Khóa luận Đánh giá hiệu quả kinh tế cây cà phê trên địa bàn huyện hướng hoá tỉnh Quảng Trị

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ KHOA KINH TẾ & PHÁT TRIỂN **** CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP Đề tài: ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH TẾ CÂY CÀ PHÊ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HƯỚNG HOÁ TỈNH QUẢNG TRỊ HỒ CHÁNH THI Niên khoá 2007 - 2011 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ KHOA KINH TẾ & PHÁT TRIỂN **** CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP Đề tài: ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH TẾ CÂY CÀ PHÊ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN HƯỚNG HOÁ TỈNH QUẢNG TRỊ Giảng viên hướng dẫn : TS. Bùi Đức Tính S

pdf71 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 360 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Khóa luận Đánh giá hiệu quả kinh tế cây cà phê trên địa bàn huyện hướng hoá tỉnh Quảng Trị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sinh viên thực hiện : Hồ Chánh Thi Lớp : R7 - KTNN Huế, tháng 05 năm 2011 Lời cảm ơn Lời đầu tiên em xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn và kính trọng sâu sắc đối với Thầy, TS Bùi Đức Tính, người đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình hoàn thành chuyên đề này. Em luôn được Thầy cung cấp các tài liệu, các chỉ dẫn hết sức quý báu khi cần thiết trong suốt thời gian thực hiện chuyên đề. Em cũng xin thể hiện sự kính trọng và lòng biết ơn đến Quý Thầy Cô trong trường Đại Học Kinh Tế - ĐH Huế, những người đã trang bị cho em rất nhiều kiến thức chuyên ngành, cũng như sự chỉ bảo, giúp đỡ tận tình của quý Thầy Cô đối với em trong suốt quá trình học tập. Tất cả các kiến thức mà em lĩnh hội được từ bài giảng của các Thầy Cô là vô cùng quý giá. Nhân đây, con xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Bố, Mẹ và những người thân trong gia đình, cảm ơn những tình cảm và những lời động viên con trong suốt quá trình hoàn thành chuyên đề này. Tôi cũng xin được cảm ơn tất cả anh chị trong Phòng NN&PTNT huyện Hướng Hoá, tỉnh Quảng Trị, những người đã cung cấp và chia sẻ những tài liệu, thông tin quý báu trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu, hoàn thành chuyên đề này. Quang Nam, tháng 5 năm 2011 Hồ Chánh Thi DANH MỤC SƠ ĐỒ BIỂU ĐỒ Biểu đồ Tên Trang Biểu đồ 1: Thị phần của các nước sản xuất cà phê chính năm 2006.......................... 17 Sơ đồ Sơ đồ 1: Kênh tiêu thụ sản phẩm cà phê trên địa bàn Huyện Hướng Hóa................. 50 DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng Tên Trang Bảng 1: Định mức bón phân hóa học qua từng thời kỳ của cây cà phê ..................... 12 Bảng 2: Thị trường xuất khẩu chính của cà phê Việt Nam (2/2009) ......................... 20 Bảng 3: Diên tích năng suất và sản lượng cà phê của huyện Hướng Hoá năm 2008 – 2010 ........................................................................................................ 28 Bảng 4: Đặc điểm cơ bản của các hộ điều tra ............................................................ 30 Bảng 5: Diện tích của các hộ điều tra......................................................................... 32 Bảng 6: Tình hình trang bị tư liệu lao động của các nông hộ điều tra ....................... 33 Bảng 7: Tình hình sử dụng vốn sản xuất cà phê của các hộ điều tra ......................... 35 Bảng 8: Chi phí sản xuất 1 ha cà phê ở thời kỳ KTCB .............................................. 37 Bảng 9: Chi phí sản xuất 1 ha cà phê ở thời kỳ KD trong năm 2010......................... 40 Bảng 10: Một số chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả sản xuất cà phê ở huyện Hướng Hoá năm 2010...................................................................................... 42 Bảng 11:Phân tổ lợi nhuận theo quy mô diện tích ..................................................... 45 Bảng 12: Phân tổ lợi nhuận theo nguồn vốn .............................................................. 46 Bảng 13: Phân tổ lợi nhuận theo mức đầu tư thời kỳ kinh doanh.............................. 46 PHẦN I ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiện nay trên thế giới có trên 80 quốc gia sản xuất và xuất khẩu mặt hàng này trong đó có Việt Nam. Nhu cầu về cà phê càng tăng khi đời sống con người ngày càng đầy đủ và cùng với nhu cầu sử dụng tăng, yêu cầu về chất lượng cà phê cũng cao hơn. Vì thế, để nghành cà phê phát triển các nước sản xuất cà phê cần phải chú trọng đến chất lượng sản phẩm bên cạnh sự gia tăng về diện tích và sản lượng. Ở Việt Nam, cà phê dược trồng từ năm 1857, sau năm 1930 có khoảng 5.900 ha, năm 1975 có khoảng 20.000 ha và tổng sản lượng trên 6.000 tấn. Sau năm 1986 đát nươc ta thực hiện công cuộc đổi mới, cây cà phê phát triển mạnh nhất là cà phê vối (Robusta) ở Tây Nguyên. Hiện nay tổng diện tích trồng cà phê car nước khoảng 521.000 ha, giảm gần 500 ha so với năm 2008, trong đó diện tích trồng mới, tái canh, ghép cải tạo khoảng 6.000 ha. Cây cà phê đả trở thành cây công nghiệp chủ lực có giá trị kinh tế cao ở Việt Nam Ở Việt Nam, một số địa phương như Tây Nguyên, các vùng miền núi Phía Bắc và Bắc Trung Bộ, do có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho quá trình sinh trưởng và phát triển nên những nơi này đã hình thành các vùng sản xuất cà phê lớn. Hiện nay, cà phê là một trong những cây trồng lâu năm được ưa chuộng và được khuyến khích phát triển. Song song với việc mở rộng quy mô sản xuất, người dân kết hợp đầu tư thâm canh, áp dụng những tiến bộ khoa học trong kỹ thuật để nâng cao năng suất cây trồng và hướng đến sản xuất cà phê theo hướng hàng hóa. Ngày nay, nhiều trung tâm mua bán và các kênh phân phối sản phẩm cà phê đã và đang được hình thành nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển nghành cà phê Việt Nam vẫn bộc lộ nhiều hạn chế và yếu kém trong khâu sản xuất, chế biến và phân phối sản phẩm... Do sự hạn chế về cơ sở hạ tầng và những yếu kém trong nghành công nghiệp chế biến nên cà phê nước ta vẫn chủ yếu xuất khẩu dưới dạng thô chưa qua chế biến. Tập tục sản xuất và kỹ thuật canh tác của người dân vùng cao cũng ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất và chất lượng cà phê. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho chúng ta là cần rút ra bài học thiết thực từ những khó khăn trên để có phương hướng phát triển phù hợp, mang lại hiệu quả kinh tế cho ngành cà phê Việt Nam. Hướng Hóa là huyện miền núi của tỉnh Quảng Trị cách biên giới Việt – Lào chừng 20 km về phía đông, cách thành phố Đông Hà khoảng 64 km về phía tây. Những dân tộc tập trung sinh sống chủ yếu gồm: Dân tộc Kinh, dân tộc Vân Kiều, dân tộc Pa Cô. Hướng Hóa có 2 thị trấn và 20 xã. Khí hậu và thổ nhưởng ở đây rất thích hợp cho cây trồng công nghiệp như: Cà phê, sắn, cao suCà phê là cây công nghiệp mũi nhọn của Hướng Hóa, giá trị xuất khẩu hàng năm đạt 160-200 tỷ đồng, giúp hàng ngàn hộ nông dân thoát nghèo, vươn lên khá, giàu. Diện tích cà phê chủ yếu tập trung ở các xã Hướng Phùng, Hướng Tân Mặc dù sản xuất cà phê ở Hướng Hóa đã đạt được những bước tăng trưởng, tuy nhiên nơi đây vẫn chịu nhiều tác động của điều kiện tự nhiên, diễn biến sâu bệnh phức tap. Điêu đó ảnh hưởng không nhỏ đến đến đời sống cũng như hiệu quả sản xuất cà phê của người dân. Mặt khác người dân ở đây chủ yếu là đồng bào dân tộc ít người, trình độ hiểu biết còn hạn chế nên việc sử dụng đất sản xuất cà phê chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của huyện. Đăc biệt, việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp của người dân còn hạn chế, hiệu quả trong sản xuất nông ghiệp còn thấp. Vì vậy, tôi thiết nghỉ việc tìm hiểu đánh giá kết quả và hiệu quả sản xuất cà phê của các nông hộ ở hướng hóa là rất cần thiết. Từ đó tìm ra nhưng giải pháp thích hợp nhằm phát triển một cách bền vững và đúng đắn. Xuất phát từ những lý do trên nên tôi chọn chuyên đề “Đánh giá hiệu quả kinh tế cây cà phê của các nông hộ Huyện Hướng Hóa tỉnh Quảng Trị”. 2. Mục tiêu nghiên cứu 2.1. Mục tiêu chung Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là thông qua việc tìm hiểu, phân tích, đánh giá hiệu quả sản xuất cây cà phê trên địa bàn huyện Hướng Hóa. Phân tích những khó khăn hạn chế của các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sản xuất cây cà phê trên địa bàn huyện. Từ đó đề xuất những giải pháp tích cực góp phần phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế của cây cá phê cho người dân địa phương. 2.2. Mục tiêu cụ thể. - Hệ thống hoá các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến hiệu quả sản xuất cà phê của các nông hộ trên địa bàn nghiên cứu. - Đánh giá tực trạng và hiệu quả kinh tế của việc trồng cà phê các nông hộ. - Đề suất một số định hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất cà phê của các nông hộ trên địa bàn nghiên cứu. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Các nông hộ trồng cà phê Huyện Hướng Hóa Tỉnh Quảng Trị. Từ việc phỏng vấn các nông hộ trồng cà phê, những nhà thu mua và nông trường sản xuất kinh doanh cà phê theo mẫu phiếu điều tra. Tổng số mẫu phiếu điều tra là 40 nông hộ trồng cà phê thuộc xã Hướng Tânhuyện Hướng Hoá tỉnh Quảng Trị. * Phạm vi nghiên cứu + Phạm vi không gian: - Địa bàn nghiên cứu là xã Hướng Tân huyện Hướng Hóa tỉnh Quảng Trị. + Phạm vi thời gian : Số liệu về tình hình sản xuất cà phê của hộ nông dân tại phòng Nông nghiệp huyện qua 3 năm 2008-2010. Còn số liệu điều tra thực tế ở địa bàn thì lấy trong 2 năm 2009-2010. 4. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp duy vật biện chứng. - Phương pháp thu thập số liệu. + Số liệu thứ cấp: Hoàn thành đề tài này tôi đã sử dụng một số nguồn thông tin thứ cấp được thu thập từ các báo cáo,tài liệu của cáccơ quan chức năng như UBND huyện Hướng Hoá, Phòng Nong Nghiệp. Ngoài ra, các thông tin trong các đề tài đã được công bố, các tư liệu sách báo, tạp chí, niên giám thống kê, các website cũng là nguồn thôngtin bổ ích trong quá trình nghiên cứu của tôi. + Số liệu sơ cấp : Là những số liệu mà tôi thu thập được từ việc phỏng vấn các nông hộ trồng cà phê, những nhà thu mua và nông trường sản xuất kinh doanh cà phê theo mẫu phiếu điều tra. Tổng sốphiếu điều tra là 40 hộ trồng cà phê thuộc xã Hướng Tân huyện Hướng Hoá. PHẦN II NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU. CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Cơ sở lý luận. 1.1.2. Khái niệm và phương pháp xác định hiệu quả kinh tế 1.1.2.1. Khái niệm Hiệu quả kinh tế là vấn đề quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh đồng thời cũng là mối quan tâm đặc biệt của toàn xã hội. Đó là thước đo quan trọng phản ánh chất lượng, trình độ tổ chức quản lí, sản xuất kinh doanh của nhà đầu tư trong đó có cả nhũng nông hộ. Theo nhà khoa học Đức(Stenien, Hanau) hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu so sánh mức độ tiết kiệm chi phí trong một đơn vị kết quả hữu ích và mức tang kết quả hữu ích hoạt động sản xuất vật chất trong một thời kì, góp phần làm tăng thêm lợi ích xã hội. Nhưng theo các tác giả Farrell, Schultz, Rizzo và Ellis thì cho rằng hiệu quả kinh tế đạt được trong sản xuất nông nghiệp phải phân biệt được ba khái niệm về hiệu quả: Hiệu quả kỷ thuật, hiệu quả phân phối, hiệu quả kinh tế. Hiêu quả kỷ thuật là số sản phẩm đầu ra có thể đạt được trên một đơn vị chi phí đầu vào hay nguồn lực được sử dụng vào sản xuất trong điều kiện cụ thể về kỷ thuật hay công nghệ áp dụng trong lâm nghiệp. Nó cho ta biết một đơn vị nguồn lực dùng vào sản xuất sẽ đem lại bao nhiêu đơn vị sản phẩm. Hiệu quả phân phối là chỉ tiêu hiệu quả trong đó các yếu tố giá bán sản phẩm và giá đầu vào được tính đến phản ánh giá trị sản phẩm thu thêm trên một đơn vị chi phí chi thêm về đầu vào hay nguồn lực. Thực chất của hiệu quả phân phối là hiệu quả kỷ thuật có tính đến các yếu tố về giá của đầu vào và giá đầu ra. Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế mà trong đó sản xuất đạt cả hiệu quả kĩ thuật và hiệu quả phân phối. Điều đó có nghĩa là cả hai yếu tố hiện vật và giá trị đều tính đến khi xem xét việc sử dụng các nguồn lực trong nông nghiệp. Việc đánh giá hiệu quả kinh tế được coi là căn cứ để xác định phương hướng đạt tăng trưởng cao trong sản xuất lâm nghiệp. 1.1.2.2. Phương pháp xác định hiệu quả kinh tế Hiệu quả kinh tế được xác định bằng tỷ số giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra. Như vậy muốn xác định được hiệu quả kinh tế thì ta phải xác định được kết quả và chi phí bỏ ra. Chi phí bỏ ra trong quá trình kinh doanh là toàn bộ các chi phí cho các yếu tố đầu vào như: đất đai, lao động, tiền vốn, nguyên vật liêu, giống.... Q H  Công thức: C Trong đó, H là hiệu quả kinh tế Q là khối lượng sản phẩm thu được C là chi phí bỏ ra Phương pháp này phản ánh rõ nét trình độ sử dụng các nguồn lực, xem xét được một đơn vị nguồn lực đã sử dụng dem lại bao nhiêu kết quả, do đó giúp ta so sánh được hiệu quả ở các quy mô khác nhau. 1.1.2 Hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu - Giá trị sản xuất (GO): Là toàn bộ giá trị tính bằng tiền của các sản phẩm trong một đơn vị được tạo ra trong một thời kỳ nhất định. - Chi phí trung gian (IC): Là bộ phận cấu thành trong tổng giá trị sản xuất, bao gồm chi phí vật chất và dịch vụ dùng cho sản xuất. - Giá trị gia tăng (VA): Kết quả cuối cùng thu được sau khi trừ đi chi phí trung gian của hoạt động sản xuất và được xác định bằng công thức: VA = GO - IC - GO/IC: Cho biết một đồng chi phí trung gian được đầu tư tạo ra bao nhiêu đồng giá trị sản xuất. Hiệu suất này càng cao thì sản xuất càng có hiệu quả. - VA/IC: Cho biết một đồng chi phí trung gian được đầu tư tạo ra được bao nhiêu đồng giá trị gia tăng. 1.1.3. Lịch sử phát triển cây cà phê ở Việt Nam Lần đầu tiên cà phê được đưa vào Việt Nam vào năm 1875, giống Arabica được người Pháp mang từ đảo Bourton sang trồng ở phía Bắc sau đó lan ra các tỉnh miền Trung như Quảng Trị, Bố Trạch, Sau thu hoạch chế biến dưới thương hiệu “Arabica du Tonkin”, cà phê được nhập khẩu về Pháp. Sau khi chiếm nước ta thực dân Pháp thành lập các đồn điền cà phê như Chinê, Xuân Mai, Sơn Tây chúng canh tác theo phương thức du canh du cư nên năng suất thấp giảm từ 400 – 500 kg/ha những năm đầu xuống còn 100 – 150 kg/ha khi càng về sau. Để cải thiện tình hình, Pháp du nhập vào nước ta hai giống mới là cà phê vối (C. robusta) và cà phê mít ( C. mitcharichia) vào năm 1908 để thay thế, các đồn điền mới lại mọc lên ở phía Bắc như ở Hà Tĩnh (1910), Yên Mỹ (1911, Thanh Hoá), Nghĩa Đàn (1915, Nghệ An). Thời điểm lớn nhất (1946 – 1966) đạt 13.000 ha. Năm 1925, lần đầu tiên được trồng ở Tây Nguyên, sau giải phóng diện tích cà phê cả nước khoảng 20.000 ha, nhờ sự hỗ trợ vốn từ quốc tế, cây cà phê dần được chú trọng, đến năm 1980 diện tích đạt 23.000 ha, xuất khẩu trên 6000 tấn. Bản kế hoạch ban đầu được xây dựng năm 1980 đặt mục tiêu cho ngành cà phê Việt Nam có khoảng 180 nghìn ha với sản lượng 200 nghìn tấn. Sau đó, bản kế hoạch này đã nhiều lần sửa đổi. Các con số cao nhất dừng lại ở mức 350 nghìn ha với sản lượng 450 nghìn tấn (VICOFA, 2002). Trận sương muối năm 1994 ở Brasil đã phá huỷ phần lớn diện tích cà phê ở nước này, cộng hưởng đợt hạn hán kéo dài năm 1997 đã làm nguồn cung trên toàn thế giới sụp giảm mạnh, giá tăng đột biến đã khích lệ mở rộng diện tích cà phê ở Việt Nam, đầu tư kỹ thuật canh tác thâm canh, chuyên canh, nhờ đó diện tích và sản lượng tăng nhanh, trung bình 23,9%/năm, đưa tổng diện tích cây cà phê năm 2000 lên đến 516,7 nghìn ha, chiếm 4,14% tổng diện tích cây trồng của Việt Nam, đứng thứ ba chỉ sau hai loại cây lương thực chủ lực là lúa (chiếm 61,4%) và ngô (chiếm 5,7%). Trong thập kỷ 90 thế kỷ XX, sản lượng tăng lên trên 20%/năm (và các năm 1994, 1995, 1996 sản lượng tăng thậm chí còn cao hơn với tỷ lệ lần lượt là 48,5%, 45,8% và 33%). Năm 2000, Việt Nam có khoảng 520 nghìn ha cà phê, tổng sản lượng đạt 800 nghìn tấn. Nếu so với năm 1980, diện tích cà phê của Việt Nam năm 2000 đã tăng gấp 23 lần và sản lượng tăng gấp 83 lần. Mức sản lượng và diện tích vượt xa mọi kế hoạch trước đó và suy đoán của các chuyên gia trong nước và quốc tế. Cho đến nay sản lượng cà phê cả nước chiếm 8% sản lượng nông nghiệp, chiếm 25% giá trị xuất khẩu và là nước xuất khẩu cà phê Robusta lớn nhất thế giới với hai tỉnh có diện tích canh tác lớn nhất là ĐăkLăc và Gia Lai, mang lại việc làm ổn định, thu nhập cao cho hàng triệu người. Góp phần ổn định kinh tế xã hội ở những vùng xa xôi hẻo lánh, dân tộc ít người, 1.1.4. Đặc điểm, yêu cầu sinh thái và quy trình sản xuất của cây cà phê 1.1.4.1. Đặc điểm sinh học của cây cà phê Cà phê là một chi thực vật thuộc họ thiên thảo. Họ này bao gồm 500 chi khác nhau với trên 6000 loài nhiệt đới. Chi cà phê bao gồm nhiều loại cây lâu năm khác nhau. Tuy nhiên không phải loài nào cũng chứa cafein trong hạt¸một số loài khác xa với những cây cà phê ta thường thấy. Loài thứ nhất có tên thông thường trong tiếng việt là cà phê chè (coffs Arabica), đại diện cho khoảng 61% các sản phẩm cà phê trên thế giới. Loài thứ 2 là cà phê vối (Coffes Canephonra hay Coffea Robusta) chiếm gần 39% các sản phẩm cà phê. Ngoài ra còn có Coffea Liberica và Coffea Excelsa (cà phê mít) với sản lượng không đáng kể. + Cây : Cây cà phê chè có thể cao tới 6m, cà phê vối tới 10m. Tuy nhiên ở các trang trại cà phê người ta thường cắt tỉa để giữ được độ cao từ 2 - 4 m, thuận lợi cho việc thu hoạch. Cây cà phê có cành thon dài, lá cuống ngắn, xanh đậm hình oval. Mặt trên lá có màu xanh thẫm, mặt dưới xanh nhạt hơn nhiều. Chiều dài của lá khoảng 8- 15cm, rộng 4-6cm. Rễ cây cà phê là rễ cọc, cắm sâu vào lòng đất từ 1-2,5m với rất nhiều rễ phụ tỏa ra xung quanh làm nhiệm vụ hút chất dinh dưỡng nuôi cây. + Hoa : Hoa cà phê màu trắng, có 5 cánh thường mọc thành chùm đôi hoặc chùm ba. Hoa chỉ nở vài 3 - 4 ngày và thời gian thụ phấn chỉ vài ba tiếng. Một cây cà phê trưởng thành có từ 30.000 đến 34.000 bông hoa. + Quả: Cà phê là cây tự thụ phấn, do đó gió và côn trùng có ảnh hưởng lớn tới quá trình sinh sản của cây. Sau khi thụ phấn từ 7 - 9 tháng cây sữ cho quả hình bầu dục, bề ngoài như quả anh đào. Trong thời gian chín màu sắc của quả thay đổi từ xanh sang vàng rồi cuối cùng là đỏ. Quả màu đen khi đã chín nẫu. Thông thường một quả cà phê chứa 2 hạt, chúng được bao bọc bởi lớp thịt bên ngoài. Hạt có thể hình tròn hoặc dài, lúc còn tươi có màu xám vàng, xám xanh hoặc xanh. 1.1.4.2 Yêu cầu sinh thái của cây cà phê Cà phê chè catimor có khả năng cho năng suất cao ở mật độ trồng dày và sớm cho quả. Đây là giống cà phê chè đầu tiên ở Việt Nam có khả năng đề kháng rất cao đối với bệnh rỉ sắt và hiện đang là giống được trồng rộng rãi trong cả nước thay thế các giống cũ kém chất lượng. Cây cà phê chè đòi hỏi một số điều kiện sinh thái nhất định đảm bảo cho quá trình sinh trưởng và phát triển của nó. Những địa phương nào hội tụ được một số điều kiện sau thì mới có thể sản xuất cà phê chè theo hướng sản xuất hàng hóa bền vững: - Khí hậu: + Nhiệt độ: Nhiệt độ thích hợp đối với cây cà phê chè trong khoảng 19 – 23oC. Khả năng chịu lạnh tương đối yếu, nhất là khi cây còn nhỏ mới trồng, nếu gặp sương muối sẽ dễ bị cháy lá và sinh trưởng kém. Cây cà phê yêu cầu chênh lệch nhiệt độ ngày đêm tương đối cao để tích lũy chất khô nhằm tạo hương vị thơm ngon đặc trưng. + Lượng mưa và ẩm độ: Cà phê chè là cây ưa ẩm và lượng mưa bình quân hàng năm thích hợp khoảng 1200-1500mm. Cà phê đòi hỏi độ ẩm khoảng trên 75%. Sau khi thu hoạch, cây cà phê cần có thời gian khô hạn nhẹ khoảng 2-3 tháng để phân hóa mầm hoa. Sau đó nếu đủ độ ẩm thì hoa phát triển. + Ánh sáng: Ánh sáng là một trong các nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng và phát triển của cây cà phê. Cà phê cần đến ánh sáng, nhất là ánh sáng tán xạ. Vì vậy trồng cà phê cần có cây che bóng. + Gió: Hầu hết các loại gió đều gây tác hại đối với cây cà phê vì ảnh hưởng đến quá trình thụ phấn và làm rụng quả, trừ trường hợp gió nhẹ giúp cây thoát nước nhanh và tăng cường quá trình trao đổi chất. - Đất đai: Cây cà phê chè có thể trồng trên nhiều loại đất như đất đỏ, đất phù sa cổ, đất xám, đất đá vôi, đất đồi dốc có độ cao trên 500m. Là loại cây lâu năm có bộ rễ ăn sâu nên muốn cây cà phê chè sinh trưởng phát triển tốt thì đất cần có độ dày tầng đất sâu trên 70cm, tơi xốp và giàu chất hữu cơ, không bị úng nước trong mùa mưa. Ngoài các yêu cầu trên, khi thiết lập vườn trồng cà phê chè cần chú ý nguồn nước tưới trong mùa khô. Độ pH đất thích hợp từ 5,5 – 6,5. 1.1.4.3 Quy trình sản xuất Cà phê là một trong số những loại cây trồng đòi hỏi tính chặt chẽ và nghiêm ngặt trong các quy trình kỹ thuật canh tác từ khâu trồng mới đến khâu chăm sóc và thu hoạch. Do tính chất trên nên đòi hỏi người trồng cà phê phải có kiến thức nhất định về kỹ thuật thì mới có thể đạt năng suất như mong muốn trong từng điều kiện cụ thể. - Lựa chọn đất trồng: Đất trồng cà phê thường là đất đỏ bazan, đất phù sa cổ, đất đá vôi có độ dốc dưới 8o và tầng đất sâu trên 70 cm. Bên cạnh đó, việc thiết kế đào hố vườn cây cần đảm bảo hạn chế đến mức thấp nhất sự xói mòn đất. Công tác quy hoạch đường đi đảm bảo sự thuận tiện cho việc vận chuyển phân bón, vật tư, sản phẩm khi thu hoạch. - Mật độ và khoảng cách trồng: Mật độ và khoảng cách cây trồng có ảnh hưởng lớn trong quá trình sinh trưởng của cây cà phê và cũng là yếu tố quan trọng cấu thành năng suất vườn cây. Trong điều kiện thổ nhưỡng và trình độ thâm canh trung bình thì nên trồng ở mật độ 5.000-5.500 cây/ha và khoảng cách từ 2m x 1m. - Thời vụ trồng: Thích hợp nhất từ 15/8 đến 15/10 trong năm. Sau khi trồng mới, đặc biệt trong thời kỳ kiến thiết cơ bản, người trồng cần phải thường xuyên làm cỏ kết hợp tủ gốc, xới đất, làm mương thoát nước nhằm chống xói mòn và tăng cường khả năng khai thác dinh dưỡng của cây cà phê trong đất. Thời gian tiến hành vào khoảng tháng 4-5 và tháng 10-11 trong năm. Trong thời kỳ đầu khi cà phê chưa giao tán, cần trồng xen các loại cây họ đậu để cải tạo và che phủ đất. - Bón phân: Cây cà phê có nhu cầu dinh dưỡng cao. Do vậy trong kỹ thuật canh tác, việc bón phân sẽ cung cấp dinh dưỡng cho cây. Việc bón phân theo đúng định mức, đúng thời điểm theo nhu cầu sinh lý của cây cà phê sẽ bảo đảm cho vườn cây phát triển và cho năng suất cao ổn định. Ngược lại, việc bón phân không đúng và không cân đối giữa các loại phân mà cây cần, không những không làm tăng năng suất mà còn là một nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt là tạo điều kiện thuận lợi cho một số mầm bệnh gây hại trong đất phát triển. Phân hữu cơ được khai thác triệt để từ các nguồn phân xanh, phân chuồng được ủ chế biến đúng kỹ thuật để bón cho cây cà phê, đảm bảo bón lót trước khi trồng 40tấn/ha. Thời kỳ kinh doanh 10tấn/ha, bón luân phiên 2 – 3 năm /lần. Bảng 1: Định mức bón phân hóa học qua từng thời kỳ của cây cà phê ĐVT: kg/ha Tuổi cây Urê Lân Kali - Thời kỳ kiến thiết cơ bản + Trồng mới 100 1.000 100 + KTCB 1 400 1.000 300 + KTCB 2 500 500 400 - Thời kỳ kinh doanh 550 750 400 Nguồn: Phòng Nông nghiệp huyện Hướng Hóa - Tỉa cành, tạo hình cho cà phê: bao gồm tạo hình cơ bản và tạo hình nuôi quả. - Phòng trừ sâu bệnh: Các bệnh thường gặp là bệnh rỉ sắt, rệp, sâu hồng đục thân, mọt đục quả. - Thu hoạch và chế biến: Thu hoạch cà phê bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 12, trong đó thời gian tập trung cao độ là hai tháng 10 và 11, chiến 60% sản lượng. Quá trình thu hái cà phê phải đảm bảo quả đúng tầm chín, không hái quả xanh hoặc để quả chín nẫu, khô rụng. Chỉ tiêu chất lượng được quy định khi thu hái cà phê quả tươi chín đỏ 91%, vàng 6%, 3% chín xanh khô. Quá trình chế biến phải đúng quy trình kỹ thuật và đảm bảo chất lượng. Trong chế biến cần quan tâm xử lý nước thải và chất thải rắn nhằm tránh ô nhiễm môi trường và tận dụng được chất thải chế phẩm phân vi sinh. - Năng suất: Với điều kiện thổ nhưỡng và quy trình chăm sóc, thâm canh cao, dự kiến năng suất vườn cà phê catimor trên địa bàn nghiên cứu như sau: + Năng suất thấp nhất: 1,4 tấn nhân/ha/năm. + Năng suất cao nhất: 2,7 tấn nhân/ha/năm. 1.1.5. Giá trị kinh tế của cây cà phê Cà phê chiếm một vị trí quan trọng trong thương mại thế giới với giá trị trao đổi toàn cầu đạt 5,26 tỷ USD trong năm 2002. Cà phê cũng là nguồn thu ngoại tệ quan trọng đối với nhiều nước đang phát triển. Có khoảng 70 nước sản xuất cà phê trên thế giới, trong số đó 45 nước thành viên của Tổ chức cà phê quốc tế chiếm tới 97% tổng nguồn cung cà phê toàn cầu. Trong những năm gần đây, cà phê đã trở thành một trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu chiến lược của Việt Nam. Nếu như năm 1980, cả nước mới có 22,5 ngàn ha cà phê với sản lượng 8,4 ngàn tấn thì đến năm 2000, diện tích cà phê đã tăng lên tới 255 ngàn ha, sản lượng 554 ngàn tấn. Với các điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng thích hợp cho trồng cây cà phê tại nhiều địa phương trong cả nước, Việt Nam có nhiều lợi thế để sản xuất và xuất khẩu cà phê. Xuất khẩu cà phê của Việt Nam đã tăng liên tục trong những năm đầu của thập niên 90, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu cà phê Robusta lớn nhất thế giới. Theo một nghiên cứu được công bố vào tháng 8 năm 2005 của nhà hóa học Mỹ Joe Vinson thuộc đại học Scranton thì cà phê là một nguông quan trọng cung cấp các chất chống ô xi hóa cho cơ thể, những chất này cũng gián tiếp làm giảm nguy cơ bị ung thư ở người. Ngoài ra cà phê còn có tác dụng an thần và là nguyên liệu cho một số nghành công nghiệp phát triển như: Bánh kẹo, sửa, dược phẩm... 1.1.6. Vai trò của cây cà phê đối với chương trình xóa đói giảm nghèo ở nông thôn cao nguyên và miền núi Cà phê là một trong nhũng mặt hàng xuất khẩu quan trọng của nhiều nước đang phát triển và chiếm tỉ lệ khá lớn trong cán cân thương mại thế giới. Tuy nhiên thu nhập và lợi nhuận lại tập trung ở một số nhà đàu cơ, chế biến tiêu thụ trên thế giới. Người trồng cà phê chỉ hưởng lợi rất ít trong chuỗi cung đó. Phần lớn các nước trồng cà phê là những nước chậm phát triển hoặc đang phát triển. Đánh giá vị trí của cây cà phê trong cơ cấu cây trồng miền núi người ta thường nêu lên nhiều giá trị của nó với các chương trình trọng điểm của nhà nước như: Xóa đói giảm nghèo, phủ xanh đất trống đồi núi trọcthực tế một số nơi cây cà phê đã thể hiện đúng những gì người ta đã đánh giá về nó. Tuy nhiên cũng có một số nơi cây cà phê đã không mang lại kết quả mong muốn. Người dân không đủ vốn và cả kĩ thuật chăm sóc, vườn cà phê còi cọc không cho sản lượng, thậm chí nhiều nơi cây cà phê phải bỏ hàng loạt. Có thể nêu những nguyên chủ yếu sau: + Cà phê là”cây của người giàu”. Nghĩa là cây cà phê là một cây công nghiệp đòi hỏi người trồng phải có vốn đầu tư với những hiểu biết kĩ thuật đầy đủ. Cây cà phê phát triển tốt cho hiệu quả cao. Còn ở những hộ nông dân nghèo thiếu vốn thì cà phê ngoài tác dụng tạo công ăn việc làm ra không còn mang lại sự giàu có cho chủ hộ. + Cây cà phê góp phần xóa đói giảm nghèo cho hộ nông dân nếu được nhà nước hỗ trợ về vốn những năm đầu và chuyển giao kĩ thuật đầy đủ. Một số nơi chỉ nhận vốn vay trồng cà phê nhưng sau đó không có đủ vốn để chăm sóc tiếp theo thì người nông dân cũng đành bỏ vườn cà phê. Công tác chuyển giao kĩ thuật làm chưa đầy đủ, nông dan nhiều nơi chưa nắm được kĩ thuật từ khâu chọn đất trồng, chọn giống.. có những sai sót ảnh hưởng đến kết quả. + Để phát triển tốt cà phê cải thiện đời sống nông dân và phát triển nông thôn nhà nước cần có một chương trình đồng bộ, hoàn chỉnh về nông dân, nông thôn từ sản xuất chế biến đến tiêu thụ sản phẩm. 1.1.7. Giá trị kinh tế của cây cà phê Cà phê chiếm một vị trí quan trọng trong thương mại thế giới với giá trị trao đổi toàn cầu đạt 5,26 tỷ USD trong năm 2002. Cà phê cũng là nguồn thu ngoại tệ quan trọng đối với nhiều nước đang phát triển. Có khoảng 70 nước sản xuất cà phê trên thế giới, trong số đó 45 nước thành viên của Tổ chức cà phê quốc tế chiếm tới 97% tổng nguồn cung cà phê toàn cầu. Trong những năm gần đây, cà phê đã trở thành một trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu chiến lược của Việt Nam. Nếu như năm 1980, cả nước mới có 22,5 ngàn ha cà phê với sản lượng 8,4 ngàn tấn thì đến năm 2000, diện tích cà phê đã tăng lên tới 255 ngàn ha, sản lượng 554 ngàn tấn. Với các điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng thích hợp cho trồng cây cà phê tại nhiều địa phương trong cả nước, Việt Nam có nhiều lợi thế để sản xuất và xuất khẩu cà phê. Xuất khẩu cà phê của Việt Nam đã tăng liên tục trong những năm đầu của thập niên 90, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu cà phê Robusta lớn nhất thế giới. Theo một nghiên cứu được công bố vào tháng 8 năm 2005 của nhà hóa học Mỹ Joe Vinson thuộc đại học Scranton thì cà phê là một nguông quan trọng cung cấp các chất chống ô xi hóa cho cơ thể, những chất này cũng gián tiếp làm giảm nguy cơ bị ung thư ở người. Ngoài ra cà phê còn có tác dụng an thần và là nguyên liệu cho một số nghành công nghiệp phát triển như: Bánh kẹo, sửa, dược phẩm... 1.1.8. Vai trò của cây cà phê đối với chương trình xóa đói giảm nghèo ở nông thôn cao nguyên và miền núi Cà phê là một trong nhũng mặt hàng xuất khẩu quan trọng của nhiều nước đang phát triển và chiếm tỉ lệ khá lớn trong cán cân thương mại thế giới. Tuy nhiên thu nhập và lợi nhuận lại tập trung ở một số nhà đàu cơ, chế biến tiêu thụ trên thế giới. Người trồng cà phê chỉ hưởng lợi rất ít trong chuỗi cung đó. Phần lớn các nước trồng cà phê là những nước chậm phát triển hoặc đang phát triển. Đánh giá vị trí của cây cà phê trong cơ cấu cây trồng miền núi người ta thường nêu lên nhiều giá trị của nó với các chương trình trọng điểm của nhà nước như: Xóa đói giảm nghèo, phủ xanh đất trống đồi núi trọcthực tế một số nơi cây cà phê đã thể hiện đúng những gì người ta đã đánh giá về nó. Tuy nhiên cũng có một số nơi cây cà phê đã không mang lại kết quả mong muốn. Người dân không đủ vốn và cả kĩ thuật chăm sóc, vườn cà phê còi cọc không cho sản lượng, thậm chí nhiều nơi cây cà phê phải bỏ hàng loạt. Có thể nêu những nguyên chủ yếu sau: + Cà phê là”cây của người giàu”. Nghĩa là cây cà phê là một cây công nghiệp đòi hỏi người trồng phải có vốn đầu tư với những hiểu biết kĩ thuật đầy đủ. Cây cà phê phát triển tốt cho hiệu quả cao. Còn ở những hộ nông dân nghèo thiếu vốn thì cà phê ngoài tác dụng tạo công ăn việc làm ra không còn mang lại sự giàu có cho chủ hộ. + Cây cà phê góp phần xóa đói giảm nghèo cho hộ nông dân nếu được nhà nước hỗ trợ về vốn những năm đầu và chuyển giao kĩ thuật đầy đủ. Một số nơi chỉ nhận vốn vay trồng cà phê nhưng sau đó không có đủ vốn để chăm sóc tiếp theo thì người nông dân cũng đành bỏ vườn cà phê. Công tác chuyển giao kĩ thuật làm chưa đầy đủ, nông dan nhiều nơi chưa nắm được kĩ thuật từ khâu chọn đất trồng, chọn giống.. có những sai sót ảnh hưởng đến kết quả. + Để phát triển tốt cà phê cải thiện đời sống nông dân và phát triển nông thôn nhà nước cần có một chương trình đồng bộ, hoàn chỉnh về nông dân, nông thôn từ sản xuất chế biến đến tiêu thụ sản phẩm. 1.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.1. Tình hình sản xuất cà phê trên thế giới Trên thế giới hiện nay có 75 nước trồng cà phê với diện tích trên 10 triệu hecta và sản lượng hàng năm biến động trên dưới 6 triệu tấn... 0,00 0,00 + Vốn vay NHCS 260.000,00 64,19 + Vốn vay NHNN&PTNT 145.000,00 35,81 2 BQ vốn/ hộ 10.125,00 - 3 BQ vốn/ha cà phê 11.571,00 - (Nguồn: Số liệu điều tra năm 2011) Nhìn vào kết quả điều tra ta thấy, người dân hầu như không có vốn tự có để đầu tư cà phê, vì đại bộ phận đời sống của người dân còn rất khó khăn. Vốn tự có cúa các nông hộ đầu tư vào cà phê chủ yếu là công lao động gia đình tự có. Tổng số vốn đầu tư cho cà phê 405.000 nghìn đồng. Các nông hộ trồng cà phê chủ yếu vay vốn ngân hàng. Vốn vay NHCS mà các nông hộ trồng cà phê vay là 260.000 nghìn đồng chiếm 64,19% tổng số vốn. Trong khi đó, vốn vay từ NHNN&PTNT là 145.000 nghìn đồng chiếm 35,81% tổng số vốn. Tính bình quân trên trên hộ trồng cà phê là 10.125 nghìn đồng và tính bình quân trên 1ha cà phê là 11.571 nghìn đồng. Các con số đó nói lên vấn đề tiếp cận nguồn vốn vay từ ngân hang của các nông hộ là khá tốt. Việc tiếp cận với Ngân hàng NN&PTNT thường chỉ có những hộ có lương và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên rất khó để vay vốn ngân hàng. đồng thời các hộ cũng sợ rủi ro không dám đầu tư sản xuất. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc đầu tư để phát triển cà phê. 2.4 Phân tích hiệu quả sản xuất cà phê Để đánh giá kết quả của một quá trình kinh doanh thì đều phải hoạch định được các chỉ tiêu cơ bản như doanh thu và chi phí. Doanh thu là kết quả sản phẩm thu được còn chi phí sản xuất là toàn bộ chi phí bằng tiền hoặc hiện vật bao gồm nhiều khoản khác nhau. Đối với cây trồng, để đánh giá chính xác được các khoản chi phí sản xuất người ta phải dưa vào các giai đoạn sinh trưởng của từng giống cây. cà phê là cây năn nên chu kỳ sinh trưởng kéo dài. Theo nhiều nghiên cứu, đời sống thực vật của cây cà phê có thể kéo dài tới trăm năm, tuy nhiên chu kỳ khai thác kinh tế chỉ kéo dài từ 20- 60 năm. Tùy theo từng giống, điều kiện sống, các biện pháp kỹ thuật canh tác và khả năng cho năng suất của chúng v.v...Để đánh giá hiệu quả sản xuất cây cà phê, người ta chia chu kỳ kinh tế của cây thành 2 thời kỳ: thời kỳ kiến thiết cơ bản và thời kỳ kinh doanh. Đối với cây cà phê chè Catimor được trồng ở Hướng Hóa sau khi trồng được 3 năm bước qua năm thứ 4 là thời kỳ kinh doanh. Từ khi trồng mới đến năm thú 2 cây cà phê không cho sản phẩm. Vào năm thứ 3 các vườn cà phê đã cho quả bói nhưng năng suất còn thấp và chưa đòng đều nên năm nay văn được xem la năm kiến thiết. Như vậy, chi phí ở thời kỳ KTCB của các nông hộ được thể hiện qua 3 năm. Để đánh giá chi phí sản xuất trong thời kỳ kiến thiết cơ bản của các vườn cà phê tôi tiến hanh điều tra và đưa ra tổng hợp về các khoản chi phí được thể hiện ở bảng 8 Bảng 8: Chi phí sản xuất 1 ha cà phê ở thời kỳ KTCB ĐVT:1.000đ Cà phê thời kỳ KTCB Chỉ tiêu Năm 1 Năm2 Năm3 Giá tri % Giá trị % Giá trị % 1. Giống 6000,00 20,96 0,00 0,00 0,00 0,00 2. Phân bón 7.957,4 27,80 4.814,70 48,53 5.420,0 46,85 + Phân hữu cơ 450,001 1,57 200,00 2,02 300,00 2,59 + Phân vô cơ 7.507,38 26,23 4.61471 46,52 5.120,00 44,26 3. Thuốc BVTV 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 4. Lao động 14.666,7 51,24 5.105,9 51,47 6.149,0 53,15 + Lao dộng thuê ngoài 9.666,7 33,77 0,00 0,00 0,00 0,00 + Lao động gia đình 5000,00 17,46 5.105,88 51,47 6.149,02 53,15 Tổng 28.621,1 100,0 9.920,60 100,0 11569,0 100,0 (Nguồn: Số liệu điều tra năm 2011) Kết quả và hiệu quả của giai đoạn sau phụ thuộc rất nhiều vào thời kỳ kiến thiết cơ bản. Qua bảng trên chúng ta nhận thấy rằng việc trồng và chăm sóc cà phê la một quá trình phức tạp chi phí của thời kỳ này phân phối đều cho các năm. bao gồm chi phí vật tư như: giống, phân bón ,thuốc bảo vệ thưc vật và lao động. + Trồng mới: Đối với Hướng Hóa thời vụ trồng cà phê tốt nhất vào cuối tháng 8 đến hết tháng 9 (dương lịch). Ở năm đầu tiên chi phí tương đối cao hơn so với năm 2 và năm 3. Vì trong năm này các hộ phải đầu tư tiền mua giống, phân bón, chi phí thuê công đào hố, gieo trồng làm cỏ...Tổng chi phí đầu tư trong năm các nông hộ phải chi là: 28.621,1 nghìn đồng chiếm 57,11% tổng chi phí thời kỳ kiến thiết. - Về giống: đây là khâu quyết định về chất lượng vườn cây sau này. Mật độ trồng của cà phê chè Catimor là 5.000 cây/ha. Hầu hết các hộ gia đình mua giống của nông trường với giá 1.200đồng/cây. Tính bình quân mổi ha nông hộ trồng cà phê phải chi là 6.000 nghìn đồng để mua giống, chiếm 20,96% trong cả năm trồng. - Về phân bón: phân bón trong năm này bao gồm phân hữu cơ và phân vô cơ. Sau khi đào hố người ta đưa vào trong hố hỗn hợp phân chuồng, phân vô cơ cùng với lớp đất mặt và láp hố trước khi trồng từ 20- 30 ngày. Trong khoảng thời gian đợi mưa xuống, hỗn hợp phân trong hố được phân giải và cung cấp chât dinh dưỡng làm cho đất màu mỡ. Chi phí phân bón trong năm nay mà các nông hộ trồng cà phê phải chi là: 7.957,4 nghìn đồng/ha, chiếm 27,8% tổng chi phí cả năm. - Về thuốc BVTV: Các nông hộ trồng cà phê không có vốn nên trong năm này cung như hai năm tiếp theo không mua thuốc vì trong thời kỳ này cây cũng chưa bị sâu bệnh. - Về lao động: lao động là yếu tố quan trọng chiếm lượng chi phí lớn trong năm này. Trong năm này, các nông hộ đã chi phí về công lao động là 14.666,7 nghìn đồng chiếm 51,24% tổng chi phí. Lao động được phân phối cho tất cả các việc từ làm đất, đào hố, phát quang đến trồng cây, chăm sóc, bón phân v.v...Theo kết quả điều tra cho thấy có tới 87,5 số hộ điều tra làm nông nghiệp nên phần lớn các nông hộ sử dụng công lao động gia đình. Tuy nhiên, trong năm nay khối lượng công việc lớn lao động gia đình không đủ để phục vụ cho trồng mới cà phê. Vì vậy các hộ đều thuê thêm lao động ngoài. Trong năm công lao động gia đình tính theo giá thị trường là: 5.000 nghìn đồng và công lao động thuê ngoài là 9.666,7 chiếm 51,24% chi phí cả năm. + Sau khi trồng mới, ở hai năm tiếp theo người ta bắt đầu vào thời kỳ chăm sóc. Các khoản mục chi phí trong năm này cũng tượng tự như chi phí trồng mới nhưng được cắt giảm bớt. Trong năm 2 và năm 3 các hộ vẫn tận dụng phân hữu cơ sẳn có để bón cho cà phê, tính bình quân 1ha các nông hộ dả chi lần lượt là 200 nghìn đồng và 300 nghìn đồng chiếm 2,02% và 2,59% tổng chi phí trong năm. lượng phân bón vô cơ trong hai năm này giảm xuống , cụ thể: năm 2 là: 4.614,71 nghìn đồng chiếm 46,52% tổng chi phí trong năm; năm 3 là 5.120 nghìn đồng, chiếm 44,26% tổng chi phí trong năm. Trong 3 năm nhu cầu dinh đưỡng của cây trồng tăng cao nên chi phí đầu tư cũng tăng. Tuy nhiên lượng phân bón này cũng chưa đáp ứng đủ yêu cầu cho sự phát triển của cây cà phê. Nhìn chung, trong thời kỳ KTCB, chi phí vật tư và công lao động tương đối lớn, tập trung ở năm trồng mới và giảm bớt ở các năm chăm sóc tiếp theo. Đồng thời việc đầu tư trong thời kỳ này có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả cũng như hiệu quả của cây cà phê sau này. Vì vậy đòi hỏi các hộ cần chủ động nguồn vốn để đầu tư sản xuất đúng quy trình kỹ thuật. 2.4.2 Chi phí đầu tư cho 1 ha cà phê o thời hỳ kinh doanh Tổng chi phí thời kỳ kinh doanh bao gồm: chi phí vật tư, chi phí nhân công v.v...Ngoài ra còn một khoản chi phí nữa là chi phí khấu hao giá trị vườn cây. Cụ thể chi phí sản xuất cà phê ở thời kỳ kinh doanh trong năm 2010, tính bình quân trên một ha được thể hiện ở bảng 9. Bảng 9: Chi phí sản xuất 1 ha cà phê ở thời kỳ KD trong năm 2010 Đơn vị tính:1.000đ Chỉ tiêu Năm 2010 Giá trị (1000) Cơ cấu (%) 1.Chi phí vật tư 3.627,66 26,36 Phân hữu cơ 0,00 0,00 Phân vô cơ 3.497,70 25,41 Thuốc trừ cỏ 130,00 0,95 2. Chi phí lao động 6.508,02 47,28 Chi phí lao động thuê ngoài 0,00 0,00 Chi phí lao động gia đình 6.508,02 47,28 3.Khấu hao vườn cây 2.327,7 16,91 4. Lãi vay ngân hàng 1.300 9,44 Tổng 13.763,38 100,00 (Nguồn số liệu điều tra năm 2010) Qua bảng số liệu chúng ta thấy rằng, chi phí đầu tư trong năm 2010 của các nông hộ tương đối thấp. Các khoản chi phí trong năm bao gồm: + Chi phí vật tư: chi phí vật tư trong thời kỳ này bao gồm phân bón và thuốc trừ cỏ. Tính bình quân chi phí phân vô cơ (phân đạm, lân, NPK...) mỗi ha cà phê nông hộ trong năm là: 3.497,7 nghìn đồng chiếm 34,50% tổng chi phí cả năm. Trong năm này thì không có hộ nào sử dụng phân chuồng để bón phân cho cà phê. Bước vào thời kỳ kinh doanh các hộ gia đình đã đầu tư phân bón để tăng suất song mức đầu tư vẩn còn thấp. Tùy vào điều kiện mỗi gia đình có một số hộ đã mua thuốc trừ cỏ để giảm chi phí làm cỏ + Chi phí lao động: Theo điều tra, bình quân mổi hộ gia đình có 3,20 lao động nên nguồn lao động của gia đình đủ đáp ứng nhu cầu lao động để sản xuất cà phê do đó các hộ không cần thuê lao động bên ngoài. Tính theo giá thị trường, chi phí lao đọng gia đình của nông hộ khá cao: 6508,02 chiếm 64,21% toàn bộ chi phí trong năm. Trong năm các hoạt động cần lao động bao gồm các công đoạn làm cỏ, bón phân, cắt cành tạo tán, phun thuốc trừ cỏ v.v...Đối với những hộ thuần nông, các công việc này đều do lao động gia đình đảm nhận hoặc trao đổi lao động với hình thức đổi công nên góp phần giảm bớt chi phi trực tiếp. Nhìn chung, khi cà phê bước vào thời kỳ kinh doanh thi đòi hỏi chi phí chăm sóc nhiều hơn. Điều kiện vốn, thời tiết, khí hậu cùng sự biến động của gia cả thị trường có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả sản xuất thu được. Vì vây, người sản xuất cần chủ động tìm ra con đường phát triển của chính mình. 2.4.3 Kết quả và hiệu quả của các hộ điều tra Mục đích của hoạt động kinh doanh là hiệu quả kinh tế đêm lại. Đặc biệt là trong nền kinh tế hiện nay, hiệu quả sản xuất ngày càng có ý nghĩa quang trọng. Cà phê là loại cây công nhigệp lâu năm. Giá trị kinh tế của nó nằm ở quả (hạt). Sản phẩm quả thu được hầu hết là đem di tiêu thụ. Bên cạnh đó, chi phí đầu tư ch một vườn cà phê là rất lớn ảnh hưởng nhiều đến việc đưa ra quyết định của người sản xuất. Từ đó, chúng ta nhận thấy rằng đấnh giá kết quả và hiệu quả trong hoạt động sản xuất cà phê nói riêng và trong hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung có ý nghĩa hết sức quan trọng. Vì vậy, các nông hộ trồng cà phê cần hoạch toán phần kết quả va hiệu quả của hoạt động sản xuất của gia đình mình để có thể đưa ra những quyết định phù hợp. 2.4.3.1 Kết quả sản xuất của các nông hộ thông qua các chỉ tiêu GO, IC, VA và LN Để đánh giá kết quả sản xuất chung tôi sử dụng các chỉ tiêu sau: Giá trị sản xuất (GO), chi phi trung gian (IC), giá trị gia tăng (VA), thu nhập hỗn hợp (MI) và lợi nhuận (LN). Kết quả sản xuất của các nông hộ năm 2010 thể hiện ở bảng 10. Bảng 10: Một số chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả sản xuất cà phê ở huyện Hướng Hoá năm 2010 ĐVT: 1.000đ Chỉ tiêu ĐVT BQC Tổng giá trị sản xuất (GO) 1000 đ 40.000 Chi phí trung gian (IC) 1000 đ 3.627,7 + Khấu hao vườn cây 1000 đ 2.327,7 + Lãi suất ngân hàng 1000 đ 1.300 Giá trị gia tăng (VA) 1000 đ 36.372,34 Chi phí tự có 1000 đ 6.508,00 Lợi nhuận 1000 đ 29.864,32 GO/IC Lần 11,03 VA/IC Lần 10,03 LN/IC Lần 8,23 (Số liệu điều tra năm 2010) + Giá tri sản xuất (GO): Tính bình quân cho 1 ha thì giá trị sản xuất má các nông hộ trồng cà phê thu được năm 2010 là: 40.000 nghìn đồng. Nhìn chung, giá trị sản xuất cà phê của các hộ kha cao. Năng suất cà phê tính bình quân trên 1 ha của các nông hộ trồng cà phê là 8 tấn cà phê tươi. Trong khi đó, gía cà phê tương đối cao, giá bình quân 1kg cà phê tư thương thu mua là 5.000 đồng. + Chi phí trung gian (IC): chi phí trung gian phản ánh mức độ đầu tư chi phí vật chất mà không bao gồm ci phí công lao động gia đình. Phần chi phí này bao gồm khoản chi phí về vật tư như phân bón, thuốc trừ cỏ và các chi phí khác bằng tiền. Trong năm chi phí trung gian mà các nông hộ trồng cà phê là: 3.627,7 nghìn đồng, nhìn chung trong năm này chi phí đầu tư mua phân bón để bón phân cho cà phê còn tương đối thấp do đời sống của người dân nơi đây còn gặp nhiều khó khăn. + Giá trị gia tăng (VA): phần giá trị gia tăng phản ánh rỏ kết quả của hoạt động sản xuất mang lại. Theo kết quả tính toán, giá trị gia tăng tính bình quân trên 1ha cà phê trong năm của các nông hộ là: 36.372,34 nghìn đồng con số này tương đối cao. + Lợi nhuận (LN): Lợi nhuận là chỉ tiêu quan trọng phản ánh kết quả sản xuất đạt được. Lơi nhuân dương phản ánh kết quả sản xuất tốt, lợi nhuận âm phản ánh sự thất bại thua lổ trong sản xuất. Lợi nhuân đạt dược tính bình quan trên 1 ha cà phê của các nông hộ là: 29.864,32 nghìn đồng. Ta thấy rằng, các nông hộ trồng cà phê lợ nhuận tương đối thấp do năng suất cà phê đạt được chưa cao. Các nông hộ cần chú ý đầu tư và chăm sóc nhằm nâng cao năng suất của vườn cà phê. Như vậy chúng ta thấy rằng, thông qua các chỉ tiêu đánh giá kết quả sản xuất chúng ta thấy rằng trong năm 2010 các nông hộ trồng cà phê đạt lợ nhuận chưa cao. Sỡ dĩ như vậy là trong năm do ảnh hưởng của thời tiết , do trình độ canh tác của người dân còn thấp và chưa nhận hết giá trị từ cây cà phê nên trong quá trình thu hoạch khâu tận thu chưa được chú trọng. Đây là một vấn đề khá tế nhị cần được khắc phục. Ngoài ra khi thu hoạch các hộ còn thu hái lẫn quả xanh nên chấ lượng cà phê không cao. Vì vậy muốn đạt kết quả cao trong những năm tới thì đòi hỏi các hộ gia đình cần nâng cao kiến thức, kinh nghiệm và kỹ thuật trồng cà phê cũng như khả năng quản lý kinh tế. Đối với một huyện có diện tích đất nông nghiệp lớn và có tiềm năng phát triển như huyện Hướng Hoá và với định hướng phát triển cà phê là cây trồng chủ đạo thi việc sản xuất như trên là chưa tương xứng với tiềm năng và lơi thế của huyện. Hiện tượng đói nghèo vẩn tồn tại, vì thế để giải quyết các vấn đề trên huyện phải đầu tư đúng mức để phát triển ngành nông nghiệp nói chung và phát triển cây cà phê nói riêng. Đặc biệt, cần phải phát triển thêm ngành nghề thủ công truyền thống để giair quyết công ăn việc làm tăng thu nhập cho người dân lúc nhàn rổi. 2.4.3.2 Hiệu quả sản xuất cà phê của các nông hộ Cà phê là cây công nghiệp, nhu cầu cà phê trong nước không cao. Hầu hết sản phẩm cà phê thu hoạch dành cho xúât khẩu. Chính vì thế, đả từ lâu ngành nông nghiệp sản xuất cà phê đước xem là ngành sản xuất hàng hoá. Tuy nhiên không phải nơi nào cây cà phê cũng phát triển được. Muón cây cà phê sinh trưởng, phát triển tốt để cho ra đời những quả cà phê có chất lượng thì đòi hỏi phải có quy trình kỹ thuật gắt gao cộng với các điều kiện thích hợp về đất đai, thổ nhưỡng và điều kiện thời tiết khì hậu. Vì thế trong những năm qua, nước ta đã tiến hành rất nhiều chương trình dự án nhằm đánh giá khả năng phù hợp với phát triển cà phê của từng vùng đất, từ đố hình thành những vùng chuyên canh cà phê lớn. Hiệu quả kinh tế đạt được ở mỗi vùng đất là không giống nhau. Hiệu quả kinh tế là động lực thúc đẩy các hộ gia đình quyết định mở rộng hay thu hẹp quy mô cũng như quyết định đầu tư cho sản xuất. Vì vậy, phân tích hiệu quả kinh tế cần đánh giá một cách tổnh thể, phân tích những chỉ tiêu phản ánh sử dụng hiệu suất sử dụng chi phí trung gian. a. Phân tổ lợi nhuận theo quy mô diện tích Với quy mô diện tích khác nhau sẻ thu được những mức lợi nhuận khác nhau. Để rỏ hơn tôi phân tổ ra các nhóm quy mô diện tích và lập bảng sau: Bảng 11:Phân tổ lợi nhuận theo quy mô diện tích Diện tích vườn Cơ cấu Diện tích bình Lợi nhuận Số hộ cây (ha) (%) quân (ha) (1000) <1,00 10 25 0,76 24.300,45 1,00 -1,5 18 45 1,24 28.987,05 >1,5 12 30 1,65 30.987,07 (Nguồn : Số liệu điều tra năm 2010) Theo số liệu thồng kê bảng trên cho thấy nếu quy mô diện tích càng lớn thì lợi nhuận càng cao, cụ thể nhóm 12 hộ dân có quy mô diện tích >1,5ha có múc lãi suất lên tới 30.987,07 nghìn đồng. Còn nhóm 18 hộ dân có diện tích nằm trong khoảng 1,00- 1,5 ha thì có mức lãi suấtthấp hơn với 28.987,05 nghìn đồng. Và thấp hơn là nhóm hộ có diện tích bình quân là 0,76 ha thu được mức lợi nhuận thấp nhất là 24. 300,45 nghìn đồng b. Phân tổlợi nhuận theo nguồn vốn Nguồn vốn của người dân có ảnh hưởng tới mức đầu tư và tâm lý đầu tư của họ. Nếu có nguồn vốn dồi dào thì người dân mạnh dạn đầu tư và mở rộng quy mô, đồng thời có nhiều lợi thế hơn so với cáchộ có nguồn vốn hạn hẹp.Qua đó cho thấy lợi nhuận của cây cũng bị chi phối bởi nguồn vốn của người dân. Với nguồn vốn ban đầu có lớn hơn 15000 nghìn đồng 4 hộ dân trong tổng số 40 hộ điều tra thu được mức lãi suất cao nhất là 31.992nghìn đồng. Có tới 24 hộ dân chiếm tới 60%trong tổng số hộ điều tra nằm trong nhóm có nguồn vốn từ 10.000 – 15.000 nghìn đồng số hộ này thu được mức lãi suất thấp hơn là 29.100 nghìn đồng và thấp nhất là các hộ có nguồn vốn nhỏ hơn 10.000 nghìn đồng thu được mức lợi nhuận thấp nhất là 23.312 nghìn đồng. để biết rỏ hơn chúng ta theo dõibảng 12. Bảng 12: Phân tổ lợi nhuận theo nguồn vốn Nguồn vốn Số hộ Cơ cấu Nguồn vốn bình Lợi nhuận (1000) (1000) (%) quân (1000) <10.000 12 30 8.650 24.312 10.000 - 15.000 24 60 13.574 29.100 >15.000 4 10 12.300 31.992 (Nguốn số liệu điều tra năm 2010) c. Phân tổ lợi nhuận theo tổng mức đầu tư kinh doanh Trong thời kỳ kinh doanh để đạt được mức nắng suất cao nhất người dân phải tập trung đầu tư. Trong thời gian này chủ yếu đầu tư vào phân bón vàcông lao động. Để biết mức đầu tư trong thời kỳ này quyết định thế nào tới năng suất cây trồng tôi phân tích bảng sau: Bảng 13: Phân tổ lợi nhuận theo mức đầu tư thời kỳ kinh doanh Đầu tư thời kỳ Cơ cấu Mức đầu tư bình Lợi nhuận Số hộ kinh doanh (%) quân (1000) (1000) <8.000 8 20 7.539 26.590 8.000 – 12.000 23 57,5 10.244 30.087 >12.000 9 22,5 13.600 29.809 (Nguồn: Sốliệu điều tra năm 2010) Với mức đầu tư thấp nhất, bình quân 7.539 nghìn đồng 8 hộ dân có mức đầu tư trong thời kỳ kinh doanh nhỏ hơn 8000 có mức lợi nhuận thấp nhất là 26.590nghìn đồng. Với mức đầu tư nằm trong khoảng từ 8.000 – 12.000 nghìn đồng có tới 23 hộ trong tổng 40 hộ điều tra chiếm tới 57,5% , mức lợi nhuận của cáchộ này là cao nhất lên tới 30.087 nghìn đồng. Sỡ dĩ các hộ nông dân này có mức lợi cao là vì họ đầu tư đúng hướng không bị lãng phí phân bón Còn mức đầu tư >12.000 nghìn đồng dường như người dân trong nhóm này đã lãng phí mất một lượng phân bón nào đó vì lợi nhuận họ thu được lại thấp hơn nhóm 8.000 – 12.000 nghìn đồng. Nhóm này có 9 hộ chiếm 22,5 trong tổng số hộ điều tra. Hiệu suất sử dụng chi phí trung gian cho biết cứ một đồng chi phí trung gian bỏ ra người sản xuất thu được bao nhiêu đồng giá trị sản xuất, bao nhiêu đồng giá trị gia tăng, bao mhiêu đồng lợi nhuận. Cụ thể hiệu quả sử dụng chi phí trung gian của các hộ trồng cà phê trong năm 2010 là: cứ một đồng chi phí trung gian tạo ra 11,03 đồng giá trị sản xuất; 103 đồng giá trị gia tăng và 8,23 đồng lợi nhuận. Nhìn chung, hiệu quả sử dung chi phi trung gian của các nông hộ sản xuất cà phê đạt mức trung bình. Vì vậy, để đạt hiệu quả cao trong việc trồng cà phê đòi hỏi các nông hộ cần đầu tư thêm vật tư để tăng năng suất đồng thời cần phải thay đổi tư liệu lao động để giảm chi phí lao động. Ngoài ra, để cà phê ở Hướng Hoá phát triênt theo đúng hướng thì cần có sự quan tâm và giúp đở của chính quyền đia phương. 2.5. Thị trường các yếu tố đầu vào và đầu ra Sản xuất nông nghiệp là quá trình tác động của con người thông qua tư liệu lao động tác động lên cây trồng, vật nuôi để tạo thành sản phẩm đầu ra. Đối với sản xuất cà phê, đầu vào chính là các yếu tố phục vụ sản xuất như giống, phân bón thuốc BVTV v.vvà đầu ra là các sản phẩm thu hoạch được. Đầu vào là các chi phí sản xuất còn đầu ra phản ánh kết quả của quá trình sản xuất đó. Người sản xuất luôn mong muốn đạt được kết quả sản xuất tốt nhất trong khi chi phí đầu vào lại giảm xuống. Muốn làm được điều đó đòi hỏi các hộ gia đình cần phải nắm vững các quy trình kỹ thuật ngoài ra cần phải theo dõi các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản phẩm. 2.5.1 Thị trường các yếu tố đầu vào Bất kỳ hoạt động sản xuất nào cũng cần các yếu tố đầu vào. Nếu trong công nghiệp, đầu vào chính là nguyên liệu của quá trình sản xuất thì trong nông nghiệp đầu vào chính là các yếu tố như giống, vật tư nông nghiệp v.vNgay từ những ngày dầu sản xuất, để động viên bà con chuyển đổi cơ cấu cây trồng sang trồng cà phê theo định hướng của Nhà nước, phòng NN&PTNT của huyện, đã cung ứng trước 50% chi phí cây trồng và vật tư nông nghiệp cho các nông hộ trồng cà phê theo dự án trồng cà phê của huyện. Sau đó nghiệm thu số cây sống và và được giải ngân từ nguồn vốn vay ngân hàng NN&PTNT huyện, cách giải ngân theo kiểu tay 3: Ngân hàng NN&PTNT huyện- Hộ vay trồng cà phê- Đơn vị cung ứng phân bón và giống. Tuy nhiên người dân vẩn thiếu vốn đẻ mua phân bón vì ngân hàng chưa giải ngân vốn vay trồng cà phê cho các nông hộ trồng cà phê. Vì thế một số nông hộ phải tự mua giống và phân bón ở bên ngoài. 2.5.2 Tình hình tiêu thụ cà phê của các nông hộ điều tra So với những cây trồng trên địa bàn huyện, cà phê được xem là sản phẩm có tỷ suất hàng hóa cao và thị trường tiêu thụ tương đối ổn định. Tuy vậy, bên cạnh những thuận lợi, tình hình tiêu thụ cà phê cũng gặp phải một số khó khăn. Việc đánh giá tình hình tiêu thụ cà phê qua việc mô tả và phân tích chuỗi cung sản phẩm đầu ra sẽ là cơ sở để có cách nhìn tổng quan về thị trường tiêu thụ cà phê cũng như đề xuất ra các giải pháp thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động tiêu thụ cà phê trên địa bàn huyện Hướng Hóa. Thời gian trước đây, hoạt động tiêu thụ cà phê trên địa chỉ bàn diễn ra ở quy mô nhỏ lẻ, manh mún và không tập trung. Sản phẩm chủ yếu bán cho các thương nhân để tiêu thụ ở thị trường thành phố Huế, Đông Hà phục vụ cho các cơ sở chế biến bánh kẹo nhỏ. Từ khi nhà máy chế biến của nông trường chính thức đi vào hoạt động năm 2004, hoạt động sản xuất tiêu thụ cà phê trở nên sôi động hơn. Hiện nay, việc tiêu thụ cà phê hàng hóa trên địa bàn huyện Hướng Hóa được thực hiện chủ yếu theo các hướng chính sau: + Hướng thứ nhất: Các hộ nông dân bán cà phê cho nông trường cà phê Hướng Hóa. Sản lượng cà phê này sau quá trình sơ chế cơ bản được chuyển ra công ty Đầu tư Dịch vụ cà phê Đường 9 Quảng Trị và xuất khẩu sang thị trường nước ngoài. Một số ít sản lượng cà phê từ nông trường cũng được xuất khẩu trực tiếp. + Hướng thứ hai: Các hộ nông dân bán cà phê cho những người thu gom nhỏ và thu gom lớn. Sau khi sơ chế bằng những máy móc đơn giản thủ công, lượng cà phê này được chuyển đến các công ty thu mua tại Quảng Trị và Đắc Lắc. Những công ty này tiến hành thu mua, rang sấy rồi chuyển đến các cơ sở chế biến cà phê trong nước. Hướng thứ nhất: Hộ nông dân Nông trường cà phê Hướng Hóa Nông trường cà phê Hướng Hóa là nhà thu mua cà phê lớn nhất trên địa bàn huyện Hướng Hóa, chiếm đến 75% sản lượng tiêu thụ. - Thời gian thu mua: Thời gian thu mua cà phê của nông trường phụ thuộc vào vụ mùa thu hoạch cà phê của các hộ, thời điểm thu mua thường vào tháng 9-11 trong năm. - Đối tượng thu mua: Ngoài việc thu mua sản phẩm cà phê của chính phần đất nông trường thì nông trường còn đứng ra thu mua cà phê của nông hộ. Đối với cà phê nông hộ, trước mùa thu hoạch, nông trường đến từng hộ để giám định năng suất và sản lượng của hộ đó. Sơ đồ 1: Kênh tiêu thụ sản phẩm cà phê trên địa bàn Huyện Hướng Hóa Công ty chế biến cà phê trong Thị trường xuất khẩu nước 20% Công ty Đầu tư Dịch vụ cà Các công ty thu mua phê Đường 9 – Quảng Trị (Huế, Đắc Lắc) 80% Nông trường cà phê Thu gom nhỏ Thu gom lớn Hướng Hóa 10% 75% 15% HỘ NÔNG DÂN - Mức độ liên kết: Trước đây, vào mùa thu hoạch, người dân thường gánh gùi cà phê đến tập kết tại nhà máy, hình thức thu gom này gặp một số nhược điểm. Thứ nhất, người dân sẽ tốn chi phí vận chuyển từ vườn cà phê đến tận nhà máy. Hoạt động vận chuyển mang tính nhỏ lẻ, nếu việc vận chuyển cà phê bị gián đoạn sẽ ảnh hưởng đến chất lượng cà phê vì thời gian cho phép dự trữ cà phê quả tươi sau khi hái không được vượt quá 24 tiếng. Thứ hai, nông trường sẽ khó kiểm soát được dòng sản phẩm. Thứ ba là quy mô thu gom mang tính tự phát và nhỏ lẻ nên khó đưa vào sản xuất một cách kịp thời và đồng bộ. Từ năm 2005, nông trường tổ chức cho xe đến thu mua tại vườn cà phê đã được hợp đồng mua bán trước. Giá thu mua cà phê trung bình khoảng 2.800 đồng/kg quả tươi trong năm 2008. Phần đông các hộ sản xuất cà phê nông hộ thì đều tham gia trồng và chăm sóc cho cà phê của nông trường. Do đó một ít trong số họ cũng từng tham gia những lớp tập huấn kỹ thuật của nông trường. Tuy nhiên, hiệu quả từ những lớp tập huấn này chưa cao do việc trồng cà phê luôn đòi hỏi khắt khe về quy trình kỹ thuật, trong khi trình độ nhận thức và khả năng ứng dụng các phương pháp kỹ thuật mới của người dân còn hạn chế. - Dòng thông tin: Trước vụ mùa thu hoạch, người dân nhận được thông tin về giá thu mua cà phê từ Nông trường và Nông trường nhận thông tin từ công ty Đầu tư Dịch vụ cà phê Đường 9 – Quảng Trị. - Hình thức thanh toán: Nông trường cà phê Hướng Hóa sẽ thanh toán tiền mặt cho nông hộ sau khi tiến hanh thu mua. Sau đó, lượng cà phê này được chuyển về nhà máy sơ chế quả tươi để tiến hành các công đoạn của quá trình sơ chế. Nhà máy này được Công ty giao cho Nông trường quản lý và vận hành. Tại đây, cà phê được sấy khô và xay xát thành dạng nhân khô. Hiện nay, sản lượng cà phê trong toàn huyện chỉ đáp ứng được khoảng 1/4 công suất của nhà máy, điều này gây ra lãng phí vì thời gian hoạt động của nhà máy chỉ diễn ra trong vòng khoảng 3 tháng của mùa thu hoạch nhưng phải chịu chi phí khấu hao máy móc rất lớn. Sau khi được sơ chế, cà phê từ nông trường tiêu thụ theo 2 hướng: - Hướng thứ nhất: Cà phê được chuyển ra Công ty Đầu tư Dịch vụ cà phê Đường 9 đặt tại thị trấn Khe Sanh – huyện Hướng Hóa – tỉnh Quảng Trị. Tại đây công ty tiếp tục chế biến, đánh bóng, phân loại và đóng gói rồi được xuất khẩu hoặc được bán cho các công ty chế biến cà phê hòa tan trong nước. Giá bán cho thị trường xuất khẩu của công ty trong năm 2008 là 2.500 – 3.000 USD/tấn nhân xô. Hình thức tiêu thụ này chiếm khoảng 80% sản lượng. - Hướng thứ hai: Nông trường cũng trực tiếp ký nhận một số hợp đồng xuất khẩu ra nước ngoài. Hướng thứ hai: Hộ nông dân Thu gom lớn, nhỏ Đối với những nông hộ trồng cà phê trên địa bàn huyện Hướng Hóa, tỷ lệ tiêu thụ qua kênh này khá thấp, khoảng 20% sản lượng tiêu thụ. + Thu gom nhỏ: Hiện nay trên địa bàn huyện có 3 nhà thu gom nhỏ là những tư thương buôn bán nhỏ tại thị trấn Khe Sanh. Trung bình một năm, mỗi người thu gom nhỏ mua từ người dân của huyện khoảng 50 - 70 tấn cà phê. Do không có điều kiện về máy móc nên những hộ này tiến hành phơi khô hoặc bán quả tươi trực tiếp cho các thu gom lớn. Giá mua cà phê của những thu gom nhỏ trong năm 2008 trung bình khoảng 2.000 đồng/kg quả tươi. Sau khi mua từ nông dân, những thu gom nhỏ này bán lại cho thu gom lớn với giá khoảng từ 2.200-2.500 đồng/kg quả tươi. + Thu gom lớn: - Thời gian mua: Các thu gom lớn mua cà phê tất cả thời gian trong năm nhưng chủ yếu vẫn là vào vụ mùa thu hoạch. - Đối tượng thu mua: Là những hộ nông dân và những người thu gom nhỏ. Mặc dù thu mua với giá thấp hơn giá của nông trường nhưng các thu gom lớn có ưu điểm là thường thanh toán tiền ngay cho người dân để đáp ứng nhu cầu tiền mặt kịp thời cho nông dân trước mùa vụ. - Dòng thông tin: Để xác định giá mua cà phê từ nông hộ, các thu gom lớn phải tìm hiểu thông tin về giá mua từ các công ty thu mua và trừ đi các khoản chi phí phát sinh. - Phương thức thanh toán: Mức giá cà phê phụ thuộc vào chất lượng, hình dáng, mức độ đồng đều của quả tươi và thời điểm thu mua. Người dân được trả ngay bằng tiền mặt tại thời điểm bán, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư cũng như Nhận xét: Quá trình tiêu thụ cà phê trên địa bàn huyện diễn ra tương đối thuận lợi và ổn định. Đa số người dân bán cà phê dưới dạng quả tươi và được thanh toán tiền ngay tại thời điểm bán. Nông trường gần như là đơn vị độc quyền trong thu mua và đang có xu hướng kiểm soát chặt chẽ và bao tiêu thu mua sản phẩm cũng như định giá và yêu cầu chất lượng cà phê trong toàn huyện. Điều này dễ dẫn đến tình trạng ép giá, gây ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý người dân. Mặt khác, hoạt động mua bán giữa những thu gom và hộ nông dân còn nhỏ lẻ, manh mún, Bên cạnh đó, người nông dân không có điều kiện để trang bị cơ sở vật chất cho sơ chế cà phê, lại thiếu thông tin về thị trường và giá cả. Điều này càng tạo cơ hội cho Nông trường và những người thu gom ép giá thông qua hình thức đẩy tỷ lệ tạp chất lên cao. 2.6 Các nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất cà phê của các nông hộ Quá trình sản xuất cà phê của nông hộ chịu sự tác động của nhiều nhân tố. Những nhân tố này có mối liên hệ biện chứng lẫn nhau, tác động từ nhiều hướng đến hoạt động sản xuất của các nông hộ. - Chiến lược quy hoạch và phát triển diện tích trồng cà phê Với định hướng, đề án đưa ra hình thức đầu tư trên cơ sở kết hợp nguồn lực giữa Nhà nước và nhân dân. Việc đầu tư cây giống dựa vào nguồn quỹ ngân sách. Việc đầu tư phân bón dựa vào vốn tự có trong nhân dân và nguồn vốn vay Ngân hàng NN&PTNT, Ngân hàng CSXH. Mục tiêu cuối cùng của việc thực hiện đề án là tạo hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội cho người dân trên địa bàn. Về kinh tế, việc phát triển cà phê nông hộ sẽ tạo ra vùng sản xuất chuyên canh cà phê hàng hóa phục vụ chủ yếu cho xuất khẩu. Về xã hội, đây cũng là bài toán giải quyết việc làm và ổn định đời sống cho bà con dân tộc. - Sự phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho chế biến và xuất khẩu Yếu tố cơ bản về cơ sở hạ tầng ảnh hưởng đến sản xuất cà phê hàng hóa trong vùng là hệ thống giao thông và các cơ sở chế biến cà phê phục vụ xuất khẩu. + Đối với hệ thống giao thông: Hiện nay, mặc dù nhiều tuyến đường đã được củng cố và nâng cấp nhưng chất lượng nhìn chung còn chưa cao. Ngoài những trục đường chính, một số nơi đi đến các lô cà phê, đường đi lại khá vất vả do chủ yếu là đường đất. Người dân thường gặp khó khăn trong mùa thu hoạch cà phê, nhất là khi gặp thời tiết mưa kéo dài đường trơn, lầy lội và khó đi. + Đối với cơ sở chế biến cà phê: Hiện nay, trên địa bàn huyện chỉ có một nhà máy sơ chế cà phê của công ty Đầu tư Dịch vụ cà phê Đường 9 - Quảng Trị giao cho Nông trường cà phê Hướng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhoa_luan_danh_gia_hieu_qua_kinh_te_cay_ca_phe_tren_dia_ban.pdf
Tài liệu liên quan