để đề tài được hoàn thiện hơn.
4
PHẦN II
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỂ NGHIÊN CỨU
1.1 CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển ngành cà phê
1.1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển cây cà phê trên Thế giới
Lịch sử về cà phê thực sự cũng đa dạng như cách pha chế nó.
Một truyền thuyết kể rằng: Một người chăn dê nhận thấy rằng đàn gia
súc của mình trở nên nghịch ngợm hơn bình thường sau khi ăn những quả màu
đỏ từ bụi cây cà phê dại. Không lâu sau những thầy tu bắt đầu đun những
những hạt này và sử dụng chất lỏng này để thức suốt đêm trong các lễ hội.
Câu chuyện khác lại kể về một thầy tu Đạo Hồi - người đã bị kết tội bởi
kẻ thù của mình. Hình phạt là phải đi lang thang trong sa mạc và cuối cùng là
chết đói. Trong cơn mê sảng, chàng trai trẻ đã nghe thấy âm thanh hướng dẫn
mình ăn những quả từ cây cà phê gần đó. Anh ta đã sống sót, khoẻ mạnh và
quay lại với cộng đồng của mình, công bố rộng rãi kinh nghiệm về công thức.
Ban đầu, các bộ lạc phía đông châu Phi đã nghiền quả cà phê sau đó
trộn lẫn với mỡ động vật, vê lại thành những viên nhỏ. Sau đó vào khoảng năm
1000 sau Công Nguyên, người Ethiopia đã pha chế một loại rượu từ những hạt
cà phê bằng cách lên men những hạt cà phê khô trong nước. Cây cà phê cũng
đã mọc tự nhiên ở bán đảo Ai Cập và từ đó trong suốt thế kỷ XI, cà phê đã
được phát triển thành một dạng đồ uống nóng.
Cà phê cũng đã du nhập vào Châu Âu trong khoản thời gian này thông
qua thành phố Venice và đến châu Mỹ La Tinh sau đó nhiều thập kỷ, khi một
người Pháp mua một cành cà phê mang đến Martinique. Brazin đã nổi lên như
một nơi sản xuất cà phê đứng đầu trên thế giới và là danh hiệu đó vẫn còn đến
hôm nay.
5
1.1.1.2 Qúa trình ra đời và phát triển cây cà phê ở Việt Nam
Cà phê được đưa vào trồng ở Việt Nam từ năm 1857, trước hết là ở một
số nhà thờ tại Hà Nam, Quảng Bình, Kontum... Tới đầu thế kỷ XX trở đi thì
cây cà phê mới được trồng trên quy mô tương đối lớn của các chủ đồn điền
người Pháp với tổng diện tích không quá vài ngàn hecta.
Sau cách mạng tháng Tám, diện tích cà phê ở miền Bắc được phát triển
thêm tại một số nông trường quốc doanh và thời kỳ có diện tích cao nhất là trên
10.000 ha vào năm 1963 – 1964. Cà phê trồng ở miền Bắc trong những năm
trước đây chủ yếu là cà phê chè (Coffea arabica), năng suất thường đạt từ 400 -
600 kg/ha, có một số điển hình thâm canh tốt đã đạt trên 1 tấn/ha. Ở miền Nam
trước ngày giải phóng, vào năm 1975 diện tích cà phê có khoảng 10.000 ha.
Diện tích trồng cà phê ở miềm Nam trong thời kỳ này chủ yếu là giống cà phê
vối (Canephora robusta). Năng suất cà phê vối trong thời kỳ này thường đạt
trên dưới 1 tấn/ha.
Sau 1975, cà phê ở Việt Nam được phát triển mạnh tại các tỉnh Tây nguyên
nhờ có vốn từ các Hiệp định hợp tác liên Chính phủ với các nước: Liên xô cũ,
CHDC Đức, Bungary, Tiệp khắc và Ba lan, đến năm 1990 đã có 119.300 ha.
Ngày nay trong cơ chế quản lý mới, được áp dụng đồng bộ các tiến bộ
kỹ thuật cho nên năng suất đã tăng lên rất nhanh. Đến nay, diện tích cà phê trên
cả nước 521.000 ha và sản lượng khoảng trên 900.000 tấn và Việt Nam trở
thành nước xuất khẩu cà phê đứng thứ 2 trên thế giới. Cà phê trồng ở nước ta
có bao gồm cà phê vối (Robusta) chiếm 90% diện tích, cà phê chè (Arabica)
10% và cà phê mít (Excelsa) 1%.
1.1.2 Vị trí, giá trị kinh tế của cây cà phê
Việt Nam là một nước nông nghiệp với 70% dân số sống ở vùng nông
thôn và miền núi cao nguyên. Nên việc phát triển ngành nông nghiệp để tạo
công ăn việc làm cho người lao động ở nhưng khu vực đó là vấn đề hết sức có
ý nghĩa.
6
Cây cà phê được xem là cây công nghiệp lâu năm không những có giá
trị về mặt kinh tế mà còn có tác dụng rất lờn về nhiều mặt của xã hội và tạo
công ăn việc làm ổn định, đặc biệt góp phần vào việc giảm tình trạng du canh,
du cư ở những miền núi cao nguyên. Sản phẩm cà phê chủ yếu là hạt, Việt
Nam vẫn chủ yếu xuất khẩu sang các nước phát triển cà phê dưới dạng cà phê
nhân thô chưa qua chế biến. Tuy vậy, cà phê lại là nguồn xuất khẩu quan trọng
đóng góp một tỷ trọng không nhỏ vào tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Cà phê hiện nay là nguồn thu nhập chính trong đời sống của đa số hộ đồng bào
các dân tộc ở Tây Nguyên nói chung và Đắk Lắk nói riêng, là mặt hàng chiếm
tới trên 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh Đắk Lắk mỗi năm. Chúng ta đã
xây dựng được những thương hiệu nổi tiếng như Trung Nguyên, Cà phê
Moment, cà phê Buôn Ma Thuột...
Được biết Ngành sản xuất cà phê Việt Nam là nguồn thu nhập quan
trọng của 600 nghìn lao động và hơn 1 triệu người sống nhờ vào các hoạt động
sản xuất kinh doanh có liên quan đến cây cà phê.
1.1.3 Tác dụng của cây cà phê đối với chương trình xoá đói giảm nghèo
nông thôn cao nguyên và miền núi
Khi nói đến vị trí của cây cà phê trong cơ cấu cây trồng ở miền núi cũng
như ở các khu vực khác thì thường nêu lên những giá trị kinh tế mà nó đem lại
như: Góp phần định canh định cư cho đồng bào dân tộc ít người, tạo công ăn
việc làm, làm giàu cho kinh tế hộ, phủ xanh đất trống đồi trọc, bảo vệ môi
trường tạo cảnh quan xanh đẹp và thực tế ở một số nơi đã thoát nghèo và làm
giàu từ chính cây cà phê đem lại.
Tuy nhiên không phải nơi nào, vùng đất nào, cũng có thể lấy cà phê làm
cây trồng chính để mang lại hiệu quả kinh tế như mong muốn. Người ta thường
ví Cà phê là cây của “người giàu”, nghĩa là khâu chăm sóc kỹ thuật rất quan
trọng. Nó đòi hỏi người trồng phải có đủ vốn đầu tư cộng thêm những hiểu biết
về kỹ thuật, chăm sóc thu hoạch phải đầy đủ có như thế mới phát huy hiệu quả
của nó đem lại. Chính vì thế mà có những hộ nông dân nghèo không có đủ vốn
7
thì tác dụng cà phê đem lại là điều ngược lại. Do đó để phát triển tốt cà phê, rõ
ràng về phía Nhà nước cần phải có một chương trình đồng bộ, hoàn chỉnh cho
nông dân từ sản xuất đến chế biến, đến tiêu thụ sản phẩm. Hiện nay vai trò các
công ty, doanh nghiệp cà phê đóng một vị trí quan trọng, chính những đơn vị
này sẽ là cầu nối giúp người nông dân phát triển kinh tế.
1.1.4 Khái niệm, ý nghĩa và bản chất của hiệu quả kinh tế
1.1.4.1 Khái niệm về hiệu quả kinh tế
Hiệu quả là khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện
các mục hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó
trong những điều kiện nhất định. Nói cách khác, kết quả mà chủ thể nhận được
theo hướng mục tiêu trong hoạt động của mình càng lớn hơn chi phí bỏ ra bao
nhiêu thì có lời bấy nhiêu. Hiệu quả là chỉ tiêu dùng để phân tích, đánh giá các
phương án hành động và được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau.
Hiệu quả tổng hợp là hiệu quả chung phản ánh kết quả thực hiện nhiều
mục tiêu mà chủ thể đặt ra trong một giai đoạn nhất định trong quan hệ với chi
phí để có được những kết quả đó.
Hiệu quả kỹ thuật là số lượng sản phẩm có thể đạt được trên một đơn vị
chi phí đầu vào hay nguồn lực sử dụng vào sản xuất trong những điều kiện cụ
thể về kỹ thuật hay công nghệ áp dụng vào sản xuất nông nghiệp.
Hiệu quả phân bổ là giá trị sản phẩm thu thêm trên một đồng chi phí chi
thêm về đầu vào hay nguồn lực. Thực chất nó là hiệu quả kỹ thuật có tính đến
các yếu tố giá sản phẩm và giá đầu vào.
Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế mà trong đó sản xuất đạt cả hiệu
quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ. Điều đó có nghĩa là phần thu thêm trên một
đơn vị đầu tư thêm đạt được chỉ khi hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ là
tối đa, có nghĩa là cả yếu tố giá trị và hiện vật tính đến khi xem xét việc sử
dụng các nguồn lực trong nông nghiệp. Vậy muốn đạt được hiệu quả kinh tế thì
phải đạt đồng thời cả hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ.
8
Sơ đồ minh họa cho khái niệm hiệu quả kinh tế:
Giả sử có 4 nông trại sản xuất nông nghiệp là A, B, C, D quá trình sản
xuất chỉ sử dụng 2 yếu tố đầu vào là X1 ,X2 để cùng sản xuất ra một mức sản
lượng Q0.
Trong đó: Q0 - Là sản lượng đầu ra
Q0Q0 - Là đường đồng lượng
P1P2 - Là đường đồng phí
X2 Q0
D
P2
C
R
A B
Q0
0 X1
P1
Sơ đồ 1: Hiệu quả kinh tế, Hiệu quả kỹ thuật, Hiệu quả phân bổ
Từ sơ đồ trên ta thấy:
TE=OC/OD Hiệu quả kỹ thuật
TINE=CD/OD Phi hiệu quả kỹ thuật
AE=OR/OC Hiệu quả phân bổ
AINE=RC/OC Phi hiệu quả phân bổ
Vậy ta có: EE = OR/OD = OC/OD* OR/OC=TE*AE
Hiệu quả kinh tế = Hiệu quả kỹ thuật *Hiệu quả phân bổ
Qua kết quả trên cho được thì trang trại A đạt hiệu quả kinh tế, trang trại
B, C đạt hiệu quả kỹ thuật còn trang trại D không đạt hiệu quả vì cùng một
mức sản lượng là Q0 giống trang trại C, nhưng trang trại D còn phải lãng phí
thêm một khoảng là DC mới đạt mức sản lượng giống trang trại C.
9
1.1.4.2 Ý nghĩa và bản chất của hiệu quả kinh tế
Bản chất của việc phân tích hiệu quả là so sánh giữa chi phí và kết quả
theo những mục tiêu nhất định được biểu hiện dưới dạng hiện vật. Đó là số
lượng, chất lượng của những sản phẩm dịch vụ đầu vào và đầu ra. Những sản
phẩm này không thể so sánh trực tiếp với nhau nên những chi phí, lợi ích cần
được tính ra giá trị tương đương. Muốn vậy phải thông qua giá cả, là nhân tố
quyết định trong tính toán hiệu quả kinh tế.
Hiệu quả kinh tế là kết quả đạt được trong việc sử dụng hai yếu tố cơ
bản trong sản xuất kinh doanh đó là yếu tố nguồn lực và giá trị trong việc sử
dụng các yếu tố nguồn lực.
Yếu tố nguồn lực (yếu tố đầu vào): Chi phí trung gian, lao động sống,
khấu hao tài sản, thuế ...
Yếu tố giá trị (yếu tố đầu ra ): Số lượng, giá trị sản phẩm, giá trị sản
xuất, thu nhập, lợi nhuận, giá trị gia tăng
Bản chất của hiệu quả kinh tế là mối tương quan so sánh tương đối và
tuyệt đối giữa lượng kết quả thu được với lượng chi phí bỏ ra. Vì thế, việc xác
định các yếu tố đầu vào trong đánh giá hiệu quả kinh tế là gặp phải những khó
khăn bởi nhưng yếu tố tư liệu sản xuất khi tham gia vào quá trình sản xuất và
những yếu tố phi vật chất như chính sách môi trường, công nghệ, nó đòi hỏi
phải toàn diện.
Do đó có thể nói trên bình diện xã hội, thước đo của hiệu quả là mức độ
tối đa hoá trên một đơn vị hao phí lao động xã hội tối thiểu. Chỉ khi nào việc sử
dụng các yếu tố nguồn lực đạt được cả chỉ tiêu hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả
phân bổ mới đạt được hiệu quả kinh tế trong sản xuất.
1.2 CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1 Tình hình sản xuất và tiêu thụ cà phê ở nước ta
Việt Nam được chia thành hai vùng khí hậu phù hợp cho sản xuất cà phê.
Vùng Tây Nguyên và tỉnh Đồng Nai có đất đỏ bazan, rất thuận lợi để trồng cà
phê vối và các tỉnh miền Bắc, với độ cao phù hợp (khoảng 600-800m) phù hợp
10
với cà phê chè. Việt Nam trồng hai loại cà phê chính: cà phê vối và cà phê chè,
trong đó diện tích cà phê vối chiếm tới hơn 95% tổng diện tích gieo trồng.
Cà phê chủ yếu được trồng ở các vùng đồi núi phía Bắc và Tây Nguyên.
Diện tích cà phê tập trung nhiều nhất ở vùng Tây Nguyên, tại các tỉnh như Đắk
Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng và chủ yếu là cà phê vối. Diện
tích cà phê của khu vực này chiếm tới 72% tổng diện tích cả nước và sản lượng
cũng chiếm khoảng 92% tổng sản lượng cả nước. Cà phê chè trồng chủ yếu ở
vùng Nam Trung Bộ, vùng núi phía Bắc do các vùng này ở vùng cao hơn,
nhưng với diện tích và sản lượng rất khiêm tốn, tập trung nhiều ở các tỉnh
Quảng Trị, Sơn La và Điện Biên.
Trong thập kỷ 90 thế kỷ XX, sản lượng tăng lên trên 20%/năm (và các
năm 1994, 1995, 1996 sản lượng tăng thậm chí còn cao hơn với tỷ lệ lần lượt là
48,5%, 45,8% và 33%). Tăng trưởng cà phê Việt Nam những năm đầu thập
niên 90 chủ yếu dựa trên tăng diện tích. Sau đó, tăng năng suất trở thành yếu tố
chính đóng góp cho tăng trưởng sản lượng cà phê ở Việt Nam. Cùng với xu
hướng đó, cà phê dần trở thành mặt hàng nông sản quan trọng của Việt Nam
trong thập kỷ 90 chỉ trong vòng 7 năm, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu
cà phê đứng thứ 2, sau Brazin với diện tích cà phê lên tới 520.000 ha đạt mức
sản lượng 900.000 tấn.
Trong 10 năm trở lại đây Ngành cà phê đã có những bước phát triển
nhanh chóng đưa sản lượng cà phê tăng lên hàng trăm lần. Hội nhập kinh tế
quốc tế đã tạo ra những cơ hội lớn cho ngành nông nghiệp nước ta phát huy lợi
thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái để phát triển sản phẩm có tính cạnh tranh
cao như cà phê.
Xem xét diễn biến tình hình xuất khẩu cà phê Việt Nam qua các niên vụ
2005/2006 - 2007/2008 gần đây có thể thấy được sự tăng trưởng nhanh chóng
cả về sản lượng lẫn kim ngạch xuất khẩu bên cạnh sự biến động về giá cả.
Trong niên vụ 2005/2006 cả nước xuất khẩu 775.458 tấn (12,9 triệu
bao), giảm 7,3% so với năm trước và tăng 35% về trị giá xuất khẩu với kim
11
ngạch xuất khẩu đạt 1,40 tỷ USD. Sở dĩ sản lượng cà phê giảm xuống là do cà
phê mất mùa vì thời tiết khô hạn kéo dài, cây cà phê sinh trưởng và phát dục
khó khăn. Tiếp đến niên vụ 2006/2007, sản lượng xuất khẩu tăng 74% so với
niên vụ 2005/2006, đạt 1.200.000 tấn với kim ngạch xuất khẩu cà phê cả nước
đã đạt 1,50 tỷ USD.
Bảng 1: Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu niên vụ từ 2005-2009
Chỉ tiêu ĐVT Niên vụ Niên vụ Niên vụ Niên vụ
2005/2006 2006/2007 2007/2008 2008/2009
Khối lượng Tấn 775.458 1.200.000 1.077.375 954.000
Kim ngạch Tỷ USD 1,40 1,50 2,09 1,95
Nguồn : Tổng cục thống kê 2009
Điều đó đã cho thấy, cây cà phê ngày càng chứng tỏ thế mạnh của mình
trong sản xuất nông nghiệp. Trong niên vụ 2007/2008, cả nước xuất khẩu được
1.077.375 tấn cà phê nhân giảm chút ít về lượng so với niên vụ 2006/2007
nhưng tăng 31% về giá trị, đạt giá trị kim ngạch khoảng trên 2,09 tỷ USD. Đây
cũng là năm đạt kim ngạch xuất khẩu cà phê cao nhất từ trước đến nay. Giá
xuất khẩu bình quân đạt 1.937 USD/tấn, tăng 16% so với niên vụ trước. Do giá
cà phê thế giới tăng cao nên giá bán cà phê trong nước đạt mức bình quân
29.000-30.000đ/kg, có thời điểm đạt gần 40.000đ/kg. Với mức giá này, người
sản xuất bù đắp được chi phí và sản xuất có lãi. Điều đáng chú ý là trong niên
vụ này các doanh nghiệp đã phối hợp với nhau khá tốt, bán rải đều cà phê trong
suốt niên vụ nên không để xảy ra tình trạng đầu vụ bán và giao hàng ồ ạt gây
tác động xấu tới thị trường, tránh tình trạng bị khách hàng ép giá.
Mặc dù chịu ảnh hưởng của sản lượng thế giới tăng, cộng thêm tác động
xấu của thị trường tài chính thế giới và suy thoái của nền kinh tế Mỹ. Tuy vậy
niên vụ 2008/2009 vẫn xuất khẩu được 954.000 tấn, đạt kim ngạch 1,95 tỷ
USD (giảm 22,4% về lượng, nhưng tăng 2,1% về giá trị so với cùng kỳ năm
2007). Tính trung bình cả năm 2008, giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam đạt
12
2.044 USD/tấn, tăng 31% so với năm 2007, trong đó có lúc lên đỉnh điểm là
2.240 USD/tấn.
Tuy nhiên, điều đáng buồn là giá cà phê xuất khẩu lại liên tục rớt mạnh,
đặc biệt là từ cuối quý I đầu quý II giá tụt thê thảm khiến mức giá trung bình
xuất khẩu của 11 tháng giảm khoảng 350 USD/tấn so với cùng kỳ. Nguyên
nhân giá cà phê xuống thấp, ngoài tác động của khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu, yếu tố đầu cơ của các quỹ đầu tư, còn nguyên nhân quan
trọng là trong thời gian 8 tháng đầu vụ 2008/2009 các nước xuất khẩu cà phê
đã xuất 65,7 triệu bao so với 63,8 triệu bao cùng kỳ vụ trước. Chính vì được
cung cấp dồi dào, lượng dự trữ của các nhà rang xay đã đủ nên giá cà phê
không giữ được ở mức cao.
Theo Vicofa, qua diễn biến giá cả của vụ 2008/2009 cũng lộ ra những
điểm yếu của ngành cà phê Việt Nam, đặc biệt là chúng ta chưa có chiến lược
chủ động trong khâu tiêu thụ sản phẩm. “Vào đầu vụ chúng ta đã xuất ra một
lượng khá lớn cà phê nên không giữ được giá. Việc xuất khẩu chưa có sự điều
hành thống nhất trong khi nông dân cần tiền để trang trải cho các nhu cầu về
đời sống và sản xuất”.
Nhìn lại tình hình Ngành cà phê Việt Nam những năm qua chúng ta thấy
rõ sự phát triển đạt tốc độ rất cao đáng ca ngợi, tự hào và thị trường xuất khẩu
cà phê Việt Nam ra thế giới ngày càng mở rộng. Hiện nay, cả nước có khoảng
520.000 ha cà phê (riêng các tỉnh Tây Nguyên chiếm 90% diện tích). Hiệp hội
Cà phê - Ca cao Việt Nam dự báo, xuất khẩu cà phê Việt Nam trong năm 2009
ước đạt 980.000 tấn với giá trung bình khoảng 1.800 USD/Tấn, tương đương
với kim ngạch khoảng 1,764 tỷ USD, giảm 8,6% về lượng và giảm 17,4% về
trị giá so với năm 2008. Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam ngày càng
mở rộng, ngoài các nước ở châu Âu và Hoa Kỳ, cà phê Việt Nam còn xuất
khẩu sang vùng Trung Cận Đông, châu Phi, một số nước trong Hiệp hội
ASEAN và vùng Trung Mỹ. Trong đó phải kể đến 10 nước nhập khẩu hàng
đầu cà phê Việt Nam gồm: Bỉ, Đức, Hoa Kỳ, Tây Ban Nha, Italia, Ba Lan,
13
Pháp, Hàn Quốc, Anh, Nhật Bản. Trong nhóm 10 nước này chiếm thị phần rất
lớn khối lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục hải quan, trong 10 tháng đầu năm
2009 xuất khẩu cà phê của cả nước đạt 942.000 tấn với kim ngạch 1,39 tỷ
USD, tăng 17,4% về lượng nhưng vẫn giảm 17,1% về trị giá so với cùng kỳ
năm 2008. Những số liệu cho thấy nếu như năm 2008, Hoa Kỳ - thị trường giữ
vị trí quán quân về thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam, thì sang năm
2009 và cụ thể là 10 tháng đầu năm 2009 đã nhường vị trí này cho thị trường
Bỉ và đứng thứ 3 về thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam.
Trong 10 tháng đầu năm 2009, Bỉ là thị trường dẫn đầu nhập khẩu cà
phê của Việt Nam, với lượng nhập 123.786 tấn, trị giá 179.020 nghìn USD,
tăng 171,32% về lượng và tăng 85,56% về trị giá so với cùng kỳ năm trước;
tiếp đến là thị trường Đức, với lượng nhập 105.429 tấn, trị giá 156.409 nghìn
USD, tăng 3,92% về lượng, nhưng giảm 27,20% về trị giá; đứng thứ 3 là thị
trường Mỹ, với lượng nhập 97.477 tấn, trị giá 147.828 nghìn USD, tăng
24,07% về lượng và giảm 9,55% về trị giá. Đứng thứ 4 là thị trường Ialia với
lượng nhập 86.754 tấn, trị giá 129.447 nghìn USD, tăng 40,60% về lượng và
giảm 0,26% về trị giá. Tiếp đến là các thị trường như Tây Ban Nha, Pháp,
Philippine, Malaxia, Trung Quốc,...
Đáng chú ý trong 10 tháng đầu năm 2009, xuất khẩu cà phê của Việt
Nam sang thị trường Ấn Độ tăng mạnh, tăng 259,51% về lượng và 153,40% về
trị giá, với lượng xuất 12.094 tấn, trị giá 17.003 nghìn USD.
Tuy nước ta có sản lượng xuất khẩu cà phê là lớn và có thị trường xuất
khẩu khá rộng trên thế giới, nhưng cà phê Việt Nam xuất khẩu mới chỉ ở dạng
xuất khẩu thô. Xuất khẩu cà phê thô chưa tinh chế chiếm tới 95% trong tổng
sản lượng xuất khẩu, do đó giá trị đem lại là không cao.
14
Bảng 2: Thị trường xuất khẩu cà phê trong tháng 10 và 10 tháng năm 2009
So với 10T/08
10T/09
(%)
Nước
Lượng Trị giá Lượng Trị giá
(Tấn) (Tỷ USD) (Tấn) (Tỷ USD)
Bỉ 123.786 179.020 171,32 85,56
Đức 105.429 156.409 3,92 -27,20
Mỹ 97.477 147.828 24,07 -9,55
Italia 86.754 129.447 40,60 -0,26
Tây Ban Nha 67.622 99.083 13,41 -21,27
Nhật Bản 52.559 82.670 4,32 -25,99
Hà Lan 30.686 44.021 169,08 83,11
Hàn Quốc 26.221 38.862 -23,21 -44,31
Anh 24.889 36.288 -9,75 -36,55
Pháp 22.898 33.753 23,55 -10,93
Philippine 16.657 23.670 64,82 4,37
Thụy Sĩ 16.495 24.965 -23,26 -39,67
Malaixia 16.438 24.531 14,21 -20,40
Trung Quốc 12.998 18.992 12,64 -17,66
Singapore 12.412 18.263 -31,40 -51,90
Ấn độ 12.094 17.003 259,51 153,40
Nga 11.162 16.555 -20,93 -43,46
Ba Lan 8.938 12.858 -4,74 -34,14
Mehico 6.995 9.690 * *
Nguồn: Tổng cục thống kê 2009
Vì vậy mà ngành cà phê cần phải có biện pháp nhằm nâng cao sản xuất
cà phê tinh chế và xây dựng cho cà phê những thương hiệu vững chắc để có thể
đứng vững và cạnh tranh lâu dài trên thị trường thế giới.
15
1.2.2 Tình hình sản xuất cà phê trên địa bàn nghiên cứu
1.2.2.1 Tình hình sản xuất cà phê ở tỉnh Đắk Lắk
Đắk Lắk được thiên nhiên ưu đãi ban tặng cho nguồn tài nguyên đất khá
dồi dào, trong đó có 311.000 héc-ta đất đỏ Bazan, chiếm 55,6% tổng diện tích
đất đỏ bazan toàn Tây Nguyên, điều kiện sinh thái khá thuận lợi cho phát triển
các loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao như cà phê, cao su, chè, hồ tiêu...
Nhận thức được những tiềm năng, lợi thế đó từ sau ngày giải phóng, tỉnh Đắk
Lắk luôn chú trọng đến việc phát triển nhanh cây cà phê cả về quy mô, số
lượng cũng như chất lượng và xác định đây là cây công nghiệp chủ lực của địa
phương. Số liệu điều tra được thể hiện qua bảng 3 như sau:
Bảng 3: Diện tích và sản lượng thu hoạch cà phê của toàn Tỉnh
Chỉ tiêu ĐVT Niên vụ Niên vụ Niên vụ
(2003/2004) (2006/2007) (2008/2009)
Diện tích Ha 165.500 178.900 178.196
Sản lượng Tấn 284.000 450.000 415.494
Nguồn: Tổng cục thống kê Đắk Lắk 2008
Năm 1975, toàn Tỉnh chỉ có trên 3.700 ha cà phê, năm 1985 tăng lên
15.000 ha, năm 1990 là 76.000 ha. Có thể nói trong 6 năm trở lại đây khi giá cà
phê trên thị trường có chiều hướng tích cực thì diện tích cây cà phê ở trong
Tỉnh cũng biến động theo chiều hướng gia tăng.
Qua biểu đồ cho ta thấy được nếu trong niên vụ 2003/2004 toàn Tỉnh chỉ
có 165.500 ha, thì đến sau 2 năm tiếp theo là niên vụ 2006/2007 diện tích đã
tăng lên thêm 13.000 ha tương đương với diện tích là 178.900 ha. Sự tăng lên
quá nhanh về diện tích không chỉ dừng lại ở con số đó mà kết qủa là đến niên
vụ 2008/2009 diện tích trồng cà phê của tỉnh là 178.196 ha, bình quân mỗi năm
tăng 2.400 ha.
16
450000
400000
350000
300000
250000
Diện tích
200000
Sản lượng
150000
100000
50000
0
2003/2004 2006/2007 2008/2009
Biểu đồ 1: Biểu đồ diện tích và sản lượng cà phê tỉnh Đắk Lắk qua các
niên vụ
(2003/2004, 2006/2007, 2008/2009)
Đồng thời sản lượng cũng có phần tăng lên, nếu trong niên vụ
2003/2004 là 284.000 tấn tiếp đến đầu năm 2006 giá cà phê thế giới tăng khá
nhanh cùng với thời tiết khá thuận lợi, mưa đều, không xảy ra hạn hán và sâu
bệnh. Nên năng suất và sản lượng cà phê của Đắk Lắk tính hết niên vụ
2006/2007 tăng lên thành 450.000 tấn, đây được coi là niên vụ đạt cao nhất
của Đắk Lắk. Với giá thành sản xuất khoảng 10.000 đồng/kg cà phê nhân thì
đây được đánh giá là vụ cà phê người nông dân thu lợi nhuận cao nhất kể từ
năm 1998 trở lại đây. Và niên vụ 2008/2009 vừa rồi sản lượng thu được
415.494 tấn nhưng lại là vụ cà phê giá bán thấp nhất, chỉ trên dưới 25.000
đồng/kg, thấp hơn niên vụ trước 22%. Sản lượng xuất khẩu đạt 326.738 tấn,
tăng 6% nhưng kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt gần 500 triệu USD, giảm hơn 21%
so với niên vụ trước.
Cùng với tăng nhanh về diện tích, việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật
thâm canh như: chọn giống, bón phân, tưới nước, tạo tán,... đã làm năng suất và
sản lượng cà phê tăng mạnh. Trước năm 1990, năng suất bình quân cà phê kinh
doanh chỉ đạt 8 tạ - 9 tạ nhân/ha/năm, đến năm 1994 năng suất đạt 18,5 tạ/ha.
17
Những năm qua năng suất bình quân đạt 25 tạ - 28 tạ/ha/năm; cá biệt ở một số
vùng sản xuất đã cho năng suất bình quân đạt 35 tạ - 40 tạ/ha, vườn cà phê của
một số hộ gia đình đạt trên 50 tạ/ha. Hàng năm, sản lượng cà phê nhân của
Tỉnh bình quân đạt 430.000 tấn; cà phê qua chế biến rang xay đạt trên 15.000
tấn và cà phê hòa tan trên 1.000 tấn. Hơn 90% sản lượng cà phê ở Đắk Lắk
dành cho xuất khẩu tới 56 quốc gia và vùng lãnh thổ, kim ngạch xuất khẩu đạt
hơn 600 triệu USD/năm, chiếm gần 90% tổng kim ngạch xuất khẩu và đóng
góp hơn 40% GDP của Tỉnh, tạo việc làm ổn định cho 400 nghìn lao động.
Chiếm tỷ trọng lớn nhất vẫn là trên 33 thị trường truyền thống, trong đó có 10
nước có kim ngạch nhập khẩu trên 10 triệu USD, chiếm 70% tổng số lượng cà
phê xuất khẩu của tỉnh (tương đương với 228451 tấn) như: Nhật Bản trên 65,3
triệu USD, Đức 59,9 triệu USD, Italia 48,2 triệu USD,....
Sản xuất cà phê bền vững, cho chất lượng cao đang là mục tiêu mà các
doanh nghiệp và nhóm hộ nông dân ở Đắk Lắk hướng tới. Trong tổng số 30
doanh nghiệp sản xuất cà phê trên địa bàn Đắk Lắk, hiện có 5 doanh n... liệu điều tra từ bảng 9, cho thấy được vốn bình quân chung/hộ là
28,97 triệu đồng và vốn bình quân chung/ha là 24,16 triệu đồng. Nhìn chung
mức vốn này ở mức vừa phải. Riêng ở An Thuận với tổng số vốn trên hộ là
26,02 triệu đồng (trong đó mức vốn tự có 18,89 triệu đồng và vốn vay 7,13
triệu đồng. Còn những hộ khoán không đầu tư ở Phước An thì với tổng vốn
trên hộ là 31,91 triệu đồng (trong đó gồm 24,66 triệu đồng là nguồn vốn do tự
gia đình có còn lại 7,25 triệu đồng là nguồn vốn hộ đi vay).
Ta thấy ở các hộ nhận khoán không đầu tư chiếm mức vốn cao hơn
nhiều so với các hộ khoán có đầu tư, song vốn vay thì cả hai hình thức khoán
còn quá thấp vì các hộ gia đình vẫn còn mang tâm lý “ngại’’vay vốn và chỉ sử
dụng nguồn vốn tự có là chính. Tuy nhiên do diện tích cà phê của các hộ nhận
khoán không giống nhau nên mức đầu tư của các hộ có thể sẽ không giống
nhau. Vì vậy chỉ tiêu vốn bình quân trên ha sẽ phản ánh khá chính xác có ý
nghĩa hơn. Được biết, bình quân trên ha của các hộ thuộc vùng Phước An là
25,96 triệu đồng, An Thuận là 22,28 triệu đồng. Qua thực tế cho thấy năm
2009 vừa rồi các hộ nhận khoán cà phê của công ty cà phê Phước An đầu tư
vẫn chưa đúng định mức kỹ thuật đưa ra.
38
Bảng 9: Quy mô vốn của các hộ nhận khoán được điều tra
ĐVT: Triệu đồng
Vốn BQ/hộ Vốn BQC
Vốn
Hình Thức khoán
Vốn vay Vốn tự có BQ/ha Vốn BQ/hộ Vốn BQ/ha
An Thuận (khoán có đầu tư) 7,13 18,89 22,28
28,97 24,16
Phước An (khoán không đầu tư)
7,25 24,66 25,96
Nguồn: Số liệu điều tra năm 2009
39
Nhìn chung các hộ nhận khoán đều có ý thức tích luỹ một lượng vốn
tương đối. Lượng vốn này được xem là khoản đầu tư trong năm và sẽ thu hồi
lại khi bán sản phẩm sau khi thu hoạch. Như vậy vốn là một trong những nhân
tố quan trọng quyết định đến khả năng đầu tư cho sản xuất cà phê của các hộ
nhận khoán.
2.1.5 Tình hình trang bị kỹ thuật của các hộ nhận khoán được điều tra
Trong sản xuất nông nghiệp ngoài yếu tố lao động, đất đai thì năng lực
sản xuất của các hộ nhận khoán được thể hiện thông qua tư liệu sản xuất, các
hộ sản xuất phải bỏ ra một khoản chi phí để mua sắm máy móc, dụng cụ
Đầu tư trang bị tư liệu sản xuất là một trong các yếu tố có tính chất
quyết định đến vấn đề nâng cao năng suất lao động và tạo ra được một lượng
hàng hoá lớn hơn góp phần giải phóng được lao động chân tay thủ công.
Mức độ đầu tư quyết định đến quy mô sản xuất của các nhóm hộ, hộ nào
đầu tư càng lớn thì quy mô sản xuất càng lớn và ngược lại. Trình độ trang bị kỹ
thuật phục vụ sản xuất là thước đo trình độ của phương thức sản xuất, đặc biệt
là sản xuất cà phê cần nhiều lao động, tư liệu sản xuất còn phụ thuộc vào điều
kiện khả năng của từng hộ gia đình hiện có.
Từ bảng 10 cho thấy các hộ nhận khoán các tư liệu sản xuất như máy
cày, máy bơm nước và đường ống tưới hầu như cả hai hình thức khoán hộ nào
cũng có tính bình quân chung mỗi hộ gồm có: Số lượng máy cày là 1cái giá trị
là 19.010 nghìn đồng; máy bơm nước bình quân chung mỗi hộ là 0,66 cái và
giá trị bình quân chung mỗi hộ là 1.221,25 nghìn đồng; ống nước 7,49 cuộn và
giá trị bình quân chung mỗi hộ là 9.145,53 nghìn đồng. Theo như chúng tôi
được biết, những loại tư liệu này chúng không chỉ dùng cho hoạt động sản xuất
cà phê mà còn được dùng cho các hoạt động khác.
Còn các công cụ như bình phun thuốc, máy cắt cỏ và các nông cụ rẽ
tiền mau hỏng như: rỗ, cuốc, dây buộc, kéo cắt cành, với mức tiền mua của
các hộ khá là thấp so với những tư liệu sản xuất có công dụng sử dụng lâu.
40
Bảng 10: Tình hình trang bị kỹ thuật của các hộ nhận khoán được điều tra
Phân theo hình thức khoán
BQC
Phước An An Thuận
Chỉ tiêu ĐVT Số lượng Giá trị Số lượng Giá trị Số lượng Giá trị
BQ/hộ BQ/hộ BQ/hộ BQ/hộ BQC/hộ BQC/hộ
(1000đ) (1000đ) (1000đ)
1. Máy cày Cái 1,00 18.755 1,03 19.265 1,01 19.010
2. Máy bơm nước Cái 0,68 1.850 0,40 592,50 0,66 1.221,25
3. Ống nước Cuộn 7,76 5.588,50 4,55 1.350,05 7,49 9.145,53
4. Bình phun thuốc Cái 1,35 376,63 0,53 132,38 0,94 254,50
5. Máy cắt cỏ Cái 0,03 70 0,03 32,50 0,03 51,25
6. Nông cụ 1000đ * 436,39 * 419,38 * 427,88
TỔNG 26.794,76 22.073,56 30.110,41
Nguồn: Số liệu điều tra 2009
41
Riêng máy cắt cỏ còn rất ít hộ nhận khoán đầu tư mua sắm, là bởi vì các
hộ vẫn còn phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế của mỗi gia đình do thiết bị này mức
tiền mua khá cao. Trong tất cả các tư liệu thì giá trị mày cày được hộ bỏ ra mua
với chi phí cao nhất lần lượt Phước An bình quân mỗi hộ là 19.265 nghìn đồng,
An Thuận là 18.755 nghìn đồng. Máy cày được xem là phương tiện rất quan
trọng cho mỗi mùa tưới và sau khi thu hoạch quả được sử dụng để vận chuyển
cà về, bình quân mỗi máy cày hộ chở được khoảng 1 đến 1,50 tấn cà phê tươi
sau khi thu hoạch.
Số liệu cho thấy sự chênh lệch máy bơm nước và ống nước của An Thuận
và Phước An là khá cao. Bởi vì, các hộ nhận khoán có đầu tư đều sử dụng thiết
bị tưới thuê của công ty cà phê Phước An, chỉ một số ít là mua thêm đường ống
và máy bơm nước sử dụng do điều kiện tưới khó khăn. Nên số lượng và giá trị
bình quân mỗi hộ là rất thấp bình quân chung mội hộ ở An Thuận có 0,4 máy
bơm với giá trị là 592,55 nghìn đồng; ống nước số lượng 4,55 cuộn với giá trị là
1.350,05 nghìn đồng. Còn Phước An bình quân chung mỗi hộ có tới 0,68 cái
máy bơm với giá trị 1.850 nghìn đồng; ống nước số lượng là 7,76 cuộn với giá
trị là 5.588,50 nghìn đồng. Phần lớn các hộ khoán không đầu tư sử dụng máy
bơm và ống nước của mình trong mùa tuới, hộ chỉ thuê dường ống dẫn nước
chính của công ty. Lý do các hộ khoán không đầu tư ít thuê của công ty trong
suốt cả mùa tưới, vì chi phí thuê quá cao so với những hộ có đầu tư. Đối với các
hộ khoán có đầu tư cứ 1h là phải trả 308 nghìn đồng cho chủ tưới còn ở Phước
An phải trả 405 nghìn đồng cho 1h.
Tuy nhiên tại công ty Phước An đang áp dụng hình thức tưới péc, cách
tưới này đem lại hiệu quả hơn cho cây trồng nên qua điều tra thì năm 2009 các
hộ phần lớn đều thuê tưới theo kiểu này kể cả hình thức khoán không đầu tư.
Đối với nông cụ do có nhiều loại nên không đưa vào trong phần số lượng mà
chỉ đưa vào phần giá trị bình quân. Tổng giá trị toàn bộ tài sản thuộc về tư liệu
sản xuất của các hộ khá cao với bình quân chung mỗi hộ là 30.110,44 nghìn
đồng, trong đó An Thuận là 22.073,56 nghìn đồng, Phước An là 26.794,76
42
nghìn đồng. Điều đó nói lên được các hộ ở nơi đây đã trang bị cho mình những
tư liệu lao động cần thiết và đáp ứng phần nào sản xuất cà phê của các hộ.
2.2 PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA 1 HA CÀ PHÊ
Cây cà phê có chu kỳ sống dài khoảng gần 30 năm tuỳ thuộc vào điều
kiện tự nhiên về đất đai, cách thức chăm sóc của mỗi hộ. Thời kỳ KTCB của cà
phê kéo dài khoảng từ 2 - 3 năm, từ khi trồng mới cho đến khi cà phê đem vào
hái quả. Trong đó, doanh thu và chi phí là hai yếu tố được quan tâm lớn trong
mỗi quá trình sản xuất kinh doanh nói chung, cũng như đối với hoạt động sản
xuất cà phê của các hộ nhận khoán nói riêng. Do vậy, để thuận tiện cho việc
đánh giá hiệu quả kinh tế của cây cà phê chúng tôi tiến hành phân tích lần lượt
các yếu tố như sau:
2.2.1 Chi phí đầu tư cho 1 ha cà phê thời kỳ kiến thiết cơ bản
Để đánh giá được hiệu quả của bất cứ hoạt động kinh tế nào, chúng ta
cũng cần xây dựng các khoản chi phí liên quan đã bỏ ra để thực hiện hoạt động
kinh tế đó. Đối với hoạt động kinh doanh cây cà phê, chí phí được chia làm hai
thời kỳ: Thời kỳ cà phê KTCB và thời kỳ cà phê kinh doanh.
Thông thường khoảng 4 năm là thời kỳ cà phê KTCB, tuy nhiên từ năm
2006 trở lại đây với cách thức kỹ thuật thâm canh cao, đồng thời còn áp dụng
những hình thức lai tạo giống ghép do đó mà số lượng cà phê cho quả ở công
ty được tiến hành hết năm chăm sóc thứ 2 trở đi, nghĩa là đến năm thứ 4 các hộ
nhận khoán ở đây đã đưa cà phê vào giai đoạn bắt đầu kinh doanh. Chi phí thời
kỳ trồng mới chủ yếu là giống, phân bón và hoá chất, lao động Từ năm thứ 2
cho đến hết năm thứ 3 chi phí tương đối ổn định bao gồm chi phí vật tư phân
bón, tưới nước và lao động. Do giai đoạn KTCB cà phê chưa đem lại thu nhập
cho hộ, vì vậy phần chi phí này sẽ được bù đắp trong giai đoạn kinh doanh cà
phê.
- Chi phí trồng mới: Đây là năm đầu tiên các hộ nhận khoán tiến hành
trồng mới. Do đó các khoản mục tương đối cao (chi phí về giống ban đầu, chi
phí công lao động cho việc làm đất, trồng, chăm sóc, lượng phân đầu tư tương
43
đối nhiều). Theo số liệu điều tra tổng chi phí cho năm trồng mới tính bình quân
cho một ha ở cả hai hình thức khoán là 10.982,56 nghìn đồng chiếm 37,45%
tổng chi phí cả thời kỳ kiến thiết cơ bản. Trong đó công lao động cho năm
trồng mới là 7.076,26 nghìn đồng chiếm 64,43% chi phí trong cả năm. Công
lao động trong năm đầu cao là bởi vì để trồng mới cà phê cần rất nhiều công
đào hố, đào rãnh, xã thành, rãi vôi và phân quanh gốc, ngoài ra trong quá trình
trồng các hộ nhận khoán được công ty hướng dẫn cách trồng và kỹ thuật bón
phân. Tuy nhiên, cách thức của mỗi hộ khác nhau và chi phí giữa hai hình thức
cũng khá khác nhau .
Cụ thể, trong việc đầu tư tiền để mua giống, phần lớn các hộ nhận khoán
có đầu tư là không phải mất chi phí để mua giống, mà số giống này được công
ty cung cấp nên giống cho trồng mới ban đầu của các hộ là bằng không. Bên
cạnh đó công ty cũng cấp phân bón và BVTV cho các hộ theo từng đợt định
kỳ. Trong quá trình trồng và chăm sóc các hộ có điều kiện thì bón thêm lượng
phân cho vườn cây của mình. Ngược lại các hộ nhận khoán không đầu tư thì lại
phải bỏ ra một khoản chi phí để mua giống tự trồng với số tiền bình quân cho
một ha là 1.388,48 nghìn đồng cho khoảng gần 1100 cây giống, theo khoảng
cách hàng cách hàng 3m, cây cách cây 3m. Sự khác biệt này là do các hộ khoán
không đầu tư phần lớn trồng lại cà phê sau khi vườn cà phê nhận khoán trước
của công ty đã già cỗi, nên để tiếp tục thì họ phải đầu tư lại từ đầu, nếu không
thì công ty sẽ thu hồi lại số đất đó.
Qua khảo sát thực tế, năm trồng mới các hộ chủ yếu dùng phân hữu cơ
và phân vô cơ riêng phân vô cơ không bón phân Kaly. Vì Kaly có tác dụng
giúp quả cà phê chắc hạt, do đó giai đoạn này cà phê chưa cho quả, nên chưa
thể bón thêm loại phân đó.
Ngoài ra trồng cà phê yếu tố nước rất quan trọng, lượng nước phải luôn
đủ cho cây giúp cây sinh trưởng và phát triển không bị khô héo. Do đó năm
trồng mới, tưới nước cho cây cũng đòi hỏi chi phí khá cao, ở An Thuận
1.197,18 nghìn đồng/ha, còn ở Phước An các hộ phải bỏ ra cho toàn bộ mùa
tưới 1.273,5 nghìn đồng/ha cà phê.
44
Bảng 11: Chi phí 1 ha cà phê thời kỳ kiến thiết cơ bản
ĐVT: 1000đ
Trồng mới Chăm sóc 1 Chăm sóc 2
Chỉ tiêu An An An
Phước BQC Phước BQC Phước BQC
An Thuận An Thuận An Thuận
I. Chi phí vật tư 5.251,07 3.774,64 3.906,30 1.891,55 2.823,11 1.701,66 6.221,07 5.287.69 5.705,58
1. Giống 1.388,48 0,00 679,26 33,70 0,00 16,49 12,41 0,00 6,07
2. Phân vô cơ 1.633,58 1.521.59 1.300,26 388,49 770,52 309,96 4.023,62 3.930.23 3.729,50
- Đạm urê 1.153,19 1.030,98 814,75 175,25 234,74 205,64 1.147,06 1.358,40 1.153,00
- Lân 480,39 490,61 485,61 213,24 535,78 104,32 205,87 0,00 172,66
- Kaly 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 2.670,69 2.571,83 2.403,84
3. Phân hữu cơ 632,35 558,22 441,25 0,00 656,34 28,78 411,76 540,38 378,29
4. Vôi 265,93 469,48 369,90 33,09 79,53 56,35 0,00 373,71 88,73
5. Chi phí tưới nước 1.273,5 1.197,18 1.073,14 1.299,02 1.282,92 1.205,04 1.678,92 1.524,13 1.456,83
6. Thuốc BVTV 57,23 28,17 42,39 137,25 33,80 85,04 94,36 0,00 46,16
II. Chi phí lao động 6.321,69 7.469,11 7.076,26 3.833,00 6.072,77 4.478,55 6.823,53 6.295,77 6.453,95
- Lao động thuê 1.470,59 1.429,58 1.449,64 110,00 0,00 54,48 1.441,18 1.281,69 1.259,71
- Lao động GĐ 4.851,10 6.039,53 5.626,62 3.723,00 6.072,77 4.424,07 5.382,35 5.014,08 5.194,24
III. TỔNG 11.572,76 11.243,75 10.982,56 5.724,55 8.895,88 6.180,21 13.044,60 11.583.46 12.159,53
Nguồn: Số liệu điều tra 2009
45
Bình quân mỗi năm khoảng 2 - 3 đợt tưới cứ cách 20 ngày các hộ nhận
khoán lại tiến hành tưới lại. Trong năm trồng mới này hầu như các hộ đều sử
dụng lao động gia đình là chính vì cà phê chưa cho thu hoạch nên khoản thuê
nhân công ít hơn nhiều so với cà phê đang kinh doanh. Ở An Thuận trong tổng
chi phí nhân công 7.469,11 nghìn đồng gồm có (1.429,58 nghìn đồng là chi cho
thuê ngoài và 6.039,53 nghìn đồng là công gia đình bỏ ra tương xứng với giá trị
công lao động thuê). Còn ở Phước An thấp hơn, bình quân một ha các hộ chi ra
5.321,69 nghìn đồng chi phí nhân công với (1.470,59 nghìn đồng thuê ngoài và
4.851,10 nghìn đồng do công gia đình tự chăm sóc ).
Song song với các loại vật tư thì các khoản chi phí về vôi, thuốc BVTV
cũng được các hộ sử dụng trong năm đầu trồng mới này. Tuy nhiên, chi BVTV
của các hộ thuộc các hình thức khoán rất thấp là vì theo quy định của công ty là
nên cắt giảm hay không dùng thuốc BVTV để phun cho cây cà phê khi bị sâu.
Hiện tại công ty đang tiến hành quy ước là trồng và chế biến cà phê sạch
thân thiện với môi trường, nếu cây cà phê bị sâu chỉ khoanh vùng và khắc phục
cho phạm vi đó, không sử dụng thuốc một cách tràn lan như những năm trước
đây. Vì vậy mà các hộ nhận khoán của công ty đang áp dụng cách thức đó, với
khoản giảm này sẽ vừa giúp môi truờng được bảo vệ đồng thới bảo vệ sức khoẻ
cho người sản xuất cả những người tiêu dùng.
-Sau khi trồng mới thì các năm chăm sóc còn lại của thời kỳ kiến thiết
cơ bản cũng tương tự như năm trồng mới, song có phần giảm trong khoản chi
phí mua giống. Theo điều tra cho hai hình thức khoán, tỷ lệ một ha sẽ có
khoảng 5% - 10% cây chết cần phải tiến hành trồng dặm. Với chi phí bình quân
chung về giống cho năm chăm sóc 1, năm chăm sóc 2 lần lượt là 16,49 nghìn
đồng và 6,07 nghìn đồng cho một ha cà phê. Trong đó, Phước An phải bỏ ra
cho các năm chăm sóc khoản giống 33,70 nghìn đồng cho 1 ha cà phê chăm
sóc 1 và 12,41 nghìn đồng cho cà phê chăm sóc 2. Còn các hộ khoán có đầu tư
thì sẽ được công ty cung cấp cho lượng cây giống, để trồng dặm những cây bị
46
chết hay sâu bệnh qua sự giám sát kỹ thuật của cán bộ công ty về kiểm tra. Các
khoản chi về phân bón, tưới nước, chăm sóc cũng tương tự như năm trồng mới.
Riêng năm chăm sóc 2, tức là năm thứ 3 tính cả năm đầu tiên cho 1 ha cà
phê thì năm này các hộ đều bắt đầu bón thêm phân Kaly. Bình quân một ha cho
hình thức nhận khoán có đầu tư là 2.571,83 nghìn đồng và bình quân cho 1 ha
của hình thức khoán không đầu tư là 2.670,69 nghìn đồng. Do các hộ ở hình thức
khoán có đầu tư còn có thêm lượng phân do công ty cung cấp nên chi phí Kaly
không cao bằng các hộ khoán không đầu tư. Đây là năm cây cà phê bắt đầu cho
quả bói nên việc đầu tư sẽ có phần cao hơn nhiều so với năm chăm sóc 1.
Tổng chi phí cho năm trồng mới, chăm sóc 1, chăm sóc 2 lần lượt tính
bình quân chung cho cả hai hình thức khoán là 10.982,56 nghìn đồng/ha;
6.180,21 nghìn đồng/ha và 12.159,53 nghìn đồng/ha cà phê thuộc giai đoạn
KTCB. Trong đó, cơ bản chủ yếu là các khoản chi phí mua giống cho năm
trồng mới và các khoản chi công lao động, chi tưới nước và chi bón phân, còn
lại các khoản chi phí khác thì còn thấp. Phần lớn là công chăm sóc của gia đình
chiếm nhiều nhất trong giai đoạn chưa có thu hoạch. Nhìn chung khoản chi phí
cho 1 ha cà phê thời kỳ KTCB khá lớn. Đây được xem như là một giai đoạn
khó khăn rất lớn đối với các hộ nhận khoán, vì vậy các hộ cần phải chủ động
nguồn vốn để sản xuất đúng quy trình kỹ thuật, góp phần giảm bớt được các
khoản chi phí.
2.2.2 Chi phí đầu tư cho 1 ha cà phê thời kỳ kinh doanh
Chi phí sản xuất kinh doanh bao gồm tất cả các chi phí từ khâu mua
nguyên liệu tạo ra sản phẩm cho đến khi tiêu thụ. Điều đó cho thấy nó có ảnh
hưởng trực tiếp đến kết quả và hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh, nó
thể hiện cách thức tổ chức trình độ đầu tư quản lý của các chủ hộ. Chi phí đầu
tư của chủ hộ cho thấy được mức độ đầu tư thâm canh, tính toán đồng vốn bỏ
ra so với kết quả mà mình đạt được có thật sự hiệu quả và có đem lại lợi nhuận
hay không.
47
Tổng chi phí thời kỳ kinh doanh cho 1 ha cà phê bao gồm: Chi phí nhân
công, chi phí vật tư phân bón, chi phí tưới nước và chi phí khấu hao. Lý do có
phần chi phí khấu hao là vì cà phê thuộc cây công nghiệp lâu năm và được xem
như là tài sản cố định của cả một quá trình sản xuất kinh doanh cây cà phê. Do
vậy, chúng tôi sẽ đưa phần khấu hao của 3 năm KTCB vào tổng chi phí sản
xuất của các năm kinh doanh sau này.
Qua bảng điều tra dưới đây chúng ta sẽ thấy được các khoản chi phí cao
hơn rất nhiều so với thời kỳ đầu tư KTCB. Nhìn từ bảng 12 ta thấy rằng tổng
chi phí của các hộ khoán có đầu tư ở vùng An Thuận 30.966,10 nghìn đồng,
Phước An với tổng chi phí là 34.207,29 nghìn đồng, bình quân cho cả hai hình
thức khoán là 33.962,92 nghìn đồng.
Trong tổng chi phí này gồm có các khoản chi phí: Chi phí về công lao
động là chi phí lớn nhất cho thời kỳ kinh doanh, bởi vì các hộ nhận khoán cà
của công ty nên yêu cầu về tỷ lệ chín luôn phải đạt từ 90% đến 95%. Nên để có
đủ số lượng cà phê nộp theo yêu cầu về tỷ lệ chín và theo hợp đồng khoán đã
giao ước với công ty, các hộ rất quan tâm vào khoản đầu tư thuê lao động.
Đồng thời các hộ còn phải giao nộp vào một thời gian quy định chung,
nên các hộ phải hái trong cùng một thời gian chung, vì vậy số lượng nhân công
phục vụ cho mùa hái rất lớn. Hầu như các hộ điều tra đều phải thuê người hái
cà phê trong mùa vụ hái với chi phí cho khoản trả tiền công khá cao. Còn các
khoản thuê công bón phân, làm cỏ, cắt cành, phun thuốc gia đình cũng phải bỏ
ra, tuy nhiên khoản chi phí thuê vào những việc này không lớn chủ yếu tận
dụng lao động trong gia đình là chính.
Trong năm 2009 giá cả các mặt hàng vật tư đều tăng nên đã gây không ít
khó khăn cho các hộ nhận khoán. Điều đó đã làm cho giá thuê lao động cũng
tăng lên từ 70 nghìn đến 80 nghìn đồng có khi lên tới 100 ngìn đồng cho một
công. Năm vừa rồi các hộ ở An Thuận bỏ ra 4.413,17 nghìn cho 1 ha tiền thuê
lao động, còn Phước An bỏ ra 3.895,05 nghìn đồng để thuê lao động làm cho 1
48
ha cà phê trong thời kỳ kinh doanh, bình quân chung cả hai vùng là 4.144,89
nghìn đồng.
Bảng 12: Chi phí sản xuất thời kỳ kinh doanh của 1 ha cà phê
ĐVT: 1000đ
Chỉ Tiêu An Thuận Phước An BQC
I. Chi phí trung gian 17.125,72 19.879,72 19.932,70
1. Phân hữu cơ 2.268,06 1.107,75 1.667,23
2. Đạm urê 703,25 2.871,28 2.630,37
3. Lân 16,13 1.302,96 682,44
4. Kaly 507,54 3.434,23 3.576,37
5. Sunfat-kẽm 1.831,20 792,41 212,15
6. Phân NPK 1.456,54 933,11 1.289,07
7. Thuốc BVTV 54,03 219,99 139,96
8. Chi lao động thuê 4.413,17 3.895,05 4.144,89
9. Chi phí tưới nước 5.287,17 4.753,78 5.010,98
10. Chi phí khác 588,63 569,16 579,24
II. Chi phí tự có 12.665,45 13.203,80 12.944,21
- Chi công lao động GĐ 12.665,45 13.203,80 12.944,21
III. Khấu hao 1.174,93 1.123,77 1.086,01
Tổng 30.966,10 34.207,29 33.962,92
Nguồn số liệu điều tra 2009
Chi phí phân bón: Có thể nói đây là khoản chi phí mà các hộ đầu tư có
thật sự hiệu quả không, là phụ thuộc vào khoản chi phí này, số lượng bón trong
năm phụ thuộc vào diện tích, tuổi cây, loại đất và thời tiết. Qua số liệu điều tra
trong năm 2009 các hộ nhận khoán thuộc công ty chủ yếu bón các loại phân
hữu cơ, phân đạm urê, Kaly, phân tổng hợp NPK và một số hộ còn bón thêm
phân sunfat-kẽm. Nhìn chung chi phí đầu tư của các hộ ở Phước An cao hơn ở
An Thuận vì do An Thuận còn có thêm sự đầu tư của công ty, lượng đầu tư này
sẽ được công ty lấy lại thông qua sản lượng nộp trừ cuối kỳ.
49
Khoản chi phí BVTV và chi phí khác: Qua điều tra cho thấy hầu như
các hộ có ý thức trong công tác phòng bệnh hơn chữa bệnh, nên lượng thuốc
sâu sử dụng không lớn lắm. Trong hai vùng An Thuận và Phước An, thì Phước
An có chi phí phun nhiều nhất với 219,99 nghìn đồng. Còn khoản chi phí khác
bao gồm: chi phí vận chuyển, chi phí xăng dầu đi lại dùng cho quá trình chạy
máy,.. Lượng chi phí này cao hay thấp tuỳ thuộc vào lượng sản phẩm cà phê
của từng hộ, khoản chi phí này không đáng kể.
Chi phí khấu hao: Để tính khấu hao, chúng tôi sử dụng khấu hao theo
đường thẳng. Từ số liệu bảng 11, ta có tổng mức cho phí trong thời kỳ kiến
thiết cơ bản tính bình quân cho 1 ha cà phê ở An Thuận là 31.723,09 nghìn
đồng, ở Phước An là 30.341,91 nghìn đồng và bình quân chung của cả hai hình
thức khoán có tổng chi phí thời kỳ KTCB 29.322,30 nghìn đồng. Theo ước tính
của công ty cà phê Phước An, cây cà phê thời gian khai thác là 27 năm. Do đó
mức khấu hao cho 1 ha cà phê trong thời kỳ kinh doanh của An Thuận là
1.174,93 nghìn đồng, Phước An là 1.123,77 nghìn đồng và khấu hao bình quân
chung là 1.086,01 nghìn đồng. Do chi phí đầu tư ban đầu khá lớn nên chi phí
khấu hao này khá cao.
2.2.3 Kết quả và hiệu quả sản xuất cà phê của các hộ nhận khoán điều tra
Để đánh giá đúng hiệu quả hoạt động của một quá trình sản xuất cho các
hộ nhận khoán thuộc công ty cà phê Phước An, bên cạnh những khoản chi phí
sản xuất thì kết quả hoạt động sản xuất cà phê là một chỉ tiêu không thể thiếu
trong việc tính toán và đánh giá hiệu quả kinh tế của cây cà phê mang lại.
Trong đó, hiệu quả kinh tế là một chỉ tiêu quan trọng không thể thiếu có
ảnh hưởng đến quyết định của hộ. Mặt khác hoạt động sản xuất cà phê chu kỳ
sống của cây khá dài, mức đầu tư chi phí cho các năm trồng mới, năm kinh
doanh rất lớn. Do đó, các chỉ tiêu kết quả và hiệu quả từ hoạt động mang lại có
ý nghĩa lớn đối với các hộ nhận khoán ở công ty. Từ đây sẽ giúp các hộ nhận
khoán quyết định nên hay không nên tiếp tục tham gia hình thức nhận khoán
của công ty cà phê Phước An với xu thế hiện nay.
50
Qua bảng 13 cho biết: Năm 2009, giá trị sản xuất của các hộ nhận khoán
có cà phê trong giai đoạn cho kinh doanh đạt 70.938,90 nghìn đồng/ha tính
chung cho cả hai hình thức khoán. Trong đó, cà phê kinh doanh của các hộ
nhận khoán có đầu tư ở An Thuận bình quân 1 ha đạt được 74.910,56 nghìn
đồng giá trị sản xuất, còn đối với các hộ nhận khoán không đầu tư ở Phước An
bình quân 1 ha các hộ thu được 66.632,40 nghìn đồng giá trị sản xuất.
Từ kết quả ta thấy các hộ nhận khoán ở cả hai hình thức đạt được tương
đối cao, là một kết quả khá khả quan mang lại cho các hộ nhận khoán. Nhưng
do giá cả vật tư phân bón, chi phí thuê nhân công lao động ngày càng tăng, mà
giá cà phê lại có xu hướng giảm mạnh, vì vậy các hộ nhận khoán đều cho rằng
năm vừa rồi họ thu hoạch không lời, thêm vào đó do gặp mưa khi cà phê ra hoa
nên sản lượng thu hoạch không cao.
Với cả hai hình thức khoán, năm vừa qua bình quân 1 ha các hộ nhận
khoán đầu tư cho tổng chi phí trung gian là 19.932,70 nghìn đồng. Riêng những
hộ nhận khoán không đầu tư ở Phước An chi phí bỏ ra khá nhiều với 19.879,72
nghìn đồng/ha, cao hơn hẳn những hộ nhận khoán có đầu tư của công ty với chi
phí các hộ ở An Thuận bỏ ra là 17.125,12 nghìn đồng/ha. Mặc dù cà phê của
các hộ nhận khoán đều trong giai đoạn cà phê cho kinh doanh năng suất, nên
nhìn chung mức chi phí này cũng tương đối khá cao cho các hộ, đặc biệt đối
với những hộ có nguồn tài chính gia đình hạn hẹp.
Cũng thông qua số liệu bảng 13 bình quân một ha cà phê kinh doanh cho
cả hai hình thức khoán tạo ra được 51.006,20 nghìn đồng giá trị gia tăng. Trong
hai hình thức nhận khoán, ở hình thức khoán có đầu tư An Thuận tạo ra được
57.784,84 nghìn đồng giá trị gia tăng bình quân môt ha, lớn hơn rất nhiều so
với hình thức khoán không đầu tư, ở Phước An bình quân 1 ha đem lại
49.506,68 nghìn đồng giá trị gia tăng. Qua đây cho ta thấy được các hộ đầu tư
ở An Thuận đạt hiệu quả cao hơn Phước An. Các hộ nhận khoán ở Phước An
có thể trong quá trình đầu tư phân bón chưa khoa học và cũng có thể do các lý
51
do khác gây khó khăn, dẫn đến các hộ có giá trị gia tăng không lớn mà chi phí
đầu tư lại cao hơn so với An Thuận.
Bảng 13: Kết quả và hiệu quả sản xuất cà phê của các hộ được điều tra
Tính bình quân/ha
Chỉ tiêu ĐVT Phước An An Thuận BQC
1. Giá trị sản xuất (GO) 1000đ 66.632,40 74.910,56 70.938,90
2. Chi phí trung gian (IC) 1000đ 19.879,72 17.125,72 19.932,70
3. Giá trị gia tăng (VA) 1000đ 49.506,68 57.784,84 51.006,20
4. Thu nhập hỗn hợp (MI) 1000đ 48.382,91 56.609,91 49.920,19
5. Lợi nhuận (LN) 1000đ 35.179,11 43.944,46 36.975,98
6. GO/IC Lần 3,35 4,37 3,56
7. VA/IC Lần 2,49 3,37 2,56
8. MI/IC Lần 2,43 3,31 2,50
9. LN/IC Lần 1,77 2,57 1,86
10. LN/TC Lần 1,03 1,42 1,09
Nguồn số liệu điều tra 2009
Từ GO, IC bình quân 1 ha giữa hai hình thức khoán có sự chênh lệch,
dẫn đến lợi nhuận đem lại giữa các hình thức khoán cũng có sự chênh lệch
nhau. Lợi nhuận tính chung cho cả hai hình thức khoán bình quân cho lãi
36.975,98 nghìn đồng/ha. Trong đó, riêng các hộ ở An Thuận lãi bình quân 1ha
là 43.944,46 nghìn đồng, còn Phước An thấp hơn các hộ ở đây lãi có được từ 1
ha là 35.179,11 nghìn đồng. Do các hộ nhận khoán không đầu tư sản lượng vừa
rồi đạt được thấp, cộng thêm chi phí đâu tư cao nên lợi nhuận thu lại không cao
bằng các hộ ở An Thuận.
Trên cơ sở tổng hợp các khoản mục chi phí và kết quả sản xuất của các
hình thức nhận khoán, chúng tôi đưa thêm một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của
các hộ gồm: GO/IC, VA/IC, MI/IC, LN/IC, LN/TC được tính bình quân cho 1
52
ha. Cũng qua bảng 13 ở trên cho ta biết cứ 1 đồng chi phí trung gian bỏ ra các hộ
thu được tính bình quân 1 ha cho cả hai hình thức khoán thu lại được 3,56 đồng
giá trị sản xuất; 2,56 đồng giá trị gia tăng; 2,50 đồng thu nhập hỗn hợp và 1,86
đồng lợi nhuận.
Trong đó cứ 1 đồng chi phí trung gian được bỏ ra ở các hộ nhận khoán
có đầu tư ở An Thuận thì thu được 4,37 đồng giá trị sản xuất; 3,37 đồng giá trị
gia tăng; 3,31 đồng thu nhập hỗn hợp và 2,57 đồng lợi nhuận. Ngược lại các hộ
nhận khoán không đầu tư ở Phước An cứ bỏ ra 1 đồng chi phí tính bình quân
cho 1 ha thu lại chỉ được 3,35 đồng giá trị sản xuất; 2,49 đồng giá trị gia tăng;
2,43 đồng thu nhập hỗn hợp và 1,77 đồng lợi nhuận.
Nếu xét chỉ tiêu LN/TC thì thấy rằng, cứ 1 đồng chi phí hộ bỏ ra bình
quân cho 1 ha cà phê của cả hai hình thức khoán tạo ra cho hộ được 1,09 đồng
lợi nhuận. Riêng An Thuận 1 đồng chi phí bỏ ra thu 1,42 đồng thu từ lợi nhuận,
còn Phước An thì 1 đồng chi phí bỏ ra thu 1,03 đồng từ lợi nhuận thấp hơn
nhiều so với các hộ ở An Thuận.
Như vậy có thể nói rằng cả hai hình thức khoán đều đạt được hiệu quả
kinh tế, mà cụ thể đều đem lại lợi nhuận cho các chủ hộ. Tuy nhiên nếu đem so
sánh hiệu quả kinh tế của cả hai hình thức khoán, thì ta thấy ở An Thuận các hộ
nhận khoán đạt hiệu quả hơn trong sản xuất cà phê so với các hộ nhận khoán
không đầu tư ở Phước An.
2.2.4 Đánh giá hiệu quả kinh tế của cây cà phê thông qua NPV
Việc đánh giá kết quả từ hoạt động sản xuất cà phê là một vấn đề khá
khó khăn và phức tạp. Trên thực tế, cà phê lại là cây công nghiệp lâu năm, có
chu kỳ sống tương đối dài. Do đó việc xác định hiệu quả kinh tế qua một số chỉ
tiêu GO, IC, VA, MI, LN tại thời điểm điều tra năm 2009 là chưa thể phản ánh
được toàn bộ chu kỳ kinh tế mà cây cà phê đem lại cho các hộ nhận khoán. Vì
vậy, để đánh giá hoạt động sản xuất cà phê ở các hộ nhận khoán trong dài hạn,
đó là chỉ tiêu giá trị hiện tại thuần (NPV), nhằm mục đích phản ánh hiệu quả
của hộ nhận khoán một cách rõ và chính xác hơn.
53
Theo dòng chu chuyển của vườn cây cà phê và theo sự tính toán của
phòng kỹ thuật sản xuất thuộc công ty cà phê Phước An, cùng với định mức
kinh tế kỹ thuật, giá cả các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản phẩm cà phê, ước
tính về các khoản chi phí, doanh thu qua các năm sản xuất kinh doanh của cây
cà phê đem lại. Như vậy, chúng ta sẽ xem xét hoạt động sản xuất cà phê của
các hộ nhận khoán giống như một quá trình đầu tư dài hạn vào một dự án.
Từ đây chúng tôi xin được đưa ra bảng tính toán hiện giá thu nhập thuần
(NPV) cho các hộ nhận khoán của công ty cà phê Phước An, được thể hiện rõ
qua bảng phụ lục 1. Trong đó chúng tôi chỉ tính chung cho cả hai hình thức
khoán, với số năm của một vòng đời kinh tế từ cây cà phê đem lại cho các hộ
nhận khoán là 30 năm (n = 30), với giá bán bình quân chung là 3.800 đồng/kg
cà phê tươi, với lãi suất tính toán là mức lãi suất 15%/năm của ngân hàng
Eakênh cho các hộ ở đây vay, cùng với năng suất cà phê đem lại cao nhất trong
dòng chu chuyển của vườn cây là 16,5 tấn và thấp nhất là 7,5 tấn.
Bảng 14: Hiệu quả đầu tư cho cả chu kỳ 30 năm
từ hoạt động sản xuất cà phê
Tính bình quân/ha
Chỉ tiêu ĐVT BQC
Tổng doanh thu 1000đ 1.311.947,76
Tổng chi phí 1000đ 531.960,30
Lợi nhuận 1000đ 779.987,46
NPV 1000đ 123.885,65
IRR % 20
Nguồn số liệu điều tra 2009
Như vậy qua bảng tổng hợp 14, ta thấy doanh thu dự đoán của 30 năm
bình quân/ha thu được là 1.311.947,76 nghìn đồng, với tổng chi phí dự toán mà
hộ bỏ ra cả đời kinh tế của cây cà phê là 531.960,30 nghìn đồng và lợi nhuận
mà các hộ nhận khoán có được cho 1 ha cà phê là 779.987,46 nghìn đồng, một
54
con số tương đối cao cao. Trong 30 năm hạch toán thì giá trị hiện tại thuần đem
lại cho hộ nhận khoán NPV = 123.885,65 nghìn đồng/ha > 0, với tỷ lệ hoàn
vốn nội bộ IRR = 20% như vậy mức lãi suất này cao hơn nhiều so với mức
chiết khấu được chọn.
Do vậy, từ đây ta có thể kết luận rằng hoạt động sản xuất cà phê của các
hộ nhận khoán thuộc công ty cà phê Phước An là có hiệu quả kinh tế.
2.3 TÌNH HÌNH TIÊU THỤ
Đầu ra sản phẩm là điều kiện cho quá trình sản xuất tồn tại, là tiền đề
cho quá trình tái sản xuất diễn ra, đầu ra có được ổn định thì các hộ nhận khoán
ở đây mới yên tâm và mở rộng sản xuất. Có thể nói yếu tố thị trường tiêu thụ
đóng vai trò quyết định đến hoạt động phát triển sản xuất cây cà phê của các hộ
nhận khoán.
Qua thực tế điều tra về tình hình tiêu thụ cho sản phẩm do các hộ sản
xuất khá đảm bảo và ổn định. Hầu như 100% các hộ nhận khoán được điều tra
sau khi thu hoạch đều giao nộp và bán tại xưởng chế biến của công ty cà phê
Phước An.Như vậy qua sơ đồ 3 cho chúng ta thấy cả hai hình thức khoán các
hộ đều tham gia vào kênh phân phối này. Kênh phân phối gồm có: các hộ nhận
khoán cà phê, cơ sở tập trung nhận sản lượng giao nộp và bán của các hộ tại
các đội và xưởng chế biến của công ty cà phê Phước An. Kênh phân ph...nh hưởng khá
lớn đến năng suất của nó đem lại.
Xét mức độ ảnh hưởng của từng vùng, thì ta thấy đối với cà phê kinh
doanh dưới 7 năm thì cả hai hình thức khoán có sộ hộ nhận khoán tương đương
nhau, với tổng số 10 hộ và bình quân 1 ha ở An Thuận đạt năng suất 15,27 tấn,
Phước An đạt 15,36 tấn. Còn đối với cà phê cho kinh doanh từ 7 - 12 năm thì
năng suất bình quân 1 ha ở hai hình thức khoán cao hơn, đây được xem giai
đoạn cà phê đang chuẩn bị bước vào giai đoạn sung sức cho năng suất bắt đầu
cao. Với tổng số 31 hộ chiếm 46,97 % số hộ nhận khoán có cà phê kinh doanh
vào giai đoạn này nhiều nhất. Ở An Thuận với 16 hộ đạt năng suất bình quân
18,43 tấn/ha còn Phước An chiếm 15 hộ với mức bình quân năng suất cho 1 ha
là 17,45 tấn tươi.
Bảng 19: Ảnh hưởng của tuổi cây đến năng suất
Tính bình quân/ha
BQC
Chỉ tiêu Số hộ An Thuận Phước An
(Tấn/ha)
< 7 năm kinh doanh 10 15,27 15,36 15,30
7 - 12 năm kinh doanh 31 18,43 17,45 17,68
> 12 năm kinh doanh 25 18,87 20,76 20,37
Nguồn số liệu điều tra năm 2009
Riêng đối với cà phê bước vào những năm thuộc giai đoạn kinh doanh
cho năng suất cao nhất trong suốt chu kỳ kinh tế của cây cà phê đem lại .Với 25
63
hộ có cà phê kinh doanh ở giai đoạn này, Phước An cho năng suất bình quân
lên tới 20,76 tấn/ha. Năng suất đạt rất cao song không phải hộ nào cũng đạt
được như vậy, ngoài yếu tố tuổi cây các hộ còn phải có kỹ thuật đầu tư chăm
sóc hợp lý.
2.4.2 Phân tích các nhân tố đầu vào đến giá trị gia tăng của các hộ nhận
khoán được điều tra ở công ty cà phê Phước An
Giá trị gia tăng tính trên 1 ha cà phê được xem là một chỉ tiêu không thể
thiếu trong quá trình tính toán hiệu quả kinh tế của các hộ. Với một mức giá trị
đầu ra như nhau nhưng mỗi hộ sẽ có những cách sử dụng các yếu tố đầu vào
theo những tỷ lệ khác nhau. Vì vậy để thấy rõ hơn hiệu quả tác động của các
nhân tố trong mô hình tới giá trị gia tăng của các hộ nhận khoán, chúng tôi sử
dụng phương pháp toán kinh tế lượng (cụ thể là phương pháp bình phương bé
nhất OLS trên phần mềm Eviews4) để ước lượng hàm sản xuất Cobb-Douglas.
Trong hàm sản xuất, phạm vi của đề tài chỉ dừng lại ở việc phân tích
những nhân tố chủ quan có ảnh hưởng lớn đến giá trị gia tăng của hoạt động
sản xuất cà phê của các hộ nhận khoán. Để thấy được ảnh hưởng cụ thể của
mỗi nhân tố sản xuất đến từng hoạt động sản xuất cây cà phê, tình trạng cực đại
hóa lợi nhuận thông qua việc sử dụng các yếu tố đầu vào theo điều kiện giá trị
sản phẩm biên bằng chi phí biên (MVPi = MCi) và mức độ hiệu quả kỹ thuật
hàm sản xuất Cobb-Douglas cần được xây dựng cho mỗi hình thức khoán cà
phê của các hộ. Tuy nhiên giữa hai hình thức khoán nhìn chung cách thức đầu
tư không có gì khác nhau nhiều và đồng thời đảm bảo số mẩu hợp lý. Vì vậy,
chúng tôi xin được xây dụng hàm sản xuất Cobb-Douglas cho hoạt động sản
xuất cà phê theo một hình thức khoán nói chung. Kết quả phân tích hàm sản
xuất Cobb-Douglas như sau:
Trong mô hình ta thấy R2 = 0,9634 có ý nghĩa là các yếu tố trong mô hình
ảnh hưởng quyết định trên 96,34% sự biến thiên của giá trị gia tăng trên một ha
đất trồng cà phê; còn 3,66% là sự biến động do các yếu tố bên ngoài mô hình tạo
2
ra. Kiểm định F = 316,13 < F 0,05 (5,60) do đó ta bác bỏ giả thiết cho rằng R =0,
64
có nghĩa là các biến đưa vào mô hình giải thích được sự biến thiên của biến phụ
thuộc.
Bảng 20: Kết Quả ước lượng hàm sản xuất Cobb-Douglas
Các nhân tố ảnh hưởng Mức độ ảnh hưởng P-value
HẰNG SỐ (C) -0,6487 0,0136
LOG(VT) 0,1199 0,0002
LOG(LĐ) 0,5340 0,0000
LOG(TN) 0,0987 0,0007
LOG(KN) 0,6943 0,0000
HÌNH THỨC KHOÁN (D) 0,0444 0,0008
R2 0,9634
F 316,13 0,0000
Nguồn số liệu điều tra 2009
Qua phân tích cho thấy các biến đưa vào mô hình này đều có ý nghĩa
thống kê. Cụ thể về mức độ ảnh hưởng cá biệt nói lên sự ảnh hưởng của từng
biến độc lập đưa vào mô hình đến sự biến động giá trị gia tăng trên 1 ha cà phê:
- Yếu tố về chi phí phân bón và BVTV: Hệ số hồi quy của biến phân
bón và BVTV là α1 = 0,1199. Tức là trong điều kiện cố định các yếu tố đầu
vào còn lại trong mô hình. Nếu ta tăng 1% chi phí phân bón và thuốc BVTV
trên 1 ha thì giá trị gia tăng trên 1 ha sẽ tăng lên 0,1199%. Mức ảnh hưởng này
còn khá lớn là do các hộ nhận khoán vẫn còn chưa thực hiện một cách hợp lý
trong quá trình bón phân và phun thuốc. Nếu trong quá trình trồng, chăm sóc
các hộ nhận khoán biết cách đầu tư hợp lý thì yếu tố đầu tư này sẽ có tác động
tích cực đến vườn cây, ngược lại nếu khoản chi phí này đầu tư một cách bất
hợp lý thì sẽ phi tác dụng tới vườn cây. Vấn đề đặt ra là các hộ phải biết cân
nhắc trong việc tính toán chi phí đầu tư, để vừa giúp các hộ tiết kiệm được tiền
bạc lại vừa đem lại hiệu quả cao.
-Yếu tố công lao động: Hệ số hồi quy của biến công lao động là
α2=0,5340. Tức là trong điều kiện cố định các yếu tố đầu vào còn lại trong mô
hình. Nếu như ta tăng 1% công lao động trên 1 ha đất trồng cà phê thì giá trị
65
gia tăng tạo ra trên 1 ha sẽ tăng lên 0,5340 %. Qua đây ta thấy yếu tố lao động
ảnh hưởng lớn đến giá trị gia tăng của hộ. Mức ảnh hưởng này cho thấy vai trò
của khâu chăm sóc ở cây cà phê là rất nhiều. Trong điều kiện lực lượng lao
động thuộc ngành nông nghiệp vần còn nhàn rổi với số lượng còn nhiều. Do
đó, nếu ta biết cách đầu tư thêm lao động đi đôi với yêu cầu về kỹ thuật tay
nghề sẽ tạo điều kiện tăng năng suất lao động, để từ đó làm tăng giá trị gia tăng
tạo ra trên 1 ha.
-Yếu tố tưới nước: Hệ số hồi quy của biến tưới nước là α3 = 0,0987. Tức
là trong điều kiện cố định các yếu tố đầu vào còn lại khác. Nếu như tăng chi phí
tưới nước cho 1 ha đất trồng cà phê lên 1%, thì sẽ làm cho giá trị gia tăng tạo ra
trên 1 ha tăng lên 0,0987%. Đối với cây cà phê, yếu tố nước hết sức rất quan
trọng nhất là vào mùa khô, ở vùng đất đỏ cao nguyên này thiếu nước rất nhiều.
Vì vậy cây trồng được cung cấp lượng nước đúng lúc đúng thời điểm, sẽ làm
cho cây sinh trưởng phát triển xanh tốt, góp phần làm cho cây cho sản phẩm.
Tuy nhiên để nâng cao năng suất cà phê các hộ nhận khoán cần phải tăng lượng
nước cho cây một cách thích hợp, có như vậy mới phát huy tác dụng.
-Yếu tố kinh nghiệm: Nhìn chung các hộ nhận khoán ở đây đều có kinh
nghiệm trong việc trồng và chăm sóc cây cà phê, nhưng chủ yếu các chủ hộ nơi
đây mới tiếp cận tốt trong thời kỳ KTCB. Qua kết quả cho thấy, hệ số hồi quy
của yếu tố kinh nghiệm là α4= 0,6943. Tức là trong điều kiện chúng ta cố định
các yếu tố đầu vào khác còn lại. Nếu như chúng ta tăng yếu tố kinh nghiệm lên
1% số năm kinh nghiệm của chủ hộ, sẽ làm cho giá trị gia tăng tạo ra trên 1 ha
đất trồng cà phê tăng lên 0,6943%. Do đó kinh nghiệm có ảnh hưởng rất lớn đến
tất cả các hoạt động sản xuất cà phê, đặc biệt trong các khâu trồng mới, chăm
sóc, thu hoạch quả chín.
- Hình thức nhận khoán của mỗi gia đình ở công ty cà phê Phước An
cũng có những khác biệt, làm ảnh hưởng đến quá trình tiến hành hoạt động sản
xuất cà phê ở các hộ. Vì vậy, để hộ nhận khoán quyết định tham gia vào hình
thức khoán nào đem lại nhiều thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế hơn là vấn đề
mà các hộ khá quan tâm khi trở thành công nhân của công ty cà phê Phước An.
66
Hơn nữa cây cà phê là cây công nghiệp lâu năm nên khi tham gia vào
hoạt động trồng và chăm sóc, thu hoạch cà phê sẽ phải tính toán các khoản chi
phí bỏ ra khá là phức tạp.
Kết quả cho thấy, giá trị gia tăng tạo ra trên 1 ha đất trồng cà phê của
các hộ gia đình nhận khoán có sự đầu tư của công ty cao hơn những hộ nhận
khoán không có sự đầu tư của công ty là 0,0444 lần. Như vậy, hình thức nhận
khoán cũng là một yếu tố có ảnh hưởng gián tiếp đến việc làm tăng thu nhập từ
các vườn cây cà phê của các hộ nhận khoán.
Mỗi yếu tố đầu vào nhất định, sẽ làm ảnh hưởng đến kết quả của cả quá
trình sản xuất. Tuy nhiên, trong thực tế mức độ ảnh hưởng của chúng sẽ đến
một mức giới hạn nhất định theo định mức kỹ thuật cho phép. Điều đó nói lên
rằng, không phải chúng ta cứ tăng liên tục các yếu tố đầu vào thì kết quả cũng
sẽ tăng lên theo một kết quả tương xứng mà chúng ta bỏ ra.
67
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT CÀ PHÊ THEO
HÌNH THỨC KHOÁN TỚI HỘ THUỘC CÔNG TY CÀ PHÊ PHƯỚC
AN, KRÔNG PẮK, TỈNH ĐẮK LẮK
3.1 MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG ĐỂ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT CÀ PHÊ
THEO HÌNH THỨC KHOÁN CỦA CÔNG TY CÀ PHÊ PHƯỚC AN
3.1.1 Một số căn cứ để đề ra định hướng phát triển sản xuất cà phê theo lối
khoán trong thời gian tới
Để sản xuất cà phê của các hộ nhận khoán phát triển đúng hướng và đem
lại hiệu quả cao, giúp cho các hình thức khoán của công ty được tồn tại lâu dài
theo mô hình quốc doanh. Trong tương lai, đối với công ty cà phê Phước An
việc đề ra các định hướng phát triển xuất phát từ một vài căn cứ sau:
- Căn cứ vào sự chỉ đạo của Tỉnh về vấn đề quy hoạch cây cà phê, phấn
đấu ổn định số diện tích cà phê hiện có ở trên địa bàn Tỉnh cũng như ở các
Nông trường và các Công ty trong thời gian tới, phấn đấu đến năm 2015 ổn
định khoảng từ 140.000 ha đến 150.000 ha cà phê trong vùng sinh thái thuận
lợi, năng suất bình quân đạt trên 30 tạ/ha, sản lượng đạt 400.000 tấn trở lên, cải
tạo, trồng mới số diện tích cà phê đã hết chu kỳ kinh doanh nằm trong vùng
quy hoạch.
- Căn cứ vào điều kiện thuận lợi về đất đai cùng với lịch sử hình thành,
phát triển công ty cà phê Phước An. Bên cạnh đó, trong những năm qua công ty
đã không ngừng nỗ lực xây dựng kiện toàn hệ thống cơ sở hạ tầng, giao thông
cùng với đó là việc áp dụng đổi mới kỹ thuật từ khâu chọn giống, chế biến và
đến khâu tiêu thụ sản phẩm cho các hộ nhận khoán .
- Căn cứ vào nhu cầu của thị trường: Mặc dù hiện nay, tình hình khủng
hoảng tài chính đang ảnh hưởng đến việc tiêu thụ cà phê trong nước và điều đó
khiến cho công ty cà phê Phước An và những hộ nhận khoán cũng gặp phải
những khó khăn. Song nhìn về lâu dài cà phê vẫn sẽ là một trong những mặt
hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của nước ta. Do đó hoạt động trồng cà phê
68
của các hộ nhận khoán thuộc công ty sẽ vẫn là một hoạt động đem lại thu nhập
chính cho người dân ở vùng đất đỏ badan này.
- Căn cứ vào sự mong muốn nguyện vọng của người dân nhận khoán, là
muốn được nhận chăm sóc và thu hoạch vườn cây với diện tích tương đối.
Người dân nhận khoán rất muốn được công ty sẽ là cầu nối tốt, để giúp họ triển
khai trong công tác tưới nước, công tác thu mua và chế biến sản phẩm, giúp hộ
yên tâm trở thành công nhân của công ty.
3.1.2 Các định hưởng phát triển sản xuất cà phê theo các hình thức khoán
tới hộ ở công ty cà phê Phước An
Như vậy từ những căn cứ mang tính chất pháp lý, những căn cứ dựa trên
tình hình cụ thể của công ty cà phê Phước An và của những hộ nhận khoán ở
nơi đây, trong quá trình nghiên cứu thực tế để chúng tôi làm cơ sở đề xuất
những định hướng cơ bản sau:
- Căn cứ vào lịch sử phát triển của các hình thức nhận khoán của công ty
đã hình thành và phát triển trong một thời gian khá dài, để từ đây có những
phương hướng và định hình làm sao giúp các hình thức nhận khoán này hòa
chung vào công cuộc phát triển kinh tế nói chung của cả vùng và của cả nước.
Hiện nay số lượng các hộ tham gia vào hình thức nhận khoán của các nông
trường và công ty chiếm số lượng vẫn chưa nhiều.
Do đó, đối với công ty cà phê Phước An cần phải làm tốt hơn nữa vai trò
cầu nối trong việc hướng dẫn kỹ thuật và tiêu thụ sản phẩm một cách ổn định
cho những hộ nhận khoán, giúp họ an tâm tin tưởng để tiếp tục theo đuổi các
hình thức nhận khoán của công ty.
- Trên cơ sở quy hoạch phát triển, ổn định số diện tích cây cà phê của
Tỉnh nói chung cũng như của công ty nói riêng, để từ đây tiếp tục khuyến khích
các hộ nhận khoán của công ty phát triển số diện tích đang trong thời kỳ kinh
doanh. Đồng thời khuyến khích các hộ trồng mới những vườn cây đã quá già
cỗi, thay vào đó trồng những loại cây cũng đem lại nhiều giá trị kinh tế cho hộ.
Nhằm giúp hộ khắc phục khó khăn trước tình hình hiện nay mặt hàng cà phê
69
đang có phần lắng xuống. Vì vậy công ty nên giúp các hộ nhận khoán trong
việc hỗ trợ thêm khoản vốn ban đầu, để giúp hộ tiến hành chuyển đổi cơ cấu
cây trồng theo chiều hướng tích cực, chẳng hạn như trồng thêm các loại cây
cũng mang lại hiệu quả như: cây sầu riêng, ca cao... Để từ đây giúp hộ ổn định
hơn giảm bớt rũi ro. Cụ thể, năm vừa rồi công ty đã cho trồng mới 1000 ha
giống sầu riêng cơm vàng hạt lép có thời gian KTCB 2 năm.
- Trong công ty cần xây dựng được một cơ sở chế biến ướt lớn đảm bảo
công suất tiêu thụ hết sản phẩm của các hộ gia đình nhận khoán, để từ đây các
hộ sẽ chấn an tâm lý trước tình hình giá đang có xu hướng giảm mạnh.
- Sự liên kết giữa các hộ nhận khoán với công ty cà phê Phước An phải
thực sự đảm bảo để cho người dân yên tâm sản suất. Đồng thời sản phẩm của
họ làm ra không bị khấu trừ phần trăm khá nhiều, tránh tình trạng độc quyền
trong khâu tiêu thụ.
Như vậy, định hướng chính sách trong thời gian tới cho các hộ nhận
khoán là ổn định và mở rộng diện tích cà phê trong điều kiện cho phép của
công ty, tận dụng các thế mạnh hiện có.
3.2 MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN CÂY CÀ
PHÊ THEO CÁC HÌNH THỨC NHẬN KHOÁN
Qua quá trình điều tra các hộ dân nhận khoán của công ty cà phê Phước
An chúng tôi nhận thấy rằng: Cây cà phê thực sự đã đem lại những chuyển biến
sâu sắc trong đời sống của các hộ nhận khoán, thu nhập của các hộ nhận khoán
đa phần là từ cây cà phê. Đây là một bước chuyển biến mới trên địa bàn công
ty cũng như trong toàn Tỉnh.
Với sự thành công của công ty trong một khoảng thời gian khá dài cùng
với sự đổi mới trong cách khoán, góp phần làm phong phú trong mô hình quốc
doanh. Tuy nhiên, những gì đạt được vẫn chưa tương xứng với sự nổ lực, tiềm
năng của công ty và các hộ nhận khoán. Trong quá trình nghiên cứu đề tài,
chúng tôi nhận thấy một số hạn chế cũng như khó khăn mà mô hình nhận
70
khoán cà phê còn mắc phải. Vì vậy cho phép chúng tôi xin đưa ra một số giải
pháp cơ bản sau:
3.2.1 Giải pháp chung
- Một là tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng, nhất là đầu tư hệ thống hồ đập
tưới tiêu để giúp các hộ nhận khoán thuận lợi trong việc tưới nước nhất là vào
mùa khô. Đặc biệt là đảm bảo khâu thu nhận sản lượng khoán một cách hợp lí,
hợp tình để công việc thu nhận và mua bán hài hòa giữa hai bên, giúp hộ thuận
tiện trong việc vận chuyển cũng như thu hoạch.
- Hai là quy hoạch ổn định trên tinh thần chung của toàn Tỉnh, công ty
cà phê Phước An cần phải triển khai một cách đồng bộ, hợp lí, nhanh chóng
các chương trình và chính sách của Tỉnh đối với các hộ nhận khoán trong công
ty để họ chủ động trong các hoạt động sản suất của mình.
3.2.2 Giải pháp cụ thể
3.2.2.1 Giải pháp về vốn
Hầu hết các hộ nhận khoán khi được phỏng vấn “ gia đình có gặp khó
khăn gì khi sản xuất không ?”. Họ đều trả lời một cách gián tiếp là giá cả vật
tư, phân bón, công lao động quá cao. Điều này cho thấy các hộ nhận khoán ở
đây vẫn còn thiếu vốn sản xuất rất nhiều. Như vậy, thực tế đặt ra là làm sao để
người dân nhận khoán có đủ vốn kịp thời phát triển sản xuất. Qua điều tra vấn
đề huy động vốn và sử dụng vốn của các hộ nhận khoán được nhìn nhận như
sau:
- Các hộ nhận khoán vay vốn vẫn còn thủ tục khá rườm rà, nhiều thủ tục
gây không ít khó khăn cho người đi vay. Do đó một số không ít các hộ nhận
khoán mang tâm lý “e ngại”, nên họ không quan tâm đến lĩnh vực vay vốn ở
các tổ chức tín dụng, ngân hàng. Phần lớn các hộ nhận khoán vay vốn của ngân
hàng Eakênh với mức lãi suất 1,25%/tháng và thời hạn vay chỉ là 1 năm.
- Cách thức vay vốn đã khó, vấn đề sử dụng vốn của các hộ nhận khoán
cũng chưa được hiệu quả cho lắm. Nhiều hộ nhận khoán khi vay vốn về nhưng
đầu tư vào lĩnh vực sản xuất cà phê thì ít mà sử dụng vào mục đích khác thì
71
nhiều. Điều này sẽ gây không ít ảnh hưởng đến chất lượng của các vườn cây.
Do đó để vấn đề vốn được sử dụng hiệu quả chúng tôi đưa ra các giải pháp cơ
bản sau:
- Giảm bớt thủ tục hành chính tạo lập cơ chế một cửa giúp người dân
nhận khoán giảm bớt các chi phí thủ tục không cần thiết.
- Công ty cà phê Phước An cần phải cung cấp thông tin về các nguồn
vốn hỗ trợ của các chương trình, dự án đến từng hộ nhận khoán cà phê để từ đó
các hộ có thể chủ động trong hoạt động vay vốn cũng như trong sản xuất.
- Cây cà phê là cây công nghiệp dài ngày, do đó các ngân hàng và các tổ
chức tín dụng tại địa bàn Huyện cần tạo điều kiện hành lang pháp lí thuận lợi
trong việc vay vốn, giúp cho các hộ vay với thời gian dài và với mức lãi xuất
phù hợp.
- Đồng thời trong công ty cần phải tạo lòng tin cho các hộ nhận khoán
về hiệu quả của các hình thức nhận khoán, giúp họ yên tâm để tiến hành đầu tư
cho sản xuất, xóa bỏ tâm lí đi vay không có tiền trả cho ngân hàng của đa phần
các hộ gia đình. Tạo dựng cho hộ mạnh dạn vay các nguồn vốn khác để đầu tư
vào vườn cây cả phê đúng với định mức kinh tế kỹ thuật.
Để các giải pháp về vốn thành công thì đòi hỏi phải có sự cộng tác của
chính quyền địa phương, cơ quan tín dụng, công ty cà phê Phước An và quan
trọng nhất là ý thức bản thân người được vay vốn. Các hộ nhận khoán cần huy
động vốn, tranh thủ các nguồn vốn của Nhà Nước, các chương trình dự án và
các nguồn vốn khác nhằm đảm bảo đủ mức đầu tư cần thiết để mang lại hiệu
quả kinh tế cao hơn.
3.2.2.2 Giải pháp về lao động
Để tiến hành trồng cây cà phê yêu cầu về khâu lao động tương đối nhiều
trong việc trồng mới, chăm sóc, thu hoạch cà phê. Qua thực tế điều tra số lượng
lao động trong các gia đình nhận khoán số lượng chiếm chưa nhiều. Phần lớn
kiến thức về kỹ thuật canh tác cà phê qua các giai đoạn vẫn còn nhiều hạn chế.
Mặc dù các hộ dân nhận khoán đã được đào tạo qua các lớp hướng dẫn do công
72
ty cà phê Phước An tổ chức. Tuy nhiên số lao động này vẫn còn rất ít nên họ vẫn
phải thuê thêm các lao động ngoài các tỉnh lẻ về, đặc biệt vào mùa thu hoạch hái
quả. Do thời gian thu hoạch của các hộ nhận khoán được quy định vào một
khoảng thời gian nhất định qua sự chỉ đạo của công ty. Xuất phát từ những
nguyên nhân đó cần phải:
- Về phía Công ty cà phê Phước An cần phải đào tạo kỹ thuật thường
xuyên, tạo cho các hộ nhận khoán luôn có tâm lí phải làm đúng quy trình kỹ
thuật như một thói quen, để tránh hiện tượng hộ phải thụ động quá nhiều lao
động bên ngoài trong việc thu hoạch với mức giá tiền công khá cao cho những
lao động có tay nghề.
- Về phía các hộ nhận khoán cần phải nghiêm chỉnh tham gia đầy đủ các
lớp tập huấn do công ty đào tạo. Trong quá trình chăm sóc và thu hoạch nếu
bản thân các chủ hộ còn thắc mắc gì thì cần phải mạnh dạn trong việc học hỏi
kỹ thuật của những hộ nhận khoán có kinh nghiệm và cách thức trồng, chăm
sóc và quản lí vườn cây có hiệu quả. Để việc thu hoạch cà phê theo đúng thời
gian quy định, các hộ nhận khoán cần phải cân nhắc trong việc tận dụng lao
động gia đình hiện có cùng với việc thuê ngoài, để có chi phí thuê lao động một
cách hợp lí.
3.2.2.3 Giải pháp về mặt kỹ thuật
Do số cà trồng từ năm 1978 còn nhiều, đây là số lượng cà đã vượt quá
chu kỳ kinh doanh của cây cà phê, nên đem lại hiệu quả kinh tế cho các hộ
nhận khoán không còn cao, hơn nữa đất đã quá bạc màu suy giảm chất lượng
đất và đồng thời do trồng từ lâu nên kỹ thuật chọn giống vẫn chưa cao nên đa
số vườn cây này gặp phải sâu bệnh nhiều. Vì vậy để nhằm khắc phục tình trạng
cho số diện tích cà phê già và nhằm tiếp tục phát huy hiệu quả của những vườn
cây mới trồng chúng tôi đưa ra một số giải pháp về mặt kỹ thuật.
- Đối với những diện tích cà phê già cỗi hết thời kỳ kinh doanh có hiệu
quả cần có kế hoạch cưa ghép cải tạo bằng các dòng vô tính cà phê vối cao sản,
chất lượng cao, kháng được sâu bệnh, chín muộn và chín tập trung. Việc sử
73
dụng các dòng vô tính này không những sẽ nâng cao năng suất, chất lượng, hạn
chế việc sử dụng thuốc hóa học và đặc biệt là tiết kiệm chi phí tưới nước và
công thu hoạch. Đối với những diện tích cà phê già cỗi, bị sâu bệnh không có
khả năng cưa ghép cải tạo cần chuyển sang trồng ca cao,...
- Đối với những diện tích cà phê đang trong giai đoạn kinh doanh có
hiệu quả cần tăng cường trồng cây che bóng, bón phân hữu đồng thời hạn chế
phân hóa học và thuốc bảo vệ thực vật, tránh thâm canh quá mức làm giảm tuổi
thọ của vườn cây.
- Đối với những diện tích cà phê trồng không đúng quy hoạch trên
những vùng đất không thích hợp như độ dốc cao, tầng đất mỏng, xa nguồn
nước tưới cần tiến hành chuyển sang trồng các loại cây trồng khác nhằm đảm
bảo tính bền vững cho hoạt động sản xuất cà phê của các hộ nhận khoán.
3.2.2.4 Giải pháp về thị trường
Đầu ra cho sản phẩm là mối quan tâm hàng đầu của mọi quá trình sản
xuất. Qua điều tra cho thấy hầu hết các hộ không thấy gặp khó khăn khi tiêu
thụ sản phẩm của mình. Tuy nhiên, do giá cà phê trên thị trường biến động nên
vấn đề tiêu thụ cà phê của các hộ nhận khoán phụ thuộc rất lớn vào tình hình
giá cả trên thị trường thế giới và trong nước.
Bên cạnh đó thông tin thị trường đối với người dân nhận khoán còn rất
được ít quan tâm. Vì vậy công ty cà phê Phước An cần phải cung cấp thông tin
đối với người dân nhận khoán. Để người dân nhận khoán an tâm sản xuất thì về
phía công ty cà phê Phước An cần có những giải pháp đồng bộ sau:
- Cần phải có định hướng cụ thể nhằm xây dựng và phát triển thương
hiệu cà phê CADA lớn mạnh hơn nữa, xem đó là một thương hiệu dành riêng
để khẳng định vị thế của công ty trên thị trường. Nhằm từ đây đưa sản phẩm cà
phê của công ty Phước An nói riêng cũng như các hộ nhận khoán có một sản
phẩm đặc trưng của vùng cao Tây Nguyên.
- Ngoài ra công ty cần phải xây dựng và mở rộng quy mô xưởng chế
biến, để sản phẩm vượt khoán của các hộ nhận khoán không đầu tư sẽ bán tại
74
công ty thay vì một số hộ vẫn còn mang ý nghĩ bán ở các nơi khác. Bên cạnh
đó nhằm duy trì và phát triển hình thức khoán có đầu tư, giúp các hộ theo đuổi
lâu dài, yêu cầu đặt ra đối với công ty cần phải có một trung tâm cung ứng vực
tư nông nghiệp cho quá trình sản xuất của hộ được ổn định
Trên đây là các giải pháp chủ yếu để phát triển các hình thức nhận
khoán cây cà phê của công ty Phước An, xuất phát từ những vấn đề vướn mắc
mà chúng tôi tìm hiểu được qua quá trình điều tra. Để áp dụng được những
biện pháp trên thực sự thành công thì cần phải có sự nghiên cứu cụ thể của các
cấp, các ngành có liên quan và sự tham gia của những người nhận khoán. Các
giải pháp đưa ra cần được tiến hành một cách đồng bộ và hợp lí mới có thể đem
lại kết quả cao.
75
PHẦN III
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN
Cà phê là một trong những cây công nghiệp chủ lực có giá trị kinh tế
cao. Trong những năm qua mô hình sản xuất cà phê theo các hình thức nhận
khoán đã có những bước chuyển biến nhiều từ khâu quản lý sản xuất đến khâu
tiêu thụ. Qua nghiên cứu về hiệu quả kinh tế từ hoạt động sản xuất cà phê của
các hộ nhận khoán thuộc công ty cà phê Phước An, Huyện Krông Pắk chúng
tôi đã rút ra một số kết luận như sau:
- Với sự hình thành và phát triển từ những năm 1977, công ty cà phê
Phước An với các hình thức nhận khoán tới các hộ gia đình đã và đang khẳng
định tính đúng đắn trong chủ trương, đường lối phát triển nông nghiệp nông
thôn. Tuy hiện nay cà phê tiểu điền do các hộ gia đình tự quản lý đang chiếm
một tỷ lệ khá lớn, song sự phát triển của công ty cà phê Phước An nói riêng
cũng như hình thức nhận khoán tới các hộ nói chung trong những năm qua về
số lượng, quy mô, phương hướng sản xuất đã chứng minh tính phù hợp của
hình thức nhận khoán trong giai đoạn hiện nay. Cùng với sự phát triển của cà
phê theo hình thức tiểu điền thì hình thức cà phê nhận khoán cần phải được duy
trì để góp phần làm đa dạng và phát triển các mô hình sản xuất kinh doanh cây
cà phê. Đây có thể được xem như là cầu nối để giúp các hộ tiêu thụ sản phẩm
của mình một cách ổn định nhất.
- Qua điều tra cho thấy trong cơ cấu đầu tư của các hộ nhận khoán các
khoản chi phí về về vật tư phân bón, chi phí lao động và chi phí tưới nước
chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng chi phí sản xuất. Do đó việc tận dụng nguồn
lao động sẵn có của gia đình, cách thức sử dụng bón phân hợp lí, thực hiện tưới
nước và phòng trừ sâu bệnh theo đúng quy trình, nhằm giúp hộ giảm bớt chi
phí nâng cao được hiệu quả sản xuất.
- Cũng qua phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả sản
xuất của các hộ nhận khoán, chúng tôi nhận thấy rằng: Quy mô đất đai, chi phí
76
phân bón và BVTV, yếu tố tuổi cây cũng có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất
của vườn cây đem lại. Nhìn chung những hộ nhận khoán có quy mô vừa phải
khoảng từ 1-1,5 ha có cách thức hạch toán chi phí khá hợp lí. Đồng thời đối với
những vườn cây có chu kỳ kinh doanh trên 12 năm đem lại năng suất khá cao
đi đôi với nó là việc đầu tư hợp lí của các chủ hộ.
- Vấn đề thị trường nhìn chung các hộ nhận khoán được điều tra không
phải lo lắng nhiều về vấn đề tiêu thụ sản phẩm, vì sản phẩm của họ làm ra đã
được công ty cà phê Phước An đảm bảo tiêu thụ tại chỗ với mức giá thị trường
trên địa phương.
- Kết quả phân tích hàm sản xuất Cobb-Douglas cho thấy các yếu tố đưa
vào mô hình đều có ảnh hưởng tích cực đến giá trị gia tăng tạo ra. Trong đó
yếu tố kinh nghiệm sản xuất và yếu tố công lao động đóng một vai trò hết sức
quan trọng. Do đó để làm tăng hiệu quả sản xuất ngoài tiềm lực về vốn đầu tư
lớn, được tập huấn kỹ thuật kỹ càng thì cần phải có kinh nghiệm sản xuất về
kiến thức thực tiễn, như vậy kết quả mới đem lại càng cao.
Bên cạnh những tác động tích cực về mặt kinh tế và xã hội thì việc sản
xuất cà phê theo hình thức khoán cũng tạo ra một số hạn chế đáng được quan
tâm. Chẳng hạn như việc công ty thanh lý các vườn cây cho hộ hoàn toàn tự
quản lý với số năm kinh doanh đã quá lâu, do đó mà không đảm bảo hiệu quả
cho hộ sau khi đã mua lại vườn cây. Thêm vào đó là hiện tượng những hộ trong
quá trình nhận khoán vườn cây, ít quan tâm chăm sóc vườn cây nên làm cho
vườn cây suy giãm, nhưng đến khi thanh lý các hộ này lại được thanh lý với giá
thấp. Trong khi đó, những hộ nhận khoán biết cách chăm sóc vườn cây thì làm
cho vườn cây tốt, nhưng đến khi thanh lý lại vườn cây cho hộ tự chăm sóc thì
công ty lại lấy mức giá cao hơn. Điều này cho thấy sự mâu thuẫn trong cách
thức thanh lý của công ty.
Tuy còn có những mặt tồn tại của mô hình đem lại cần phải được công
ty cà phê Phước An nói riêng cũng như các công ty, nông trường quốc doanh
nói chung cần phải xem xét để nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường.
77
Song từ các hình thức khoán này chúng ta không thể phủ nhận những mặt tích
cực của các hình thức khoán đem lại.
Đặc biệt là việc hình thành theo hình thức khoán này sẽ giúp cho hoạt
động sản xuất cà phê theo hướng tập trung, không sản xuất theo lối manh mún
mà các hộ dân tự quản lý. Đồng thời qua sự quản lý giữa công ty và các hộ
nhận khoán, sẽ giúp các hộ trong việc kiểm tra chất lượng trước khi tiêu thụ,
giúp các hộ có những sân phơi tập trung do công ty xây dựng, có hệ thống kênh
đập tưới tiêu cho vườn cây với liều lượng hợp lý và sẽ giúp các hộ tiêu thụ cà
phê từ xưởng chế biến của các công ty.
2. KIẾN NGHỊ
Việt Nam đã gia nhập WTO, chúng ta phải nhanh chóng thực hiện nhiều
biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm cà phê và sức cạnh tranh sản
phẩm trên thị trường quốc tế. Để làm được việc đó, các cơ quan chức năng
cùng với với các doanh nghiệp, các hộ nông dân phải thực hiện ngay các biến
pháp đồng bộ, các khâu sản xuất: trước thu hoạch, trong thu hoạch và sau thu
hoạch mới cải thiện được chất lượng sản phẩm cà phê.
- Để hình thức khoán tới các hộ dân nói chung và hình thức khoán ở
công ty cà phê Phước An nói riêng phát triển một cách vững chắc, được lâu
dài. Nhà nước cần phải khuyến khích hơn nữa sự tham gia của nhiều thành
phần kinh tế vào hình thức khoán tới hộ. Việc liên kết 4 nhà, trong đó nhà
doanh nghiệp có vai trò quan trọng nhất, vì vậy Nhà nước cần có chính sách
miễn hoặc giảm thuế đối với những nguồn tài chính mà các doanh nghiệp này
phải đầu tư nhằm đổi mới trang thiết bị công nghệ, hỗ trợ về mặt ứng dụng
những tiến bộ khoa học kỹ thuật. Trong chính sách vay vốn cần phải đưa ra
những chính sách phù hợp, tạo cho các hộ vay vốn một cách nhanh chóng và sử
dụng vốn trong thời gian dài. Các cấp chính quyền Tỉnh, Huyện cần phải tạo
những điều kiện hành lang pháp lý thuận lợi để các công ty phát triển, kéo theo
sự phát triển trong hoạt động sản xuất của các hộ dân.
78
Là thành viên của WTO chúng ta cần có tổ chức đầu tư cho nông dân
đúng với quy định của tổ chức này. Những người trồng cà phê nói chung và
những hộ nhận khoán nói riêng cần được hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất như
giao thông, thuỷ lợi, hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu... Họ cũng cần hoạt động của
các tổ chức khuyến nông, cung cấp thông tin về giá cả thị trường... Những điều
này nhà nước hoàn toàn có thể làm được với chính sách hỗ trợ theo “hộp xanh”
hoặc hỗ trợ theo “chương trình phát triển” của Việt Nam.
- Đối với công ty cà phê Phước An: Công ty cần phải không ngừng nâng
cao chất lượng chế biến, tăng công suất xử lý chế biến ướt trên 50% số cà phê
tươi để tạo nhân xô có chất lượng cao, mở rộng quy mô các phân xưởng chế
biến có công suất lớn. Đồng thời đẩy mạnh hơn nữa sự phát triển của hình thức
khoán tới hộ, công ty cần phải áp dụng một cách khoa học và sáng tạo các giải
pháp sao cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng hình thức khoán và từng hộ
nhận khoán.
Ngoài ra cần áp dụng và thực hiện đa dạng hóa trong sản xuất nông
nghiệp gắn với điều kiện đất đai của công ty. Tạo điều kiện cho các hộ nhận
khoán tiếp cận hơn nữa thông tin thị trường. Công ty cần phải có những thay
đổi theo chiều hướng tích cực trong cách quản lý, cách vận động sự tham gia
nhiệt tình của các hộ dân nhận khoán và đặc biệt là sự quan tâm hơn nữa đời
sống tinh thần của các hộ dân.
- Đối với các hộ nhận khoán cà phê: Cần phải xác định sự tham gia lâu
dài vào hình thức khoán này và phải xác định rõ lợi ích mà cây cà phê mang
lại. Trong quá trình nhận khoán, các hộ nhận khoán cần phải chấp hành tốt quy
trình kỹ thuật trồng cà phê và sự hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật để vườn cây
tốt hơn.
79
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khoa_luan_danh_gia_hieu_qua_kinh_te_san_xuat_ca_phe_cua_cac.pdf