Khó khăn tâm lý trong công tác tham vấn học đường tại thành phố Hồ Chí Minh

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH _______________________ TRƯƠNG THANH CHÍ KHÓ KHĂN TÂM LÝ TRONG CÔNG TÁC THAM VẤN HỌC ĐƯỜNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC Thành phố Hồ Chí Minh - 2011 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ________________________ TRƯƠNG THANH CHÍ KHÓ KHĂN TÂM LÝ TRONG CÔNG TÁC THAM VẤN HỌC ĐƯỜNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC Chuyên ngà

pdf82 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3251 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Khó khăn tâm lý trong công tác tham vấn học đường tại thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh: TÂM LÝ HỌC Mã số: 60 31 80 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐOÀN VĂN ĐIỀU Thành phố Hồ Chí Minh - 2011 LỜI CẢM ƠN Tác giả luận văn xin bày tỏ lòng cám ơn chân thành đến quý thầy, cô của khoa Tâm lý – Giáo dục, phòng Sau đại học trường đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh và quý thầy, cô được trường mời thỉnh giảng, đã hết lòng giảng dạy và tạo điều kiện tốt nhất cho chúng tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu tại trường. Tôi cũng xin gởi lời cảm ơn sự cộng tác và nhiệt tình giúp đỡ của quý đồng nghiệp, quý thầy cô giáo đang công tác tại trường phổ thông và các em học sinh đã giúp tôi thực hiện đề tài. Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Phó giáo sư, Tiến sỹ Đoàn Văn Điều đã tận tình hướng dẫn, động viên và đồng hành cùng em trong suốt quá trình thực hiện luận văn này. Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2011 Tác giả MỤC LỤC 0TLỜI CẢM ƠN0T............................................................................................................................. 3 0TMỤC LỤC0T .................................................................................................................................. 4 0TMỞ ĐẦU0T .................................................................................................................................... 6 0T1. LÍ DO CHỌN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU0T .............................................................................. 6 0T2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU0T ................................................................................................ 7 0T3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU0T ....................................... 7 0T4. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU0T ............................................................................................ 7 0T5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU0T ................................................................................................ 7 0T6. GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU0T .................................................................................................. 7 0T7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU0T ........................................................................................ 7 0TChương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN0T .................................................................................................... 9 0T1.1. Lược sử nghiên cứu vấn đề0T ............................................................................................... 9 0T1.1.1. Lược sử nghiên cứu vấn đề ở nước ngoài0T ................................................................... 9 0T1.1.2. Lược sử nghiên cứu vấn đề ở Việt Nam0T ..................................................................... 9 0T1.2. Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu0T ......................................................... 10 0T1.2.1. Tham vấn0T ................................................................................................................. 10 0T1.2.2. Tham vấn và các khái niệm có liên quan0T .................................................................. 14 0T1.2.3. Tham vấn học đường0T ............................................................................................... 16 0T1.2.4. Khó khăn tâm lý0T ....................................................................................................... 18 0T1.2.5. Khó khăn tâm lý trong công tác tham vấn học đường0T ............................................... 19 0T1.3 Lý luận về khó khăn tâm lý trong công tác tham vấn học đường0T ...................................... 19 0T1.3.1. Người làm công tác tham vấn học đường0T ................................................................. 20 0T1.3.2. Biểu hiện của khó khăn tâm lý trong công tác tham vấn0T ........................................... 23 0T1.3.3. Biểu hiện khó khăn tâm lý trong công tác tham vấn học đường0T ................................ 25 0T1.3.4. Nguyên nhân gây nên khó khăn tâm lý trong công tác tham vấn học đường0T ............. 30 0TChương 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU0T .................................................................................... 32 0T2.1. Thể thức và phương pháp nghiên cứu0T .............................................................................. 32 0T2.1.1. Cách soạn thang đo0T .................................................................................................. 32 0T2.1.2. Mẫu nghiên cứu0T ....................................................................................................... 32 0T2.2. Kết quả nghiên cứu.0T ........................................................................................................ 34 0T2.2.1. Kết quả nghiên cứu khảo sát trên giáo viên0T .............................................................. 34 0T2.2.2. Kết quả nghiên cứu khảo sát trên học sinh0T............................................................... 43 0T2.2.3. So sánh kết quả khảo sát từ người làm công tác tham vấn học đường0T ....................... 50 0TKẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ0T .................................................................................................. 63 0TKết luận0T ................................................................................................................................. 63 0TKiến nghị0T ............................................................................................................................... 65 0T ÀI LIỆU THAM KHẢO0T........................................................................................................ 67 0TPHỤ LỤC0T ................................................................................................................................. 71 MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Tham vấn học đường là một nghề khá non trẻ đối với Việt Nam nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Tham vấn học đường được bắt đầu hình thành và phát triển tại Sài Gòn vào trước năm 1975, nhưng sau ngày đất nước thống nhất thì hoạt động tham vấn học đường không còn được quan tâm, mãi đến giữa thập niên 90 của thế kỷ 20 thì hoạt động tham vấn học đường mới được xuất hiện trở lại bởi các nhà giáo dục tâm huyết và được mang tên là “tư vấn tâm lý học đường”. Đến năm 2005, Bộ Giáo dục và Đào tạo ra thông tư số 2564/BGD&ĐT- HSSV, ngày 4 tháng 4 năm 2005 và sau đó thông tư số 9971/BGD&ĐT-HSSV, ngày 28 tháng 5 năm 2005 với nội dung hướng dẫn việc đưa công tác tham vấn tâm lý và hướng nghiệp vào trường học. Vậy là sau hơn 10 năm đi vào hoạt động một cách tự phát, do những người có tâm huyết với công việc hỗ trợ tâm lý cho học sinh, đã tự thành lập trung tâm tư vấn và kết hợp với trung tâm khai thác điện thoại 1088 thành phố Hồ Chí Minh, thì hoạt động này đã bắt đầu đi vào nề nếp dưới sự chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hiện nay, thành phố Hồ Chí Minh đã có được một lượng khá lớn chuyên viên tham gia hoạt động tham vấn học đường, đồng thời cũng được xã hội công nhận. Đến năm 2008, sở giáo dục thành phố Hồ Chí Minh trong công văn tuyển dụng giáo viên, lần đầu tiên có mục tuyển dụng giáo viên chuyên ngành “Tâm lý giáo dục” với mục đích cung cấp đội ngũ chuyên viên tham vấn học đường cho các trường phổ thông trung học. Nhưng sau khi giao nhân sự ngành tâm lý giáo dục về trường, thì họ không được trường phân công làm công tác tham vấn học đường như mong muốn ban đầu của sở, mà họ được phân công làm một số việc khác như: dạy “Giáo dục công dân”, làm công tác “Đoàn thanh niên”,…. Về vấn đề đào tạo, tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có ba trường Đại học đào tạo về chuyên ngành “Tâm lý học” và “Tâm lý Giáo dục”, nhưng không có nơi nào đào tạo chuyên về “Tham vấn học đường”. Cho nên, hầu hết những người đang làm công tác này là tự học, tự nghiên cứu nên họ gặp khá nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện công tác, đồng thời chưa có mạng lưới hỗ trợ chuyên môn cho họ. Bản thân là người trực tiếp làm công tác tham vấn học đường và cũng chưa được đào tạo chuyên môn về tham vấn học đường, nên cũng đã gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình công tác, dẫn đến hiệu quả công việc không cao. Cho nên chúng tôi đang cố tìm ra những nguyên nhân gây nên các khó khăn cho hoạt động này, để từ đó có biện pháp khắc phục. Nguyên nhân đầu tiên chúng tôi cho là có ảnh hưởng khá lớn đến hiệu quả trong công tác tham vấn học đường đó chính là khó khăn tâm lý. Từ những lí do nêu, trên chúng tôi quyết định thực hiện đề tài “Khó khăn tâm lý trong công tác tham vấn học đường tại thành phố Hồ Chí Minh”. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Trên cơ sở khảo sát khó khăn tâm lý của người làm tham vấn trong công tác tham vấn học đường tại thành phố Hồ Chí Minh, đề tài đề xuất một số giải pháp cho công tác này. 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng nghiên cứu Khó khăn tâm lý trong công tác tham vấn học đường tại thành phố Hồ Chí Minh. 3.2. Khách thể nghiên cứu Người thực hiện công tác tham vấn học đường và học sinh tại thành phố Hồ Chí Minh. 4. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU Do chưa được đào tạo chuyên ngành và trang bị thật tốt về mặt nhận thức, thái độ, hành vi nghề nghiệp, nên đa số người làm công tác tham vấn học đường tại thành phố Hồ Chí Minh gặp một số khó khăn tâm lý trong hoạt động của họ. 5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU Để đạt mục đích đề ra, đề tài tập trung giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau: 3.1. Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài. 3.2. Khảo sát thực trạng khó khăn tâm lý của người thực hiện công tác tham vấn học đường tại thành phố Hồ Chí Minh. 3.3. Đề xuất một số giải pháp trong công tác của người thực hiện tham vấn học đường tại thành phố Hồ Chí Minh. 6. GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU Đề tài nghiên cứu một số khó khăn tâm lý của người thực hiện công tác tham vấn học đường cho học sinh trung học tại thành phố Hồ Chí Minh và đề xuất một số giải pháp cho vấn đề đặt ra. 7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu Nghiên cứu các tài liệu được xuất bản, các trang thông tin điện tử và các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài. 7.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi. Đây là phương pháp chủ yếu của đề tài, dùng để khảo sát thực trạng khó khăn tâm lý trong công tác tham vấn học đường tại thành phố Hồ Chí Minh. 7.3. Phương pháp đàm thoại (phỏng vấn) Tiến hành phỏng vấn những người làm tham vấn học đường có nhiều kinh nghiệm, đang công tác tại trường học và các trung tâm đang hoạt trong lĩnh vực tham vấn học đường đóng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. 7.4. Phương pháp thống kê toán học Dùng chương trình SPSS phiển bản 11.5 để xử lý số liệu. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Lược sử nghiên cứu vấn đề 1.1.1. Lược sử nghiên cứu vấn đề ở nước ngoài Tham vấn học đường được hình thành phát triển vào đầu thế kỷ XX ở các nước như Mỹ, Canada, đánh dấu cho sự ra đời của hoạt động này là văn phòng hướng nghiệp do Frank Parsons thành lập năm 1908 tại Mỹ. Từ năm 1920 đến 1930, hoạt động tham vấn được mở rộng và đặc biệt nhấn mạnh sự phát triển cá nhân, xã hội và đạo đức. Từ những năm 1960, tham vấn học đường được chính thức công nhận với nhiệm vụ là tham vấn cho học sinh để giúp họ vượt qua khủng hoảng của lứa tuổi; xây dựng các chương trình tâm lý giáo dục nhằm giúp học sinh phát triển các kỹ năng xã hội cũng như ngăn chặn những tiêu cực trong học đường; cố vấn cho giáo viên, nhà quản lý và cha mẹ học sinh về các vấn đề của học sinh; làm cầu nối giữa nhà trường với cộng đồng [26, tr 64], [50, tr 365], [62, tr 6]. Từ những năm 1990 đến nay, các nghiên cứu về tham vấn học đường được quan tâm khá nhiều và phải kể đến các công trình nghiên cứu của các tác giả như Lapan và cộng sự (1997), Sink, C.A và cộng sự (2003), Peterson và cộng sự (1999), Grossman và cộng sự (1997), Hoag và Burlingame (1997),… đã đóng rất lớn cho sự phát triển của ngành tham vấn học đường trên thế giới. Còn vấn đề nghiên cứu về các khó khăn tâm lý, qua quá trình tìm hiểu chỉ thấy các tác giả trên thế giới chủ yếu nghiên cứu về các khó khăn tâm lý trong học tập và phát triển của trẻ. Tác giả Mauricè Debesse nghiên cứu về khó khăn tâm lý của trẻ khi vào lớp một và tác giả người Pháp, Bianka Zozzo và cộng sự nghiên cứu khó khăn tâm lý của trẻ em khi chuyển từ mẫu giáo lên tiểu học. Như vậy, vấn đề nghiên cứu về khó khăn tâm lý trong công tác tham vấn học đường, trong giới hạn tiềm kiếm của người nghiên cứu chưa tìm thấy nghiên cứu nào trên thế giới nói về vấn đề này. 1.1.2. Lược sử nghiên cứu vấn đề ở Việt Nam Ngành tham vấn học đường ở Việt Nam có thể được xem là non trẻ so với các nước như Mỹ, Canada, Úc, Pháp hay Nga, nhưng cũng được hình thành và phát triển từ trước những năm 1975 ở miền nam và đang lớn mạnh dần ở những năm gần đây. Công trình có thể cho là có đúc kết tất cả các nghiên cứu của các tác giả có liên quan đến việc nghiên cứu về tham vấn học đường đó chính là của tác giả Huỳnh Mai Trang (2007) nghiên cứu “Thực trạng hoạt động tham vấn học đường tại các trường trung học ở nội thành thành phố Hồ Chí Minh”. Các công trình nghiên cứu về khó khăn tâm lý có khá nhiều tác giả nghiên cứu. Nhóm tác giả Dương Thị Diệu Hoa, Vũ Khánh Linh, Trần Văn Thức (2007), nghiên cứu về “những khó khăn tâm lý của học sinh trung học phổ thông trong học tập và các mối quan hệ”; tác giả Nguyễn Thị Thiên Kim (2007), nghiên cứu về các “khó khăn trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh”; tác giả Trần Thị Lệ Thu (2010), nghiên cứu về “thực trạng khó khăn tâm lý của sinh viên trường Đại học sư phạm Hà Nội và nhu cầu có sự trợ giúp của chuyên gia tâm lý học đường” [26, tr 308]; tác giả Đồng Văn Toàn (2010), nghiên cứu về “những khó khăn tâm lý trong giao tiếp của lưu học sinh Lào đang học ở trường Cao đẳng Sư phạm Thừa Thiên Huế”; tác giả Đặng Thanh Nga (2010), nghiên cứu “Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Luật Hà Nội”; tác giả Nguyễn Thị Vui (2010), nghiên cứu “Thực trạng trở ngại tâm lý trong học tập của học sinh tiểu học dân tộc thiểu số tỉnh Kon Tum”; tác giả Vũ Ngọc Hà (2010), có công trình nghiên cứu về “Khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp một qua thái độ đối với học tập”; tác giả Lê Mỹ Dung (2010), nghiên cứu “Thực trạng khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 3 hiện nay”, còn một số tác giả khác cũng đã nghiên cứu về khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh. Tóm lại, các công trình nghiên cứu về “tham vấn học đường” và “khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập” đã được khá nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu và công bố trong các hội thảo khoa học hoặc đăng trên các tạp chí chuyên ngành, nhưng nghiên cứu về “khó khăn trong hoạt động tham vấn học đường” thì người nghiên cứu trong quá trình tìm hiểu chưa tìm thấy công trình nào bàn đến. Nhưng thông qua những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến vấn đề nghiên cứu đã góp phần làm cơ sở định hướng cho người nghiên cứu thực hiện đề tài “Khó khăn tâm lý trong công tác tham vấn học đường tại thành phố Hồ Chí Minh”. 1.2. Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu 1.2.1. Tham vấn Trên thế giới, khái niệm tham vấn (counseling) được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Một số tác giả nhấn mạnh ở khả năng tự nhận thức và tự thay đổi của người được tham vấn, thông qua sự trao đổi chia xẻ trong mối quan hệ tương tác của hoạt động tham vấn. Carl Roger (1952), đã mô tả tham vấn như là quá trình trợ giúp, khi tiếp xúc với nhà tham vấn trong một mối quan hệ an toàn, người được tham vấn (thân chủ) tìm thấy được sự thoải mái, chia xẻ và chấp nhận những trải nghiệm đã từng bị chối bỏ để hướng tới sự thay đổi. D.Bloccher (1966) cho rằng cho rằng, tham vấn là sự giúp đỡ thân chủ nhận thức được bản thân và những hành vi có ảnh hưởng đến môi trường xung quanh, đồng thời trợ giúp họ xây dựng được hành vi có ý nghĩa, thiết lập được mục tiêu và phát triển những giá trị cho hành vi được mong đợi. J.Hunchinson Haney và Jacqueline L. (1999), cũng cho rằng tham vấn là mối quan hệ tương tác mà nhà tham vấn tập trung vào những trải nghiệm, cảm xúc, suy nghĩ và hành vi của thân chủ, để từ đó giúp họ khám phá, chấp nhận và đối mặt với chúng. Theo Hiệp hội các nhà tham vấn Hoa Kỳ (ACA, 1997) cho rằng: tham vấn là sự áp dụng nguyên tắc tâm lý, sức khỏe tinh thần hay nguyên tắc về sự phát triển con người thông qua các chiến lược can thiệp một cách có hệ thống về nhận thức, cảm xúc, hành vi, tập trung vào sự lành mạnh, sự phát triển cá nhân, phát triển nghề nghiệp cũng như vấn đề bệnh lý. Vậy theo Hiệp hội các nhà tham vấn Hoa Kỳ, cũng xác định rằng quá trình tham vấn được hiểu như là một mối quan hệ tự nguyện giữa nhà tham vấn và thân chủ. Trong mối quan hệ này nhà tham vấn giúp thân chủ tự xác định và tự giải quyết vấn đề của mình. Những tác giả khác thì chú trọng vào sự can thiệp của nhà tham vấn trong tiến trình tương tác hướng đến việc giải quyết vấn đề của quá trình tham vấn. Theo Gustad J.W (1953), tham vấn là một quá trình học hỏi được thực hiện trong môi trường xã hội theo kiểu tương tác trực tiếp một – một. Trong quá trình tương tác này, nhà tham vấn là cá nhân có năng lực chuyên môn, kiến thức và kỹ năng tâm lý, sử dụng những phương pháp thích hợp để giúp thân chủ hiểu biết về bản thân mình, giúp họ đáp ứng nhu cầu và thực hiện mục tiêu trong điều kiện cho phép để trở nên hạnh phúc và sống có ích hơn trong xã hội mà họ đang tồn tại. Perez J.F (1965) cho rằng, tham vấn là quá trình tương tác giữa một bên là người làm công tác tham vấn được đào tạo, huấn luyện có nhiệm vụ đưa ra sự giúp đỡ bằng sự giao tiếp nồng hậu, đức tính kiên trì, thái độ tôn trọng và chân thành. Một bên là người được tham vấn tiếp nhận sự giúp đỡ của nhà tham vấn để trở nên hạnh phúc hơn và sống có ích hơn. Tương tự cách tiếp cận này còn có Richard Nelsson (1997) cho rằng mục tiêu của tham vấn là hướng tới thay đổi cách thức cảm nhận, suy nghĩ và hành động của con người để giúp họ tạo nên cuộc sống tốt đẹp hơn. Do đó, theo ông, tham vấn là một quá trình can thiệp giải quyết vấn đề với một mối quan hệ, một quá trình tương tác đặc biệt giữa người làm tham vấn và thân chủ. Ông cho rằng tham vấn có thể được sử dụng ở các cấp độ khác nhau: nó có thể là dạng hoạt động mang tính chuyên sâu của các nhà tâm lý học, cán sự xã hội, nhưng nó cũng có thể là một phần công việc của giáo viên, y tá hay điều dưỡng, các nhà tình nguyện viên. Việt Nam hiện nay, tham vấn được đề cập khá nhiều trên các bài báo, các bài tham luận tại các hội nghị, hội thảo và một số công trình sách dịch từ nước ngoài, các tài liệu tập huấn về tham vấn, một số đề tài thạc sĩ tâm lý học và giáo trình giảng dạy về tham vấn tâm lý. Trong nỗ lực nhằm phát triển hoạt động tham vấn trên cả bình diện lý luận và thực tiễn, các nhà khoa học đã nghiên cứu và tranh luận rất nhiều về thuật ngữ tham vấn. Sau đây là một số khái niệm về tham vấn đã được các tác giả Việt Nam đề cập đến và được tác giả Huỳnh Mai Trang (2007) [62, tr 20] tổng hợp. - Tham vấn là một mối quan hệ, một quá trình nhằm giúp đỡ thân chủ cải thiện cuộc sống của họ bằng cách khai thác, nhận thức và thấu hiểu những suy nghĩ, cảm xúc và hành vi của họ. Khái niệm này nhấn mạnh khía cạnh tự giải quyết vấn đề, tự thay đổi của thân chủ. - Tham vấn là một tiến trình, trong đó, nhà tham vấn và thân chủ cùng tương tác, nhà tham vấn bằng kiến thức, kỹ năng chuyên môn của mình giúp đối tượng phát huy, sử dụng tiềm năng của họ để tự giải quyết vấn đề hiện tại cũng như trong tương lai của họ và kết quả là tạo ra sự thay đổi tích cực ở thân chủ. Khái niệm này nhấn mạnh vai trò chuyên môn của nhà tham vấn. - Tham vấn là tiến trình tương tác giữa người làm tham vấn – người có chuyên môn và kỹ năng tham vấn, có phẩm chất đạo đức nghề tham vấn và được pháp luật thừa nhận, với người được tham vấn – người đang có vấn đề khó khăn về tâm lý cần được giúp đỡ. Thông qua các kỹ năng trao đổi, chia xẻ thân mật, tâm tình, giúp đỡ thân chủ hiểu và chấp nhận thực tế của mình, tự lấy tiềm năng của bản thân để giải quyết vấn đề của chính mình. Đây là một khái niệm phản ánh nhiều gốc độ về tham vấn: tiến trình tương tác, đặc điểm của thân chủ, yêu cầu về chuyên môn của nhà tham vấn và tính pháp lý của loại hình hoạt động này trong xã hội. Theo tác giả Trần Thị Minh Đức (2009), tham vấn là quá trình nhằm giúp cho thân chủ tự chịu trách nhiệm với cuộc đời của mình, tự tìm cách giải quyết vấn đề của mình và nhà tham vấn chỉ là người soi sáng vấn đề, giúp về mặt thông tin, giải tỏa các xúc cảm gây ảnh hưởng tiêu cực đến các quyết định của thân chủ, chứ không đưa ra lời khuyên hay quyết định hộ vấn đề cho thân chủ. Quá trình tự quyết sẽ giúp thân chủ mạnh lên, dám nghĩ và đương đầu với vấn đề khó khăn của chính mình[12, tr 21]. Sau khi nghiên cứu nhiều khái niệm về tham vấn, tác giả Huỳnh Mai Trang [62, tr 21] đã đưa ra một số đặc điểm của tham vấn như sau: - Tham vấn là một hoạt động diễn ra trong một quá trình với các hoạt động xây dựng mối quan hệ, khai thác tìm hiểu xác định vấn đề, giải quyết vấn đề. - Về bản chất, tham vấn là hoạt động hay phương pháp trợ giúp đối tượng giải quyết vấn đề, chứ không phải hoạt động đưa ra lời khuyên. Sự trợ giúp ở đây được thể hiện qua việc giúp đối tượng hiểu được chính họ, hoàn cảnh của họ, khám phá và sử dụng những tiềm năng nguồn lực đang tồn tại trong chính bản thân họ, hay xung quanh họ để giải quyết vấn đề. Với ý nghĩa này, tham vấn còn có tác dụng giúp đối tượng nâng cao khả năng đối phó với các vấn đề trong cuộc sống. - Hoạt động tham vấn được diễn ra trên cơ sở mối quan hệ giao tiếp đặc biệt, đòi hỏi sự tương tác tích cực giữa người làm tham vấn – người trợ giúp và đối tượng – người có vấn đề tâm lý xã hội bởi nhiều lý do khác nhau. Mối quan hệ tương tác này chủ yếu được thực hiện trong tương tác trực tiếp. - Người làm tham vấn là người được trang bị các giá trị, thái độ đạo đức nghề nghiệp, những tri thức hiểu biết tâm lý người và các kỹ năng tham vấn để thấu hiểu đối tượng, giúp đối tượng tự vượt lên chính mình. - Người được tham vấn là những người do những nguyên nhân khác nhau mà trở nên mất cân bằng về tâm lý, khó khăn trong thích nghi, hòa nhập xã hội. Họ còn được gọi là thân chủ hay khách hàng. - Tham vấn có thể là một hoạt động chuyên môn, hoạt một dạng dịch vụ xã hội, hay mối quan hệ trợ giúp được sử dụng bởi những người làm tham vấn chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, được xem như những người làm công tác trợ giúp. Người trợ giúp được chia làm ba kiểu tương ứng - Người trợ giúp chuyên nghiệp (professional helper): là những người được đào tạo sâu và chuyên biệt về những kiến thức, kỹ năng tâm lý, hành vi con người, kỹ năng giao tiếp và giải quyết các vấn đề theo chuyên ngành của họ để có thể đáp ứng với đối tượng mà họ giúp đỡ. Các ngành trợ giúp chuyên nghiệp phản ánh những mối quan hệ trợ giúp khác nhau như: mối quan hệ thầy thuốc – bệnh nhân, nhà tham vấn – thân chủ,…. Hầu hết những người giúp đỡ chuyên nghiệp điều có mối quan hệ trợ giúp chính thức. - Người trợ giúp bán chuyên nghiệp (paraprofessional helper): là những người có công việc liên quan đến lĩnh vực trợ giúp. Họ có thể được đào tạo, tập huấn ngắn hạn về các lĩnh vực trợ giúp, hoặc có kinh nghiệm từ mối quan hệ trợ giúp. Ví dụ: quan hệ giữa cán bộ hòa giải xã – người dân, giáo viên – học sinh, cha mẹ - con cái,…. Đây là những nhóm đối tượng giúp đỡ thường xuyên của họ. - Người trợ giúp không chuyên nghiệp (non-professional helper): là những người không qua đào tạo, huấn luyện chính thức về các kỹ năng trợ giúp chuyên biệt. Sự trợ giúp của họ có thể chỉ xảy ra nhất thời trong mối quan hệ tạm thời với đối tượng của họ. Ví dụ: nhân viên bán hàng, tiếp tân, tiếp viên hàng không,… với khách hàng; các tình nguyện viên cộng đồng giúp đở các đối tượng bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, nghiện ma túy;… hay bất cứ ai có nhu cầu giúp đỡ người khác khi gặp khó khăn. Nhìn chung, người trợ giúp không chuyên nghiệp thường có mối quan hệ trợ giúp không chình thức, kết cấu trợ giúp lỏng lẻo, thời gian ngắn và hiệu quả giúp đỡ có giới hạn [12, tr 10]. 1.2.2. Tham vấn và các khái niệm có liên quan • Tham vấn và công tác xã hội Tham vấn và công tác xã hội điều là những nghề nghiệp nhằm trợ giúp con người. Tham vấn chủ yếu tập trung vào các vấn đề tâm lý của cá nhân, nhóm và gia đình. Còn phạm vi của công tác xã hội rộng hơn, sự can thiệp của công tác xã hội bao hàm nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong công tác xã hội, người ta sử dụng tham vấn như là một công cụ nâng cao nội lực cá nhân. Còn trong tham vấn, người ta có thể kết nói với các hoạt động xã hội để tăng cường nguồn lực giúp đỡ thân chủ [62, tr 22]. Nhân viên công tác xã hội luôn được đào tạo khát quát về kỷ thuật tham vấn, do đó, họ làm công việc trị liệu tâm lý cá nhân và các liệu pháp gia đình trông tổ chức mà ít làm việc như chức danh của một nhà tham vấn hay trị liệu độc lập trên các đối tượng có tổn thương tâm lý [12, tr 28]. • Tham vấn và tư vấn Ở Việt Nam, việc cung cấp thông tin, cho lời khuyên, trợ giúp những khó khăn tâm lý, chỉ bảo hay hướng dẫn,… cho một cá nhân, hoặc một tổ chức khi họ có nhu cầu thường được gọi là tư vấn. Thuật ngữ tham vấn (Counseling) và tư vấn (Consultation) trong từ điển tiếng Việt hiện nay đều được dịch là tư vấn. Khi hoạt động tư vấn và tham vấn đi vào thực tiễn ngày một phỗ biến hơn thì vấn đề tranh luận nên dùng thuật ngữ nào (tham vấn hay tư vấn) để phù hợp hơn và mang tính khoa học hơn. Nhưng tựu trung các nhà khoa học nghiên cứu trong lĩnh vực này đều thống nhất trong việc xác định nội hàm của hai thuật ngữ này [12, tr 13], [37, tr 34], [62, tr 22]. Sự khác biệt can bản giữa tham vấn và tư vấn được thể hiện ở những điểm sau: - Về mục tiêu: tư vấn giúp giải quyết những vấn đề mang tính chất nhất thời, hiện tại; còn tham vấn hướng tới mục tiêu lâu dài hơn, không hướng tới giải quyết những vấn đề của thân chủ mà bằng quá trình tương tác giúp cho thân chủ tự giải quyết vấn đề của họ. - Về tiến trình: tư vấn thường cung cấp thông tin, đưa ra lời khuyên cho những vấn đề mà thân chủ cần và giải quyết vấn đề trong thời gian ngắn; còn tham vấn cần phải có một quá trình, thông qua mối tương tác giữa nhà tham vấn và thân chủ có thể diễn ra trong thời gian rất dài. - Về mối quan hệ: trong quá trình tư vấn thể hiện mối quan hệ trên - dưới, người tư vấn là chuyên gia đưa ra các ý kiến, lời khuyên, chỉ bảo cho người được tư vấn thực hiện, tháo gỡ những vấn đề vướng mắc của họ, trong mối quan hệ này không đòi hỏi sự tương tác tích cực từ phía đối tượng tư vấn; còn trong mối quan hệ tham vấn luôn phải thể hiện sự bình đẳng, đồng thời đòi hỏi có sự tương tác chặt chẽ, hợp tác tích cực giữa nhà tham vấn và thân chủ, sự tương tác sẽ quyết định hiệu quả của quá trình tham vấn. - Cách thức tương tác: trong tư vấn, cách thức can thiệp chính là cung cấp thông tin chính xác, mới lạ về lĩnh vực mà thân chủ thiếu và cho lời khuyên; tham vấn thì thành công phụ thuộc vào kỹ năng tương tác của nhà tham vấn đối với thân chủ, nhằm giúp họ tự nhận thức, hiểu chính mình và hoàn cảnh của bản thân, từ đó chủ động tìm ra giải pháp phù hợp để giải quyết vấn đề. • Tham vấn và trị liệu tâm lý Khi tìm hiểu về tham vấn (counseling) và trị liệu tâm lý (psychotherapy) chúng ta sẽ thấy hiện nay có hai quan điểm khác nhau trong việc phân biệt hay thuật ngữ này.  Nhóm quam điểm thứ nhất cho rằng không có sự khác biệt rõ ràng giữa tham vấn và trị liệu tâm lý. Trong nhóm quan điểm này có hai lập luận biểu hiện như sau: - Lập luận thứ nhất cho rằng, tham vấn và trị liệu tâm lý là hoàn toàn giống nhau. Tiêu biểu là Carl Roger (1952), C.B. Truax và R. Carkhuff (1967), C. H. Patterson (1986), G. Corey (1991), điều cho rằng cả hai hoạt động này điều là quá trình tâm lý nhấn mạnh nhu cầu của thân chủ, nhà tham vấn cùng sử dụng những kỹ năng giống nhau như lắng nghe tích cực, thấu hiểu những điều thân chủ nói và thúc đẩy khả năng tự giúp, tự chịu trách nhiệm của thân chủ [12, tr 17], [26, tr 464], [50, tr 365], [62, tr 23]. - Lập luận thứ hai cho rằng trị liệu tâm lý bao hàm cả tham vấn. Trị liệu tâm lý là một quá trình can thiệp của nhà trị liệu đối với tình trạng sức khỏe tâm thần của thân chủ bằng việc sử dụng liệu pháp tâm lý trong đó có tham vấn để điều trị những những rối nhiểu về cảm xúc hay tâm thần. trị liệu tâm lý đi sâu hơn vào các vấn đề tình cảm, nhận thức, hành vi hay toàn bộ nhân cách đồng thời cần phải phối hợp nhiều liệu pháp tâm lý khác một cách có hệ thống để chữa trị, còn tham vấn thông thường chỉ dừng lại ở vấn đề bên ngoài. Do đó, một nhà trị liệu tâm lý có thể là một nhà tham vấn, nhưng để một nhà tham vấn trở thành một nhà trị liệu tâm lý thì cần phải có quá trình đào tạo sâu hơn về mặt chuyên môn [12, tr 18], [37, tr 35], [50, tr 445], [62, tr 24].  Nhóm quan điểm thứ hai cho rằng có khác biệt nhất định giữa tham vấn và trị liệu tâm lý. Theo nhóm này, mặc dù cả tham vấn và trị liệu tâm lý điều có chung nền tảng lý thuyết, nhưng khi ứng dụng: tham vấn tập trung vào giải quyết các vấn đề bức xúc hoặc ban khoăn của thân chủ trong cuộc sống, trong sự phát triển nhân cách của họ như, các vấn đề về hôn nhân, gia đình, giải quyết các xung đột, quản lý cơn giận, nâng cao lòng tự trọng, khủng hoảng lứa tuổi; trị liệu tâm lý chú trọng đến việc thay đổi nhận thức, hành vi, tình cảm hay toàn bộ nhân cách của thân chủ, hướng đến việc điều trị những bệnh lý cần can thiệp lâm sàng như ám sợ, hoang tưởng, chán ăn,…. Ta có thể nói, tham vấn hướng đến việc giúp thân chủ sử dụng nguồn lực sẳn có để đối phó với những vấn đề của cuộc sống một cách tốt hơn dựa trên mối quan hệ ngang bằng giữa thân chủ và nhà tham vấn; còn trị liệu tâm lý, khi giải q._.uyết vấn đề, yếu tố nổi trội là nhà trị liệu phải sử dụng những kỹ thuật trị liệu cụ thể và sử dụng hệ thống lý thuyết trị liệu để phân tích tâm lý hay hành vi của thân chủ [5, tr 71], [12, tr 22], [26, tr 255], [50, tr 428], [62, tr 24]. Trong quá trình nghiên cứu, các tác giả đã đưa ra sự so sánh giữa tham vấn và trị liệu tâm lý như sau [62, tr 25]: - Về đối tượng: thân chủ cần trợ giúp trong tham vấn thường là người có vấn đề liên quan đến cuộc sống hàng ngày; còn trong trị liệu tâm lý, thân chủ bao gồm cả những người có vấn đề về rối nhiễu tâm lý, hành vi ở mức độ tương đối rõ và mang tính bệnh lý nhiều hơn. - Về công cụ can thiệp: đối với tham vấn, chủ yếu là mối quan hệ tương tác nghề nghiệp với sự tích cực, chủ động của chính thân chủ, dưới sự tác động gợi mở của nhà tham vấn; còn với trị liệu tâm lý, công cụ ưu thế là hệ thống các liệu pháp và các trắc nghệm tâm lý. - Phạm vi hoạt động: hình thức tham vấn được sử dụng ở phạm vi rộng hơn bởi các nhà tâm lý học, các cán bộ xã hội chuyên nghiệp, các nhà sư phạm nắm vững các kỹ năng cơ bản và nguyên tắc đạo đức của tham vấn; còn trị liệu tâm lý thường chỉ được sử dụng bởi các nhà tâm lý học chuyên nghiệp được phép hành nghề. 1.2.3. Tham vấn học đường Hiện nay, có hai quan niệm về tham vấn học đường, quan niệm thứ nhất cho rằng tham vấn học đường là hoạt động chỉ dành cho học sinh, quan niệm thứ hai cho rằng hoạt động này không chỉ dành cho học sinh mà còn dành cho cha mẹ học sinh và các lực lượng giáo dục trong nhà trường. Cả hai quan niệm này gần như tồn tại song song trong thực tiễn về hoạt động tham vấn học đường trên thế giới. • Quan điểm tham vấn học đường là hoạt động chỉ dành cho học sinh Hiệp hội tham vấn học đường của Mỹ - ASCA (1990) định nghĩa tham vấn học đường là “Giúp đỡ tất cả các học sinh trong học tập, trong quan hệ xã hội, trong công việc, trong nâng cao năng lực cá nhân, giúp họ trở thành người có trách nhiệm và hữu ích. Nhà tham vấn học đường trợ giúp hình thành và tổ chức tất cả những chương trình này, cũng như cung cấp các hoạt động can thiệp tham vấn thích hợp” [62, tr 25]. Trương Bích Nguyệt (2003), Trần Thị Hương (2006) định nghĩa tham vấn học đường là tiến trình tương tác giữa nhà tham vấn và học sinh nhằm khơi dậy tiềm năng của các em, để họ có đủ sức mạnh vượt qua những khủng hoảng của lứa tuổi và những khó khăn trong học tập cũng như trong cuộc sống, để tự giải quyết các vấn đề của mình, ổn định học tập, phát huy nhân cách đúng đắn [26], [50, tr 445], [62, tr 26]. Một số tác giả khác có cùng quan điểm cũng cho rằng, nhà tham vấn trong trường học không phải là nhà giáo dục, không có nhiệm vụ giáo dục lại học sinh, họ không phải là những nhà cố vấn, đưa ra những lời khuyên giúp các thầy cô giáo và nhà trường có những hình thức kỷ luật học sinh khi các em phạm lỗi. Mà họ có mặt trong trường để nghe trẻ nói, giãi bày, giúp trẻ tự chất vấn những khó khăn của mình theo cách mà các em tự tìm ra cách thay đổi hoàn cảnh, thay đổi bản thân, tứ đó huy động năng lực vào việc học tập, vào những hoạt động tích cực [50, tr 365], [62, tr 26]. Theo quan niệm này, hoạt động tham vấn học đường chỉ diễn ra giữa nhà tham vấn và thân chủ là những học sinh gặp các khó khăn trong hoạt động của các em. Như vậy, tham vấn học đường chỉ là một hoạt động hẹp của hoạt động tham vấn. Mặt khác, tham vấn học đường sẽ rất khó đạt hiệu quả cao nếu chỉ có sự tham gia của nhà tham vấn và học sinh trong quá trình tham vấn. Bởi vì, mục tiêu lớn nhất trong công tác giáo dục là hình thành và phát triển nhân cách một cách đúng đắn và toàn diện cho học sinh. Mà muốn đạt được mục tiêu này, thì mọi hoạt động của nhà trường phải là một khối thống nhất từ việc dạy học đến công tác giáo dục, tất cả sự tác động giáo dục phải luôn thống nhất giữa các thành viên tham gia quá trình như: thầy cô, cha mẹ học sinh, các thành viên khác trong nhà trường và đội ngũ các nhà quản lý giáo dục. Do đó, quan niệm thứ hai về tham vấn học đường xuất hiện. • Quan niệm tham vấn học đường là hoạt động dành cho học sinh và tất cả những người tham gia trong quá trình giáo dục. Ed. Neukrug (Thế giới của nhà tham vấn, 2000), tham vấn học đường là “Quá trình cộng tác liên quan đến một nhà tham vấn làm việc với một giáo viên, nhà quản lý, bậc phụ huynh hay các chuyên gia khác để chia xẻ những quan tâm về đứa trẻ, trong nỗ lực phát hiện ra những cách thức làm việc mới với đứa trẻ để có thể đạt đến trình độ thực của mình. Công tác tư vấn giúp các nhà tham vấn học được nhiều kiến thức và kỹ năng hơn để tập trung vào các vấn đề của học sinh và điều đó trợ giúp họ trong việc trở nên khách quan hơn trong khi tiếp xúc với những mối quan tâm của trẻ” [62, tr 27]. Theo tác giả Trần Thị Minh Đức (2009) và một số tác giả khác thì tham vấn học đường là tất cả các hoạt động can thiệp nhăm mục đích giúp cho học sinh được phát triển tốt nhất, bao gồm cả hoạt động tham vấn cho giáo viên và cha mẹ học sinh [12, tr 10], [26], [50]. Từ sự tổng hợp các định nghĩa về tham vấn học đường, tác giả Huỳnh Mai Trang đã đưa một số đặc điểm của hoạt động tham vấn học đường như sau [62, tr 27]: - Đối tượng hướng tới của tham vấn học đường: không chỉ là học sinh có “vấn đề” mà là tất cả học sinh và cha mẹ học sinh cũng như các lực lượng giáo dục trong nhà trường (giáo viên, giám thị, bảo mẫu, nhân viên văn phòng,…). - Nội dung của tham vấn học đường: không chỉ giải quyết những khó khăn, vướng mắc của học sinh mà còn giúp học sinh ngăn ngừa những hiện tượng tiêu cực trong học đường, cũng như huấn luyện cho học sinh các kỹ năng xã hội căn bản, để giúp các em ứng phó một cách tích cực hơn với những vấn đền trong học tập và trong cuộc sống. - Hình thức của tham vấn học đường: được tổ chức đa dạng thông qua các hình thức tham vấn cho cá nhân, tham vấn cho nhóm và dạy ở lớp học. - Vai trò của nhà tham vấn trong trường học: không chỉ là tham vấn cho học sinh mà còn tham vấn cho nhà quản lý, giáoviên cũng như các bậc phụ huynh về nhữngvấn đề liên quan đến giáo dục học sinh và là cầu nối với lực lượng bên ngoài trường học (công tác xã hội, pháp luật, y tế,…) trong việc giải quyết vấn đề của học sinh. - Phạm vi hoạt động của nhà tham vấn học đường: không chỉ ở trong phòng tham vấn mà còn trên lớp học cũng như bên ngoài trường học. - Hoạt động tham vấm học đường: không chỉ giúp đỡ cho học sinh, cha mẹ học sinh, thầy cô giáo mà còn ở quy mô rộng hơn, đó là hỗ trợ hoạt động giáo dục bằng tri thức và công nghệ tâm lý học, tạo điều kiện tốt nhất cho hoạt động giáo dục cũng như sự phát triển nhân cách cho học sinh. 1.2.4. Khó khăn tâm lý “Khó khăn” theo từ điển tiếng Việt có nghĩa là sự trở ngại làm mất nhiều công sức hoặc thiếu thốn. Trong tiếng Anh, “difficulty” hay “hardship” đều chỉ sự khó khăn, gay go, khắc nghiệt, đòi hỏi nhiều nỗ lực để khắc khục. Từ định nghĩa của các từ điển, tác giả Nguyễn Thị Thiên Kim [30, tr 23] và Cao Xuân Liễu [31, tr 21] đều có kết luận chung là khi nói đến “khó khăn” có nghĩa là nói đến những gì cản trở, trở ngại, đòi hỏi nhiều nỗ lực để vượt qua. Trong thực tiễn, khi tiến hành bất cứ một hoạt động nào con người điều gặp phải những khó khăn, làm cho hoạt động bị chệch hướng, dẫn đến giảm đi hiệu quả mà con người mong muốn, thậm chí không đạt được mục đích hoạt động. Những khó khăn này, được gọi chung là những khó khăn trong quá trình hoạt động của con người, được tạo nên bởi các yếu tố mang tính tiêu cực, bao gồm yếu khách quan (bên ngoài) và yếu tố chủ quan (bên trong). Yếu tố khách quan, được hiểu là những điều kiện, phương tiện, môi trường hoạt động,…. Đây là những yếu tố có ảnh hưởng gián tiếp đến hoạt động của con người. Những yếu tố chủ quan, chính là những yếu tố xuất phát từ bản thân của mỗi cá nhân khi tham gia vào hoạt động như: nhận thức, thái độ, tình cảm, năng lực, kinh nghiệm, các thao tác kỹ năng tiến hành hoạt động. Xét theo phương diện nguồn gốc xuất phát, các yếu tố bên trong có thể chia làm hai loại: yếu tố sinh học và yếu tố tâm lý. Những khó khăn do yếu tố tâm lý tạo nên gọi là những khó khăn tâm lý. Chính yếu tố bên trong này ảnh hưởng trực tiếp đến tiến trình và kết quả hoạt động của con người. Với quan điểm trên, cùng với các nghiên cứu của các tác giả đi trước [6], [17], [30], [31], [38], [61], [68] khó khăn tâm lý được hiểu như sau: khó khăn tâm lý là những nét tâm lý cá nhân, nảy sinh trong quá trình hoạt động của chủ thể, gây cản trở, ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình và hiệu quả hoạt động của chủ thể. 1.2.5. Khó khăn tâm lý trong công tác tham vấn học đường Công tác tham vấn học đường là một loại lao động trí óc, đòi hỏi người tham gia phải tập trung làm việc với cường độ cao, có khả năng nắm bắt và đánh giá chính xác vấn đề của đối tượng trong thời gian ngắn. Do đó, trong quá trình tham gia vào hoạt động này khi gặp những khó khăn, đặc biệt là những khó khăn về mặt tâm lý, đòi hỏi người làm tham vấn phải tích cực, chủ động huy động tối đa những phẩm chất và năng lực của cá nhân để khắc phụ nhằm đạt hiệu quả cao trong công tác của mình. Ngoài ra, người làm công tác tham vấn học đường để phát triển, xây dựng và hoàn thiện bản thân họ cần phải trải nghiệm thực tiễn và học tập từ mọi nguồn có thể trong quá trình hoạt động của mình. Trong quá trình này sẽ nảy sinh nhiều khó khăn tâm lý, gây cẳn trở sự thích ứng với hoạt động nghề nghiệp của họ để đạt đến những kỹ năng cần thiết. Khó khăn tâm lý trong hoạt động của con người nói chung, trong công tác tham vấn học đường nói riêng, là một hiện tượng tâm lý phức tạp, nó luôn đồng hành cùng con người trong đời sống và hoạt động. Bàn về khó khăn tâm lý trong công tác tham vấn học đường, người nghiên cứu cho rằng: Khó khăn tâm lý trong công tác tham vấn học đường là những nét tâm lý cá nhân, nảy sinh, tồn tại trong hoạt động của người làm tham vấn học đường với đối tượng tham vấn của họ, gây cản trở, ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình và hiệu quả hoạt động của chính nhà tham vấn. 1.3 Lý luận về khó khăn tâm lý trong công tác tham vấn học đường Đặc trưng của công tác tham vấn học đường so với các ngành nghề khác cũng làm việc với con người, thì tham vấn học đường phải làm việc cùng lúc với rất nhiều loại đối tượng từ học sinh, thầy cô giáo đến cả phụ huynh và các tổ chức xã hội khác bên ngoài nhà trường. Còn về số lượng công việc nhà tham vấn học đường phải đảm nhiệm gần như hầu hết các khâu trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách học sinh ở trong lẫn ngoài trường học. Nhưng trong quá trình hoạt động của mình, nhà tham vấn học đường làm việc gần như độc lập chứ ít có sự hỗ trợ của đồng nghiệp, bởi vì gần như mỗi trường học chỉ có một nhà tham vấn học đường. Mặt khác, trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, hiệp hội tham vấn học đường xem như chưa được thành lập, do đó nhà tham vấn học đường không có sự hỗ trợ nào từ hiệp hội chuyên môn trong nước. Chính vì thế, trong quá trình hoạt động của mình, nếu gặp khó khăn tâm lý, hầu như nhà tham vấn học đường tự mình tìm hướng khắc phục. Việc khắc phục khó khăn tâm lý này có lúc chỉ là sự ngẫu nhiên, là việc rút kinh nghiệm sau những lần thất bại trước. Điều này làm mất rất nhiều thời gian trong quá trình hoạt động và sửa sai của nhà tham vấn. Nhưng cũng có trường hợp nhà tham vấn không ý thức được khó khăn tâm lý mà họ đã gặp phải để rút ra bài học kinh nghiệm nhằm cải thiện trong công tác của mình. Đặc biệt, đối với những người mới vào nghề tham vấn học đường, hoặc những người làm tham vấn học đường nhưng không được trang bị kỹ năng tham vấn, họ luôn trong trạng thái vừa làm vừa học, sai đâu sửa đó cho nên mọi thứ gần như lạ lẫm và đầy bỡ ngỡ. Họ phải vừa làm quen với môi trường mới, công việc mới, trách nhiệm mới, cách thức tổ chức hoạt động mới và quan trọng hơn là họ phải làm việc độc lập với rất ít sự hỗ trợ chuyên môn từ đồng nghiệp cùng chuyên ngành. Do đó, hầu hết người làm công tác tham vấn học đường ở Việt Nam nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng điều có cảm nhận hụt hẫng, lo lắng. Trong quá trình tham gia hoạt động nghề nghiệp, bên cạnh những nhà tham vấn có khả năng thích ứng cao, hoàn thiện nghề nghiệp và đi vào ổn định trong công tác, thì còn không ít người làm tham vấn gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm ra hướng giải quyết vấn đề một cách khoa học và hiệu quả cao trong công tác. Thực tế cho thấy, hầu hết các nhà tham vấn học đường trong nước hiện nay đang tự tìm ra cho mình một cách làm riêng trong công tác, chứ chưa áp dụng các kỹ năng tham vấn đã được nghiên cứu và thực nghiệm một cách khoa học. Cho nên, ngay cả những người được cho là nhà tham vấn tốt nhất trong nước hiện nay cũng chỉ là họ tự học qua tài liệu, sách báo, các khóa tập huấn ngắn cộng với sự trải nghiệm thực tiễn nhiều và từ đó rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm cho bản thân. 1.3.1. Người làm công tác tham vấn học đường • Nhà tham vấn học đường Trên thế giới, tại các nước có nền tham vấn học đường phát triển như Mỹ, Canađa, Pháp,… yêu cầu một người làm công tác tham vấn học đường phải có trình độ tối thiểu là thạc sỹ chuyên ngành tham vấn học đường và phải trải qua kỳ thi chứng chỉ hành nghề thì mới được công nhận là nhà tham vấn học đường, đồng thời trong quá trình hoạt động phải không ngừng hoàn thiện bản thân trong thực tế hành nghề [12], [26], [50, tr 365, 370], [62, tr 28]. Nhưng ở một số nước khác như: Nga, Bỉ,… ngoài đội ngũ chuyên ngành như nói trên, người ta còn sử dụng đội ngũ giáo viên, đặc biệt là giáo viên và các hiệu trưởng đã về hưu để làm cộng tác viên [50, tr 514], [62, tr 29]. Ở Việt Nam, từ khi các trường có quan tâm đến công tác tham vấn học đường, thì cách làm của ban giám hiệu là sử dụng các giáo viên lớn tuổi, những người tốt nghiệp chuyên ngành tâm lý học, giáo dục học và một số người đang làm việc như một người trợ giúp tâm lý, để giúp đỡ các học sinh “có vấn đề” tại trường [50, tr 43]. Trong triển khai công tác tư vấn (tham vấn) cho học sinh, sinh viên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đề nghị bố trí giáo viên tâm lý, cán bộ Đoàn, Đội hoặc mời chuyên gia theo định kỳ để thực hiện công tác này [62, tr 29]. Đối với việc giáo viên làm công tác tham vấn học đường có hai quan điểm trái chiều. Nhóm ý kiến thứ nhất cho rằng, giáo viên làm công tác tham vấn học đường thì có rất nhiều lợi ích, vì giáo viên, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm là những người thường xuyên tiếp xúc trực tiếp, gần gũi và hiểu học sinh của mình nhất, họ giải quyết được nhiều căng thẳng cho học sinh, từ đó rút kinh nghiệm chung cho nhiều học sinh khác, công việc này giúp cho giáo viên nâng cao được kỹ năng giáo dục, khả năng cảm nhận và hiểu vấn đề của học sinh. Như vậy, phải có chiến lược nâng cao năng lực tham vấn cho giáo viên. Bên cạnh đó, có nhóm ý kiến thứ hai cho rằng: không nên để giáo viên đang giảng dạy tại trường tham vấn cho chính học sinh của trường đó, vì học sinh sẽ ngại chia sẽ với thầy cô những vấn đề của họ với nhiều lý do, dẫn đến hiệu quả tham vấn không cao [62, tr 30]. Trong hội thảo quốc tế về công tác tham vấn tâm lý học đường của Việt Nam lần thứ nhất (2009) và lần thứ hai (2011) [26], [50], các nhà khoa học tham gia đều thống nhất rằng, người làm công tác tham vấn học đường phải được đào tạo chuẩn kiến thức chuyên môn về giáo dục học, tâm lý học và kỹ năng tham vấn thực tế, đồng thời phải được trang bị một số kiến thức và kỹ năng thực hành công tác xã hội. Cũng tại hai hội thảo này, các thống kê cho thấy, hầu hết người làm công tác tham vấn học đường ở Việt Nam hiện tại chưa được đào tạo chuyên môn về tham vấn học đường, thậm chí có một số người đang làm công tác tham vấn học đường nhưng chưa từng được trang bị bất cứ một kỹ năng tham vấn nào. Do các nhà tham vấn học đường tại Việt Nam hiện nay luôn phải vừa làm vừa học. Cho nên có thể chấp nhận những yêu cầu về nhà tham vấn học đường ở một số khía cạnh sau: - Thứ nhất, nhà tham vấn học đường trước tiên phải là nhà tham vấn, có nghĩa là họ phải yêu thích công việc tham vấn và phải có kiến thức cơ bản về nghề tham vấn như: nắm được các nguyên tắc đạo đức của nghề tham vấn, xác định được thái độ của người làm tham vấn, nắm được quy trình của một ca tham vấn, được huấn luyện về các kỹ năng tham vấn và có được hệ thống lý thuyết tâm lý làm nền tảng cho hoạt động nghề nghiệp. - Thứ hai, nhà tham vấn học đường phải thông suốt những đặc điểm tâm lý của lứa tuổi, vì công việc của họ không chỉ là tham vấn cho học sinh mà còn là tư vấn cho giáo viên và cha mẹ học sinh các về vấn đề dạy dỗ, ứng xử với học sinh cũng như với con cái. - Thứ ba, nhà tham vấn học đường phải có thực tế hành nghề, có nghĩa là đang làm công việc tham vấn học đường tại các trường học hoặc các trung tâm tham vấn. Tóm lại, người làm công tác tham vấn học đường tại Việt Nam hiện tại gồm có nhiều thành phần tham gia nhưng tạm chia thành 3 nhóm: - Nhóm thứ nhất, là những người được đào tạo chuyên ngành tham vấn tâm lý hay tham vấn học đường từ nước ngoài về hành nghề - đây là nhóm được đào tạo chuẩn. - Nhóm thứ hai, là những người được đào tạo về tâm lý học, giáo dục học, tâm lý giáo dục và xã hội học chuyển sang làm công tác tham vấn học đường. - Nhóm thứ ba, là giáo viên đang trực tiếp giảng dạy, giáo viên nghỉ hưu, và những người làm công tác Đoàn, Đội kiêm nhiệm công tác tham vấn học đường. • Chức năng của người làm công tác tham vấn học đường Trong điều kiện của Việt Nam hiện tại, công tác tham vấn học đường chưa thật chuyên nghiệp, nên chức năng của nhà tham vấn học đường không được quy định cụ thể trong các văn bản của nhà nước. Do đó, người làm công tác tham vấn học đường chủ yếu là “tự thân vận động” trong toàn bộ chương trình hoạt động của mình và đồng thời tự chịu trách nhiệm. Thậm chí, có nhiều nhà tham vấn không biết rõ chức năng của mình, dẫn đến họ làm việc theo cảm tính [12, tr 171], [26], [50], [62, tr 31]. Ở các nước có nền tham vấn học đường phát triển, chức năng của nhà tham vấn học đường được quy định rất cụ thể, họ được tham gia vào hội đồng sư phạm với tư cách là cố vấn về các vấn đề học hành và phát triển nhân cách của học sinh, tất nhiên, quyền quyết định cuối cùng là ở giáo viên, của cha mẹ học sinh hay của hội đồng sư phạm. Một số trường học ở Mỹ và Canađa đã đưa ra các chức năng của nhà tham vấn học đường như sau [26], [50, tr 365], [62, tr 32]: - Lập kế hoạch cho chương trình hoạt động của năm học trên cơ sở tiến hành khảo sát nhu cầu của học sinh và tập hợp các dữ liệu về học sinh. - Tham vấn cho cá nhân hay nhóm học sinh “có vấn đề” liên quan đế học hành, sự phát triển cá nhân cũng như định hướng nghề nghiệp cho các em. - Tư vấn cho cha mẹ, giáo viên và những người có liên quan trong việc tìm ra biện pháp tốt nhất để giáo dục con em và học sinh của mình. - Liên kết với các bộ phận khác trong trường học cũng như các tổ chức bên ngoài trường học nhằm phối hợp giải quyết các vấn đề của học sinh. - Đánh giá học sinh và cùng với giáo viên đưa ra những quyết định liên quan đến việc học tập và hành kiểm của học sinh. - Phát triển năng lực nghề nghiệp của bản thân thông qua việc giám sát trong nhóm, tự tìm hiểu qua sách báo cũng như qua sự hỗ trợ của các trang thông tin điện tử và các cuộc hội thảo về tham vấn. 1.3.2. Biểu hiện của khó khăn tâm lý trong công tác tham vấn Khó khăn tâm lý trong công tác tham vấn là những nét tâm lý cá nhân, nảy sinh, tồn tại trong hoạt động của người làm tham vấn với đối tượng tham vấn của họ, gây cản trở, ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình và hiệu quả hoạt động của chính nhà tham vấn. Những khó khăn tâm lý này được biểu hiện ở các mặt nhận nhận thức, thái độ, tình cảm và hành vi của người làm tham vấn, cụ thể như sau: • Nhận thức Nhận thức là một trong những thành tố quan trọng của đời sống tâm lý con người. Nhận thức giúp con người hiểu biết về các sự vật hiện tượng từ đó bày tỏ thái độ tình cảm và có hành vi tương ứng. Tham vấn là một ngành nghề mới tại Việt Nam, do đó, trong quá trình công tác không phải lúc nào nhà tham vấn cũng nhận thức đúng đắn, đầy đủ về nó. Chính những nhận thức chưa đúng, chưa phù hợp này là những khó khăn tâm lý gây nên những sai lầm trong hoạt động tham vấn của cá nhân người làm tham vấn. Về những khó khăn tâm lý biểu hiện ở dạng nhận thức có thể chia làm hai nhóm: nhận thức về bản thân (chủ thể) – người tiến hành hoạt động tham vấn (nhà tham vấn) và nhận thức về đối tượng tham vấn – người được tham vấn. Nhận thức về bản thân: trong đề tài này người nghiên cứu xin nhấn mạnh khía cạnh nhận thức về động cơ tham gia hoạt động tham vấn trong quá trình nhận thức về bản thân của người làm công tác tham vấn. Động cơ trong tâm lý học, theo tác giả Nguyễn Văn Lê tổng hợp, là cái thúc đẩy và quy định chiều hướng hoạt động nhằm đạt đến mục đích nào đó, là những gì thôi thúc con người có những ứng xử nhất định. Theo A.N.Leonchiev và B.Ph.Lomov thì “Lĩnh vực động cơ của nhân cách có liên quan chặt chẽ đến những nhu cầu, chế định hành vi con người một cách khách quan và có quy luật. Động cơ là sự biểu hiện chủ quan của nhu cầu, là vị trí gián tiếp của nhân cách trong xã hội. Ngược lại, nhu cầu là cơ sở của động cơ. Trên thực tế, động cơ và nhu cầu gắn bó mật thiết với nhau đến mức thường không thể tách chúng ra được”. Cho nên, việc xác định được động cơ tham gia hoạt động tham vấn cũng chính là xác định được nhu cầu tham gia hoạt động tham vấn của bản thân nhà tham vấn. Nhu cầu tham gia hoạt động tham vấn là thành tố quan trọng của động cơ hoạt động, là nguồn gốc tính tích cực tham gia hoạt động tham vấn, biểu hiện qua tính tự giác, thái độ nghiêm túc, luôn vượt lên mọi khó khăn để giải quyết các nhiệm vụ trong công tác, qua đó nâng cao hiệu quả của hoạt động tham vấn mà nhà tham vấn đang đảm nhiệm. Trên cơ sở mối quan hệ giữa động cơ và nhu cầu như phân tích, thì việc không xác định được động cơ tham gia hoạt động tham vấn, tức động cơ tham gia hoạt động tham vấn không rõ ràng sẽ là một khó khăn tâm lý trong hoạt động tham vấn của người làm công tác tham vấn. Nhận thức về đối tượng tham vấn: ở đây người nghiên cứu không xem xét nhận thức theo hướng khả năng nhận thức nội dung công việc của nhà tham vấn, mà chỉ muốn nhấn mạnh đến nhận thức của nhà tham vấn về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của đối tượng tham vấn trong mối quan hệ tham vấn. Nếu nhà tham vấn ý thức rõ về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của đối tượng tham vấn, thì nhà tham vấn sẽ có mục tiêu rõ ràng, chính xác ngay từ lúc bắt đầu tiếp xúc đối tượng và chắc chắn hiệu quả của quá trình tham vấn sẽ cao hơn và ngược lại, nhà tham vấn sẽ thiếu tâm thế trong công tác dẫn đến làm việc kiểu đối phó, hiệu quả hoạt động thấp. • Thái độ, tình cảm Đề tài quan tâm tới thái độ, tình cảm của nhà tham vấn tham vấn đối với công tác của họ. Trong quá trình tham gia hoạt động, người làm tham vấn có thái độ, tình cảm tích cực, luôn đặt toàn bộ tâm trí cho công tác của mình, biết tìm những biện pháp tạo hứng thú cho công việc thì hiệu quả của hoạt động sẽ rất cao, đồng thời nhà tham vấn có cơ hội hoàn thiện nghề nghiệp của bản thân. Ngược lại, nhà tham vấn có thái độ, tình cảm tiêu cực trong hoạt động thì hiệu quả công việc chắc chắn sẽ không cao mà đôi khi còn có những ảnh hưởng không tốt đến người được tham vấn. Do đó, có thể nói khó khăn tâm lý biểu hiện ở dạng thái độ, tình cảm là việc xuất hiện những xúc cảm âm tính đối với hoạt động của nhà tham vấn như coi thường chính công việc của mình, chán ghét, thờ ơ, lo lắng, sợ hãi, căng thẳng, chán nản khi gặp những vấn đề nảy sinh trong hoạt động tham vấn. • Hành vi Hành vi là “bộ mặt” của đời sống tâm lý con người. Đây là dạng khó khăn tâm lý biểu hiện cụ thể, dễ nhận thấy nhất trong quá trình hoạt động của con người. Những khó khăn tâm lý về mặt hành vi có thể là kết quả chi phối bởi nhận thức và thái độ tình cảm hoặc do những kỹ năng tham vấn không đủ thuần thục để sử dụng trong quá trình tham vấn khiến cho hoạt động này mang lại hiệu quả không cao. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chỉ tập trung tìm hiểu khó khăn tâm lý trong công tác tham vấn của nhà tham vấn ở một dạng hành vi được biểu hiện cụ thể trong hoạt động tham vấn đó là kỹ năng tham vấn. Kỹ năng là khả năng thực hiện có kết quả những hành động trên cơ sở những tri thức có được đối với việc giải quyết những nhiệm vụ đặt ra cho phù hợp với điều kiện cho phép. Theo tác giả Lưu Xuân Mới (2000), “kỹ năng là tri thức trong hành động”. Công tác tham vấn đòi hỏi nhà tham vấn phải dùng những kỹ năng tham vấn chuyên nghiệp trong quá trình tham vấn cho đối tượng mới đạt được hiệu quả cao. Việc nhà tham vấn không biết sử dụng các kỹ năng tham vấn, không thấy được sự cần thiết phải có kỹ năng tham vấn, hoặc vận dụng, sử dụng các kỹ năng tham vấn không thuần thục sẽ là những khó khăn tâm lý rất lớn gây ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của nhà tham vấn. Tóm lại, khó khăn tâm lý trong công tác tham vấn được biểu hiện thông qua ba dạng cơ bản của đời sống tâm lý con người là: nhận thức, thái độ - tình cảm và hành vi. Ba mặt này có mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau. Do đó, trong quá trình hoạt động tham vấn, muốn tháo gỡ khó khăn tâm lý cho nhà tham vấn cần phải chú ý quan tâm giải quyết cả ba dạng biểu hiện khó khăn tâm lý trên. 1.3.3. Biểu hiện khó khăn tâm lý trong công tác tham vấn học đường • Khó khăn tâm lý biểu hiện ở mặt nhận thức Khó khăn tâm lý trong hoạt động tham vấn học đường biểu hiện ở mặt nhận thức cũng xuất phát từ hai hướng: nhận thức về chủ thể - bản thân người làm công tác tham vấn học đường và nhận thức về đối tượng - người được tham vấn và yêu cầu của công việc trong tham vấn học đường . Đối tượng tham vấn học đường không chỉ là học sinh, mà bao gồm cả phụ huynh học sinh, giáo viên, ban giám hiệu và toàn thể đội ngũ nhân viên trong nhà trường. Riêng đối tượng là học sinh đã phải phân ra theo lứa tuổi, giới tình, hoàn cảnh sống gia đình và môi trường xã hội nơi các em sinh sống. Với mỗi đối tượng học sinh như vậy sẽ có một đặc điểm tâm sinh lý khác nhau, có cách ứng xử khác nhau trong môi trường giáo dục nhà trường. Phụ huynh trong điều kiện xã hội hiện nay rất ít có thời gian để quan tâm đến con cái của họ, cho nên khi tiếp xúc với phụ hunh nhà tham vấn khai thác được rất ít thông tin về các em. Thêm vào đó bản thân phụ huynh chưa ý thức được tâm quan trọng của việc phải tiếp xúc và làm việc với nhà tham vấn khi họ nhận ra đó không phải là người trược tiếp dạy con mình, bởi vì quan niệm của họ là giáo viên trực tiếp giảng dạy cho trẻ mới có tác động tốt tới đứa trẻ đó. Còn đối với giáo viên, nhân viên và ban giám hiệu nhà trường thì hầu như họ chưa thấy được vai trò của nhà tham vấn học đường, nếu có thì họ chỉ xem kết quả của nhà tham vấn mang lại như một tài liệu tham khảo. Với đội ngũ giáo dục trong nhà trường, thường họ ít quan tâm đến yếu tố tâm lý của các em, mà chỉ quan tâm đến việc dạy cho học sinh kiến thức gì, kỹ năng gì và học sinh có đạt kết quả tốt trong các kỳ thi hay không. Với nhận thức đó, cho nên việc hợp tác của họ với nhà tham vấn học đường gần như không tồn tại. Với sự phong phú về đối tượng trong công tác tham vấn học đường như trên, đòi hỏi việc nhận thức về đối tượng tham vấn trở nên cực kỳ quan trọng. Nếu nhà tham vấn nhận thức rõ về đối tượng thì họ sẽ tìm ra phương pháp và áp dụng kỷ thuật tham vấn phù hợp với đối tượng giúp quá trình tham vấn có hiệu quả cao. Nhưng vì những yếu tố khách quan trên, đã gây khó khăn trong quá trình công tác của các nhà tham vấn học đường, làm cho hiệu quả của quá trình tham vấn không cao, thậm chí có khi quá trình tham vấn không thể diễn ra được theo ý muốn của nhà tham vấn vì sự ngan cản của mật số bộ phận trong nhà trường. Sự việc đó diễn ra một cách khá thường xuyên làm cho nhà tham vấn học đường cảm thấy mình trở thành người thừa trong nhà trường, công việc của mình đang làm không có ý nghĩa. Cho nên, một số nhà tham vấn học đường không còn nhận thấy được tầm quan trọng của việc nhận thức đối tượng trong công tác của mình. Việc không nhận thức được đối tượng tham vấn trong công tác tham vấn học đường là khó khăn tâm lý trong nhận thức của nhà tham vấn, dẫn đến tình trạng nhà tham vấn xem thường công việc của chính mình, không chịu đầu tư để nâng cao chất lượng công việc. Do đó, nhà tham vấn học đường cần phải nhận thức rõ đối tượng cần tham vấn là ai và cần phải tác động đến đối tượng nào thì hiệu quả công tác mới được nâng cao. Ngoài ra, việc không hiểu rõ về ngành nghề mà mình đang làm, không thấy được tầm quan trọng của chính nhà tham vấn học đường trong nhà trường và yêu cầu cụ thể của công việc cũng là khó khăn tâm lý trong nhận thức. Thực tế cho thấy, ở bất cứ hoạt động nào, khi chủ thể hiểu biết đầy đủ, sâu sắc về đối tượng hoạt động của mình sẽ giúp cho họ chuẩn bị tâm thế cũng như các điều kiện để thực hiện hoạt động đó. Ngược lại, khi thiếu những hiểu biết cần thiết về đối tượng hoạt động, thì chủ thể sẽ tiến hành hoạt động một cách đối phó, thiếu sự tích cực dẫn đến kém hiệu quả trong hoạt động. Bên cạnh đó, nhà tham vấn nói chung, nhà tham vấn học đường nói riêng, về mặt chủ quan, có thể gặp một khó khăn tâm lý khác đó là nhận thức động cơ hoạt động nghề nghiệp chưa rõ ràng. Động cơ hoạt động của nhà tham vấn học đường bao gồm những động cơ có ý nghĩa cá nhân và những động cơ mang ý nghĩa xã hội như: động cơ nhận thức khoa học chuyên ngành, động cơ thúc đẩy hoàn thiện nghề nghiệp cho bản thân, động cơ phục vụ xã hội, động cơ tự khẳng định mình, động cơ vụ lợi và động cơ phát triển nghề nghiệp cho chuyên ngành tham vấn học đường. Những động cơ trên được cụ thể hóa ở mục đích hành động mà nhà tham vấn học đường cần phải hướng đến trong quá trình công tác. ._.í Minh như sau: Về phía nhà nước Cần lập mã ngành tham vấn học đường, để người tham gia công tác trong ngành có chính sách ưu đãi rõ ràng, sẽ giúp họ yên tâm công tác và cống hiến tốt hơn. Cần xây dựng chương trình cho hoạt động tham vấn học đường cụ thể, thống nhất trên toàn quốc để dễ quản lý và kiểm tra. Thành lập tổ chức khoa học chuyên về tham vấn học đường, và hiệp hội cho người làm tham vấn học đường tham gia sinh hoạt, trao đổi chuyên môn sâu. Các trường đại học phải đào tạo chuyên ngành tham vấn học đường để tạo nguồn nhân lực cho công tác này. Về phía nhà trường phổ thông Phải thành lập phòng tham vấn học đường và cung cấp kinh phí cho phòng hoạt động một cách thường xuyên. Phổ biến để cho tất cả cán bộ, công nhân viên và giáo viên trong nhà trường hiểu đúng về tầm quan trọng của công tác tham vấn học đường. Tạo điều kiện để nhà tham vấn tổ chức các buổi chuyên đề giúp học sinh biết và hiểu rõ về phòng tham vấn, để các em chủ động sử dụng dịch vụ này khi có nhu cầu. Tạo điều kiện để tham vấn viên có cơ hội bồi dưỡng tri thức chuyên môn và kiến thức thực tế, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Về phía nhà tham vấn Thường xuyên học tập bồi dưỡng nâng cao tri thức chuyên môn, nghiệp vụ để có thể giải quyết tốt các trường hợp tham vấn trong trường học. Phải liên tục cập nhật các thành tựu khoa học về chuyên ngành tham vấn, nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội. Tổ chức các chuyên đề một cách thường xuyên để tạo được niềm tin với học sinh và phụ huynh. Tạo mối quan hệ tốt với tất cả các thành viên trong nhà trường để có thể phối hợp khi cần thiết. Gia nhập các tổ chức và hiệp hội chuyên môn trong và ngoài nước, để có cơ hội trao dồi kiến thức chuyên môn và học hỏi kinh nghiệm, nhằm hoàn thiện nghề nghiệp của bản thân. Tham gia định kỳ các nhóm giám sát chuyên về tham vấn học đường để tích lũy thêm kinh nghiệm tham vấn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lâm Huệ Anh (2003), Nói với con về giới và yêu như thế nào, Nxb Phụ nữ 2. Nguyễn Ngọc Bích (1998), Tâm lý học Nhân cách - một số vấn đề lý luận, Nxb Giáo dục 3. Lê Thị Bừng - Hải Vang (1997), Tâm lý học ứng xử, Nxb Giáo dục 4. Lê Văn Chưởng (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Trẻ 5. Pierre Daco (2004), Những thành tựu lãy lừng trong Tâm lý học hiện đại, Nxb Thống kê 6. Lê Mỹ Dung (2010), “Thực trạng khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học sinh lớp 3 hiện nay”, Tâm lý học, (12), tr 27,31. 7. GS TS Vũ Dũng (chủ biên) (2008), Từ điển Tâm lý học, Nxb Từ điển Bách Khoa 8. Việt Dũng (2006), Tâm lý bất thường của tuổi thiếu niên những điều bạn cần biết, Nxb Lao động 9. TS Nguyễn Văn Đồng (2009), Tâm lý học Giao tiếp, Nxb Chính trị - Hành chính 10. TS Nguyễn Văn Đồng (2007), Tâm lý học phát triển - giai đoạn thanh niên đến tuổi già, Nxb Chính trị Quốc gia 11. Nguyễn Văn Đồng (2004), Tâm lý học phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia 12. PGS TS Trần Thị Minh Đức (2009), Giáo trình Tham vấn tâm lý, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 13. Roberts Feldman (2004), Tâm lý học căn bản, Nxb Văn hóa - Thông tin 14. Danniel Goleman (2002), Trí tuệ cảm xúc - làm thế nào để biến những cảm xúc của mình thành trí tuệ, Nxb Khoa học xã hội 15. Nhiều tác giả (2000), Tâm lý người Việt Nam nhìn từ nhiều góc độ, Nxb thành phố Hồ Chí Minh 16. TS Lê Minh Hà (2008), Tài liệu bài giảng Tâm lý học Nhận thức, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh 17. Vũ Ngọc Hà (2010), “Khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 qua thái độ đối với học tập”, Tâm lý học, 2. 18. Phạm Minh Hạc (2002), Tuyển tập tâm lý học, Nxb Giáo dục 19. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (2004), Tâm lý người Việt Nam đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa những điều cần khắc phục, Nxb Chính trị Quốc gia 20. GS VS Phạm Minh Hạc - PGS TS Lê Đức Phúc (chủ biên) (2004), Một số vấn đề nghiên cứu nhân cách, Nxb Chính trị Quốc gia 21. Nguyễn Thị Trường Hân (2010), Xu hướng nghề của học sinh và công tác tư vấn hướng nghiệp ở các trường trung học phỗ thông quận 12 thành phồ HCM, Luận văn thặc sĩ tâm lý học, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh 22. B.R. Hergenhahn (2007), Nhập môn Lịch sử Tâm lý học, Nxb Thống kê 23. Hề Hoa (2004), Sách trả lời tâm lý cho nam sinh - nữ sinh, Nxb Thanh niên 24. PGS TS Ngô Công Hoàn (chủ biên) (2004), Những trắc nghiệm Tâm lý - tập I, Nxb Đại học Sư Phạm 25. PGS TS Ngô Công Hoàn (chủ biên) (2004), Những trắc nghiệm Tâm lý - tập II, Nxb Đại học Sư Phạm 26. Báo cáo khoa học (2011), Hội nghị quốc tế lần thứ 2 về tâm lý học đường ở Việt Nam - Thúc đẩy nghiên cứu và thực hành tâm lý học đường tại Việt Nam, Nxb Đại học Huế 27. Nguyễn Thị Hạ Huyền (2010), Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh trường trung học phỗ thông ở huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Luận văn thặc sĩ tâm lý học, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh 28. GS Đặng Phương Kiệt (chủ biên) (2001), Cơ sở Tâm lý học ứng dụng, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 29. GS Đặng Phương Kiệt (chủ biên) (2000), Những vấn đề tâm lý và văn hóa hiện đại, Nxb Văn hóa - Thông tin 30. Nguyễn Thị Thiên Kim (2007), Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thặc sĩ tâm lý học, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh 31. Cao Xuân Liễu (2004), Một số khó khăn tâm lý của học sinh lớp 1 người dân tộc K'Ho ở Lâm Đồng, Luận văn thặc sĩ tâm lý học, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh 32. PGS TS Đỗ Long (chủ biên) (1999), Yếu tố Sinh học và yếu tố Xã hội trong sự phát triển Tâm lý người, Nxb Khoa học xã hội 33. Đỗ Long (2001), Tâm lý học dân tộc, Nxb Khoa học xã hội 34. Đỗ Long (2007), Những nghiên cứu Tâm lý học, Nxb Chính trị Quốc gia 35. A.R. Luria (2003), Cơ sở Tâm lý học thần kinh, Nxb Giáo dục 36. Patricia H. Miler (2003), Các lý thuyết về Tâm lý học phát triển, Nxb Văn hóa - Thông tin 37. Phùng Thị Hương Nga (2010), Nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân khu chế xuất Tân Thuận tại Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thặc sĩ tâm lý học, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh 38. Đặng Thanh Nga (2010), “Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên trường Đại học Luật Hà Nội”, Tâm lý học, (6), tr 26,33. 39. Phan Trọng Ngọ (chủ biên) (2003), Các lý thuyết phát triển tâm lý người, Nxb Đại học Sư Phạm 40. Phan Trọng Ngọ (chủ biên) (2001), Tâm lý học trí tuệ, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 41. Phan Ngọc (2004), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin 42. Nguyễn Thị Oanh (2006), Tư vấn Tâm lý học đường, Nxb Trẻ 43. PGS TS Bùi Ngọc Oánh (2006), Tâm lý học giới tính và Giáo dục giới tính, Nxb Giáo dục 44. Đoàn Huy Oánh (2005), Tâm lý sư phạm, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh 45. Bùi Ngọc Oánh (1993), Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh 46. Bùi Ngọc Oánh (1993), Tâm lý học, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh 47. Bùi Ngọc Oánh (1995), Tâm lý học – tập 2, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh 48. Jean Piaget (1999), Tâm lý học và Giáo dục học, Nxb Giáo dục 49. Nguyễn Ngọc Phú (2004), Lịch sử Tâm lý học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 50. Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc tế (2009), Nhu cầu, định hướng và đào tạo tâm lý học đường tại Việt Nam, Hà Nội. 51. Phạm Văn Quyết - Nguyễn Quý Thanh (2001), Phương pháp nghiên cứu xã hội học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 52. John W. Santrock (2004), Tìm hiểu thế giới tâm lý tuổi Vị thành niên, Nxb Phụ nữ 53. ThS Nguyễn Thơ Sinh (2006), Tư vấn Tâm lý căn bản, Nxb Lao động 54. TS Huỳnh Văn Sơn (2010), Văn hóa và sự phát triển Tâm lý, Nxb Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh 55. GS TS Dương Thiệu Tống (2005), Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục và tâm lý, Nxb Khoa học xã hội 56. GS TS Dương Thiệu Tống (2005), Thống kê ứng dụng trong nghiên cứu khoa học giáo dục, Nxb Khoa học xã hội 57. GS TS Dương Thiệu Tống (1995), Trắc nghiệm và đo lường thành quả học tập, Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh 58. Nguyễn Thị Thanh Thảo (2010), Nhu cầu tư vấn hướng nghiệp của học sinh trung học phỗ thông tỉnh Kiên Giang, Luận văn thặc sĩ tâm lý học, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh 59. TS Hồ Bá Thâm (2003), Bản sắc văn hóa dân tộc, Nxb Văn hóa - Thông tin 60. Trần Trọng Thủy (1992), Khoa học chẩn đoán Tâm lý, Nxb Giáo dục 61. Đồng Văn Toàn (2010), “Những khó khăn tâm lý trong giao tiếp của lưu học sinh Lào đang học ở trường Cao đẳng Sư phạm Thừa Thiên Huế”,tâm lý học,(9), tr 29, 56. 62. Huỳnh Mai Trang (2007), Thực trạng hoạt động tham vấn học đường tại các trường trung học ở nội thành Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thặc sĩ tâm lý học, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh 63. Lê Quang Trang - Nguyễn Trọng Hoàn (1999), Những vấn đề văn hóa Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục 64. Phạm Thị Trúc (2010), Nhu cầu tham vấn tâm lý của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Luận văn thặc sĩ tâm lý học, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh 65. GS TS Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên) (2003), Giáo trình Tâm lý học đại cương, Nxb Đại học Sư phạm 66. Robert V.Kail - John C.Cavanaugh (2006), Nghiên cứu về sự phát triển con người, Nxb Văn hóa - Thông tin 67. Kiến Văn - Lý Chủ Hưng (2007), Tư vấn Tâm lý học đường, Nxb Phụ Nữ 68. Nguyễn Thị Vui (2010), “Thực trạng trở ngại tâm lý trong học tập của học sinh tiểu học dân tộc thiểu số tỉnh Kon Tum”, Tâm lý học, (5), tr 51, 58. 69. Stephen W orchel - Wayne Shebilsue (2006), Tâm lý học (nguyên lý và ứng dụng), Nxb Lao động - Xã hội PHỤ LỤC PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN Kính thưa các anh/chị Khó khăn tâm lý trong công tác tham vấn học đường là vấn đề thường gặp của cá nhân nhà tham vấn, xuất hiện trong hoạt động tham vấn, gây cản trở, làm cho hoạt động tham vấn kém hiệu quả. Việc tìm hiểu khó khăn tâm lý và đề xuất các giải pháp nhằm giúp nhà tham vấn học đường làm việc hiệu quả hơn là cần thiết. Do đó, xin các anh/chị vui lòng hợp tác trả lời các câu hỏi sau: 1. Theo anh/chị, người làm công tác tham vấn học đường tại thành phố Hồ Chí Minh thường gặp những khó khăn tâm lý nào trong hoạt động tham vấn? --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- ------------------------------------------------------------------------------- 2. Theo anh/chị, những nguyên nhân nào gây nên khó khăn tâm lý trong công tác tham vấn học đường tại thành phố Hồ Chí Minh? --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- ------------------------------------------------------------------------------- 3. Theo anh/chị, khó khăn tâm lý đã ảnh hưởng như thế nào đến hiệu quả hoạt động tham vấn học đường của nhà tham vấn? --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- ------------------------------------------------------------------------------- 4. Anh/chị đã dùng những biện pháp nào để khắc phục khó khăn tâm lý trong công tác của mình? --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- ------------------------------------------------------------------------------- 5. Anh/chị có đề xuất gì nhằm giúp người làm công tác tham vấn học đường giảm bớt những khó khăn tâm lý trong công tác tham vấn? --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- ------------------------------------------------------------------------------- Xin chân thành cảm ơn! PHỤ LỤC 2 PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN Khó khăn tâm lý trong học đường là vấn đề thường gặp của cá nhân học sinh, xuất hiện trong các hoạt động, gây cản trở, làm cho hoạt động kém hiệu quả. Việc tìm hiểu khó khăn tâm lý và đề xuất các giải pháp nhằm giúp học sinh hoạt động hiệu quả hơn là cần thiết. Do đó, xin em vui lòng hợp tác trả lời các câu hỏi sau: 1. Em thường gặp những khó khăn nào trong cuộc sống và học tập? --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- ------------------------------------------------------------------------------- 2. Theo em, những nguyên nhân nào gây nên khó khăn nêu ở câu 1? --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- ------------------------------------------------------------------------------- 3. Theo em, những khó khăn trong cuộc sống và học tập ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động học tập của em? --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- ------------------------------------------------------------------------------- 4. Em đã dùng cách nào để khắc phục khó khăn trong hoạt động học tập của mình? --------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- ------------------------------------------------------------------------------- 5. Em có đề xuất gì nhằm giúp học sinh giảm bớt những khó khăn trong hoạt động học tập của mình? ---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- --------------------------------------------------------------------------------Xin cảm ơn em! PHỤ LỤC 3 TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH PHÒNG SAU ĐẠI HỌC ---------------- PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN Kính thưa quý thầy cô, Nhằm thu thập thông tin cho đề tài khoa học nghiên cứu về “Những khó khăn tâm lý nào trong hoạt động tham vấn” của thầy/cô làm công tác tham vấn (TV), nhóm nghiên cứu gửi đến quý Thầy/Cô phiếu hỏi này. Kính mong quý Thầy/Cô vui lòng trả lời các câu hỏi dưới đây bằng cách đánh dấu (X) vào ô tương ứng với ý kiến của quý Thầy/Cô. Xin cảm ơn. Trước hết, xin quý Thầy/Cô cho biết một số thông tin cá nhân: - Giới tính: - Nam. - Nữ  - Bộ môn được đào tạo: - các môn Khoa học tự nhiên , - các môn Khoa học xã hội , - Tâm lý – Giáo dục , - ngoài các môn nêu trên  - Công việc chính hiện nay là: - Giáo viên đứng lớp , - GV tham vấn , - GV kiêm nhiệm công tác tham vấn  - Thâm niên công tác: - Dưới 5 năm , - Từ 6 đến 10 năm , - Từ 11 đến 15 năm  - Từ 16 năm đến 20 năm , - Trên 20 năm  Thầy/Cô đánh dấu (X) vào mức độ theo ý của Thầy/Cô Câu 1. Theo Thầy/Cô, người làm công tác tham vấn học đường tại Tp.Hồ Chí Minh thường gặp những khó khăn tâm lý nào trong họat động tham vấn? Khó khăn Đánh giá theo mức độ Rất đúng Đúng Lưỡng lự Không đúng Rất không đúng 26. Cách thức làm tham vấn trong trường học 27. Không trợ giúp những vấn đề mà học sinh gặp 28. Sự hỗ trợ của Ban giám hiệu, giáo viên và nhân viên trong trường 29. Thiếu cơ sở vật chất 30. Lúng túng trong việc tiếp cận với học sinh 31. Lúng túng về việc phân loại các trường hợp tham vấn học đường 32. Không quan sát được vẻ mặt của đối tượng khi tham vấn qua điện thọai 33. Các phòng tham vấn ở trường học chưa được đầu tư đúng mức nên các đối tượng còn ngại ngùng không dám tiếp cận 34. Hoạt động tham vấn chưa được quan tâm đúng mức 35. Chưa sâu sát nhiều để rút kinh nghiệm 36. Chưa được sự quan tâm của nhà trường và cơ quan các cấp 37. Là hoạt động cá thể, riêng lẻ của từng tham vấn viên 38. Ban giám hiệu, giáo viên, học sinh có suy nghĩ chỉ cần tham vấn một lần là đủ không cần đầu tư nhiều thời gian 39. Xác định, đánh giá hiệu quả sau mỗi lần tham vấn 40. Kiểm soát các cảm xúc của nhà tham vấn 41. Nhận định chủ quan và kiến thức của nhà tham vấn 42. Hội đồng sư phạm chưa quan tâm nhiều đến tham vấn học đường 43. Nhà tham vấn thiếu kỹ năng khai thác thông tin ở phụ huynh và học sinh 44. Thiếu sự hợp tác với nhà tham vấn từ phía nhà trường 45. Nhà tham vấn thiếu tự tin, kỹ năng làm việc trong hoạt động tham vấn học đường 46. Phụ huynh và học sinh không quan tâm đến lịch hẹn của nhà tham vấn 47. Thù lao quá thấp 48. Xã hội chưa hiểu rõ tầm quan trọng của tham vấn viên trong lĩnh vực tham vấn học đường 49. Không biết bắt đầu từ đâu 50. Khó tiếp xúc với phụ huynh và học sinh Câu 2. Theo Thầy/Cô những nguyên nhân nào gây nên khó khăn tâm lý trong công tác tham vấn học đường tại thành phố Hồ Chí Minh? Nguyên nhân gây khó khăn Đánh giá theo mức độ Rất đúng Đúng Lưỡng lự Không đúng Rất không đúng 30. Thiếu kiến thức chuyên môn 31. Cách nhìn nhận của Ban giám hiệu, giáo viên, nhân viên, sở Giáo dục và đào tạo về tầm quan trọng của công tác tham vấn học đường chưa đồng bộ, thống nhất 32. Sự đầu tư về người và cơ sở vật chất cho tham vấn học đường 33. Tham vấn viên chưa tâm huyết với công tác tham vấn 34. Lương của chuyên viên tham vấn quá ít 35. Chưa có hệ thống hỗ trợ công tác tham vấn tâm lý học đường trong trường 36. Chưa có chuẩn đánh giá chung về công tác tham vấn học đường 37. Chưa có đội ngũ cán bộ chuyên đầu ngành làm công tác tham vấn học đường 38. Đội ngũ làm công tác tham vấn học đường còn thiếu 39. Đầu tư chuyên môn chưa đầy đủ 40. Chưa có điều kiện tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề về tâm lý 41. Chưa tin tưởng vào đội ngũ làm công tác tham vấn 42. Phụ huynh và học sinh chưa tin tưởng hoặc thiếu quan tâm tham vấn học đường 43. Công tác tuyên truyền còn hạn chế 44. Người làm công tác tham vấn chưa được quan tâm, chưa được đào tạo chuyên sâu 45. Không có một tổ chức chính thức của những người làm công tác tham vấn học đường 46. Hợp đồng làm việc mang tính cá nhân và thời vụ, không tạo cảm giác thoải mái 47. Chưa có kinh phí duy trì hoạt động 48. Công tác tổ chức riêng lẻ chưa đồng bộ 49. Áp lực trách nhiệm giữa thời gian tham vấn ít ỏi và thời gian dạy học ở trường 50. Tâm lý đối phó, qua loa trong chuyên môn và hoạt động tham vấn chưa thực sự chứng minh được hiệu quả 51. Nhận thức tham vấn đối với học sinh còn thấp 52. Học sinh còn e ngại, chưa hiểu rõ về tham vấn 53. Vai trò của nhà tham vấn ở trường chưa cao 54. Nhà nước chưa có mã ngành và chính sách cụ thể cho nghề tham vấn học đường 55. Nhận thức vai trò cần thiết của công tác tham vấn học đường chưa cao 56. Chưa có hiệp hội chuyên môn của ngành để hỗ trợ cho các nhà tham vấn học đường khi gặp khó khăn 57. Nhà tham vấn không có thời gian để tìm hiểu thông tin chung quanh học sinh 58. Nhà trường chưa có chủ trương cụ thể Câu 3. Theo Thầy/Cô khó khăn tâm lý đã ảnh hưởng như thế nào đến hiệu quả hoạt động tham vấn học đường của nhà tham vấn? Ảnh hưởng Đánh giá theo mức độ Rất đúng Đúng Lưỡng lự Không đúng Rất không đúng 20. Rất ít học sinh biết và đến phòng tham vấn tâm lý 21. Chưa thể hỗ trợ cho học sinh đến nơi đến chốn khi gặp những khó khăn về tâm lý 22. Chưa xác định được nguyên nhân thực sự của từng trường hợp tham vấn học đường 23. Học sinh chưa tin tưởng vào hoạt động của nhà tham vấn 24. Hiệu quả tham vấn chưa cao 25. Học sinh còn e dè không thoải mái để mở lòng bày tỏ 26. Tham vấn không đúng với nội dung yêu cầu 27. Người làm công tác tham vấn thiếu nhiệt tình, chán nãn 28. Không có người kiểm soát, hỗ trợ người làm tham vấn 29. Không có sinh hoạt chung cho các nhà tham vấn để chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm 30. Chưa có sự phối hợp giữa tham vấn viên và giáo viên chủ nhiệm trong việc giải quyết các vướng mắc của học sinh 31. Làm chưa hiệu quả, tham vấn cho có, cho xong chuyện 32. Có chỉ tiêu các phòng tham vấn ở trường nhưng số lượng và chất lượng không mang tính hiệu quả 33. Học sinh và phụ huynh không coi trọng hoạt động tham vấn học đường trong nhà trường 34. Môi trường làm việc của nhà tham vấn không bảo đảm 35. Hoạt động tham vấn học đường chưa thể trở thành chuyên nghiệp ở Việt Nam 36. Các trường hợp tham vấn thường bị gián đọan không liên tục 37. Nhà trường chưa thấy được hiệu quả đích thực của công tác tham vấn 38. Đội ngũ sư phạm xem thường người làm tham vấn học đường Câu 4. Thầy/Cô đã dùng biện pháp nào để khắc phục khó khăn tâm lý trong công tác của mình? Biện pháp Đánh giá theo mức độ Rất Đúng Lưỡng Không Rất đúng lự đúng không đúng 19. Tự đọc tài liệu làm theo cách riêng của mình 20. Tham gia các khóa học ngắn hạn về tham vấn học đường để nâng cao chuyên môn 21. Cố gắng tìm hiểu, tìm các khai thác hết những vấn đề của đối tượng nếu có thể 22. Tìm cơ hội tiếp cận để gần gũi học sinh hơn 23. Tham khảo ý kiến của đồng nghiệp trong việc tìm hiểu đối tượng 24. Tuyên truyền rộng rãi các chuyên đề mà học sinh thích 25. Thường xuyên trao dồi chuyên môn với bạn bè, đồng nghiệp 26. Bố trí phòng tham vấn phù hợp lôi cuốn học sinh 27. Chia sẻ khó khăn với đồng nghiệp 28. Đóng góp ý kiến về tham vấn tâm lý với nhà trường 29. Tranh thủ sự quan tâm của các tổ chức xã hội khác nếu có thể 30. Đề nghị các chính sách hợp lý cho chuyên viên tham vấn học đường 31. Tham gia các tổ chức, hiệp hội tham vấn học đường trên thế giới 32. Mở rộng liên kết với các chuyên viên làm trong lĩnh vực nhà trường 33. Không ngừng rèn luyện bản thân 34. Có cái nhìn lạc quan hơn trong từng hoàn cảnh 35. Giúp Ban giám hiệu hiểu rõ ý nghĩa của công tác tham vấn học đường 36. Tham gia trường xuyên các hội thảo, hội nghị về tham vấn học đường Câu 5. Thầy/Cô có đề xuất gì nhằm giúp người làm công tác tham vấn học đường giảm bớt những khó khăn tâm lý trong công tác tham vấn? Đề xuất Đánh giá theo mức độ Rất đúng Đúng Lưỡng lự Không đúng Rất không đúng 25. Thành lập một tổ chức khoa học chuyên về tham vấn học đường 26. Nâng cao chất lượng đội ngũ chuyên viên tham vấn học đường 27. Cần hiểu đúng và xác định lại tầm quan trọng của tham vấn học đường trong trường học 28. Sở giáo dục và đào tạo và Ban giám hiệu cần hỗ trợ tối đa cho công tác tham vấn học đường 29. Giám sát thường xuyên công tác tham vấn học đường tại các trường học theo định kỳ 30. Cần tuyên truyền nhiều hơn nữa vế công tác tham vấn học đường 31. Tạo cơ sở vật chất cho phù hợp tham vấn tâm lý 32. Tạo điều kiện để đối tượng và nhà trường có cơ hội tiếp xúc với nhau 33. Cần bồi dưỡng tri thức chuyên môn và tri thức thực tế cho tham vấn viên 34. Cần quan tâm hơn của các cơ quan, ban ngành và phụ huynh học sinh 35. Tác động đến nhận thức của học sinh để các em thấy đây là vấn đề cần thiết 36. Hỗ trợ kinh phí để duy trì phòng tham vấn 37. Tổ chức tốt công tác đánh giá và nâng cao chuyên môn của các tham vấn viên 38. Nâng cao vai trò nhà tham vấn trong nhà trường 39. Xây dựng đội ngũ nhà tham vấn học đường năng động 40. Tạo điều kiện về vật chất, chức danh để nhà tham vấn được sống với nghề 41. Bộ cần xây dựng chương trình hoạt động cụ thể để phòng tham vấn hoạt động thống nhất, rõ ràng 42. Các trường đại học cần đào tạo chuyên sâu ngành tham vấn học đường 43. Nhà nước nên lập mã ngành tham vấn học đường 44. Cần có hiệp hội tham vấn học đường mang tầm quốc gia 45. Lãnh đạo trường học phải chỉ đạo cụ thể để giáo viên phối hợp với nhà tham vấn 46. Nhà tham vấn phải trang bị cho mình những kiến thức và kỹ năng cần thiết 47. Tổ chức tốt công tác đánh giá và nâng cao chuyên môn của đội ngũ làm công tác tham vấn 48. Nhà tham vấn phải cập nhật thường xuyên những thành tựu của ngành tham vấn Xin cảm ơn các Thầy/Cô MỤC LỤC 4 TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH PHÒNG SAU ĐẠI HỌC ---------------- PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN Các em học sinh thân mến, Nhằm thu thập thông tin cho đề tài khoa học nghiên cứu về “Những khó khăn tâm lý của người làm tham vấn tâm lý” cho học sinh, nhóm nghiên cứu gửi đến các em phiếu hỏi này. Mong các em vui lòng trả lời các câu hỏi dưới đây bằng cách đánh dấu (X) vào ô tương ứng với ý kiến của bản thân các em. Xin cảm ơn. Trước hết, các cho biết một số thông tin cá nhân: - Giới tính: - Nam  - Nữ  - Học sinh trường THPT: ____________________________________ - Lớp: - 10  - 11  - 12  Hãy đánh dấu (X) vào ô tương ứng với ý kiến của bản thân các em Câu 1: Em thường gặp những khó khăn nào trong cuộc sống và học tập? Khó khăn Đánh giá theo mức độ Rất đúng Đúng Lưỡng lự Không đúng Rất không đúng 27. Học quá nhiều 28. Không có thời gian học bài 29. Không có thời gian nghỉ ngơi, giải trí 30. Không hiểu bài 31. Thời gian học và làm bài ở nhà quá nhiều 32. Giờ tập trung quá sớm 33. Thầy cô giảng bài khó hiểu và nghiêm khắc quá 34. Ba mẹ bất đồng ý kiến 35. Thầy cô ít tìm hiểu học sinh 36. Thầy cô không nghe ý kiến của học sinh 37. Học thêm nhiều chiếm hết thời gian 38. Nhà xa 39. Nhút nhát trong phát biểu 40. Chán nãn với một vài môn học 41. Học quá nhiều không tiếp thu bài hiệu quả 42. Không có anh chị để giúp đỡ trong học tập 43. Gia đình khó khăn không có điều kiện học thêm 44. Khó tiếp thu bài và dễ quên 45. Phụ huynh yêu cầu quá cao gây áp lực cho con cái 46. Học quá nhiều ảnh hưởng tới sức khỏe 47. Gia đình khó khăn nên ít được quan tâm 48. Vừa đi học vừa đi làm để kiếm tiến đóng học phí nên rất mệt mõi 49. Cha mẹ không hiểu con cái, luôn áp đặt con cái 50. Áp lực thi cử 51. Lý thuyết nhiều chưa liên hệ thực tế 52. Cha mẹ không gần gũi con cái chỉ lo kiếm tiền Câu 2: Theo em, những nguyên nhân nào gây nên khó khăn nêu ở câu 1? Nguyên nhân Đánh giá theo mức độ Rất đúng Đúng Lưỡng lự Không đúng Rất không đúng 24. Học quá nhiều 25. Không sắp xếp thời gian được 26. Làm biếng học Văn 27. Không có thời gian làm bài ở nhà 28. Thầy cô không lắng nghe ý kiến của học sinh 29. Cha mẹ kỳ vọng quá nhiều 30. Chịu áp lực cao 31. Hay quên 32. Học quá nhiều môn 33. Không thể tiếp thu nhanh 34. Nhồi nhét nhiều quá nên không vô được 35. Chương trình học quá nặng 36. Học quá nhiều nên bị điểm kém vì học không kịp 37. Giáo viên giảng quá nhanh nên không hiểu bài 38. Không có hứng thú trong một số môn 39. Không đủ sức khỏe 40. Thầy cô không hiểu tâm lý học sinh 41. Cha mẹ không quan tâm con cái, chỉ biết kiếm tiền 42. Hoàn cảnh khó khăn phải lo mưu sinh nên học tập kết quả không cao 43. Cha mẹ hay cải lộn nên không có tinh thần học tập 44. Lý thuyết quá nhiều, thiếu thực hành 45. Ngại nói với thầy cô những gì không hiểu 46. Cha mẹ áp đặt theo ý của cha mẹ không nghĩ đến cảm nhận của con cái Câu 3: Theo em, những khó khăn trong cuộc sống và học tập ảnh hưởng như thế nào đến họat động học tập của em? Ảnh hưởng Đánh giá theo mức độ Rất đúng Đúng Lưỡng lự Không đúng Rất không đúng 20. Đi học trễ 21. Thường buồn ngủ trong lớp học 22. Không tập trung 23. Không có thời gian làm bài 24. Bị cản trở trong học tập 25. Mệt mỏi 26. Chán nãn 27. Điểm kém trong kỳ kiểm tra 28. Học không kỹ 29. Không làm được bài tập khó 30. Học nhiều quá, nhiều lúc bị stress không biết mình đang làm gì 31. Không có thời gian nghỉ ngơi ảnh hưởng đến chất lượng học tập 32. Căng thẳng trong học tập 33. Học tập sa sút không hiệu quả 34. Buồn gia đình dẫn đến học tập kém 35. Áp lực gia đình nên mất hứng thú học 36. Hiểu bài không sâu 37. Dễ gây ra bệnh tự kỷ 38. Không có thời gian giải trí nên kết quả học tập không cao Câu 4: Em đã dùng cách nào để khắc phục khó khăn trong họat động học tập của mình? Cách khắc phục khó khăn Đánh giá theo mức độ Rất đúng Đúng Lưỡng lự Không đúng Rất không đúng 23. Ngủ sớm 24. Dùng kẹo cao su để không buồn ngủ 25. Tự lập thời khóa biểu học tập cho mình 26. Tranh thủ giờ rãnh học bài 27. Phải cố gắng học và làm bài đầy đủ 28. Học thêm để chạy kịp chương trình 29. Tự tìm phương pháp học tập tốt hơn 30. Phân bổ thời gian hợp lý 31. Sắp xếp việc học hợp lý 32. Tìm hiểu sâu thêm về bài học 33. Cố gắng giải quyết những khó khăn một cách nhanh chóng 34. Tận dụng những thời gian rãnh rỗi 35. Hỏi lại thầy cô những gì mình không hiểu 36. Xem bài trước khi đến lớp 37. Biết kết hợp giữa học và chơi 38. Xác định tương lai và cố gắng để đạt được 39. Cố gắng tiếp thu bài trong lớp 40. Lên kế hoạch học trong tuần 41. Sắp xếp để có thời gian giải trí 42. Thường xuyên ôn bài và làm bài 43. Không ham chơi 44. Thường xuyên đọc sách tham khảo Câu 5. Em có đề xuất gì nhằm giúp học sinh giảm bớt những khó khăn trong họat động học tập của mình? Ý kiến đề xuất Đánh giá theo mức độ Rất đúng Đúng Lưỡng lự Không đúng Rất không đúng 28. Giờ tập trung trễ hơn 29. Cho nhai kẹo cao su trong giờ học 30. Có khó khăn gì nhờ thầy cô, bạn bè giúp đỡ 31. Giáo viên cho bài tập về nhà ít 32. Giáo viên cần lắng nghe tâm tư nguyện vọng của học sinh 33. Nên tổ chức các buổi học ngoại khóa 34. Lắp tivi, máy chiếu để tạo mối liên hệ giữa học và chơi 35. Sắp xếp lịch học hợp lý 36. Học căn bản và một ít nâng cao 37. Đừng tạo áp lực cho học sinh quá nhiều 38. Giảm bớt chương trình học 39. Giảng bài sinh động hơn 40. Nâng cao chất lượng giảng dạy 41. Nâng cấp cơ sở hạ tầng 42. Giảm học phí cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn 43. Thầy cô giảng bài chậm lại, kỹ hơn để học sinh dễ hiểu 44. Tạo cảm giác thoải mái cho học sinh 45. Cần tăng thêm sự thân thiện và vui vẻ với học sinh để giảm bớt áp lực 46. Nhà trường tạo sân chơi lành mạnh cho học sinh 47. Tặng học bổng cho học sinh nghèo hiếu học 48. Tổ chức các buổi giải trí tại trường 49. Có những buổi sinh hoạt về tâm lý, hướng nghiệp 50. Cha mẹ nên quan tâm con cái nhiều hơn 51. Thời khóa biểu phải có thời gian nghỉ ngơi, giải trí 52. Giảm bớt những môn học không cần thiết 53. Tạo điều kiện để học đi đôi với hành 54. Thầy cô cần quan tâm, giúp đỡ học sinh tạo điều kiện cho học sinh học tốt, Cảm ơn các em. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5587.pdf
Tài liệu liên quan